1. Trang chủ
  2. » Mẫu Slide

Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017

130 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phương Pháp 'Bàn Tay Nặn Bột' Trong Dạy Học Sinh Học
Tác giả Nguyễn Vinh Hiển, Ngô Văn Hưng, Nguyễn Thị Hoa
Trường học Trường Trung Học
Chuyên ngành Sinh Học
Thể loại dự án giáo dục
Năm xuất bản 2016-2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 130
Dung lượng 3,87 MB

Cấu trúc

  • PHẦN 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" (5)
    • 1. Khái quát về phương pháp “Bàn tay nặn bột” (5)
    • 2. Sự ra đời và phát triển của phương pháp BTNB ở Pháp (5)
    • 3. Giáo sư Georger Charpak - Người khai sinh phương pháp BTNB (7)
    • 4. Phương pháp BTNB trên thế giới (9)
    • 5. Phương pháp BTNB tại Việt Nam (10)
  • CHƯƠNG 2...............................................................................................................12 (0)
    • 1. Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB (12)
    • 2. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB (31)
    • 3. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB (33)
    • 4. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác (44)
  • Phần 2: Tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" môn (49)
    • 1. Tổ chức lớp học (49)
    • 2. Giúp HS bộc lộ quan niệm ban đầu (0)
    • 3. Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho HS (53)
    • 4. Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB (56)
    • 5. Kỹ thuật đặt câu hỏi của GV (57)
    • 6. Rèn luyện ngôn ngữ cho HS thông qua dạy học theo phương pháp BTNB (59)
    • 7. Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của HS (62)
    • 8. Hướng dẫn HS đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời (63)
    • 9. Hướng dẫn HS sử dụng vở thực hành (64)
    • 10. Hướng dẫn HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát được khi nghiên cứu để đưa ra kết luận (70)
    • 11. So sánh, đối chiếu kết quả thu nhận với kiến thức khoa học (0)
    • 12. Đánh giá HS trong dạy học theo phương pháp BTNB (71)
  • CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" TRONG DẠY HỌC SINH HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC (72)
    • 2. Lựa chọn chủ đề dạy học theo phương pháp BTNB (73)
    • 3. Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học trong phương pháp BTNB (74)
    • 4. Tổ chức hoạt động quan sát và thí nghiệm trong phương pháp BTNB (77)
    • 5. Ví dụ minh họa về tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB (82)
  • Phần 3: Một số bài soạn theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" 139 (0)
    • 4. Sinh học 9 (0)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (129)

Nội dung

Đối với quá trình dạy học các môn khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm, quan sát và thí nghiệm cũng là phương pháp làm việc của HS, nhưng với HS những bài tập quan sát hoặc các thí ng[r]

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT"

Khái quát về phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), hay còn gọi là La main à la pâte (LAMAP) trong tiếng Pháp và Hands-on trong tiếng Anh, là một phương pháp dạy học khoa học dựa trên tìm tòi và nghiên cứu, đặc biệt áp dụng cho các môn khoa học tự nhiên Phương pháp này được phát động bởi Giáo sư Georges Charpak, người đã nhận Giải Nobel Vật lý năm 1992 Theo BTNB, học sinh sẽ được khuyến khích khám phá và thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề trong cuộc sống bằng cách thực hiện thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu và điều tra Khi đối diện với một hiện tượng, học sinh có thể đặt ra câu hỏi và giả thuyết dựa trên hiểu biết ban đầu, sau đó tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để kiểm chứng và rút ra kết luận thông qua thảo luận, so sánh, phân tích và tổng hợp kiến thức.

Phương pháp BTNB nhằm khơi dậy sự tò mò và niềm đam mê khám phá khoa học ở học sinh Bên cạnh việc tập trung vào kiến thức khoa học, phương pháp này còn chú trọng rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

Sự ra đời và phát triển của phương pháp BTNB ở Pháp

Năm 1995, giáo sư Georger Charpak dẫn đầu một đoàn nghiên cứu gồm các nhà khoa học và đại diện Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đến một khu phố nghèo ở Chicago để khám phá phương pháp dạy học khoa học dựa trên thực hành và thí nghiệm Kết quả là một nhóm nghiên cứu được thành lập tại Ban Trường học - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, với Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc gia Pháp (INRP) được giao nhiệm vụ báo cáo về hoạt động khoa học tại Mỹ và sự phù hợp của nó với điều kiện giáo dục tại Pháp, báo cáo này được thực hiện vào tháng 12 năm 1995.

Trong năm học 1995 - 1996, Ban Trường học - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã vận động khoảng 30 trường thuộc 3 tỉnh tình nguyện thực hiện chương trình.

Vào tháng 4 năm 1996, một hội thảo nghiên cứu về phương pháp BTNB đã diễn ra tại Poitiers, miền Trung nước Pháp, nơi kế hoạch hành động được giới thiệu và triển khai.

Ngày 09/7/1996, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã thông qua quyết định thực hiện chương trình.

Vào tháng 9 năm 1996, Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã tiến hành cuộc thử nghiệm đầu tiên tại 5 tỉnh với sự tham gia của 350 lớp học Nhiều trường đại học và viện nghiên cứu đã hỗ trợ giáo viên trong việc thực hiện các tiết dạy.

Như vậy từ đây, phương pháp BTNB chính thức được ra đời trên cơ sở kế thừa của các thử nghiệm trước đó và tiếp tục phát triển.

Năm 1997, một nhóm chuyên gia từ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc gia Pháp được thành lập nhằm thúc đẩy khoa học trong trường học Dưới sự tài trợ của Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, trang web http://www.inrp.fr/lamap ra đời vào tháng 5/1998, cung cấp thông tin và tài liệu hỗ trợ giáo viên trong việc dạy học khoa học Trang web cũng tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin giữa giáo viên và các nhà khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy khoa học trong nhà trường.

Vào tháng 9 năm 1998, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã xây dựng 10 nguyên tắc cơ bản cho phương pháp BTNB, trong đó sáu nguyên tắc đầu tiên tập trung vào tiến trình sư phạm, còn bốn nguyên tắc sau đề cập đến sự hỗ trợ từ cộng đồng khoa học Phương pháp BTNB đã được triển khai mạnh mẽ ngay từ những ngày đầu.

Năm 1998, INRP đã hợp tác với 21 Viện Đào tạo Giáo viên (IUFM) để nghiên cứu về vở thực hành trong vòng 3 năm Mục tiêu của nghiên cứu là phát triển các trung tâm tư liệu sử dụng trang web BTNB và biên soạn tài liệu phục vụ cho giảng dạy theo phương pháp BTNB.

Mạng lưới BTNB, được thành lập từ các trang web BTNB tại các tỉnh, đã hoạt động hiệu quả trong việc hỗ trợ nguồn tư liệu và thí nghiệm giữa các tỉnh Đặc biệt, vào tháng 12/2001, mạng lưới này vinh dự nhận giải nhất về dạy học điện tử (e-training) do European Schoolnet phát động.

Vào năm 2001, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã khởi xướng việc thành lập mạng lưới các trung tâm vệ tinh (centre pilote) của BTNB nhằm mục đích tạo điều kiện cho việc trao đổi kinh nghiệm và thông tin giữa các trung tâm.

Các cơ quan báo chí và truyền thông đã phát triển nhiều chương trình và phóng sự khoa học về phương pháp BTNB Từ tháng 9/2002 đến tháng 8/2005, kênh France Info đã liên tục giới thiệu phương pháp BTNB vào thứ 5 hàng tuần trên truyền hình Trong các chương trình này, giáo viên, giảng viên và nhà khoa học đã trình bày các hoạt động khoa học thực hiện với trẻ em.

Vào tháng 6 năm 2000, Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã công bố một chương trình đổi mới dạy học khoa học và công nghệ trong các trường học Trong chương trình mới này, phương pháp BTNB được khuyến nghị sử dụng.

Vào năm 2001, nhóm chuyên gia nghiên cứu phương pháp BTNB đã được mở rộng với sự tham gia của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc gia và trường Đại học Sư phạm Paris.

Vào tháng 5 năm 2004, một hội thảo quốc gia về hỗ trợ khoa học và công nghệ trong các trường tiểu học đã được tổ chức tại Paris Tại hội thảo này, Hiến chương về hỗ trợ khoa học và công nghệ trong trường tiểu học đã được soạn thảo nhằm hướng dẫn các đơn vị liên quan trong việc triển khai các hoạt động giáo dục hiệu quả.

Vào năm 2005, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã ký kết một thỏa thuận nhằm nâng cao vai trò của hai cơ quan trong lĩnh vực giáo dục khoa học và kỹ thuật Đến năm 2009, một thỏa thuận mới tiếp tục được ký kết giữa Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp và Bộ Giáo dục Cấp cao và Nghiên cứu.

Tổ chức BTNB Pháp (LAMAP France) không chỉ áp dụng phương pháp BTNB tại các trường tiểu học mà còn khuyến khích giáo viên ở trường mẫu giáo sử dụng phương pháp này trong giảng dạy khoa học Phương pháp BTNB đã được triển khai bước đầu tại các trường trung học cơ sở trong các môn Vật lý, Hóa học, và Sinh học Việc phát triển và ứng dụng phương pháp BTNB xuyên suốt các bậc học từ mẫu giáo đến trung học cơ sở giúp học sinh làm quen với cách học khoa học, khuyến khích sự tìm tòi và suy nghĩ, tạo ra không khí mới cho việc giảng dạy và học tập khoa học tại các trường học ở Pháp.

Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đã hợp tác với các cơ quan nghiên cứu và Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc tế tại Paris để tổ chức hội thảo quốc tế về phương pháp BTNB, nhằm hỗ trợ các quốc gia tìm hiểu tài liệu và cách triển khai phương pháp này vào chương trình giáo dục phù hợp với văn hóa địa phương Hội thảo lần thứ nhất về dạy học khoa học diễn ra vào tháng 5/2010, thu hút 33 quốc gia tham gia Hội thảo lần thứ hai, từ 9 đến 14/5/2011 tại Paris, có sự góp mặt của gần 40 quốc gia không thuộc EU, trong đó có hai đại diện từ Việt Nam là TS Phạm Ngọc Định và ThS Trần Thanh Sơn.

Giáo sư Georger Charpak - Người khai sinh phương pháp BTNB

3.1 Sơ lược tiểu sử của giáo sư Georger Charpak (theo wikimedia)

Georger Charpak (01/08/1924 – 29/09/2010) là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và là người đoạt giải Nobel Vật lý năm 1992 Ông nổi tiếng với nghiên cứu chi tiết về quá trình ion hóa trong chất khí và phát minh ra buồng dây, một thiết bị cho phép theo dõi đường đi của hạt thông qua các tín hiệu điện từ điểm ion hóa Các phát minh của ông, bao gồm buồng chiếu thời gian và hệ thống phức tạp từ buồng dây phát xung ánh sáng Cherenkov, đã mở ra khả năng nghiên cứu các hiện tượng hiếm gặp như sự hình thành quark nặng, mà thường bị che khuất bởi nhiễu tín hiệu khác Tiểu sử của giáo sư Georger Charpak cũng ghi nhận ông là người khai sinh phương pháp BTNB (La main à la pâte), theo thông tin từ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNPS) và Wikipedia.

Georger Charpak sinh ngày 01/08/1924 tại

Dabrovica, Phần Lan Ông học kỹ sư trường Mỏ Paris

Trường G Charpak, được thành lập vào năm 1948, là một trong những trường danh tiếng và uy tín trong hệ thống "Grandes écolé" của Pháp Năm 1955, G Charpak đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và trở thành nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp.

(CNRS), tại phòng thí nghiệm Vật lý hạt nhân của

Collègue de France (một trường danh tiếng và uy tín tại

Vào năm 1959, ông trở thành nghiên cứu viên chính tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) Từ năm 1963 đến 1989, ông làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu Năm 1984, ông gia nhập phòng thí nghiệm Chaire Joliot - Curie của Trường cấp cao Vật lý.

Hóa học công nghiệp Paris (ESPCI).

Từ năm 1941, G Charpak tham gia quân đội Năm 1943 ông bị bắt và giam tại nhà tù Centrale d'Eysses, sau đó chuyển đến tại trại giam tập trung Dachau.

Các công trình của Georger Charpak tập trung chủ yếu về Vật lý hạt nhân, Vật lý hạt năng lượng cao.

Năm 1995, Georger Charpak cùng với Pierre Léna và Yves Quéré đã khởi xướng chương trình BTNB nhằm cải cách giảng dạy khoa học tại các trường tiểu học ở Pháp và châu Âu Chương trình này đã thu hút nhiều hợp tác quốc tế, mở rộng ra nhiều quốc gia trên toàn cầu.

Giáo sư Georger Charpak mất ngày 29/9/2010 tại nhà riêng ở Paris - Cộng hòa Pháp.

3.2 Các danh hiệu và giải thưởng của Georger Charpak

- Năm 1960: Huy chương bạc về nghiên cứu khoa học của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp

- Năm 1980: Giải thưởng Ricard của Hội Vật Lý Pháp

- Năm 1977: Tiến sĩ danh dự Đại học Genève – Thụy Sĩ

- Năm 1984: Giải thưởng của Hội đồng năng lượng nguyên tử - Viện Hàn lâm Khoa học Pháp

- Năm 1986: Viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ

- Năm 1989: Giải thưởng năm của Ban năng lượng cao - Hiệp hội Vật lý Châu Âu

- Năm 1992: Giải Nobel Vật lý về phát minh buồng đa tuyến (multiwire chamber)

- Năm 1994-1996: Thành viên của Hội đồng Cấp cao (Haut Conseil).

- Năm 1993: Thành viên của Viện Văn hóa Phổ thông (Académie Universelle des cultures)

- Năm 1994: Tiến sĩ danh dự Đại học Bruxelles – Bỉ

- Năm 1994: Tiến sỹ danh dự của Đại học Coimbra (Universidade de Coimbra), một trường đại học danh tiếng bậc nhất Bồ Đào Nha, thành lập từ 1290

- Năm 1993: Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Áo.

- Năm 1995: Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Lisbonne - Bồ Đào Nha.

- Năm 1994: Viện sĩ viện hàn lâm khoa học Nga.

- Năm 2002: Thành viên Viện Y tế Quốc gia Pháp.

- Năm 2009: Huy chương Grand Vermeil của Thành phố Paris Sỹ quan Bắc đẩu Bội tinh (Pháp)

3.3 Các xuất bản chính của Georger Charpak

Research on Particle Imaging Detectors

La main à la pâte, les sciences à l'école primaire

Mémoires dun déraciné, physicien, citoyen du monde

Phương pháp BTNB trên thế giới

Phương pháp BTNB đã nhanh chóng được chấp nhận và phổ biến trên toàn thế giới ngay từ khi ra đời Nhiều quốc gia như Brazil, Bỉ, Afghanistan, Campuchia, Chilê, Trung Quốc, Thái Lan, Colombia, Hy Lạp, Malaysia, Marốc, Serbi, Thụy Sĩ và Đức đã hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học Pháp để phát triển phương pháp này, trong đó có Việt Nam thông qua Hội Gặp gỡ Việt Nam Đến năm 2009, đã có hơn 30 quốc gia tham gia trực tiếp vào chương trình BTNB.

Dưới sự bảo trợ của Vụ Công nghệ thuộc Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, một trang web quốc tế đã được thành lập vào năm 2003, phục vụ cho 9 quốc gia Trang web này nhằm mục đích đăng tải tài liệu do giáo viên và giảng viên cung cấp, với nội dung được viết bằng ngôn ngữ của từng quốc gia thành viên tham gia.

Nhiều quốc gia đã xây dựng các trang web tương đồng (site miroir) với trang web BTNB của Pháp, đồng thời biên dịch chúng sang ngôn ngữ bản địa như Trung Quốc, Hy Lạp, Đức, Serbia và Colombia.

Tháng 7 năm 2004, trường hè Quốc tế về BTNB với chủ đề "Bàn tay nặn bột trên thế giới: trao đổi, chia sẻ, đào tạo" đã được tổ chức ở Erice – Ý dành cho các chuyên gia Pháp và các nước.

Hội đồng Khoa học Quốc tế (ICS) và Hội các Viện Hàn lâm Quốc tế (IPA) đã hợp tác để thành lập một cổng thông tin điện tử đa ngôn ngữ về giáo dục khoa học, trong đó bao gồm nội dung phương pháp BTNB Cổng thông tin này được ra mắt vào tháng 4 năm 2004.

Nhiều dự án quốc tế được triển khai nhằm hỗ trợ phát triển phương pháp BTNB tại các quốc gia, điển hình như dự án Pollen của Châu Âu, dự án VALOFRASE tập trung vào phát triển phương pháp BTNB trong hệ thống lớp song ngữ tại Đông Nam Á, và dự án giảng dạy khoa học cho các nước nói tiếng Ả-rập.

Phương pháp BTNB tại Việt Nam

5.1 Hội gặp gỡ Việt Nam (Rencontres du Vietnam) và những đóng góp cho sự du nhập và phát triển của BTNB tại Việt Nam

Hội Gặp gỡ Việt Nam, hay còn gọi là "Recontres du Vietnam" trong tiếng Pháp, được thành lập vào năm 1993 theo luật Hội Đoàn 1901 của Cộng hòa Pháp bởi giáo sư Jean Trần Thanh.

Vân, một Việt kiều tại Pháp, hiện đang giữ chức vụ chủ tịch Hội các nhà khoa học tại Pháp Hội này được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học và giáo dục, thông qua việc tổ chức các hội thảo khoa học và trường hè về Vật lý Đồng thời, hội cũng trao học bổng khuyến học và khuyến tài cho học sinh và sinh viên Việt Nam.

Phương pháp BTNB được giới thiệu tại Việt Nam là một nỗ lực lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam, đồng thời trùng với thời điểm phương pháp này mới ra đời và được thử nghiệm ở Pháp Bài viết tóm lược lịch sử đưa phương pháp BTNB vào Việt Nam, dựa trên tài liệu, biên bản họp, hội nghị, hội thảo và chương trình làm việc của Hội Gặp gỡ Việt Nam trong 15 năm từ 1995 đến 2010.

Vào tháng 10 năm 1995, giáo sư Georger Charpak, người sáng lập phương pháp BTNB, đã được mời bởi giáo sư Jean Trần Thanh Vân, Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam, để tham dự hội thảo quốc tế về Vật lý năng lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh Trong khuôn khổ hội thảo, ông đã có dịp thăm làng trẻ em SOS Gò Vấp và trường phổ thông Hermann Gmeiner tại thành phố này.

GS Jean Trần Thanh Vân

Minh và đã hứa giúp đỡ Việt Nam trong việc đưa phương pháp BTNB vào các trường học.

Từ tháng 09/1999 đến tháng 03/2000, tổ chức BTNB Pháp (LAMAP France) đã tiếp nhận và đào tạo một nữ thực tập sinh Việt Nam, là giáo viên Vật lý tại trường trung học dạy song ngữ tiếng Pháp ở thành phố Hồ Chí Minh Đây là nữ thực tập sinh đầu tiên của Việt Nam được tiếp cận và huấn luyện theo phương pháp BTNB.

Vào tháng 01/2000, cuốn sách "Bàn tay nặn bột - Khoa học trong trường tiểu học" được xuất bản, đánh dấu sự ra đời của phương pháp Bàn tay nặn bột (BTNB) tại Việt Nam Cuốn sách này dựa trên tác phẩm của giáo sư Georges Charpak, xuất bản năm 1996, và được dịch bởi Đinh Ngọc Lân Nhằm triển khai phương pháp BTNB, GS Trần Thanh Vân đã thành lập một nhóm tại Hà Nội, bao gồm bà Nguyễn Thị Thanh Hương, Phó trưởng Khoa Vật lý, cùng với bà Đỗ Hương Trà và ông Lê Trọng Tường, giảng viên Khoa Vật lý tại Đại học Sư phạm Hà Nội.

Hà Huy Bằng - giảng viên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc Gia

Hà Nội, ông Nguyễn Hàm Châu - nhà báo.

Vào ngày 30 tháng 1 năm 2000, GS Trần Thanh Vân, GS Georges Charpak và ông Léon Lederman đã tổ chức một cuộc họp tại Paris để thảo luận về chương trình hành động của BTNB tại Việt Nam.

Vào tháng 6 năm 2000, Hội Gặp gỡ Việt Nam đã tổ chức một chuyến công tác cho nhóm phóng viên của kênh VTV1 sang Pháp Trong hai ngày làm việc tại Vaulx en Vlin, họ đã thực hiện một phóng sự về phương pháp BTNB, dự kiến phát sóng trên truyền hình Việt Nam.

Vào tháng 11 năm 2000, Hội Gặp gỡ Việt Nam, dưới sự hỗ trợ của ông Léon Lederman, đã cử 5 đại biểu đại diện cho Việt Nam tham gia hội thảo quốc tế về giảng dạy khoa học tại trường Tiểu học Bắc Kinh, Trung Quốc.

5.2 Phương pháp BTNB tại Việt Nam

Từ năm 2000 đến 2002, phương pháp BTNB đã được giới thiệu cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội và thử nghiệm tại các trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm, Herman Gmeiner Hà Nội, cùng trường thực hành Nguyễn Tất Thành Nội dung giảng dạy tập trung vào các chủ đề như nước, không khí và âm thanh.

Năm 2002, nhóm nghiên cứu đã mở rộng áp dụng phương pháp BTNB tại các lớp tiểu học ở Hà Nội, đồng thời khai giảng thêm các lớp tại Huế và Thành phố Hồ Chí Minh Để hỗ trợ giáo viên, lớp tập huấn về phương pháp BTNB được tổ chức vào tháng 9/2002 tại Hà Nội.

Từ năm 2002, với sự hỗ trợ của Hội Gặp gỡ Việt Nam, nhiều lớp tập huấn về phương pháp BTNB đã được tổ chức cho giáo viên cốt cán và cán bộ quản lý trên toàn quốc Các giảng viên trong các khóa học này là các giáo sư tình nguyện người Pháp từ Viện Đào tạo Giáo viên (IUFM), Đại học Tây Bretagne.

Vào tháng 12 năm 2009, trong chuyến công tác về Việt Nam tham dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài, Giáo sư Trần Thanh Vân đã có cuộc gặp gỡ với Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển và Vụ trưởng Vụ Tiểu học Lê Tiến Thành để thảo luận về chương trình BTNB tại Việt Nam.

Vào tháng 8 năm 2010, GS Trần Thanh Vân đã có buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận cùng Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, trong đó thảo luận về định hướng phát triển phương pháp BTNB tại Việt Nam.

Cơ sở khoa học của phương pháp BTNB

1.1 Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi - nghiên cứu

Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là phương pháp giáo dục chú trọng vào việc phát triển sự hiểu biết sâu sắc của học sinh (HS) về kiến thức và kỹ năng khoa học Phương pháp này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc HS thực sự hiểu nội dung học tập, không chỉ đơn thuần là ghi nhớ thông tin Động lực học tập được nuôi dưỡng từ sự hài lòng khi HS khám phá và lĩnh hội kiến thức mới, thay vì chỉ tìm kiếm sự khen thưởng Hơn nữa, dạy học khoa học theo phương pháp này khuyến khích HS phát triển tư duy sâu sắc và khả năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó thúc đẩy quá trình học tập liên tục và bền vững.

Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB là một vấn đề cốt lõi và quan trọng, không phải là một đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp Học sinh tiếp cận vấn đề qua tình huống, nêu giả thuyết và nhận định ban đầu, sau đó đề xuất và thực hiện các thí nghiệm nghiên cứu Họ cũng cần đối chiếu các nhận định và kết quả thí nghiệm với các nhóm khác để đánh giá tính phù hợp.

Học sinh cần quay lại điểm xuất phát để thực hiện lại các thí nghiệm hoặc thử nghiệm theo đề xuất của các nhóm khác nhằm kiểm chứng và rút ra kết luận cho vấn đề ban đầu Trong suốt quá trình này, học sinh phải tư duy, trao đổi với các bạn trong nhóm và lớp, đồng thời tích cực tham gia để khám phá kiến thức Quá trình tìm kiếm kiến thức của học sinh tương tự như hành trình khám phá của các nhà khoa học Việc lựa chọn kiến thức khoa học trong phương pháp BTNB là rất quan trọng.

Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với học sinh theo độ tuổi là một nhiệm vụ quan trọng của giáo viên Giáo viên cần tự đặt ra những câu hỏi như: Liệu có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Thời điểm nào là phù hợp để giới thiệu kiến thức này? Những yêu cầu nào cần được đặt ra để đảm bảo hiệu quả trong việc giảng dạy?

Để xác định mức độ kiến thức mà học sinh (HS) cần nắm vững, giáo viên (GV) nên nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu hỗ trợ như sách GV, sách tham khảo và hướng dẫn thực hiện chương trình Việc này giúp GV xác định hàm lượng kiến thức phù hợp với trình độ, độ tuổi của HS và điều kiện của nhà trường Bên cạnh đó, cách thức học tập của HS cũng cần được xem xét để tối ưu hóa quá trình học.

Phương pháp BTNB, dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu, giúp giáo viên hiểu rõ hơn về cách học của học sinh trong lĩnh vực khoa học Phương pháp này khuyến khích học sinh học tập thông qua "khám phá có hướng dẫn", dựa trên sự tò mò tự nhiên, cho phép các em tiếp cận thế giới xung quanh thông qua các hoạt động nghiên cứu Những hoạt động này không chỉ khơi gợi sự tìm kiếm kiến thức cá nhân mà còn thúc đẩy sự tương tác giữa các học sinh trong lớp để tìm ra phương án thực nghiệm hoặc giải thích các hiện tượng Mặc dù suy nghĩ ban đầu của học sinh thường nhạy cảm, ngây thơ và mang tính lôgic riêng, chúng thường không chính xác về mặt khoa học.

CHIA SẺPHẢN HỒI d) Quan niệm (biểu tượng) ban đầu của HS

Quan niệm ban đầu là những biểu tượng và ý kiến của học sinh về sự vật, hiện tượng trước khi tìm hiểu sâu về bản chất của chúng Đây là những ý tưởng được hình thành từ kinh nghiệm sống của học sinh, còn được gọi là "khái niệm ngây thơ" Những quan niệm này thường chưa rõ ràng và có thể mâu thuẫn với các giải thích khoa học mà học sinh sẽ tiếp thu sau này Biểu tượng ban đầu không phải là kiến thức đã học, mà là cách hiểu của học sinh về những sự vật, hiện tượng mới trước khi họ tiếp cận với kiến thức đó Điều này không chỉ xảy ra ở trẻ em mà ngay cả người lớn cũng có những quan niệm sai lầm tương tự, mặc dù họ có thể đã học về kiến thức đó một hoặc vài lần.

Quan niệm ban đầu của học sinh (HS) có thể vừa là chướng ngại vừa là động lực trong quá trình nhận thức Ví dụ, HS thường nghĩ rằng "Không khí không phải là vật chất" vì họ tin rằng "Cái gì không thấy là không tồn tại" Để giúp HS tiếp nhận kiến thức mới một cách sâu sắc, giáo viên (GV) cần "phá bỏ" chướng ngại này bằng cách tổ chức các thí nghiệm chứng minh rằng quan niệm đó là sai Chỉ khi HS tự mình thực hiện thí nghiệm, chướng ngại mới có thể được loại bỏ.

LẬP KẾ HOẠCH VÀ THIẾT KẾ

Câu hỏi/vấn đề là gì? Bạn muốn biết điều gì? Bạn sẽ tìm ra câu trả lời bằng cách nào?

PHÁT BIỂU CÂU HỎI MỚI

Bạn còn câu hỏi gì? Bạn có câu hỏi gì mới? Bạn có thể tìm ra câu trả lời bằng cách nào?

RÚT RA KẾT LUẬN SƠ BỘ

Bạn có thể xác nhận điều gì? Bạn có những minh chứng gì? Bạn còn cần biết thêm điều gì?

Bạn quan sát cái gì? Bạn có sử dụng đúng công cụ không? Bạn cần phải ghi chép chi tiết thế nào?

THIẾT LẬP VÀ PHÂN TÍCH

Bạn thiết lập dữ liệu như thế nào?

Bạn đã nhìn thấy kiểu mẫu gì? Mối liên hệ có thể là gì? Điều đó có ý nghĩa gì? ĐỀ XUẤT

Bạn có thể thử làm gì? Bạn đang băn khoăn về điều gì? Bạn đã biết cái gì? Bạn đang quan tâm đến cái gì?

THIẾT KẾ VÀ ĐIỀU KHIỂN QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

RÚT RA KẾT LUẬN CUỐI CÙNG

Chúng ta biết được gì từ tất cả quá trình nghiên cứu?

Chúng ta có những minh chứng gì cho những ý tưởng của mình?

GIAO TIẾP VỚI MỌI NGƯỜI

Bạn muốn nói gì với những người khác?

Bạn nói với họ như thế nào? Điều gì là quan trọng?

Sơ đồ tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học bao gồm việc tiến hành thí nghiệm, tự rút ra kết luận và đối chiếu với quan niệm ban đầu Qua đó, người nghiên cứu có thể tự đánh giá xem quan niệm của mình là đúng hay sai.

Phương pháp dạy học BTNB tạo cơ hội cho học sinh (HS) bộc lộ quan niệm ban đầu, giúp giáo viên (GV) hướng dẫn HS đặt câu hỏi và thực hiện thí nghiệm để kiểm chứng Quan niệm ban đầu của HS rất đa dạng, nhưng GV có thể nhận thấy những nét tương đồng trong đó, từ đó nhóm lại các ý tưởng để đề xuất câu hỏi Sự thay đổi của quan niệm ban đầu theo độ tuổi và nhận thức của HS cho thấy rằng việc hiểu tâm sinh lý lứa tuổi là một lợi thế lớn cho GV trong việc tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp BTNB.

Bảng so sánh dưới đây làm nổi bật vai trò của quan niệm ban đầu trong quá trình dạy học, thể hiện sự khác biệt giữa người học và giáo viên Đối với người học, quan niệm ban đầu ảnh hưởng đến cách tiếp nhận kiến thức và khả năng áp dụng lý thuyết vào thực tiễn Trong khi đó, đối với giáo viên, việc hiểu rõ quan niệm ban đầu của học sinh giúp họ thiết kế phương pháp giảng dạy phù hợp, tạo điều kiện cho sự phát triển và tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập.

- Về sự tồn tại quan niệm "sai", hoặc không thích hợp;

- Về việc những HS khác không có cùng quan niệm như mình. ĐIỂM XUẤT PHÁT, NỀN TẢNG

MÀ TRÊN ĐÓ KIẾN THỨC SẼ ĐƯỢC THIẾT LẬP

- Cần thiết xây dựng một vốn tri thức khoa học, bắt buộc phải làm cho kiến thức đó phát triển.

- Về kiến thức của HS mà GV cần quan tâm.

- Tính đến những chướng ngại ẩn ngầm và những khả năng hiểu biết của người học.

- Nhận thức được con đường còn phải trải qua giữa các quan niệm của người học với mục đích của GV.

- Sự chậm chạp của quá trình học tập và con đường quanh co mà việc học tập này phải trải qua

- Xác định một cách thực tế về trình độ bắt buộc phải đạt được.

- Lựa chọn những tình huống sư phạm, các kiểu can thiệp và những công cụ sư phạm thích đáng nhất.

VÀ LÀ MỘT PHƯƠNG TIỆN ĐÁNH GIÁ

1.2 Những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu

Phương pháp dạy học BTNB được áp dụng khác nhau tùy thuộc vào trình độ của học sinh ở từng lớp Để thực hiện phương pháp này, giáo viên cần có sự linh hoạt và sáng tạo, không bị ràng buộc bởi một khuôn mẫu hay giáo án cố định.

QUAN NIỆM = SỰ CHỈ DẪN = PHƯƠNG TIỆN THÚC ĐẨY

Để đạt được mục đích dạy học theo phương pháp BTNB, giáo viên cần biên soạn tiến trình dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh và lớp học Một trong những nguyên tắc cơ bản là học sinh phải hiểu rõ câu hỏi hoặc vấn đề trọng tâm của bài học Việc này giúp học sinh tiếp cận với quá trình tìm tòi, nghiên cứu và nỗ lực hiểu kiến thức Để đạt được điều này, học sinh cần tham gia vào việc hình thành các câu hỏi liên quan đến bài học.

Học sinh cần thời gian để khám phá chủ đề bài học, thảo luận về các vấn đề và câu hỏi phát sinh Qua đó, họ có thể suy nghĩ về những khía cạnh cần nghiên cứu và lập kế hoạch thực hiện nghiên cứu một cách hiệu quả.

Để học sinh tìm kiếm giải pháp hiệu quả cho một vấn đề, điều quan trọng là họ phải cảm thấy vấn đề đó có ý nghĩa và cần thiết cho bản thân Câu hỏi xuất phát phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh sẽ tạo ra mâu thuẫn nhận thức, từ đó kích thích nhu cầu tìm tòi và nghiên cứu của họ.

Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB

Dưới đây là 10 nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB, bao gồm 6 nguyên tắc về tiến trình sư phạm và 4 nguyên tắc về đối tượng tham gia, được đề xuất bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp.

2.1 Nguyên tắc về tiến trình sư phạm a) HS quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó

Sự vật trong bài viết bao gồm cả những vật thể hữu hình như lá cây, hạt đậu, và con thỏ, cũng như những khái niệm trừu tượng như tế bào quang hợp, ADN, và mặt trời Đối với học sinh trung học cơ sở, việc tiếp cận với những sự vật gần gũi sẽ kích thích sự tò mò và khuyến khích tìm hiểu Trong quá trình khám phá, học sinh sẽ lập luận và bảo vệ quan điểm của mình, tham gia thảo luận tập thể để đưa ra những ý kiến và kết luận cá nhân, từ đó hình thành những hiểu biết sâu sắc hơn mà các hoạt động riêng lẻ không thể mang lại.

Nguyên tắc này nhấn mạnh việc khuyến khích học sinh suy nghĩ và lập luận để bảo vệ ý kiến cá nhân, đồng thời tôn vinh vai trò của hoạt động nhóm trong học tập Qua việc trao đổi suy nghĩ với nhau, học sinh nhận ra những mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân Việc trình bày ý kiến là yếu tố quan trọng để rèn luyện ngôn ngữ, trong khi giáo viên đóng vai trò trung gian giữa kiến thức khoa học và học sinh Giáo viên sẽ can thiệp vào những thời điểm thích hợp để định hướng thảo luận, giúp học sinh tập trung vào các vấn đề mà các em quan tâm Các hoạt động do giáo viên đề xuất được tổ chức theo tiến trình sư phạm, nhằm nâng cao dần mức độ học tập và tạo cho học sinh một phần tự chủ đáng kể trong quá trình học.

Mức độ nhận thức của học sinh được hình thành theo quy luật từ thấp đến cao và từ đơn giản đến phức tạp Để học sinh hiểu sâu sắc kiến thức, quá trình hình thành kiến thức cần tuân theo quy tắc này Bắt đầu từ những hiểu biết cơ bản và dần nâng cao theo cấp độ tương ứng với khả năng nhận thức của học sinh sẽ giúp họ tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả và vững chắc.

Giáo viên dành sự tự chủ cho học sinh thể hiện sự tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các em, chấp nhận những sai sót và hiểu lầm ban đầu Học sinh được khuyến khích chủ động làm thí nghiệm, trao đổi và thảo luận, qua đó chuyển đổi vai trò của giáo viên từ trung tâm sang học sinh, giúp các em chiếm lĩnh kiến thức Để đạt hiệu quả, cần đảm bảo tối thiểu 2 giờ/tuần cho một đề tài trong nhiều tuần liên tiếp, duy trì sự liên tục của các hoạt động và phương pháp giáo dục trong suốt quá trình học tập.

Việc giảng dạy một chủ đề khoa học trong nhiều tuần giúp học sinh có thời gian để tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc, từ đó xây dựng và hình thành kiến thức vững chắc Phương pháp này không chỉ giúp học sinh ghi nhớ kiến thức hiệu quả hơn mà còn tránh tình trạng học nhồi nhét, mang lại sự hiểu biết toàn diện và bền vững hơn.

Trong quá trình thiết kế hoạt động dạy học, giáo viên cần chú ý đến tính kế thừa của kiến thức giữa các bậc học và lớp học để nâng cao hiệu quả giảng dạy Việc trao đổi thông tin và thống nhất giữa các giáo viên sẽ giúp cải thiện chất lượng dạy học Đặc biệt, giáo viên môn khoa học cần tìm hiểu chương trình và các phương pháp đã được áp dụng trước đó để tham khảo trong thiết kế hoạt động dạy học Ngoài ra, mỗi học sinh cần có một quyển vở thực hành để ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ riêng của mình.

Vở thực hành là một phần thiết yếu trong phương pháp BTNB, giúp học sinh (HS) ghi chép và theo dõi sự tiến bộ của mình Qua việc sử dụng vở thực hành, giáo viên (GV) có thể đánh giá mức độ nhận thức của HS, từ đó điều chỉnh phương pháp giảng dạy và nội dung kiến thức cho phù hợp Việc ghi chép không chỉ giúp HS làm quen với nghiên cứu khoa học mà còn rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ Mục tiêu chính là giúp HS dần chiếm lĩnh các khái niệm khoa học và kỹ thuật, đồng thời củng cố khả năng viết và nói.

Nguyên tắc này nhấn mạnh mối liên hệ giữa việc dạy học kiến thức và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh, bao gồm cả kỹ năng nói và viết Sự hiểu biết về kiến thức sẽ được thể hiện qua ngôn ngữ khi học sinh phát biểu và trình bày Giáo viên cần quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của học sinh, đồng thời khuyến khích các em lắng nghe nhau Việc hình thành các thuật ngữ và khái niệm khoa học sẽ giúp học sinh nắm vững và hiểu sâu sắc hơn về kiến thức.

2.2 Những đối tượng tham gia a) Các gia đình và/hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học.

Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hợp tác giữa gia đình, xã hội và nhà trường trong quá trình giáo dục học sinh Chẳng hạn, khi học về môi trường, phụ huynh có kiến thức sâu rộng có thể được mời đến chia sẻ với lớp, hoặc tổ chức các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ môi trường tại địa phương Bên cạnh đó, các cơ sở khoa học như trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu cũng có thể hỗ trợ các hoạt động giáo dục của lớp theo khả năng của họ.

Các trường học nên mời các chuyên gia, nhà khoa học và giáo sư đến giảng dạy và hỗ trợ giáo viên trong việc thiết kế hoạt động dạy học, đặc biệt là cho giáo viên tiểu học và trung học cơ sở, do chương trình đào tạo chưa đủ sâu về kiến thức khoa học Tuy nhiên, giáo viên vẫn là người không thể thay thế trong lớp học, và sự hỗ trợ của các chuyên gia chỉ mang tính chất bổ sung Ngoài ra, cần khuyến khích học sinh giỏi lớp cuối cấp tham gia nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa học để phát triển tư duy khoa học và ước mơ nghiên cứu Các viện đào tạo giáo viên như Trường Cao đẳng Sư phạm và Đại học Sư phạm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kinh nghiệm và phương pháp dạy học cho giáo viên.

Nguyên tắc hợp tác trong giáo dục nhấn mạnh sự hỗ trợ về mặt sư phạm và kinh nghiệm từ các giảng viên, chuyên gia nghiên cứu phương pháp BTNB, nhằm giúp giáo viên thiết kế bài giảng và giải quyết các vấn đề trong quá trình giảng dạy Giáo viên có thể tìm thấy nhiều website trên internet cung cấp mô-đun kiến thức, ý tưởng hoạt động và giải pháp cho các thắc mắc Ngoài ra, giáo viên cũng nên tham gia vào các hoạt động tập thể bằng cách trao đổi với đồng nghiệp, nhà sư phạm và các nhà khoa học, từ đó nâng cao trách nhiệm giáo dục và cải tiến các hoạt động trong lớp học mà mình phụ trách.

Để hỗ trợ giáo viên (GV) trong việc chuẩn bị bài học, việc cung cấp nguồn thông tin và tài liệu là rất cần thiết Internet và các trang web đóng vai trò quan trọng, giúp GV trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất các vấn đề cần giải đáp với chuyên gia và nhà nghiên cứu Điều này không chỉ giúp GV giải quyết vướng mắc mà còn nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện kế hoạch dạy học.

Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB

3.1 Cơ sở sư phạm của tiến trình dạy học

Phương pháp BTNB tập trung vào việc phát triển tri thức thông qua quan sát, thực nghiệm và thảo luận, khuyến khích học sinh thực hành khoa học bằng cách tham gia vào các hoạt động hỏi đáp và tìm tòi Thay vì chỉ ghi nhớ kiến thức từ sách giáo khoa, học sinh được khuyến khích tự thực hiện thí nghiệm và thảo luận để xây dựng hiểu biết của riêng mình.

Học sinh tiến bộ thông qua hành động và sự tự nghi vấn, cuốn hút vào quá trình học tập Việc học diễn ra hiệu quả hơn khi học sinh tham gia thảo luận, hỏi đáp với bạn cùng lớp, có thể là trong nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn Đồng thời, việc trình bày quan điểm cá nhân và đối chiếu với ý kiến của bạn bè, cũng như kiểm tra các kết quả thực nghiệm, giúp xác định tính đúng đắn và hiệu lực của thông tin.

Giáo viên, tùy thuộc vào tình hình, có thể đề xuất các tình huống từ câu hỏi của học sinh để khuyến khích việc tìm tòi một cách hợp lý Giáo viên hướng dẫn học sinh mà không làm thay cho các em, đồng thời cung cấp sự hỗ trợ cần thiết.

HS được khuyến khích thể hiện quan điểm cá nhân và tuân thủ ngôn ngữ đúng mực GV hướng dẫn HS rút ra những kết luận quan trọng từ kết quả nghiên cứu, đồng thời liên hệ với kiến thức khoa học GV cũng điều hành các buổi tập luyện nhằm giúp HS dần cải thiện kỹ năng của mình.

Các buổi học trong lớp được thiết kế theo các chủ đề tiến trình, giúp học sinh tiếp thu kiến thức, hiểu phương pháp thực hiện và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ cả viết lẫn nói Thời gian học hợp lý là yếu tố quan trọng để học sinh có thể nắm bắt, tái tạo và tiếp thu kiến thức một cách bền vững.

3.2 Các bước của tiến trình dạy học

Các bước trong tiến trình dạy học dưới đây được thiết kế cho giáo viên nhằm trang bị tiêu chuẩn áp dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy các môn khoa học Đây không phải là một định nghĩa cứng nhắc hay một quy trình đi từ vấn đề đến khám phá và cấu trúc kiến thức Việc áp dụng tiến trình này một cách linh hoạt và sáng tạo, tùy theo từng chủ đề nghiên cứu, là rất quan trọng Mỗi bước được xác định là yếu tố cần thiết để đảm bảo quá trình khám phá của học sinh diễn ra thông suốt và hiệu quả.

Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề

Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là công cụ do giáo viên sử dụng để dẫn nhập vào bài học một cách hiệu quả Tình huống này cần ngắn gọn, dễ hiểu và gần gũi với học sinh, giúp lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề một cách tự nhiên Sự rõ ràng của tình huống xuất phát sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giới thiệu câu hỏi nêu vấn đề Tuy nhiên, trong một số trường hợp, giáo viên vẫn có thể đề xuất câu hỏi nêu vấn đề mà không cần tình huống xuất phát, tùy thuộc vào kiến thức và bối cảnh cụ thể.

Câu hỏi nêu vấn đề là yếu tố quan trọng trong bài học, giúp học sinh chuẩn bị tâm thế trước khi tiếp cận kiến thức mới Để đạt hiệu quả, câu hỏi này cần phù hợp với trình độ học sinh, tạo ra mâu thuẫn nhận thức và kích thích sự tò mò, khuyến khích tìm tòi nghiên cứu Giáo viên nên sử dụng câu hỏi mở, tránh hoàn toàn câu hỏi đóng, nhằm tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy và khám phá sâu hơn Câu hỏi nêu vấn đề càng đáp ứng tốt các yêu cầu này, ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ dàng đạt được thành công.

Bước 2: Hình thành câu hỏi của HS

Giai đoạn làm bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh (HS) là một phần quan trọng trong phương pháp BTNB, nơi giáo viên (GV) khuyến khích HS chia sẻ suy nghĩ và nhận thức trước khi tiếp cận kiến thức mới Để thực hiện điều này, GV có thể yêu cầu HS nhắc lại kiến thức cũ liên quan đến bài học HS có thể trình bày quan niệm ban đầu của mình thông qua nhiều hình thức như phát biểu cá nhân, viết hoặc vẽ Từ những quan niệm này, GV sẽ hỗ trợ HS trong việc đề xuất các câu hỏi, đặc biệt là những câu hỏi liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học.

Giáo viên cần khéo léo lựa chọn một số quan niệm ban đầu khác biệt trong lớp học để giúp học sinh so sánh và đặt ra câu hỏi liên quan đến nội dung bài học Đây là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải nhanh chóng chọn lọc các quan niệm tiêu biểu từ hàng chục ý kiến của học sinh, đồng thời linh hoạt điều khiển sự thảo luận để hướng dẫn học sinh đề xuất câu hỏi dựa trên những khác biệt đó Việc lựa chọn các quan niệm ban đầu không hợp lý có thể dẫn đến khó khăn trong việc so sánh và đặt câu hỏi của học sinh.

Bước 3: Xây dựng giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm

Giáo viên đặt ra câu hỏi cho học sinh và khuyến khích các em đề xuất giả thuyết cũng như thiết kế phương án thực nghiệm để kiểm chứng những giả thuyết đó Các phương án thực nghiệm này bao gồm quan sát, thực hành thí nghiệm và nghiên cứu tài liệu nhằm tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đã nêu.

Học sinh (HS) có thể đề xuất nhiều phương án thực nghiệm khác nhau dựa trên kiến thức và vấn đề được đặt ra Trong quá trình này, nếu ý kiến của HS chưa chính xác hoặc diễn đạt chưa rõ, giáo viên (GV) nên gợi ý và hướng dẫn HS cải thiện cách diễn đạt GV cũng có thể khuyến khích các HS khác tham gia chỉnh sửa để làm rõ ý tưởng Điều này không chỉ giúp HS rèn luyện ngôn ngữ mà còn tạo cơ hội cho việc thảo luận và phát triển ý tưởng Nếu HS đưa ra phương án đúng nhưng vẫn còn nhiều lựa chọn khả thi khác, GV nên tiếp tục khuyến khích HS khác tham gia để làm phong phú thêm các phương án Phương pháp BTNB khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến của nhau, thay vì chỉ dựa vào nhận xét của GV.

Sau khi học sinh đề xuất phương án thực nghiệm để tìm tòi và nghiên cứu, giáo viên đã đưa ra nhận xét chung và quyết định thực hiện phương án với các dụng cụ đã chuẩn bị sẵn.

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu

Giáo viên nên khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm phù hợp từ các phương án mà học sinh đưa ra, ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật Trong những trường hợp không thể, có thể sử dụng mô hình hoặc tranh vẽ để hỗ trợ Đối với phương pháp quan sát, giáo viên cho học sinh quan sát vật thật trước, sau đó mới chuyển sang tranh vẽ khoa học hoặc mô hình để làm rõ những đặc điểm mà học sinh không thể quan sát rõ trên vật thật.

Khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên cần nêu rõ yêu cầu và mục đích của thí nghiệm, hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích đó trước khi bắt đầu Sau đó, giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm phù hợp với hoạt động Nếu để sẵn các vật dụng trên bàn, học sinh có thể nghịch ngợm và không chú ý đến các đồ vật khác trong lớp, hoặc tự ý thực hiện thí nghiệm trước khi có lệnh từ giáo viên, dẫn đến việc học sinh có thể đoán các thí nghiệm cần làm.

HS có thể đề xuất thí nghiệm đúng nhưng ý đồ dạy học của GV không đạt).

Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác

Ngày nay, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, xuất hiện nhiều phương pháp và hình thức dạy học mới như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học theo lý thuyết kiến tạo, và dạy học dự án Những phương pháp này đều tập trung vào việc tổ chức hoạt động học tích cực cho học sinh, nhằm phát triển khả năng tự chủ trong việc chiếm lĩnh kiến thức Cơ sở lý thuyết của các phương pháp này dựa trên lý thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov và hai lý thuyết phát triển nhận thức của Jean Piaget, giải thích cơ chế học tập thông qua mối quan hệ "Kích thích - Phản ứng".

Việc học tập của học sinh (HS) được xem là một hoạt động tích cực, nơi HS thông qua trải nghiệm cá nhân để chiếm lĩnh kiến thức và phát triển năng lực trí tuệ cũng như thái độ đạo đức Dạy học không chỉ là truyền đạt kiến thức mà còn là hướng dẫn HS trong quá trình hoạt động học tập, giúp họ tự chủ trong việc xây dựng tri thức Trong quá trình này, giáo viên (GV) đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, kiểm tra và định hướng hoạt động học tập của HS theo chiến lược hợp lý Quá trình dạy học các tri thức Sinh học diễn ra thông qua sự tương tác biện chứng giữa GV, HS và tư liệu dạy học, tạo thành một hệ thống dạy học thống nhất Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa phương pháp Bài Tập Nâng Cao (BTNB) và các phương pháp dạy học khác, cần khảo sát sơ lược mô hình của từng phương pháp.

Hoạt động học của học sinh (HS) bao gồm việc tương tác với tư liệu dạy học, trao đổi và tranh luận với nhau cũng như với giáo viên (GV) Sự tương tác này không chỉ giúp HS thích ứng với tình huống học tập mà còn là quá trình chiếm lĩnh và xây dựng tri thức cá nhân Thông qua việc trao đổi và tranh luận, HS nhận được sự hỗ trợ xã hội từ GV và bạn bè, góp phần vào quá trình tiếp thu kiến thức Đồng thời, từ những hoạt động này, GV cũng thu thập thông tin phản hồi cần thiết để định hướng và hỗ trợ HS hiệu quả hơn.

Hoạt động giảng dạy của giáo viên bao gồm việc sử dụng tư liệu dạy học và tương tác trực tiếp với học sinh Giáo viên đóng vai trò tổ chức và cung cấp tư liệu để tạo ra tình huống học tập cho học sinh Dựa trên tư liệu dạy học, giáo viên hướng dẫn và định hướng cho hoạt động của học sinh.

GV đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và kiểm tra hoạt động học tập của học sinh, đồng thời hướng dẫn họ sử dụng tài liệu học tập Ngoài ra, GV còn định hướng sự trao đổi và tranh luận giữa các học sinh, giúp tăng cường khả năng giao tiếp và tư duy phản biện.

Dạy học hiện đại được xem là quá trình giải quyết vấn đề, trong đó giáo viên tổ chức các hoạt động trí óc và tay chân của học sinh nhằm giúp họ chiếm lĩnh nội dung và đạt được mục tiêu học tập Giáo viên đóng vai trò định hướng hành động chiếm lĩnh tri thức của học sinh theo chu trình sáng tạo khoa học Mặc dù có nhiều lý thuyết học tập trong tâm lý học dạy học, không có lý thuyết nào đủ mạnh để giải thích toàn bộ cơ chế học Các nhà khoa học hiện nay thường xây dựng các mô hình riêng lẻ thay vì tìm kiếm lý thuyết tổng quát, trong đó có nghiên cứu cơ chế học tập dựa trên sinh lý thần kinh với sự hỗ trợ của công nghệ mới Việc kết hợp linh hoạt các lý thuyết học tập khác nhau là cần thiết trong thực tiễn dạy học Phương pháp BTNB cũng tương đồng với các phương pháp dạy học tích cực khác, đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực và tự lực giải quyết vấn đề.

Tiến trình dạy học diễn ra qua ba pha chính: giao nhiệm vụ cho học sinh, học sinh tự chủ giải quyết vấn đề, và báo cáo, hợp thức hóa kiến thức mới Phương pháp BTNB khác biệt ở chỗ các tình huống và câu hỏi xuất phát từ thực tế gần gũi với đời sống, giúp học sinh dễ dàng cảm nhận và thực hành Phương pháp này chú trọng vào việc bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh, tạo ra mâu thuẫn nhận thức để đề xuất câu hỏi và giả thuyết Hoạt động tìm tòi trong BTNB rất đa dạng, với các thí nghiệm chủ yếu do học sinh đề xuất, sử dụng dụng cụ đơn giản Mỗi học sinh cần có một quyển vở thực hành để ghi chép theo cách và ngôn ngữ của riêng mình Qua các hoạt động này, phương pháp BTNB hướng tới mục tiêu giúp học sinh chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kỹ thuật, đồng thời củng cố ngôn ngữ viết và nói.

Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, việc tiếp cận một kiến thức cụ thể được thực hiện qua tiến trình giải quyết vấn đề, bao gồm các bước: đề xuất vấn đề, suy đoán giải pháp, khảo sát lý thuyết và/hoặc thực nghiệm, và cuối cùng là kiểm tra, vận dụng kết quả.

Đề xuất vấn đề bắt nguồn từ những kiến thức hiện có và nhiệm vụ cần giải quyết, từ đó phát sinh nhu cầu về một giải pháp mới chưa được biết đến Điều này dẫn đến việc hình thành câu hỏi, thể hiện mong muốn tìm tòi và xây dựng những cách giải quyết chưa tồn tại.

Để giải quyết vấn đề, việc suy đoán điểm xuất phát là cần thiết để tìm ra giải pháp hiệu quả Điều này có thể thực hiện bằng cách lựa chọn hoặc đề xuất một mô hình khả thi, giúp hướng tới mục tiêu cần đạt Ngoài ra, việc phỏng đoán các biến cố thực nghiệm có thể xảy ra cũng rất quan trọng, vì nó tạo điều kiện cho việc khảo sát thực nghiệm nhằm xây dựng những gì cần tìm.

Khảo sát lý thuyết và thực nghiệm là quá trình vận hành mô hình để rút ra kết luận logic về vấn đề cần nghiên cứu Điều này bao gồm việc thiết kế phương án thực nghiệm, tiến hành thí nghiệm, thu thập dữ liệu cần thiết và phân tích để đưa ra kết luận chính xác về đối tượng nghiên cứu.

Kiểm tra và vận dụng kết quả nghiên cứu là quá trình đánh giá tính chấp nhận được của các kết quả tìm được Điều này bao gồm việc sử dụng các kết quả để giải thích hoặc dự đoán các sự kiện, đồng thời xem xét sự phù hợp giữa lý thuyết và thực nghiệm.

Trong tiến trình dạy học cần khéo léo kết hợp các kĩ thuật dạy học như mô tả trong bảng sau:

Công não Thông tin phản hồi

Công não viết Tia chớp

Công não nặc danh Kỹ thuật 3 lần 3

Kỹ thuật phòng tranh „Bắn bia“

Tham vấn bằng phiếu Kỹ thuật ổ bi

Tham vấn bằng điểm Lược đồ tư duy

Tranh châm biếm Ủng hộ và phản đối

Kỹ thuật bể cá Điều cấm kỵ

Nhóm lắp ghép Chiếc ghế nóng

Tổ chức hoạt động dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" môn

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP "BÀN TAY NẶN BỘT" TRONG DẠY HỌC SINH HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC

Một số bài soạn theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" 139

Ngày đăng: 02/11/2021, 14:22

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

SƠ ĐỒ TIẾN TRÌNH TÌM TÒI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
SƠ ĐỒ TIẾN TRÌNH TÌM TÒI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC (Trang 14)
Bảng so sánh sau cho thấy vai trò của quan niệm ban đầu đối với GV và HS trong quá trình dạy học. - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Bảng so sánh sau cho thấy vai trò của quan niệm ban đầu đối với GV và HS trong quá trình dạy học (Trang 15)
HÌNH THỨC QUAN SÁT MỤC ĐÍCH - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
HÌNH THỨC QUAN SÁT MỤC ĐÍCH (Trang 24)
Bảng trên được sử dụng để HS làm quen với cách trình bày trong vở thực hành ban đầu khi mới tiếp cận với phương pháp BTNB - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Bảng tr ên được sử dụng để HS làm quen với cách trình bày trong vở thực hành ban đầu khi mới tiếp cận với phương pháp BTNB (Trang 69)
Bước 2: Hình thành câu hỏi của HS (biểu tượng ban đầu) - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
c 2: Hình thành câu hỏi của HS (biểu tượng ban đầu) (Trang 83)
Bảng dùng để theo dõi 2 cây trồng làm thí nghiệm - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Bảng d ùng để theo dõi 2 cây trồng làm thí nghiệm (Trang 89)
Hình vẽ thân biến - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Hình v ẽ thân biến (Trang 90)
Bảng phân chia các nhóm quả dựa vào đặc điểm của vỏ quả - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Bảng ph ân chia các nhóm quả dựa vào đặc điểm của vỏ quả (Trang 97)
Bảng nhóm và yêu cầu thảo luận - Phuong phap Ban tay nan bot trong day hoc Sinh hoc 20162017
Bảng nh óm và yêu cầu thảo luận (Trang 105)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w