Kết quả khảo sát công tác tổ chức giáo dục đạo đức kinh doanh
trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kết quả phân tích cho thấy, công tác tổ chức hoạt động GDĐĐKD trong DNNVV được đánh giá chủ yếu ở mức khá với điểm trung bình là 2,935/5 Phỏng vấn trực tiếp cũng xác nhận kết quả tương tự, cho thấy sự nhất quán trong đánh giá Tổng hợp ba tiêu chí cho thấy, mức độ đánh giá về công tác này là khá, với điểm trung bình 2,935, khẳng định tính tin cậy của các kết quả và số liệu điều tra.
2.2.1.4 Thực trạng chỉ đạo hoạt độnggiáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kết quả đánh giá thực trạng công tác chỉ đạo GDĐĐKD trong DNNVV được thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 2.8 Kết quả công tác chỉ đạo GDĐĐKD trong DNNVV
Các mức độ Điểm trung bình
Tốt Khá Trung bình Yếu
(Nguồn: Tác giả tổng hợp, thống kê)
Kết quả khảo sát về công tác chỉ đạo GDĐĐKD trong DNNVV
Kết quả đánh giá công tác chỉ đạo hoạt động GDĐĐKD trong DNNVV cho thấy, tổng thể các tiêu chí đạt mức khá, với tỷ lệ: Tiêu chí 1 đạt 90,5%, Tiêu chí 2 đạt 90,3% và Tiêu chí 3 đạt 90,7% Trong đó, tiêu chí thứ 3 được đánh giá cao nhất với 2,94/5 điểm, so với 2,87/5 điểm của tiêu chí 2 và 2,86/5 điểm của tiêu chí 1 Mặc dù có sự khác biệt giữa các tiêu chí, nhưng không quá lớn Kết quả phỏng vấn trực tiếp cũng phản ánh sự tương đồng trong đánh giá này.
2.2.1.5 Thực trạng kiểm tra, giám sát hoạt động giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nh m đánh giá thực trạng này, tác giả điều tra, khảo sát, phân t ch và đánh
Đánh giá giá trị dựa trên ba tiêu chí chính của công tác kiểm tra là tính chính xác, khách quan và minh bạch; tính thường xuyên, liên tục và đột xuất; và tính toàn diện Kết quả đánh giá được phân loại thành các mức độ: Tốt, Khá, Trung bình, và Yếu.
Kết quả cụ thể như sau:
Bảng 2.9 Kết quả khảo sát thực trạng kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các mức độ Điểm trung bình
Tốt Khá Trung bình Yếu
1 Tính chính xác, khách quan và minh bạch 1,2% 85,6% 11,9% 1,3% 2,99
2 T nh thường xuyên, liên tục và đột xuất 1,6% 86,2% 10,7% 1,5% 2,88
(Nguồn: Tác giả tổng hợp, thống kê)
Kết quả khảo sát thực trạng kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức
Đạo đức kinh doanh và giáo dục đạo đức kinh doanh trong
1.1.1.Đạo đức và đạo đức kinh doanh
1.1.1.1 Đạo đức Đạo đức là một vấn đề dành được sự quan tâm của nhiều lĩnh vực khoa học và của nhiều nhà khoa học M i lĩnh vực khoa học, nhà khoa học lại đề cập đến đạo đức ở những khía cạnh với những phạm vi nội dung khác nhau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, chu n mực xã hội, nhờ n con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chu n mực nh m điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ tự nhiên Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chu n mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội,với tự nhiên và với cả bản thân mình Đạo đức bao gồm những chu n mực hành vi đạo đức của con người theo hướng thiện, tránh hướng ác M i một xã hội, m i một nhóm xã hội và một cá nhân có thể lý giải cái thiện và cái ác theo những cách khác nhau tùy thuộc vào quan niệm sống và lợi ích của mình
Đạo đức được định nghĩa như một hiện tượng xã hội với ba chức năng cơ bản: định hướng giáo dục, điều chỉnh hành vi và kiểm tra đánh giá Nó là một hình thái ý thức xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với các hình thái khác như chính trị, pháp luật, khoa học và tôn giáo Đạo đức thể hiện qua các khái niệm như thiện và ác, hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm, danh dự và lẽ công bằng, tạo thành một hệ thống chuẩn mực đạo đức Hệ thống quan niệm về đạo đức thay đổi theo từng chế độ chính trị - xã hội, nhưng vẫn tồn tại những điểm tương đồng giữa các nền văn hóa khác nhau Tóm lại, mỗi xã hội sẽ hình thành một hệ thống đạo đức riêng biệt.
Trong các chế độ chính trị - xã hội khác nhau, có những vấn đề gọi là tính nhân loại phổ biến của đạo đức, như lòng nhân ái, lương tâm, lòng tự trọng, khiêm tốn và lễ độ Hệ thống quan niệm và chuẩn mực đạo đức này được thể hiện qua hành vi đạo đức của những cá nhân cụ thể, đồng thời tồn tại trong nền văn hóa - xã hội, đặc biệt là trong lối sống, phong tục tập quán, lý luận, ca dao, tục ngữ và cách đối nhân xử thế.
Đạo đức của con người được thể hiện qua hành vi đạo đức, là những hành động tự giác được thúc đẩy bởi động cơ mang ý nghĩa đạo đức.
Hành vi đạo đức được quy định bởi các yếu tố tâm lý, bao gồm nhân cách và quá trình giáo dục đạo đức thông qua việc tham gia vào các hành vi đạo đức Mối quan hệ giữa hành vi đạo đức và nhu cầu đạo đức là rất chặt chẽ, cho thấy rằng hành vi này không chỉ phản ánh phẩm chất ý chí mà còn phụ thuộc vào phương thức thực hiện.
Nhu cầu đạo đức ảnh hưởng đến hành vi đạo đức và ngược lại, hành vi đạo đức có thể làm giảm nhu cầu này Nhu cầu đạo đức là một phần trong hệ thống nhu cầu của mỗi cá nhân Dưới những điều kiện nhất định, nhu cầu đạo đức sẽ nổi bật và xác định đối tượng thỏa mãn Khi đối tượng được xác định, động cơ đạo đức sẽ hình thành, thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi đạo đức Qua quá trình này, nhân cách con người được bộc lộ và phát triển.
Đạo đức kinh doanh, theo nghiên cứu của Stoner và các đồng tác giả, được định nghĩa là sự quan tâm đến tác động của mỗi quyết định quản trị đối với người khác, cả trong lẫn ngoài doanh nghiệp Điều này bao gồm việc xem xét quyền và nghĩa vụ của từng cá nhân, cũng như các nguyên tắc nhân văn cần tuân thủ trong quá trình ra quyết định, và bản chất của các mối quan hệ giữa con người.
Đạo đức kinh doanh là hệ thống nguyên tắc luân lý áp dụng trong thương mại, hướng dẫn hành vi chấp nhận được trong chiến lược và hoạt động hàng ngày của tổ chức Việc hoạt động có đạo đức ngày càng trở nên quan trọng trong việc đạt được thành công và xây dựng hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp.
Giáo sư Phillip V Lewis đã tổng hợp 185 định nghĩa khác nhau về đạo đức kinh doanh và đưa ra định nghĩa rằng đạo đức kinh doanh bao gồm tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn và chuẩn mực đạo đức nhằm hướng dẫn hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực của một tổ chức trong các tình huống cụ thể.
Đạo đức kinh doanh là biểu hiện đặc thù trong phạm trù đạo đức, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực và phẩm chất của con người trong sản xuất, kinh doanh Nó không chỉ là cơ sở đánh giá sự tiến bộ văn minh của cá nhân và quốc gia trong xu thế hội nhập, mà còn là yếu tố nền tảng tạo nên sự tin cậy từ đối tác và khách hàng Đạo đức kinh doanh giúp xây dựng lòng tin, sự gắn kết và trung thành của cán bộ công nhân viên, từ đó nâng cao hình ảnh, uy tín và thương hiệu doanh nghiệp Sự tồn vong và phát triển của doanh nghiệp, cũng như lợi nhuận, phụ thuộc vào quyết định của người tiêu dùng, do đó, để đạt được lợi nhuận cao và thành công bền vững, doanh nghiệp cần xây dựng nền tảng đạo đức kinh doanh vững chắc.
Đạo đức kinh doanh, theo Nguyễn Viết Thái, là tập hợp các nguyên tắc và quy tắc nhằm hướng dẫn và kiểm soát hành vi trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo sự trung thực và chuẩn mực Đây là một dạng đạo đức nghề nghiệp đặc thù, liên quan đến lợi ích kinh tế, nhưng không tách rời khỏi nền tảng đạo đức xã hội chung và chịu ảnh hưởng của hệ giá trị xã hội Khái niệm này phản ánh đúng bản chất của đạo đức kinh doanh và được chúng tôi hoàn toàn đồng tình.
1.1.2.Doanh nghiệp nhỏ và vừa và giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 11/3/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Theo Điều 6 của Nghị định, doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân loại theo quy mô thành ba loại: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có quy mô lao động tham gia bảo hiểm xã hội trung bình không vượt quá 10 người, với tổng doanh thu hàng năm không quá một mức nhất định.
3 t đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 t đồng
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân hàng năm không vượt quá 10 người, với tổng doanh thu hàng năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và xây dựng có quy mô lao động trung bình không vượt quá 100 người tham gia bảo hiểm xã hội, với tổng doanh thu hàng năm không quá một mức nhất định.
50 t đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 t đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này
Các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục đạo đức kinh doanh trong
1.2.1 Chủ thể và đối tượng giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chủ thể và đối tượng giáo dục đạo đức kinh doanh trong DNNVV là hai thành tố, bộ phận quan trọng nhất của GDĐĐKD trong DNNVV
Chủ thể của giáo dục đào tạo doanh nghiệp bao gồm Cấp ủy Đảng, như Ban chấp hành Đảng bộ hoặc chi bộ Đảng, cùng với Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám đốc và các cá nhân giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp Đối tượng của giáo dục đào tạo doanh nghiệp là các nhân viên và người lao động trong tổ chức.
Chủ thể và đối tượng giáo dục đạo đức kinh doanh trong DNNVV c mối quan hệ tác động qua lại với nhau, cụ thể:
Chủ thể giáo dục đạo đức kinh doanh (GDĐĐKD) sử dụng nhiều phương pháp và cách thức khác nhau để tác động đến nhận thức, hành vi và thái độ của các đối tượng Qua đó, họ hình thành những phẩm chất đạo đức kinh doanh cần thiết cho sự phát triển bền vững.
Các đối tượng GDĐĐKD có ảnh hưởng ngược lại, yêu cầu các chủ thể GDĐĐKD thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình.
Trong khoa học giáo dục hiện đại, việc phân biệt giữa chủ thể và đối tượng giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có tính chất tương đối, vì đôi khi chúng có thể là một Đối tượng giáo dục đạo đức kinh doanh thực sự là một chủ thể giáo dục chủ động, tích cực và sáng tạo, thể hiện qua quá trình tự giáo dục Tự giáo dục được coi là đỉnh cao của giáo dục, do đó, các chủ thể giáo dục đạo đức kinh doanh cần khuyến khích tính chủ động, tích cực và sáng tạo ở các đối tượng của họ.
1.2.2 Nội dung giáo dục đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa
GDĐĐKD bao gồm những nội dung giáo dục cụ thể sau:
Đạo đức kinh doanh truyền thống được hình thành từ nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc, phản ánh sự chuyển mình từ săn bắn, hái lượm sang trồng trọt Mặc dù đạo đức mới XHCN đã xuất hiện trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhưng nhiều giá trị truyền thống vẫn ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội hiện đại Đạo đức kinh doanh không phải là bất biến; nó thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế, phương thức sản xuất và các yếu tố chính trị - xã hội Hiện nay, các giá trị đạo đức kinh doanh truyền thống đang đồng hành với những giá trị từ các nền kinh tế phát triển, trong khi những chuẩn mực mới vẫn đang hình thành Ví dụ, trọng tâm vào chữ tín và sự tiết kiệm vẫn được coi trọng Khi chuyển sang nền kinh tế mới, đạo đức kinh doanh truyền thống sẽ giữ lại những giá trị phù hợp và loại bỏ những yếu tố lạc hậu.
Các giá trị đạo đức kinh doanh truyền thống của dân tộc Việt Nam, như tinh thần yêu nước, tự lực tự cường, đoàn kết, và trung thực, đã được hình thành qua nhiều thế hệ và cần được phát huy để đáp ứng nhu cầu hiện đại Việc nâng cao những giá trị này sẽ tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế của đất nước Đồng thời, cần hạn chế các rào cản truyền thống để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Đạo đức kinh doanh truyền thống cần tiếp thu và chọn lọc các giá trị đạo đức toàn cầu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Những giá trị mới như ý thức pháp luật, ý thức công dân, tôn trọng cá nhân, tự do sáng tạo và làm giàu chính đáng là rất quan trọng Trong thời đại khoa học kỹ thuật, năng lực và trách nhiệm cá nhân trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển, cần được phát huy một cách hài hòa giữa giá trị cá nhân và giá trị cộng đồng Lợi ích cá nhân, khi hiểu đúng, không chỉ là động lực cho doanh nhân mà còn đóng góp cho xã hội, vì vậy cần phải đảm bảo sự cân bằng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng trong nền kinh tế thị trường.
- Những giá trị, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức kinh doanh hiện đại
Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình từ nền kinh tế truyền thống sang kinh tế thị trường, sự thay đổi này kéo theo sự chuyển đổi trong các định hướng giá trị xã hội, đặc biệt là các giá trị đạo đức kinh doanh Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã tác động đến giá trị đạo đức theo nhiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực Xu hướng tích cực bao gồm việc coi trọng cả giá trị tinh thần lẫn vật chất, kết hợp hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, và tôn trọng cả giá trị cộng đồng lẫn giá trị cá nhân Việc đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế như một thước đo giá trị nhân cách không chỉ khẳng định giá trị bản thân mà còn làm cho lao động trở nên có ý nghĩa hơn Giá trị nhân cách và đạo đức được đo lường qua hiệu quả công việc, từ đó khắc phục được tính chất lý thuyết, đặc biệt là trong bối cảnh đạo đức truyền thống và thời kỳ bao cấp Đây là yêu cầu tất yếu của kinh tế thị trường, định hình xu hướng tích cực trong sự biến đổi giá trị đạo đức.
Những thay đổi tiêu cực hiện nay bao gồm: chuyển từ việc coi nhẹ giá trị vật chất sang việc tuyệt đối hóa giá trị vật chất; từ trọng đức khinh tài sang việc coi trọng năng lực và coi nhẹ đạo đức; từ việc đề cao con người tập thể sang đề cao con người cá nhân chủ nghĩa; từ việc coi trọng lợi ích tập thể sang tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân; từ việc đề cao lý tưởng đến thực dụng và sùng bái đồng tiền; từ lối sống cần kiệm sang lối sống xa hoa, lãng phí.
Sự tồn tại song song của các giá trị đạo đức mâu thuẫn phản ánh sự đa dạng trong định hướng giá trị xã hội, đồng thời cho thấy tác động phức tạp và đa chiều của các định hướng này đến đạo đức của doanh nhân và doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề văn hóa đạo đức trong kinh doanh là một vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội ở mọi quốc gia Tại Việt Nam, đạo đức và đạo đức kinh doanh đang ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội Đảng đã xác định việc hình thành hệ giá trị và chuẩn mực mới phù hợp với truyền thống và bản sắc dân tộc là nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng văn hóa nói chung và văn hóa đạo đức nói riêng Hệ giá trị mới này sẽ điều chỉnh hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích chung của xã hội và các lợi ích đa dạng khác, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực đạo đức mới trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta đang trong giai đoạn phát triển ban đầu, với các giá trị chuẩn mực chưa rõ nét, dẫn đến việc chưa đủ sức điều chỉnh hành vi con người một cách toàn diện Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ ra những hạn chế trong phát triển văn hóa, đặc biệt là văn hóa đạo đức, khi mà sự phát triển này chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế Môi trường văn hóa đang bị xâm hại và thiếu lành mạnh, với sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại, gây suy đồi đạo đức trong xã hội.
Nhiều nhà khoa học cảnh báo rằng sự phát triển có thể dẫn đến phản phát triển nếu không coi trọng đạo đức và các giá trị xã hội trong nền kinh tế thị trường Mặc dù thành tựu kinh tế và xã hội là điều cần khẳng định, nhưng mặt trái của kinh tế thị trường đang ngày càng gia tăng và sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong tương lai Do đó, việc xây dựng một nền đạo đức mới tương thích với kinh tế thị trường là rất cần thiết Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, việc chủ động xây dựng nền đạo đức mới cũng là một phần quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta xác định rằng một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội là tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng văn hóa, đạo đức và lối sống.
Xây dựng văn hóa đạo đức xã hội và văn hóa đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu thiết yếu trong công cuộc đổi mới của đất nước Văn hóa đạo đức, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa dân tộc Định hướng xây dựng văn hóa đạo đức kinh doanh phải gắn liền với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam, kế thừa các truyền thống đạo đức và tập quán tốt đẹp Đồng thời, cần tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam, đồng thời đấu tranh chống lại các loại văn hóa độc hại và xu hướng lai căng, mất gốc Quan trọng hơn, cần khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền mà coi thường đạo lý và các giá trị nhân văn.
- Những quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng đạo đức kinh doanh
Dựa trên định hướng của Đảng về phát triển văn hóa, hiện nay, việc xây dựng văn hóa đạo đức trong kinh doanh ở nước ta trở nên cần thiết hơn bao giờ hết Sự phát triển đa dạng và phức tạp của các giá trị và chuẩn mực xã hội trong lĩnh vực văn hóa kinh doanh đòi hỏi một quan điểm thống nhất nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.