1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở tỉnh hưng yên hiện nay

130 18 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Công Tác Tư Tưởng Trong Quản Lý Xã Hội Về Tôn Giáo Ở Tỉnh Hưng Yên Hiện Nay
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp
Người hướng dẫn PGS, TS. Phạm Huy Kỳ
Trường học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Công tác tư tưởng
Thể loại Luận văn thạc sĩ chính trị học
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 130
Dung lượng 1,88 MB

Cấu trúc

  • MỞ ĐẦU

  • Chương 1 CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

  • 1.1. Tôn giáo và quản lý xã hội về tôn giáo

  • 1.1.1. Khái niệm

  • 1.1.1.1 Khái niệm tôn giáo

  • 1.1.1.2. Khái niệm quản lý

  • 1.1.2. Mục tiêu của quản lý xã hội về tôn giáo

  • 1.2. Công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • 1.2.1. Khái niệm công tác tư tưởng và các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng

  • 1.2.1.1. Khái niệm

  • 1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng

  • 1.2.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • 1.3. Sự cần thiết phải phát huy vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở nước ta hiện nay

  • 1.3.1. Xuất phát từ tính tất yếu khách quan của công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • 1.3.2. Xuất phát từ thực trạng vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về công tác tôn giáo ở nước ta

  • 1.3.3. Xuất phát từ yêu cầu của quá trình mở cửa, hội nhập của đất nước, đòi hỏi phải tăng cường phát huy vai trò của công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • Chương 2 CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

  • 2.1. Những yếu tố ảnh hưởng tới công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở Hưng Yên

  • 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

  • 2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội

  • 2.2. Thực trạng công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

  • 2.2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh

  • 2.2.2. Thực trạng công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • 2.2.2.1. Thành tựu và hạn chế

  • 2.2.2.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế

  • 2.3. Những vấn đề đặt ra đối với công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở Hưng Yên hiện nay

  • Qua thực tế tìm hiểu về vai trò của công tác tư tưởng đối với hoạt động quản lý xã hội về tôn giáo ở tỉnh Hưng Yên hiện nay có thể thấy, để phát huy hơn nữa vai trò của công tác tư tưởng, cần phải chú ý tới một số vấn đề sau:

  • Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO Ở HƯNG YÊN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020

  • 3.1.1. Xác định công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp

  • 3.1.2. Nắm vững nguyên tắc; tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân

  • 3.1.3. Công tác tư tưởng phải quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng vì tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của một bộ phận tín đồ có đạo

  • 3.2. Giải pháp

  • 3.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ đảng về vai trò của công tác tư tưởng đối với hoạt động quản lý xã hội về tôn giáo

  • 3.2.2. Thường xuyên củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể với lực lượng vũ trang trong việc phát huy vai trò công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • 3.2.3. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp của công tác tư tưởng trong hoạt động quản lý xã hội về tôn giáo

  • 3.2.4. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và có cơ chế, chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng; chú trọng đào tạo trong vùng có đồng bào tôn giáo

  • 3.2.5. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới; phát triển kinh tế theo hướng bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và từng bước nâng cao đời sống cho nhân dân trong đó có đồng bào tôn giáo

  • 3.2.6. Thường xuyên đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Tôn giáo và quản lý xã hội về tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử và xã hội có nguồn gốc lâu đời, nhưng vẫn chưa có định nghĩa hoàn chỉnh Để hiểu rõ về tôn giáo, trước tiên cần phân biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo, mặc dù hai khái niệm này thường bị nhầm lẫn Tôn giáo phát sinh từ tín ngưỡng, tạo nên sự khác biệt trong cách thức và nội dung của mỗi hệ thống tín ngưỡng.

Tín ngưỡng là niềm tin vào những điều huyền bí, thiêng liêng và siêu nhiên, không thể kiểm chứng qua thực tiễn Đây là một hình thức niềm tin đặc biệt, thể hiện sự tôn thờ các thần thánh.

Hoạt động tín ngưỡng của người dân Việt Nam thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên và những người có công với đất nước, đồng thời vinh danh các vị thần, thánh và biểu tượng truyền thống Những hoạt động này không chỉ mang giá trị văn hóa sâu sắc mà còn phản ánh những giá trị lịch sử và đạo đức xã hội tốt đẹp.

Cần phân biệt tín ngưỡng và mê tín trước khi tiếp cận tôn giáo:

Tín ngưỡng là việc tôn thờ các vị thần và thánh, có khả năng điều chỉnh nhận thức và hành vi của con người Những người theo một tôn giáo cụ thể được gọi là tín đồ.

Mê tín là niềm tin mù quáng vào những yếu tố thần bí, như thần thánh, ma quỷ và số mệnh, gây hại cho lợi ích vật chất và tinh thần của con người, cũng như cản trở sự tiến bộ xã hội Hiện tượng này không được các tôn giáo chính thống công nhận Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng nhưng đồng thời kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan.

Tín ngưỡng là nền tảng cốt lõi của tôn giáo, đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của mỗi tôn giáo Mọi tín ngưỡng đều hướng đến một "thế giới bên kia," khác biệt với thế giới hiện tại mà con người đang sống Trong suốt quá trình tồn tại, những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp nỗ lực củng cố niềm tin của tín đồ và phát triển cộng đồng tín đồ mới thông qua việc xây dựng niềm tin vào tôn giáo của họ.

Tôn giáo là một khái niệm lịch sử có tính bền vững, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều cách định nghĩa và giải thích khác nhau, dẫn đến những tranh luận chưa có hồi kết Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, Ăng-ghen đã thực hiện một phân tích khoa học về tôn giáo, từ đó đưa ra những kết luận sâu sắc.

Tất cả các tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo trong tâm trí con người về những lực lượng bên ngoài ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ Những lực lượng này, ban đầu là thiên nhiên, đã được nhân cách hóa và phát triển đa dạng qua các nền văn hóa khác nhau trong lịch sử.

Từ quan điểm của Ăng-ghen có thể nhận biết về tôn giáo như sau:

Tôn giáo là hình thức ý thức xã hội phản ánh sai lệch về thế giới tự nhiên trong tâm trí con người, biến thế giới tự nhiên thành lực lượng siêu nhiên chi phối số phận con người Con người phải tôn thờ và phục tùng lực lượng này, trong khi tôn giáo cũng được vật chất hoá thành các quan hệ xã hội, trở thành một lực lượng xã hội quan trọng.

Tôn giáo được đặc trưng bởi một số yếu tố chính như giáo lý, giáo luật, giáo lễ và giáo hội Giáo lý là hệ thống lý luận cốt lõi, đóng vai trò là nền tảng của niềm tin và tín ngưỡng trong mỗi tôn giáo Nó khởi nguồn từ việc thừa nhận sức mạnh siêu nhiên và gắn liền với các biểu tượng thần thánh Sự kết nối này phản ánh mối quan hệ giữa trí tưởng tượng phong phú của con người và các yếu tố thực tiễn trong xã hội, cũng như quan niệm của con người về những trải nghiệm của họ Khi xã hội phát triển, giáo lý cũng có sự thay đổi và thích nghi.

“Vô hình” được chuyển thành “hữu hình”, tức là quá trình chuyển đổi từ khả năng ghi nhớ và lưu giữ thông tin trong tâm trí con người sang định dạng văn bản.

Giáo luật là hệ thống quan niệm quy định hành vi và chuẩn mực trong sinh hoạt tôn giáo của chức sắc và tín đồ Nó phản ánh những vấn đề cấm đoán và quy định chế tài, đồng thời gia tăng sức mạnh khi kết hợp với quyền lực thế gian Hiện nay, sự liên minh giữa tôn giáo và chính trị vẫn ảnh hưởng đến đạo đức, phong tục và hành vi của cộng đồng tín đồ thông qua các quy định và luật lệ tôn giáo.

Giáo lễ đóng vai trò quan trọng trong tôn giáo, bao gồm các nghi thức, thủ tục và quy trình thực hiện hành vi tôn giáo Mỗi tôn giáo thể hiện giáo lễ khác nhau qua nghi thức và trang phục riêng biệt Tuy nhiên, giáo lễ hiện nay vẫn bị lợi dụng và chi phối, thường gắn liền với hoạt động mê tín dị đoan.

Giáo hội là tổ chức trung tâm của một tôn giáo, có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động tôn giáo thông qua một cơ cấu các chức sắc Với mối quan hệ chặt chẽ giữa các chức sắc, nhiệm vụ và bổn phận của họ được quy định rõ ràng trong giáo luật và giáo lễ Ngoài ra, giáo hội còn sở hữu và quản lý tài sản của tôn giáo Là trung tâm truyền đạo, giáo hội có nhiều lợi thế trong việc tập hợp và thu hút tín đồ tham gia vào các hoạt động nhân danh tôn giáo cũng như những hoạt động ngoài mục đích tôn giáo.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội khách quan, được hình thành trong lịch sử nhân loại và do con người sáng tạo ra, nhưng sau đó lại bị chi phối bởi chính nó Tôn giáo tồn tại lâu dài song hành với sự phát triển của xã hội, nhất là khi còn tồn tại mâu thuẫn giữa hiện thực và hư ảo, cũng như khi nhu cầu và ước vọng của con người chưa được thỏa mãn Trong bối cảnh xã hội có giai cấp và áp bức, cùng với xung đột giữa điều thiện và điều ác, tôn giáo vẫn có cơ sở để tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.

Công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo

1.2.1 Khái niệm công tác tư tưởng và các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng

Công tác tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, nhằm phát triển và truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp thống trị Đối với giai cấp vô sản, sự ra đời của Đảng cộng sản đánh dấu bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức Lê Duẩn, nguyên tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh rằng ngành tuyên huấn đã tồn tại từ khi Đảng được thành lập Điều này cho thấy, trước khi Đảng ra đời, một bộ phận trí thức yêu nước đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, chuẩn bị tư tưởng cho sự hình thành Đảng cộng sản Việt Nam.

Con người có nhu cầu vật chất và tinh thần, dẫn đến việc tổ chức sản xuất để thoả mãn những nhu cầu này Khi xã hội phân chia thành các giai cấp, nhu cầu sản xuất hệ tư tưởng xuất hiện nhằm biện minh cho địa vị và lợi ích của từng giai cấp, đồng thời chống lại giai cấp đối lập Điều này khởi đầu cho cuộc đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ, tạo ra các quan hệ tư tưởng giữa con người trong quá trình sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng Các quá trình này bao gồm hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận, tái sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng, cũng như biến tư tưởng thành sức mạnh vật chất và hành động của con người.

Hệ tư tưởng phản ánh lợi ích giai cấp và mang bản chất giai cấp, do đó các quan hệ và quá trình tư tưởng đều bị chi phối bởi lợi ích này Trong lịch sử, các giai cấp đã sử dụng đội ngũ nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng để tác động đến quan hệ và quá trình tư tưởng, nhằm biến hệ tư tưởng của mình thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Điều này nhằm động viên và cổ vũ mọi thành viên trong xã hội tích cực hành động để xây dựng và bảo vệ chế độ Sự tác động của chủ thể tư tưởng đến các quan hệ và quá trình tư tưởng để đạt được mục đích là công tác tư tưởng.

Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp hoặc chính đảng, nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng trong quần chúng Hoạt động này không chỉ truyền bá tư tưởng mà còn khuyến khích quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư tưởng.

Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước, nhằm phát triển và truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa Mục tiêu là biến hệ tư tưởng này thành nền tảng chi phối đời sống tinh thần xã hội, đồng thời động viên và cổ vũ tinh thần tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Một số người hiểu công tác tư tưởng theo nghĩa hẹp, cho rằng nó chỉ là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chính sách của Đảng đến quần chúng, nhằm động viên và cổ vũ họ tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội Quan niệm này không coi công tác lý luận là một phần thiết yếu của công tác tư tưởng, mà đồng nhất công tác tư tưởng với công tác tuyên truyền và cổ động.

Trong lịch sử, công tác tư tưởng xuất hiện và tồn tại khi có các điều kiện sau:

- Có hệ tư tưởng và có truyền bá, đấu tranh tư tưởng

Các thiết chế tư tưởng bao gồm những cơ sở nghiên cứu, sáng tạo, truyền bá và lưu giữ hệ tư tưởng, cùng với các thiết chế đào tạo các nhà tư tưởng.

Đội ngũ các nhà tư tưởng chuyên nghiên cứu, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng cho một giai cấp cụ thể là những người có nghề nghiệp đặc thù.

Khi xem xét công tác tư tưởng, Lênin đã chỉ ra rằng nó bao gồm ba hình thái chính: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động Công tác lý luận liên quan đến việc sáng tạo hệ tư tưởng và đường lối chính trị của một giai cấp, trong khi công tác tuyên truyền và cổ động tập trung vào việc truyền bá những tư tưởng này trong quần chúng, khuyến khích họ thực hiện các đường lối đó thông qua những phương thức khác nhau.

Các hình thái công tác tư tưởng có mối liên hệ chặt chẽ và tác động biện chứng lẫn nhau, tạo thành một quá trình tư tưởng thống nhất Mỗi hình thái đều có chức năng, nhiệm vụ và đặc trưng riêng, không thể thay thế cho nhau Tuy nhiên, từng hình thái cũng có nội dung và đặc điểm khác biệt, với tính chất độc lập tương đối Do đó, để đạt được mục tiêu, hoạt động công tác tư tưởng của bất kỳ giai cấp nào cần phải được thực hiện đồng bộ và hiệu quả trên cả ba quá trình này.

Công tác tư tưởng luôn giữ vai trò hàng đầu trong mỗi giai đoạn cách mạng, thể hiện tầm quan trọng của nó trong tiến trình cách mạng Để một cuộc cách mạng thực sự diễn ra, trước tiên cần có sự thay đổi trong tư tưởng và ý thức hệ Khi các vấn đề mới phát sinh trong tư tưởng quần chúng, việc phát hiện và xử lý kịp thời sẽ giúp giải quyết những điểm nóng, tránh những sai lầm và bế tắc trong hành động thực tiễn Do đó, công tác tư tưởng đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra.

1.2.1.2 Các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng

Công tác tư tưởng là một hoạt động do chủ thể thực hiện nhằm tác động đến đối tượng cụ thể với mục đích rõ ràng Để đạt được mục tiêu, hoạt động này cần có nội dung và được thực hiện thông qua các phương pháp, phương tiện và hình thức nhất định Sau quá trình tác động, công tác tư tưởng phải đạt được hiệu quả mong muốn Do đó, khi phân tích công tác tư tưởng như một hệ thống, ta cần xem xét các yếu tố cơ bản như chủ thể, khách thể, đối tượng, mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức và hiệu quả.

+ Chủ thể công tác tư tưởng

Chủ thể công tác tư tưởng bao gồm các giai cấp, tổ chức và cộng đồng xã hội có lợi ích gắn liền với hoạt động tư tưởng Những chủ thể này không chỉ là hệ tư tưởng của một giai cấp hay chính đảng mà còn bao gồm các cơ quan và thiết chế tư tưởng được tổ chức để sáng tạo, bảo quản, lưu giữ và truyền bá hệ tư tưởng, thường liên quan mật thiết đến hệ thống chính trị của giai cấp cầm quyền, cùng với các nhà tư tưởng có vai trò quan trọng trong quá trình này.

Trong xã hội hiện nay, công tác tư tưởng được thực hiện bởi toàn Đảng, hệ thống chính trị và các cán bộ tư tưởng, bao gồm cả cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách Các cơ quan tuyên giáo ở mọi cấp độ, cùng với các đoàn thể và cơ quan chính trị trong lực lượng vũ trang, đóng vai trò quan trọng trong việc tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra công tác tư tưởng Cơ quan tuyên giáo, kết hợp với cán bộ tư tưởng và các cơ quan giáo dục tư tưởng, thực hiện nhiệm vụ tư tưởng trên toàn xã hội.

+ Khách thể của công tác tư tưởng

Khách thể của công tác tư tưởng là đối tượng chịu tác động về mặt tư tưởng từ chủ thể, bao gồm nhận thức, thái độ, niềm tin và hành động của cá nhân, tập thể, giai cấp trong xã hội Ngoài ra, khách thể còn bao gồm ý thức xã hội và các quan hệ xã hội giữa con người Tác động này, mặc dù gián tiếp, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến việc thay đổi ý thức, thái độ và hành vi của con người trong xã hội.

+ Mục đích của công tác tư tưởng

CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI VỀ TÔN GIÁO - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Những yếu tố ảnh hưởng tới công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở Hưng Yên

xã hội về tôn giáo ở Hưng Yên

Tỉnh Hưng Yên, nguyên thuộc thừa tuyên Sơn Nam, được thành lập vào năm 1469 dưới triều Lê Đến năm 1741, tỉnh này chia thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ Trong thời kỳ nhà Nguyễn, năm 1822, Sơn Nam Thượng được đổi thành trấn Sơn Nam, còn Sơn Nam Hạ trở thành trấn Nam Định Năm 1831, tỉnh Hưng Yên chính thức được thành lập với các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung từ trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà từ trấn Nam Định Mặc dù là tỉnh mới, Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh.

- Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long

Phố Hiến, nơi mà các thương nhân buộc phải dừng lại để lấy giấy phép, đã trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất với sự hiện diện của người Tầu, người Nhật và người Tây phương, dẫn đến câu nói nổi tiếng: “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến” Hưng Yên, nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là một tỉnh đồng bằng không có rừng, núi và biển, với địa hình đa dạng gồm các khu vực cao thấp xen kẽ Điểm trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ tọa lạc tại thôn Dung (Thiên Xuân), xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ Tỉnh Hưng Yên có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, diện tích 923,09 km² và dân số khoảng 1.120.300 người.

2.1.2 Đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đầy thách thức, Hưng Yên đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong năm 2014, với GDP tăng 7,25%, vượt kế hoạch đề ra GDP bình quân đầu người đạt 35,62 triệu đồng, kim ngạch xuất khẩu tăng 22,94% đạt 2.098 triệu USD, trong khi tổng thu ngân sách ước đạt 7.000 tỷ đồng, vượt dự toán 10,2% Nông nghiệp cũng ghi nhận sự phát triển với giá trị sản xuất đạt 10.762 tỷ đồng, năng suất lúa đạt hơn 62 tạ/ha/vụ Tỉnh đã giải quyết 1.290 trường hợp vi phạm công trình thủy lợi và đạt trung bình 13 tiêu chí nông thôn mới/xã, với khoảng 20 xã đạt 19 tiêu chí Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,45% và hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt từ doanh nghiệp FDI, cũng ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ.

Năm 2014, Hưng Yên thu hút 86 dự án đầu tư mới, bao gồm 45 dự án trong nước với tổng vốn 3,67 nghìn tỷ đồng và 41 dự án nước ngoài với tổng vốn 300 triệu USD, nâng tổng số dự án đầu tư lên 1,172 dự án, giải quyết việc làm cho hơn 120.000 lao động Tỉnh đã hoàn thành quy hoạch phát triển nhà ở, đô thị và các khu công nghiệp, trong đó có Đô thị Mỹ Hào đạt tiêu chuẩn loại IV Hưng Yên cũng đẩy mạnh dồn thửa đổi ruộng đất tại 93 xã, giao ruộng cho 26.818 hộ với 4.439 ha, đạt 87,12% Đồng thời, tỉnh tích cực xử lý đất dôi dư và triển khai các mô hình thu gom, phân loại rác thải nhằm giảm ô nhiễm môi trường.

Hưng Yên đã hoàn thành việc chuyển đổi 159 trường mầm non bán công sang công lập, đồng thời có thêm 21 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia Trong lĩnh vực thể thao, Hưng Yên đã tham gia thi đấu 12 giải quốc gia và đạt được nhiều thành tích đáng kể.

Tỉnh Hưng Yên đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, bao gồm 51 huy chương thể thao, trong đó có 14 huy chương vàng, và tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh lần thứ VII vào tháng 3/2014 Số lượng khách du lịch đến Hưng Yên tăng 11%, đạt 320.000 lượt, trong đó có hơn 4.000 lượt khách quốc tế Tỉnh cũng đã tổ chức lễ phong tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho 583 bà mẹ, nâng tổng số lên 1.786 mẹ Năm 2014, Hưng Yên hoàn thành tượng đài Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và triển khai chương trình hỗ trợ người có công về nhà ở, xây dựng 651 nhà mới và sửa chữa 331 nhà với tổng kinh phí gần 41 tỷ đồng.

Năm 2014, Hưng Yên đã tổ chức thành công Diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, thể hiện sự chủ động và tích cực trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động kích động, không để xảy ra biểu tình và rối loạn an ninh trật tự liên quan đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên biển Đông.

Tỉnh Hưng Yên, với điều kiện tự nhiên đồng bằng và không có biển, rừng, núi, tạo thuận lợi cho công tác tư tưởng và tuyên truyền tôn giáo Những năm qua, kinh tế - xã hội tỉnh Hưng Yên phát triển, đời sống người dân, đặc biệt là đồng bào các tôn giáo, ngày càng được cải thiện, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và chính sách phát triển kinh tế Đảng bộ tỉnh luôn có những chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, giúp nhân dân ổn định cuộc sống và phát triển kinh tế.

Mặc dù tỉnh Hưng Yên có những thuận lợi, nhưng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn cần giải quyết Là một tỉnh thuần nông nghiệp, đời sống người dân chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, dẫn đến mức thu nhập bình quân đầu người thấp, ảnh hưởng đến trình độ và nhận thức của họ Điều này tạo điều kiện cho các đối tượng xấu lợi dụng tôn giáo để kích động chống phá cách mạng Vì vậy, công tác tư tưởng tại Hưng Yên cần nắm vững tình hình và đưa ra các giải pháp thiết thực, coi trọng vai trò của tư tưởng trong lãnh đạo và chỉ đạo mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực tôn giáo.

Thực trạng công tác tư tưởng trong quản lý xã hội về tôn giáo ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

ở tỉnh Hưng Yên hiện nay

2.2.1 Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh

Tỉnh Hưng Yên hiện có ba hình thức tôn giáo chính thức được công nhận: Phật giáo, Công giáo và đạo Tin lành Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh quản lý 591 ngôi chùa, 321 tăng ni, 2.561 chức việc và khoảng 210.000 Phật tử Sau Đại hội Phật giáo Việt Nam tỉnh nhiệm kỳ 2012 - 2017, tổ chức của Giáo hội đã được củng cố với sự thành lập các ban chuyên trách và phân ban Về Công giáo, tỉnh có 80 nhà thờ và nhà nguyện, 26 giáo xứ, 13 linh mục, 408 chức việc (bao gồm 18 nữ tu và 390 thành viên Ban hành giáo hoặc Hội đồng mục vụ) cùng hơn 20.000 giáo dân thuộc sự quản lý của bốn Toà Giám Mục: Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh.

Đạo Tin Lành tại Hà Nội đang phát triển với sự hình thành thêm nhiều điểm nhóm mới và sự chuyển đổi giữa các hệ phái Hiện tại, toàn tỉnh có 11 nhóm thuộc 6 hệ phái, trong đó có 3 hệ phái được công nhận tư cách pháp nhân Tại đây, có 1 mục sư, 1 mục sư tự phong, 1 nữ truyền đạo và 10 nhóm trưởng, với khoảng 74 tín đồ công khai hoạt động Các hoạt động của các hệ phái và điểm nhóm chủ yếu diễn ra tại nhà của các quản nhiệm và nhóm trưởng.

Việc phong chức, bổ nhiệm, đào tạo và bồi dưỡng chức sắc trong các tổ chức tôn giáo diễn ra thường xuyên và định kỳ Tính đến cuối năm 2013, Phật giáo có 07 tăng, ni đang theo học tại Học viện Phật giáo, 13 vị học Cao đẳng Phật học và 18 vị học Trung cấp Phật học Đối với Công giáo, có 05 công dân được Tòa Giám mục Bắc Ninh và Thái Bình cử đi học tại Đại chủng viện Hà Nội.

Việt Nam (miền Bắc) cử 02 công dân học tại Viện Thánh kinh thần học Thành phố Hồ Chí Minh và học tại Viện Thánh kinh Thần học Hà Nội

Phật giáo đã có mặt và phát triển ở Hưng Yên hơn 1000 năm, với dấu ấn lịch sử tại di tích đền chùa Nễ Châu, Phường Hồng Châu, Thành phố Hưng Yên, có nguồn gốc từ thời Tiền Lê Trong suốt quá trình lịch sử, Phật giáo đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong thời kỳ Lý - Trần Tuy nhiên, khi Nho giáo du nhập và cạnh tranh, Phật giáo dần mất đi vai trò độc tôn Dù vậy, tôn giáo này vẫn hòa quyện với tín ngưỡng dân gian và phong tục thờ cúng tổ tiên, tạo nên ảnh hưởng lớn đến văn hóa và tập quán của người dân địa phương.

Tỉnh Hội Phật giáo Hưng Yên cam kết duy trì đường hướng “Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật.

Hội Phật giáo Hưng Yên đã tổ chức An cư kiết hạ cho 179 tăng ni tại Chùa Táo, phường Hiến Nam và Chùa Pháp Vân, huyện Văn Lâm Từ năm 2010, Tỉnh Hội đã tiếp nhận 05 hội viên từ tỉnh ngoài UBND tỉnh cũng đã cấp giấy phép cho các chùa như Chùa Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, và thực hiện nâng cấp, cải tạo lầu Quan Âm tại Chùa Khánh Lâm, thôn Tạ.

Hạ, xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động đang tiến hành nâng cấp ngôi Tam Bảo, tuy nhiên, một số vị sư vẫn lợi dụng chức sắc để xây dựng và sửa chữa chùa trái phép Điển hình là vụ mâu thuẫn giữa các nhà sư tại chùa Vị và nhân dân xóm 5 thôn Phương Trung, xã Phương Chiểu, huyện Tiên Lữ vào tháng 6/2011, bắt nguồn từ việc hiến đất làm đường cho dự án ODA Mặc dù Phật giáo tỉnh Hưng Yên phát triển ổn định, nhưng gần đây đã xuất hiện nhiều vấn đề cần sự can thiệp từ các cơ quan chức năng, như sự việc tại thôn Trình, xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, nơi bà con yêu cầu đất khu chợ Lợn để xây dựng chùa Tam Giáo UBND huyện và Phòng Tài nguyên - Môi trường đã làm việc với UBND xã Lạc Đạo, xác nhận khu đất thuộc quy hoạch chợ Lợn Tình hình này vẫn đang được giải quyết Tại chùa Kim Liên, xã Đại Hưng, huyện Khoái Châu, mâu thuẫn cũng xảy ra giữa Đại đức Thích Thanh Công với tín đồ, phật tử và nhân dân, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự địa phương.

Công giáo đã có mặt tại Hưng Yên gần 400 năm, với tài liệu lịch sử ghi nhận từ năm 1620 Hiện nay, đạo Công giáo tại Hưng Yên thuộc sự chỉ đạo của 4 toà giám mục: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh và Thái Bình Đồng bào Công giáo sinh sống rải rác tại 81 xã, phường, thị trấn thuộc 6 huyện, chiếm 48% tổng số xã, phường trong tỉnh Hệ thống cơ sở thờ tự bao gồm 80 nhà thờ và 13 linh mục, trong đó có 11 linh mục chính xứ và 2 linh mục quản xứ kiêm nghiệm từ Giáo Hội Phật giáo Hà Nội và Bắc Ninh Các linh mục không chỉ giảng đạo mà còn chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giáo dân, tham gia hoạt động từ thiện và chống tệ nạn xã hội Dù vậy, trong những năm qua, hoạt động của đạo Công giáo tại tỉnh vẫn gặp nhiều thách thức.

Cuối năm 2012 và đầu năm 2013, Linh mục Nguyễn Thái Vạn tại giáo xứ Tiên Chu, xã Hồng Nam, Thành phố Hưng Yên đã đề nghị sử dụng ao nhà cha để phục vụ cho tôn giáo với mục đích đòi đất Ngay sau đó, Thành ủy và UBND Thành phố Hưng Yên đã cử các cơ quan liên quan làm việc với xã Hồng Nam và linh mục Nguyễn Thái Vạn, đồng thời giải thích các quy định của Nhà nước về nguồn gốc đất, giúp ngăn chặn việc đòi đất Gần đây, tình hình trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện nhiều vấn đề liên quan.

Đạo mới "Hoàng Thiên Long" đã được các cấp ủy và UBND các cấp chú trọng lãnh đạo và chỉ đạo Các ngành chức năng cũng tăng cường quản lý và tuyên truyền, nhằm làm giảm hoạt động của đạo này trong thời gian tạm thời.

Trước năm 1994, Hưng Yên chưa có tín đồ theo đạo Tin Lành, nhưng từ năm 1994, đạo Tin Lành đã xuất hiện tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ và nhanh chóng lan rộng ra nhiều huyện như Kim Động, Văn Lâm, Văn Giang và Yên Mỹ Hiện nay, toàn tỉnh Hưng Yên có 11 điểm nhóm Tin Lành, phân bố ở 9/10 huyện, thành phố, thuộc 6 hệ phái Tin Lành khác nhau.

Hệ phái "Liên hữu Cơ đốc Việt Nam" bao gồm các nhóm tín hữu tại Thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm; xã An Viên, huyện Tiên Lữ; và xã Minh Châu, huyện Yên Mỹ.

- Hệ phái “Báp tít- Hồng Ân” nhóm ở xã Minh Hải, huyện Văn Lâm;

- Hệ phái “Báp tít- Nam Phương” nhóm ở xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ;

- Hệ phái “phúc âm ngũ tuần” nhóm ở xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm; xã Tân Tiến, huyện Văn Giang;

- Hệ phái “Việt Nam truyền giáo” nhóm ở xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, xã Hiệp Cường, huyện Ân Thi;

- Hệ phái “Lời sống” nhóm ở xã Cẩm Xá, huyện Mỹ Hào;

Hệ phái “Bát tít- Thiên ái” tại xã Ông Đình, huyện Khoái Châu, là một phần của cộng đồng đạo Tin lành ở Hưng Yên, chủ yếu hoạt động tại tư gia và liên kết với nhiều tỉnh thành khác nhau Mặc dù Ban Tôn giáo Chính phủ đã công nhận tư cách pháp nhân cho Hội Thánh báp - tít Việt Nam (Nam phương) và một số nhóm khác như ở xã Sào Nam, huyện Phủ Cừ, hay thôn Ngọc Quỳnh, huyện Văn Lâm, xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, nhưng hiện tại chưa có nhóm nào đăng ký với chính quyền cơ sở.

Tình hình tôn giáo tại tỉnh hiện ổn định, với sự hỗ trợ từ cấp ủy và chính quyền cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động theo pháp luật Các tôn giáo được công nhận đang gia tăng số lượng tín đồ và chức sắc, đồng thời giáo hội cũng chú trọng đến công tác đào tạo nhân sự Nhiều địa phương đã tiến hành cải tạo và xây dựng cơ sở thờ tự, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng.

Mặc dù có những tiến bộ trong việc thực hiện quyền tự do tôn giáo, vẫn tồn tại hiện tượng lấn lướt chính quyền và xây dựng không xin phép Các chức sắc và tổ chức tôn giáo đang tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội như y tế, giáo dục và từ thiện, nhưng cũng có tình trạng các điểm nhóm, hệ phái tin lành lập danh sách tín hữu giả để xin giấy phép hoạt động Bên cạnh đó, khiếu kiện liên quan đến đất đai và cơ sở thờ tự gia tăng, mâu thuẫn nội bộ trong tổ chức giáo hội vẫn diễn ra, và đạo đức của một số nhà tu hành bị suy giảm, dẫn đến vi phạm pháp luật như vụ việc các sư đánh bạc ở huyện Kim Động Hơn nữa, một số hiện tượng tôn giáo mới như "Thanh hải vô thượng sư" đã thay đổi hình thức hoạt động bằng cách mở cửa hàng cơm chay phục vụ sinh viên với giá trợ giá.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT

Ngày đăng: 11/11/2021, 17:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1990), Nghị quyết số 24-NQ/TW “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới
Tác giả: Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Năm: 1990
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết số 25-NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 khóa IX “về công tác tôn giáo” Sách, tạp chí
Tiêu đề: về công tác tôn giáo
Tác giả: Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Năm: 2003
3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2004), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
Tác giả: Ban Tôn giáo Chính phủ
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
Năm: 2004
4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo
Tác giả: Ban Tôn giáo Chính phủ
Nhà XB: Nxb Tôn giáo
Năm: 2004
7. Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tác giả: Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2002
8. Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương (2003), vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: đề tôn giáo và công tác tôn giáo cơ sở
Tác giả: Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
9. Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương (2006), “Nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay”
Tác giả: Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2006
10. PGS.TS Hoàng Quốc Bảo (2009), Quản lý xã hội về tôn giáo, Nxb Chính trị - hành chính Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý xã hội về tôn giáo
Tác giả: PGS.TS Hoàng Quốc Bảo
Nhà XB: Nxb Chính trị - hành chính Hà Nội
Năm: 2009
11. Công tác tư tưởng trong thời kỳ mới (2005), (giáo trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ tuyên truyền), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công tác tư tưởng trong thời kỳ mới
Tác giả: Công tác tư tưởng trong thời kỳ mới
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2005
12. Chính phủ (1999), Nghị định 26/CP “Về các hoạt động tôn giáo” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Về các hoạt động tôn giáo
Tác giả: Chính phủ
Năm: 1999
13. Lê Duẩn (1976), Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tác giả: Lê Duẩn
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1976
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị TW 5 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị TW 5 (khóa IX)
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2002
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị TW 7 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị TW 7 (khóa IX)
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2002
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2006
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2011
18. PGS.TS Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên lý công tác tư tưởng
Tác giả: PGS.TS Lương Khắc Hiếu (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Hà Nội
Năm: 2008
20. Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2009), Nguyên lý công tác tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyên lý công tác tư tưởng
Tác giả: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Hà Nội
Năm: 2009
21. PGS.TS Hà Học Hợi, chủ biên (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng
Tác giả: PGS.TS Hà Học Hợi, chủ biên
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2002
22. C.Mác - Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Tác giả: C.Mác - Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1983
23. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Tác giả: C.Mác - Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1993

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w