1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn dương nghiễm mậu

97 113 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghệ Thuật Tự Sự Trong Truyện Ngắn Dương Nghiễm Mậu
Tác giả Trần Thị Lương
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Kha
Trường học Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Chuyên ngành Văn Học Việt Nam
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Bình Dương
Định dạng
Số trang 97
Dung lượng 3,37 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (7)
  • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
    • 2.1. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình trước 1975 (8)
    • 2.2. Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình sau năm 1975 (9)
  • 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu (14)
    • 3.1. Mục đích nghiên cứu (14)
    • 3.2. Đối tượng nghiên cứu (14)
    • 3.3. Phạm vi nghiên cứu (14)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (15)
  • 5. Đóng góp của đề tài (15)
  • 6. Cấu trúc luận văn (15)
  • Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ SỰ HỌC, TÁC GIẢ DƯƠNG NGHIỄM MẬU TRONG VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 - 1975 (17)
    • 1.1. Khái quát về tự sự học (17)
      • 1.1.1. Khái niệm tự sự (17)
      • 1.1.2. Khái niệm tự sự học (18)
    • 1.2. Đôi nét về văn xuôi miền Nam 1954 - 1975 (19)
      • 1.2.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội (19)
      • 1.2.2. Đội ngũ và khuynh hướng văn xuôi miền Nam (20)
    • 1.3. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Dương Nghiễm Mậu (23)
      • 1.3.1. Cuộc đời của nhà văn Dương Nghiễm Mậu (23)
      • 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác (26)
  • Chương 2. NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU (30)
    • 2.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu (30)
      • 2.1.1. Người kể chuyện toàn tri (31)
      • 2.1.2. Người kể chuyện ngoại hiện (36)
      • 2.1.3. Người kể chuyện đồng sự (39)
    • 2.2. Điểm nhìn trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu (43)
      • 2.2.1. Điểm nhìn của người kể chuyện (45)
      • 2.2.2. Điểm nhìn của nhân vật (49)
  • Chương 3.KẾT CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU (0)
    • 3.1. Kết cấu truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu (56)
      • 3.1.1. Kết cấu đồng hiện (57)
      • 3.1.2. Kết cấu lắp ghép (61)
      • 3.1.3. Kết cấu chuyện lồng trong chuyện (0)
    • 3.2. Ngôn ngữ truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu (65)
      • 3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính biểu tượng (65)
      • 3.2.2. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực - đời thường (70)
      • 3.2.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ (72)
      • 3.2.4. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm và độc thoại nội tâm (73)
    • 3.3. Giọng điệu trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu (75)
      • 3.3.1. Giọng chất vấn, hoài nghi (75)
      • 3.3.2. Giọng bình thản lạnh lùng (76)
  • KẾT LUẬN (79)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (81)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình trước 1975

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu đã thu hút sự chú ý đặc biệt từ giới phê bình văn học Trong bài viết "Vị trí con người dưới mắt Dương Nghiễm Mậu" trên Tạp chí Bách Khoa, nhà phê bình Đặng Tiến đã phân tích sâu sắc những khía cạnh nổi bật trong sáng tác của ông.

Đặng Tiến đã có những nhận xét sâu sắc về thế giới nhân vật trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, cho rằng tất cả nhân vật, từ chính đến phụ, đều mang nỗi cô đơn, mồ côi Ông nhấn mạnh rằng sự mồ côi không chỉ là mất cha mẹ, mà còn là sự thiếu thốn tình cảm và sự quan tâm từ người khác, khiến họ không có ai bên cạnh khi gặp khó khăn Qua đó, chúng ta nhận thấy những mảnh đời nhỏ bé và thân phận không may mắn trong xã hội mà Dương Nghiễm Mậu phản ánh.

Cuộc sống trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu thể hiện nỗi đau khổ sâu sắc Đặng Tiến đã có cái nhìn bao quát và đồng cảm, chỉ ra rằng nội dung xã hội và số phận con người trong văn của Dương Nghiễm Mậu phản ánh những dấu vết của chiến tranh tàn khốc và sự loạn lạc.

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Dương Nghiễm Mậu được mô tả bởi Tô Thùy Yên là một bức tranh bi thảm, với những nỗi đau đớn, tối tăm và nghèo khổ, nơi mà sự sống chỉ có thể nảy sinh từ những điều tồi tệ như bệnh tật và vô học, đôi khi xen lẫn những tiếng cười chua chát Số phận của các nhân vật trong truyện ngắn của ông phản ánh những thực tại khắc nghiệt của cuộc sống Tạ Tỵ cũng nhấn mạnh về thái độ sống và bản lĩnh của Dương Nghiễm Mậu, cho rằng khi con người không có quyền lựa chọn, họ chỉ còn cách chấp nhận số phận hoặc để mình trôi nổi như dòng nước nhỏ, cho đến khi biến mất vào đại dương.

Tỵ, 1971) Cùng nhấn mạnh đến cái nhìn nghệ thuật của Dương Nghiễm Mậu,

Du Tử Lê thể hiện sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với văn chương của Dương Nghiễm Mậu, cho rằng các tác phẩm của ông giống như ngọn hải đăng, đóng vai trò là ngọn đuốc soi rọi và chi phối toàn bộ sự nghiệp sáng tác của mình.

Trước năm 1975, bên cạnh các bài viết đánh giá về quá trình sáng tác, phong cách và tư tưởng của Dương Nghiễm Mậu, còn xuất hiện nhiều bài viết điểm sách mỗi khi tác phẩm của ông được xuất bản Một ví dụ tiêu biểu là bài viết “Đọc Ngã đạn của Dương Nghiễm Mậu: Thái độ của con người sống thực trong trò chơi: cuộc đời” của Nguyễn Nhật Duật, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến nội dung và ý nghĩa tác phẩm.

Khởi hành số 57, tháng 6/1970), “Quê người của Dương Nghiễm Mậu” (Nguyễn

Nhật Duật, Khởi hành số 71, tháng 9/1970), “Tuổi nước độc” (Tràng Thiên, Tạp chí Bách khoa số 68, năm 1959)…

Dương Nghiễm Mậu trong nghiên cứu, phê bình sau năm 1975

Trước năm 1975 và trong thập niên 80, các nhà phê bình Sài Gòn chủ yếu tập trung vào khía cạnh văn học của Dương Nghiễm Mậu, trong khi các nhà phê bình miền Bắc lại đánh giá văn học đô thị miền Nam một cách tiêu cực, coi đó là văn học của thực dân và Mỹ ngụy, phản động và đồi trụy, chỉ phục vụ cho xã hội tiêu thụ Quan điểm định kiến này vẫn còn tồn tại nặng nề cho đến đầu thập niên 80.

Năm 1975, Bộ Thông tin Văn hóa đã ban hành thông tri cấm lưu hành sách báo phản động Thông tri này nêu rõ rằng, theo chỉ đạo của Ban Tuyên huấn trung ương cục, Bộ Thông tin Văn hóa miền Nam đã thành lập một bộ phận chuyên trách để đọc và nghiên cứu các ấn phẩm của địch trong thời kỳ chiếm đóng, nhằm phân loại các tác phẩm phản động và đồi trụy, đặc biệt là sách dâm ô, để có biện pháp xử lý phù hợp.

Dương Nghiễm Mậu là một trong 12 tác giả có tác phẩm bị cấm lưu hành theo bảng kê sách báo, phản ánh những hậu quả nặng nề của chủ nghĩa thực dân và chiến tranh tại miền Nam Việt Nam Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương tại Đại hội IV năm 1976 chỉ ra rằng văn hóa nô dịch và lai căng đã được tạo ra bởi Mỹ-ngụy Trong nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ, Dương Nghiễm Mậu cùng với các tác giả như Thế Uyên, Nguyên Vũ, và Văn Quang được đánh giá là những cây bút chống Cộng thế hệ trẻ, không chỉ thể hiện tâm tư chống Cộng mà còn phản ánh những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống trong bối cảnh cụ thể Tác phẩm của họ mang chiều sâu và sự dằn vặt nội tâm, dù họ vẫn không chấp nhận Cộng sản Phong Hiền nhấn mạnh rằng Dương Nghiễm Mậu, một viên sĩ quan chiến tranh chính trị hung hăng, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phản ánh thực tế xã hội qua tác phẩm của mình.

Dương Nghiễm Mậu, trong tâm trạng rối bời, đã viết chống Cộng với sự tuyệt vọng, thể hiện sự cay đắng của cuộc đời mình Ông lựa chọn một "sự bất công không có tổ chức" để đối phó với "bất công có tổ chức", đồng thời gào thét lên nỗi tuyệt vọng cá nhân Năm 1989, Trần Trọng Đăng Đàn đã xếp Dương Nghiễm Mậu vào khuynh hướng phản động, cho rằng tác phẩm của ông chứa đựng sự pha tạp giữa các khuynh hướng kích dâm và văn chương tiêu thụ, nhằm phi chính trị hóa độc giả, bên cạnh những tác giả phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới như Trùng Dương và Minh Đức - Hoài Trinh.

Vào năm 1985, Mai Thảo cho ra mắt cuốn sách "Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam," trong đó ông viết về các tác giả cùng thời với mình từ góc nhìn gần gũi và sâu sắc Cuốn sách không chỉ phản ánh sinh hoạt văn chương mà còn khắc họa cuộc sống đời thường của nhiều nhà văn, nhà thơ một cách sinh động Trong bài viết "Con đường Dương Nghiễm Mậu," Mai Thảo mô tả Dương Nghiễm Mậu với hình ảnh một người có khuôn mặt nhắm mắt, thể hiện cái nhìn nội tâm và tâm hồn, cùng với nụ cười hóm hỉnh, tạo nên chân dung độc đáo của Mậu qua bức chân dung của Trần Cao Lĩnh.

Một trong những đổi mới quan trọng trong việc đánh giá văn học miền Nam, đặc biệt là Dương Nghiễm Mậu, là sự xuất hiện của tác giả trong Từ điển văn học bộ mới, do Thụy Khuê phụ trách và viết chi tiết Điều này thể hiện sự ghi nhận đổi mới đối với văn học đô thị miền Nam trước 1975 Thụy Khuê nhận định rằng Dương Nghiễm Mậu là một trong những nhà văn tiên phong từ bỏ lối viết hiện thực xã hội để thử nghiệm những phong cách sáng tác mới.

Dương Nghiễm Mậu là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế hệ 60-70 tại Việt Nam, nổi bật với việc khám phá sâu sắc bản chất cuộc sống con người trong bối cảnh chiến tranh và thân phận nhược tiểu Ông đã tạo ra một phong cách độc đáo trong cấu trúc truyện ngắn và truyện dài, thể hiện triết lý hiện sinh vô thần Trong tiểu luận "Dương Nghiễm Mậu, con người nội soi trong bạo lực chiến tranh và thân phận nhược tiểu", Thụy Khuê đã phân tích bút pháp tâm lý đặc sắc của tác giả, khẳng định sự gần gũi với triết học hiện sinh trong tác phẩm của ông Thụy Khuê nhấn mạnh rằng chưa có nhà văn Việt Nam nào khai thác chủ đề con người hư vô một cách triệt để như Dương Nghiễm Mậu.

Trong bối cảnh đổi mới,việc tái bản văn học miền Nam giai đoạn 1954-

Năm 1975, bộ phận văn học đô thị đã thu hút sự quan tâm từ một số đơn vị tư nhân Đặc biệt, vào năm 2007, sau khi Công ty Phương Nam xuất bản bốn tác phẩm nổi bật của Dương Nghiễm Mậu, bao gồm "Đôi mắt trên trời", "Cũng đành", "Tiếng sáo người em út" và "Nhan sắc", một cuộc tranh luận về tác giả này đã nổ ra Trong cuộc tranh luận, Vũ Hạnh và Lê Anh Đào đã phê phán các sáng tác của Dương Nghiễm Mậu, trong khi Phạm Xuân Nguyên và Chi Mai lại khẳng định sự đóng góp và vị thế của ông trong lịch sử văn học, cũng như sự tiếp nhận tích cực từ độc giả đương đại.

Năm 2013, Dương Nghiễm Mậu lần đầu tiên trở thành chủ đề chính trong số chuyên san Tạp chí Thư quán bản thảo (số 55), đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc tiếp nhận ông sau 1975 Số chuyên san này không chỉ kiểm kê sự nghiệp của Dương Nghiễm Mậu mà còn khôi phục bản gốc hoàn chỉnh của một số tác phẩm đã bị cắt xén trước đó Nó cũng giới thiệu những bút ký hiếm hoi về biến cố lịch sử miền Nam và đăng tải nhiều bài viết giàu trải nghiệm, mang tính hồi ức và nhận xét tinh tế từ các tác giả như Khuất Đẩu, Nguyễn Xuân Thiệp, Đinh Cường Đặc biệt, bài viết của Trần Văn Nam và Phạm Xuân Nguyên được chú ý, trong đó Trần Văn Nam phân tích giới hạn ba lối viết của Dương Nghiễm Mậu qua ba thời kỳ khác nhau.

Dương Nghiễm Mậu là một nhà văn nổi bật với ba lối viết truyện chính: hiện thực xã hội thời chiến, tra vấn hiện sinh phi lý và dòng ý thức Phạm Xuân Nguyên nhận định rằng văn chương của Dương Nghiễm Mậu thể hiện những trăn trở, lo âu và dằn vặt của con người trước những hoàn cảnh khắc nghiệt, từ đó buộc người đọc phải suy ngẫm về số phận và nhân tính Tác phẩm "Những chuột" mang tính biểu tượng mạnh mẽ, khiến người đọc từ hoảng sợ đến thức tỉnh trước sự bạo hành và cái ác Tập truyện "Nhan sắc" thể hiện sự lựa chọn của nhân vật trong bối cảnh lịch sử, phản ánh những day dứt của trí thức về ý nghĩa cuộc sống Đọc Dương Nghiễm Mậu, độc giả sẽ khám phá một lối viết hiện đại, sâu sắc, đi vào thân phận con người trong thế giới đầy bất trắc và phi lý, yêu cầu một cái nhìn nội quan để hiểu thấu những thông điệp của tác giả.

Trên đây luận văn đã điểm lại quá trình tiếp nhận Dương Nghiễm Mậu qua hai giai đoạn: trước và sau 1975 Có thể nhận thấy mấy điểm sau:

Trước năm 1975, các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu đã thu hút sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu Tại miền Bắc, việc phân tích văn học miền Nam chủ yếu được thực hiện từ lập trường chính trị, dẫn đến một xu hướng nhận thức đặc trưng.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét những đánh giá và chỉ trích đối với văn học đô thị, đặc biệt là tại miền Nam Cách đọc văn học ở đây không chỉ tập trung vào hình thức mà còn chú trọng đến vốn sống, nhân sinh quan, tư tưởng hiện sinh, thế giới nhân vật, đề tài, bút pháp và lối viết của Dương Nghiễm Mậu, từ đó giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm của ông.

Sau năm 1975, nhiều công trình và bài viết vẫn thể hiện cách tiếp cận văn học Dương Nghiễm Mậu từ góc độ chính trị, dẫn đến những phê bình cứng nhắc và máy móc Sự đánh giá này thường khắt khe và cực đoan đối với văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954, thiếu sự linh hoạt và sâu sắc trong việc hiểu rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Từ đầu những năm 2000, việc tái bản tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu đã thu hút sự chú ý, với những đánh giá mang tính học thuật và thể hiện tinh thần hòa giải, nhân văn, khách quan và cởi mở, đánh dấu sự đổi mới trong cách tiếp cận văn học.

Mặc dù đã có những đổi mới trong việc đánh giá Dương Nghiễm Mậu, hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào áp dụng lý thuyết hiện đại, ngoại trừ triết học hiện sinh, để đánh giá một cách khách quan và có cơ sở khoa học về các tác phẩm của ông Mặc dù một số vấn đề như người kể chuyện, nhân vật và phong cách viết đã được đề cập, nhưng việc làm sáng tỏ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu vẫn còn là một khoảng trống, cần có những nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống hơn.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

những nét đặc trưng trong nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu như: người kể chuyện, điểm nhìn nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ.

Đối tượng nghiên cứu

Truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu nổi bật với việc khảo sát các khía cạnh tự sự như người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phong cách độc đáo của tác phẩm, tạo nên sự hấp dẫn và chiều sâu cho các câu chuyện của ông.

Phạm vi nghiên cứu

khổ của luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu 4 tập truyện ngắn:

- Cũng đành (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)

- Đôi mắt trên trời (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)

- Tiếng sáo người em út (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)

- Nhan sắc (Nhà xuất bản Văn nghệ, 2007)

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, luận văn sử dụng hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu sau đây:

Luận văn này áp dụng lý thuyết tự sự để khảo sát và đánh giá các yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ, nhằm khám phá ý nghĩa nhân sinh và sự thức tỉnh nhân tính trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu Qua đó, bài viết làm nổi bật những đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn của tác giả, phản ánh những biểu hiện chất nhân văn trong việc xây dựng hình tượng.

Phương pháp lịch sử- xã hội được vận dụng để xem xét truyện ngắn của

Dương Nghiễm Mậu phản ánh bối cảnh lịch sử và xã hội, cũng như đời sống văn học và văn hóa trong thời kỳ nó ra đời, giúp người đọc có cái nhìn cụ thể và lịch sử khi đánh giá giá trị của các tác phẩm văn học.

Phương pháp loại hình hỗ trợ tác giả luận văn trong việc triển khai đề tài, giúp tiếp cận và lý giải tư duy nghệ thuật của nhà văn thông qua thể loại truyện ngắn.

Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết luận văn đã áp dụng phương pháp thống kê phân loại cùng với các thao tác so sánh, đối chiếu và phân tích - tổng hợp, nhằm hiểu sâu sắc hơn về nghệ thuật tự sự trong các tác phẩm truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu.

Đóng góp của đề tài

Với đề tài Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Dương Nghiễm

Mậu thực hiện đề tài nhằm đóng góp ý kiến thẩm định thành công về nghệ thuật tự sự, từ đó làm nổi bật phong cách sáng tác trong truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu trong bối cảnh văn học Việt Nam hiện đại.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1 Khái quát về tự sự học, tác giả Dương Nghiễm Mậu trong văn học miền Nam Việt Nam 1954 - 1975

Chương 2 Người kể chuyện và điểm nhìntrong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu

Chương 3 Kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu

KHÁI QUÁT VỀ TỰ SỰ HỌC, TÁC GIẢ DƯƠNG NGHIỄM MẬU TRONG VĂN HỌC MIỀN NAM VIỆT NAM 1954 - 1975

Khái quát về tự sự học

Tự sự là khái niệm cơ bản trong tự sự học, có nghĩa là kể chuyện, phản ánh đời sống một cách khách quan Theo từ điển thuật ngữ văn học, tự sự tái hiện thực tế qua các sự kiện và hành vi của con người, tạo thành một câu chuyện có cốt truyện và hệ thống nhân vật phong phú hơn so với thể loại trữ tình và kịch Cách hiểu này là truyền thống và phổ biến, nhưng trong lý luận thực tiễn, tự sự và các khái niệm liên quan được diễn giải đa dạng.

Nhà lý luận G Genette trong tác phẩm Tân diễn ngôn tự sự đã phân biệt ba khái niệm quan trọng: câu chuyện, tự sự và trần thuật Câu chuyện là toàn bộ sự kiện được kể, tự sự là diễn ngôn về câu chuyện, còn trần thuật là hành vi tạo ra diễn ngôn đó Hành vi trần thuật là điều kiện cần thiết để chúng ta biết đến câu chuyện và diễn ngôn tự sự Tự sự là kết quả của quá trình trần thuật, đóng vai trò quan trọng trong giao tiếp hàng ngày, giúp chúng ta hiểu và giải thích các sự vật hiện tượng J.H Miller cũng nhấn mạnh rằng tự sự là cách sắp xếp các sự việc theo trật tự để tạo ra ý nghĩa cho các sự kiện và biến cố.

Tự sự đóng vai trò quan trọng trong việc con người hiểu biết thế giới xung quanh, theo J Culler Dù chúng ta nhìn nhận cuộc sống như một chuỗi sự kiện liên tục hướng đến mục tiêu hay chỉ đơn giản là kể lại những gì đã xảy ra, tự sự vẫn là phương thức chủ yếu giúp chúng ta nắm bắt và diễn giải các hiện tượng trong cuộc sống Nó chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa của nhân loại.

1.1.2 Khái niệm tự sự học

Trong luận văn này, chúng tôi tập trung vào tự sự nghệ thuật qua ngôn từ, không đề cập đến các lĩnh vực khác như tôn giáo hay chính trị Khái niệm tự sự học (narratology) được T Todorov giới thiệu trong cuốn "Ngữ pháp câu chuyện mười ngày" năm 1969, nơi ông định nghĩa tự sự học là lý thuyết về cấu trúc của tự sự Theo Todorov, nghiên cứu tự sự cần chia hiện tượng này thành các bộ phận cấu thành và xác định chức năng cùng mối quan hệ giữa chúng (Trần Đình Sử, 2004) Mieke Bal, một nhà nghiên cứu Hà Lan, cũng có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này.

Tự sự học, được định nghĩa trong cuốn Dẫn luận lí thuyết tự sự xuất bản năm 1985 và bổ sung năm 1997, là lý thuyết nghiên cứu các sản phẩm văn hóa như trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, sự kiện và kể chuyện (Trần Đình Sử, 2018) G.Prince mô tả tự sự học là khoa học nghiên cứu hình thức và chức năng của tự sự, trong khi Genette phân chia nghiên cứu thành hai nghĩa: nghĩa rộng tập trung vào chủ đề và nội dung tự sự, và nghĩa hẹp tập trung vào hình thức và các phương thức tự sự C.Bremond trong Logic của các khả năng tự sự xem xét đối tượng của tự sự học là các thủ pháp và quy luật chi phối các sự kiện được kể.

Tự sự học, hay còn gọi là trần thuật học, là một ngành nghiên cứu phê bình văn học tập trung vào tác phẩm và văn bản tự sự nghệ thuật Ngành này nghiên cứu cơ chế tổ chức của văn bản tự sự và cách thức tạo nghĩa cho các sự kiện Tự sự học phân tích nhiều yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn, thời gian, không gian tự sự, giọng điệu và kết cấu.

Cách hiểu trên đây về tự sự học được luận văn sử dụng để triển khai vấn đề nghiên cứu.

Đôi nét về văn xuôi miền Nam 1954 - 1975

1.2.1 Bối cảnh văn hóa - xã hội

Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, tạo nên ranh giới địa lý và văn hóa xã hội rõ rệt Miền Bắc theo đuổi xây dựng xã hội chủ nghĩa, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mác - Lê nin, trong khi miền Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, với văn học chịu tác động từ các tư tưởng Âu - Mỹ Nguyễn Đình Lê đã có những đánh giá sâu sắc về sự biến chuyển xã hội miền Nam sau năm 1954.

Văn hóa Hoa Kỳ đã du nhập vào miền Nam Việt Nam cùng với súng đạn và tiền bạc, chủ yếu qua hai con đường: sách báo, phim ảnh và thông tin từ chính phủ Mỹ, cùng với sự hiện diện của khoảng 3.5 triệu thanh niên Mỹ trong quân đội Sự ảnh hưởng này đã tác động đến cộng đồng miền Nam theo hai chiều hướng: một mặt, nó làm xa rời văn hóa truyền thống của người Việt, nhưng mặt khác, nó mở rộng hiểu biết về cuộc sống đa dạng hơn.

So với miền Bắc, miền Nam trải qua nhiều biến động chính trị và xã hội phức tạp Sau Hiệp định Giơnevơ, hàng triệu người miền Bắc, chủ yếu là gia đình tư sản, địa chủ, trí thức và người Công giáo, di cư vào miền Nam Chiến tranh giữa hai miền trở nên khốc liệt hơn, với sự can thiệp sâu sắc của Mỹ, dẫn đến tình hình chính trị miền Nam luôn bất ổn và các cuộc đảo chính liên tục xảy ra.

Chế độ Ngô Đình Diệm và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ để chống Cộng, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa Văn hóa Mỹ và phương Tây đã thâm nhập vào miền Nam qua nhiều hình thức, ảnh hưởng đến tư duy, cách nhìn và lối sống của người dân Theo Võ Phiến, sự hiện diện của người Mỹ mang theo tiền bạc, lối sống và văn hóa của họ, tạo ra những thay đổi sâu sắc trong xã hội miền Nam.

Trong giai đoạn 1954 - 1975, miền Nam Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa ngoại lai, đặc biệt là từ sự xâm nhập của phim cao bồi, nhạc jazz và các tạp chí khiêu dâm Playboy, như Nguyễn Hiến Lê đã chỉ ra Sự hiện diện của lính Mỹ đã tạo cơ hội cho người dân tiếp xúc trực tiếp với văn hóa Mỹ, từ đó nhận diện được những mặt trái của nền văn minh này Hệ quả là tâm lý bi quan, chán nản và lo lắng gia tăng do chiến tranh, trong khi văn hóa ngoại lai thúc đẩy lối sống sùng ngoại, vong bản và hưởng thụ trụy lạc trong đời sống đô thị.

Chủ nghĩa hiện sinh, một trong những trào lưu tư tưởng phương Tây, đã có ảnh hưởng sâu sắc tại miền Nam Việt Nam từ cuối những năm 50, đặc biệt sau khi chế độ Sài Gòn gặp nhiều biến động từ năm 1964 Sự lan rộng của triết học này được thúc đẩy bởi bối cảnh chiến tranh tàn khốc, các cuộc đảo chính liên tiếp và sự bất ổn xã hội, khiến con người rơi vào trạng thái lo âu, mất niềm tin và tuyệt vọng Tâm lý này đã tạo điều kiện cho triết học hiện sinh thấm nhuần vào đời sống và tư duy của trí thức miền Nam, không chỉ ảnh hưởng đến lối sống mà còn tác động mạnh mẽ đến các hoạt động văn học như dịch thuật, nghiên cứu và sáng tác.

1.2.2 Đội ngũ và khuynh hướng văn xuôi miền Nam

Theo thống kê của Doãn Quốc Sĩ trong cuốn Văn học và tiểu thuyết, đến năm 1973, miền Nam có khoảng 50 tác giả văn xuôi Tuy nhiên, theo Cao Huy Khanh trong Nhà văn hiện đại, đến năm 1974, số lượng tác giả văn xuôi miền Nam đã tăng lên 200, trong đó có khoảng 60 tác giả có chất lượng Nhìn lại từ góc độ một thập kỷ sau, Võ Phiến trong Hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 đã đưa ra kết quả kiểm kê gần giống với quan sát của Cao Huy Khanh, với tổng số 267 tác giả.

Trong cuốn "Tổng quan văn học miền Nam" của Võ Phiến, hơn hai phần ba tác giả được đề cập là những nhà văn viết văn xuôi Điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của thể loại văn xuôi trong văn học miền Nam giai đoạn này.

Giai đoạn 1954 - 1975 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học miền Nam với nhiều nhà văn “thực sự có chất lượng” như Cao Huy Khanh đã nhận định Đội ngũ đông đảo này không chỉ bao gồm các tác giả đã sống và viết trước 1954 mà còn được bổ sung bởi những nhà văn di cư từ miền Bắc và miền Trung Những tên tuổi tiêu biểu như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy, và nhiều tác giả khác đã góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học khu vực này.

Văn xuôi miền Nam thập niên 50, 60 không có nhiều cách tân đột phá và thiếu những "đàn anh" nổi bật, với các nhà văn truyền thống như Bình Nguyên Lộc được độc giả yêu thích Tuy nhiên, từ giữa thập niên 60 trở đi, văn học miền Nam chuyển mình với sự xuất hiện của thế hệ trẻ, mang đến những thay đổi quan trọng về lập trường chính trị, quan niệm sáng tác và đề tài Văn chương thời kỳ này bị ám ảnh bởi chiến tranh và các vấn đề xung quanh nó, đồng thời mở rộng sang các đề tài hiện sinh, chống Cộng, chống chiến tranh và chỉ trích chính quyền Sài Gòn.

Các hoạt động văn xuôi ở miền Nam có thể được phân chia thành nhiều nhóm văn học khác nhau, theo đánh giá của nhà phê bình Cao Huy Khanh trong tổng kết 15 năm văn xuôi miền Nam Ông phân loại văn xuôi đô thị thành các nhóm gắn liền với các diễn đàn báo chí và cơ sở xuất bản cụ thể Nhóm Người Việt (Sáng tạo) bao gồm những tác giả nổi bật như Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, và Nguyễn Sĩ Tế, trong khi nhóm Quan điểm có sự góp mặt của Vũ.

Khắc Khoan, Mặc Đỗ…;nhóm Văn hóa ngày nay có Nhất Linh, Nguyễn Thị

Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Nhật Tiến…; nhóm Nhân loại gồm Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy…; nhóm Bách khoa gồm Võ Phiến, Vũ

Hạnh, Võ Hồng, Phan Du…; nhóm Khởi hành có Viên Linh, Dương Nghiễm

Mậu, Cung Tích Biền…; nhóm Văn có Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Ngụy Ngữ…; nhóm Đất nước (Trình bầy, Đối diện) có Thế

Nguyên, Thế Vũ, Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn cùng nhóm Tuổi Ngọc với Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tuyến Luyện thể hiện sự đa dạng trong các nhóm bút Sự phong phú này không chỉ về phong cách và lối viết mà còn phản ánh sự đa dạng trong báo chí và xuất bản văn học.

Văn xuôi miền Nam có thể được phân chia thành nhiều khuynh hướng khác nhau, trong đó một số nhà nghiên cứu chia thành hai nhóm chính: văn học tiến bộ, yêu nước cách mạng tại vùng địch tạm chiếm và văn học phản động, đồi trụy, chống Cộng phục vụ xã hội tiêu thụ ở đô thị Cách phân chia này phản ánh tính lịch sử và quan điểm chính trị của người nghiên cứu Theo Nguyễn Thị Thu Trang, nếu dựa vào giá trị văn hóa truyền thống, văn xuôi đô thị miền Nam có thể được chia thành hai khuynh hướng: một là khẳng định các giá trị văn hóa truyền thống và hai là xa rời các giá trị đó, chú trọng vào những yếu tố hiện đại Khuynh hướng khẳng định văn hóa truyền thống được thể hiện qua các tác giả như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, và Võ Hồng.

Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Bằng, và Nhật Tiến thể hiện sự trở về với dân tộc và quá khứ, nhấn mạnh giá trị truyền thống và đấu tranh chống lại các yếu tố ngoại lai và thực dân Ngược lại, các tác giả như Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, và Viên Linh lại có xu hướng xa rời văn hóa truyền thống, thể hiện cái nhìn phủ định và phản ứng chống lại di sản văn hóa, đồng thời bày tỏ sự bi quan về thực tại.

Văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 phản ánh ba khuynh hướng chính, trong đó hai khuynh hướng mang tính hiện đại và gắn liền với ảnh hưởng phương Tây, còn một khuynh hướng thể hiện sự đối kháng chính trị Đầu tiên, các tác phẩm chịu ảnh hưởng của phân tâm học, điển hình là những sáng tác của Thanh Tâm Tuyền như "Mù khơi", Nguyễn Thị Hoàng với "Tuổi học trò", "Ngày qua bóng tối", "Vòng tay học trò", "Về trong sương mù", "Vào nơi gió cát", Nguyễn Thị Thụy Vũ qua "Khung rêu", "Mèo đêm", "Thú hoang", và Túy Hồng với "Tóc mai nghìn năm", "Vết thương dậy thì", "Thở dài".

Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Dương Nghiễm Mậu

1.3.1 Cuộc đời của nhà văn Dương Nghiễm Mậu

Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 – 11- 1936 tại làng Mậu Hòa, huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông nay thuộc

Hà Nội; mất ngày 02 – 08 – 2016 tại Thành phố Hồ Chí Minh Ông được coi là

Dương Nghiễm Mậu, một trong những nhà văn nổi tiếng miền Nam Việt Nam với bút hiệu Hương Việt Hương, đã sống và học tập tại Hà Nội từ 12 đến 18 tuổi Ông bắt đầu sự nghiệp viết lách với tác phẩm đầu tay là đoản văn được đăng trên trang văn nghệ của báo chuyên nghiệp Sau khi di cư vào Nam vào năm 1954, ông tiếp tục sáng tác nhiều đoản văn, truyện ngắn và truyện dài từ năm 1957 Năm 1962, ông cùng Lý Hoàng Phong chủ trương Tạp chí Văn nghệ và tích cực cộng tác với nhiều báo khác.

Tia sáng, Thế kỷ, Sáng tạo, Giữ thơm quê mẹ, Giao điểm, Bách khoa Ngoài ra,

Dương Nghiễm Mậu là một nhà văn nổi bật, từng chủ trương Nhà xuất bản Văn Xã và nhận giải thưởng văn chương toàn quốc miền Nam năm 1966 với các tác phẩm nổi bật như tập truyện "Cũng đành" và truyện dài "Gia tài người mẹ" Năm 1966, ông gia nhập quân đội Việt Nam Cộng hòa và làm phóng viên mặt trận vào năm 1967 Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị bắt đi tù cải tạo, và đến năm 1977, ông chuyển sang vẽ tranh sơn mài, kiếm sống bằng nghề này tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhà văn Dương Nghiễm Mậu di cư vào Nam sau Hiệp định Giơnevơ, sống trong bối cảnh xã hội miền Nam đầy bất ổn do chiến tranh và sự can thiệp của Mỹ Chiến tranh đã tàn phá đồng ruộng và làng mạc, khiến nhiều nơi trở thành đất hoang Cuộc sống của quân nhân Mỹ với nhu cầu giải trí đã tạo ra các tụ điểm như quán bar và phòng trà, kéo theo các tệ nạn xã hội Đồng thời, văn hóa phương Tây du nhập ồ ạt vào miền Nam, làm cho xã hội thêm phức tạp Giai đoạn này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và cảm quan nghệ thuật của Dương Nghiễm Mậu, dẫn đến sự đổi mới trong cách viết của ông Tạ Tỵ cũng đã nhận xét về cách tiếp cận hiện thực xã hội của nhà văn.

Sau năm 1954, Dương Nghiễm Mậu nhận thức rằng ông không có quyền lựa chọn con đường của mình, nhưng vẫn không muốn trở thành một dòng nước nhỏ bé Ông chấp nhận sự hiện diện của bản thân trong cuộc sống với một phong cách độc đáo Tác phẩm đầu tay của ông, "Cũng đành," thể hiện rõ ràng quan điểm này.

Xuất bản năm 1963, tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu phản ánh sâu sắc thân phận con người trong một xã hội bị chiến tranh tàn phá Tất cả các nhân vật trong tác phẩm đều sống trong nghèo túng, và xã hội mà họ sống là nơi còn lại những vết tích của sự rạn vỡ, thể hiện qua thành phố, cơ thể và tâm hồn Trong bối cảnh con người lạc lõng, mối quan hệ giữa họ trở nên căng thẳng, thậm chí xem nhau như kẻ thù Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, đời sống chính trị miền Nam trở nên phức tạp hơn, tạo điều kiện cho chủ nghĩa hiện sinh phát triển Huỳnh Như Phương đã giới thiệu về chủ nghĩa này trong bài viết của mình, góp phần làm rõ những khuynh hướng và trào lưu văn học thời kỳ đó.

Trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt ở miền Nam, văn hóa phương Tây, đặc biệt là triết học và văn học hiện sinh, đã ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội qua giáo dục, xuất bản và báo chí Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ tác động đến văn học nghệ thuật mà còn định hình quan niệm sống và lối sống của giới trẻ, dẫn đến những phản ứng như "nổi loạn" và "tận hưởng cuộc đời" Một số nhà văn, như Dương Nghiễm Mậu, đã thể hiện sự thay đổi trong tư tưởng và dấn thân trong sáng tác, dám nói lên tiếng nói cá nhân và sử dụng hình tượng nhân vật để thể hiện quan điểm viết của mình Điều này khẳng định vị thế của ông trong văn học miền Nam.

20 vững chắc một chỗ đứng riêng trong giới văn chương miền Nam của Dương Nghiễm Mậu

Dương Nghiễm Mậu là một tác giả nổi bật với hơn 20 tác phẩm phong phú, bao gồm truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết Lối viết độc đáo và không lặp lại của ông đã tạo nên một vị trí riêng biệt trong văn học Một số tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông bao gồm các truyện ngắn như "Cũng đành" (1963), "Đêm" (1965), "Đôi mắt trên trời" (1966), "Sợi tóc tìm thấy" (1966), và "Nhan sắc".

1966), Kinh cầu nguyện (Văn xã, 1967), Ngã đạn (Tân văn, 1970) Bên cạnh truyện ngắn, Dương Nghiễm Mậu có những truyện dài được độc giả chú ý như:

Những tác phẩm nổi bật của tác giả bao gồm "Gia tài người mẹ" (Tạp chí Văn nghệ, 1964), "Đêm tóc rối" (Thời mới, 1965), "Tuổi nước độc" (Văn, 1966), "Phấn đấu" (Văn, 1966), "Ngày lạ mặt" (Giao điểm, 1967), và "Gào thét" (Văn uyển, 1969) Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến các tác phẩm khác như "Địa ngục có thật" (Bút ký, Văn xã, 1969) và "Quê người" (Văn xã, 1970).

Nhìn lại quá trình sáng tác, sự nghiệp sáng tác của Dương Nghiễm Mậu chúng tôi nhận thấy có mấy điểm đáng chú ý sau:

Dương Nghiễm Mậu là một trong những nhà văn tiêu biểu của miền Nam Việt Nam, nổi bật từ sớm và nhanh chóng khẳng định phong cách riêng Ông thuộc thế hệ di cư vào miền Nam và có giai đoạn sáng tác phong phú nhất từ 1966 đến 1974 Những tác phẩm của ông trong thời kỳ này không chỉ thể hiện quan điểm nghệ thuật độc đáo mà còn ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học miền Nam, khẳng định vị trí và đóng góp của ông cho văn xuôi thời bấy giờ.

Dương Nghiễm Mậu chia sẻ quan niệm sáng tác trên Văn nghệ số 21, nhấn mạnh rằng nhiều tác giả thường trải qua giai đoạn viết truyện ngắn trước khi chuyển sang truyện dài Ông cho rằng việc viết truyện ngắn là một thử thách lớn, yêu cầu sự nén chặt ý tưởng, cũng như sự chuẩn bị và quá trình viết công phu, tập trung và liền mạch một cách tự nhiên.

Tôi thường chuẩn bị sẵn một số câu chuyện trong đầu và khi có thời gian, tôi sẽ viết chúng ra Tôi thích viết liền mạch từ đầu đến cuối mà không theo cách làm việc thủ công Đôi khi, những ý tưởng đến bất ngờ khiến tôi không thể không viết.

Kỹ thuật viết là yếu tố phụ thuộc vào nội dung và yêu cầu của tác giả Dương Nghiễm Mậu nhấn mạnh rằng ông chỉ có thể viết tốt khi kể về những câu chuyện thực tế, vì thực tế cuộc sống mà ông chứng kiến thường khốc liệt hơn bất kỳ trí tưởng tượng nào Dù nhiều lần cảm thấy bất lực trong việc diễn tả cuộc sống và suy nghĩ, ông vẫn cảm thấy cần phải viết, mặc dù đôi khi muốn từ bỏ cây bút.

Dương Nghiễm Mậu là một nhà văn sống và sáng tác trong bối cảnh văn hóa xã hội miền Nam đầy biến động Ông không chỉ là nhân chứng của thời kỳ chiến tranh mà còn là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những thay đổi văn hóa xã hội Đồng thời, ông cũng đóng góp vào việc sáng tạo những tác phẩm văn học phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã hội.

Dương Nghiễm Mậu, một nhà văn gắn bó sâu sắc với thời cuộc và đời sống, thể hiện những trăn trở về thân phận con người, đặc biệt là tuổi trẻ trong bối cảnh xã hội bất công và thối nát Tạ Tỵ đã chỉ ra rằng việc Mậu đặt vấn đề thân phận con người không phải là ngẫu nhiên, mà phản ánh môi trường sống phân hóa và cuộc chiến khốc liệt, cùng với ảnh hưởng từ tư tưởng của Sartre và Camus Mậu nhận thức rằng thân phận của mình đã bị định đoạt, dẫn đến sự chán nản từ phẫn uất Thụy Khuê cũng nhấn mạnh rằng mỗi nhân vật trong tác phẩm của Mậu đều là những trường hợp tự nhận thức về bản thân, sống trong thế giới đau đớn và bi đát của cuộc sống hiện sinh, phi lý.

Dương Nghiễm Mậu là một nhà văn hiện sinh nổi bật, với khả năng phân tích tâm lý sâu sắc Tác phẩm của ông không chỉ đơn thuần miêu tả bề ngoài của xã hội và nhân vật, mà còn khám phá sâu vào đời sống nội tâm của họ Như Tạ Tỵ đã nhận xét, “Dương Nghiễm Mậu thường tìm hình bóng mình qua kẻ khác, cũng như dùng kẻ khác để nói về mình,” điều này cho thấy cách tiếp cận độc đáo của ông trong việc thể hiện bản thân qua những nhân vật trong tác phẩm.

NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU

Người kể chuyện trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu

Người kể chuyện là một khía cạnh quan trọng trong tự sự học, được định nghĩa là hình tượng ước lệ của người trần thuật trong tác phẩm văn học Hình tượng này xuất hiện khi câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể, có thể là chính tác giả hoặc một nhân vật do tác giả sáng tạo Người kể chuyện không nhất thiết phải đồng nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời thực Một tác phẩm văn học có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện, tạo nên sự đa dạng và chiều sâu cho câu chuyện.

Người kể chuyện đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc tự sự, là nhân vật trung tâm truyền tải câu chuyện đến người đọc Toàn bộ văn bản tự sự được hình thành từ góc nhìn và giọng điệu của người kể chuyện, giúp người đọc cảm nhận được các sự kiện đã, đang hoặc sẽ xảy ra Mỗi tác phẩm tự sự đều mang dấu ấn riêng của người kể, tạo nên sự kết nối giữa văn bản và độc giả.

Trong thế giới của “tôi”, cá tính và giới tính đóng vai trò quan trọng, với những câu chuyện được kể qua nhiều lăng kính khác nhau Có những câu chuyện chỉ được nghe thấy mà không biết ai là người kể, và đôi khi, người kể hoàn toàn vắng mặt, tạo nên cảm giác như “câu chuyện tự kể” Điều này cho thấy sự đa dạng và phong phú trong việc truyền tải thông điệp và cảm xúc trong văn học.

N.Tamarchenco viết: Người kể chuyện là chủ thể lời nói và là người đại diện cho điểm nhìn trong tác phẩm văn học người kể chuyện được khách quan hóa và được tách biệt rõ rệt với tác giả cả về mặt không gian, lẫn bình diện tu từ mà cụ thể nó được gắn với một hoàn cảnh văn hóa - xã hội và ngôn ngữ cụ thể để từ vị thế ấy nó mô tả các nhân vật khác (Trần Đình Sử, 2018)

Tz Todorov nhấn mạnh rằng người kể chuyện đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng thế giới tưởng tượng, vì không thể có trần thuật thiếu vắng họ Người kể chuyện không chỉ đơn thuần là một nhân vật trong câu chuyện, mà còn là người dẫn dắt, kết hợp cả vai trò của nhân vật và người kể Điều này tạo nên một vị thế đặc biệt cho nhân vật trong tác phẩm, giúp nâng cao giá trị và ý nghĩa của câu chuyện được kể.

Pospelov nhấn mạnh vai trò của người kể chuyện như một cầu nối giữa các hiện tượng được miêu tả và độc giả Người kể chuyện không chỉ là nhân chứng mà còn là người giải thích các sự kiện diễn ra, giúp độc giả hiểu rõ hơn về nội dung.

Theo W.K Sayser, người kể chuyện là một khái niệm mang tính hình thức, đại diện cho toàn bộ tác phẩm văn học Trong nghệ thuật kể, người kể chuyện không nhất thiết phải là tác giả, mà là một vai trò mà tác giả sáng tạo và chấp nhận Điều này cho thấy rằng, trong nghệ thuật kể, người kể chuyện luôn là một nhân vật do tác giả tưởng tượng ra, không phụ thuộc vào danh tiếng hay sự nổi bật của tác giả.

Dựa trên các ý kiến của các nhà lý luận về tự sự học, tác giả luận văn đã xác định khái niệm người kể chuyện trong nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu Trước hết, người kể chuyện được coi là một sản phẩm sáng tạo, không đồng nhất với tác giả và có thể có nhiều người kể chuyện trong một tác phẩm Thứ hai, người kể chuyện thực hiện chức năng truyền đạt thông tin và bình luận Cuối cùng, người kể chuyện có thể can dự hoặc không can dự vào diễn biến của câu chuyện Qua việc khảo sát các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, chúng tôi nhận thấy nhà văn đã sử dụng nhiều ngôi kể khác nhau, bao gồm người kể toàn tri, người kể đồng hiện và người kể ngoại hiện.

2.1.1 Người kể chuyện toàn tri

Người kể chuyện toàn tri là một nhân vật có khả năng hiểu biết sâu sắc về mọi khía cạnh của câu chuyện, bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai của các nhân vật Họ nắm rõ cả nội tâm lẫn ngoại hình của từng nhân vật, cùng với các mối quan hệ giữa họ Với vai trò như một "vị chúa tể", người kể chuyện toàn tri không chỉ dàn dựng mà còn dẫn dắt câu chuyện một cách mạch lạc và hấp dẫn.

Truyện "Tiếng sáo người em út" kể về hai anh em đối diện với cái chết của người cha Khi người anh trở về sau thời gian xa cách, tiếng sáo của người em vang lên, mang đến niềm vui và nỗi buồn sâu lắng Cuộc trò chuyện giữa họ xoay quanh những kỷ niệm xưa, cái chết của người em gái út và ông nội Người anh bất ngờ và bàng hoàng khi nhận ra cha mình đã qua đời.

“Người anh lặng đi đôi mắt mở lớn nhìn người em không chớp:

- Cha đi tối hôm qua

Người anh vội vàng chạy lên nhà trên, tiếng bước chân và cửa va đập vang vọng, theo sau là tiếng khóc nức nở Người em ra hiên, cầm cây sáo trúc và thổi một khúc nhạc vui tươi Khi người anh bước ra, nước mắt anh rơi đầy Người em ngừng thổi sáo, và người anh nói với giọng khô khốc.

- Cha chết mà em không buồn sao?

"Cha già thì chết, tại sao lại buồn? Anh khóc cha có sống lại không?" (Dương Nghiễm Mậu, 2007) Câu chuyện khắc họa nỗi đau của người con khi trở về nhà và thấy cha đã mất, thể hiện qua "tiếng khóc oằn lên" và cảm giác bất hạnh Tuy nhiên, nhân vật em út không chỉ là hình ảnh đơn giản của sự thiếu sót trong đạo hiếu, mà còn là biểu tượng cho cách sống và nhìn đời của người cha Em đã thổi sáo tiễn đưa cha về thế giới bên kia, với khúc nhạc hân hoan giúp vơi bớt nỗi buồn cho người ở lại Dù có vẻ ngoài lạnh lùng, em út thực sự là người con hiếu thảo, gắn bó với quê hương và tiếp nối chí hướng của cha: “Anh nghĩ em có thể bỏ nơi này mà đi được sao?”

“Nhà ai sẽ coi, ruộng ai sẽ cày khi mọi người đều rời bỏ?” (Dương Nghiễm Mậu, 2007) Sống cùng cha và chứng kiến nhiều biến cố, cái chết của người thân, người em đã trưởng thành và suy nghĩ trở nên sâu sắc hơn Người em út như hình bóng của người cha đã khuất: “Em nghĩ anh không phải là người sống trong nhà, và giờ cha đã mất Từ khi em lớn lên, có mấy khi anh ở nhà Chị bé đã chết, bao nhiêu người đã ra đi, bao nhiêu thay đổi.”

Trong tác phẩm "Tiếng sáo người em út" của Dương Nghiễm Mậu, nhân vật người em út không chỉ là một đứa trẻ mà còn thể hiện sự trưởng thành vượt bậc qua những cử chỉ và lời nói của mình Thái độ của người em đối với cái chết của cha khác biệt với cách mà người đời thường phản ứng, cho thấy một triết lý sống sâu sắc và chín chắn Hành động của người em không chỉ phản ánh nỗi đau mà còn bộc lộ quan niệm nhân sinh của một người kể chuyện thông thái, làm nổi bật sự phức tạp trong mối quan hệ gia đình và cái nhìn về cuộc sống.

Trong truyện "Những chuột", lão Chệt sống hòa nhập với lũ chuột, thể hiện sự tha hóa và trở về với bản năng hoang dã Cuộc sống của lão và chuột diễn ra trong một xóm nhỏ, nơi mọi người đều chỉ lo cho bản thân, không ai quan tâm đến lão Lão Chệt dành thời gian chơi đùa với chuột, và khi đói, lão bắt chúng để ăn Lão không cần giường ngủ, mà thường nằm bên cạnh lũ chuột Hình ảnh lão ăn tươi nuốt sống cả dòi bọ và những con chuột con cho thấy sự tàn nhẫn và hoang dã trong con người lão Dù trước đây từng có cuộc sống khá giả khi làm chủ một tiệm, nhưng sự sa ngã do nghiện ngập đã đưa lão vào cảnh nghèo khổ, phải vật lộn để sống sót.

Điểm nhìn trong truyện ngắn Dương Nghiễm Mậu

Trong công trình "Tự sự học, lý thuyết và ứng dụng" do Trần Đình Sử chủ biên, nhóm tác giả định nghĩa điểm nhìn là vị trí nhận thức hoặc tư tưởng từ đó người kể chuyện hoặc nhân vật nhìn nhận và truyền đạt câu chuyện.

Điểm nhìn trong truyện kể là cách thức mà người kể chuyện miêu tả và truyền tải câu chuyện, chịu ảnh hưởng bởi vị trí, tính cách và nguyên tắc của người kể cũng như các nhân vật Theo từ điển thuật ngữ văn học, điểm nhìn được định nghĩa là vị trí từ đó người trần thuật quan sát và mô tả sự vật trong tác phẩm Nó không chỉ là yếu tố tạo nên nghệ thuật mà còn thể hiện sự quan tâm và đặc điểm của chủ thể sáng tạo, từ đó phản ánh cái nhìn mới về cuộc sống Điểm nhìn trần thuật là yếu tố cơ bản trong phương thức kể chuyện, thể hiện cách quan sát và cảm nhận của người kể, đồng thời tổ chức cấu trúc văn bản nghệ thuật G Genette nhấn mạnh rằng trong tự sự, không chỉ có vấn đề ai kể mà còn có vấn đề ai nhìn Nguyễn Thái Hòa cũng cho rằng điểm nhìn không chỉ là lập trường chính trị xã hội mà còn là tọa độ thời gian được chọn để phát triển nội dung và sắp xếp bố cục của câu chuyện.

Từ các ý kiến và luận giải của các nhà nghiên cứu về khái niệm điểm nhìn nghệ thuật, tác giả luận văn đã rút ra cách hiểu làm cơ sở cho việc khảo sát và phân tích yếu tố này trong truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu Điểm nhìn được định nghĩa là vị trí nhận thức và đánh giá các sự vật, sự kiện, con người trong truyện Nó cũng phản ánh cách nhìn chủ quan của cá nhân, bộc lộ cảm thụ thế giới và thể hiện quan điểm, thế giới quan, và ý thức hệ của nhân vật.

39 nhìn gắn với người kể, đối tượng được kể, nó thể hiện cách kể, phương thức kể một câu chuyện

Khi đi vào tìm hiểu các truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu, chúng tôi thấy có các dạng điểm nhìn sau:

2.2.1 Điểm nhìn của người kể chuyện

Luận văn tập trung khảo sát ba ngôi kể trong truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu, nhằm phân tích điểm nhìn trong các tác phẩm này Phần nghiên cứu sẽ giới hạn trong ba ngôi kể đã được đề cập, giúp làm rõ cách thức thể hiện nội dung và cảm xúc của nhân vật trong truyện.

2.2.1.1.Điểm nhìncủa người kể toàn tri

Trong truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu, người kể chuyện toàn tri đóng vai trò quan trọng với cái nhìn bao quát, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian hay nhận thức Với điểm nhìn này, người kể chuyện có khả năng hiểu biết sâu sắc về mọi sự kiện và nhân vật trong câu chuyện Anh ta quan sát và miêu tả từ một vị trí bên ngoài, cho phép kể lại câu chuyện một cách toàn diện và chi tiết, tạo nên một thế giới phong phú và sống động.

Truyện "Tiếng sáo người em út" mở đầu với hình ảnh người anh cả trở về nhà và nghe thấy tiếng sáo quen thuộc của em mình Âm thanh không còn thô sơ, mà đã trở nên chín muồi và đầy cảm xúc, khiến anh đứng lại lắng nghe Tiếng sáo vang lên vui tươi, khiến anh không kìm được nhảy chân sáo bước vào nhà Khi vào sân, anh thấy em mình ngồi dựa cột hiên, đôi mắt nhắm lại, và sau một thời gian dài, tiếng sáo mới dừng lại.

Người anh phác một nụ cười:

Khúc nhạc của em mang đến niềm hân hoan, khiến anh cảm nhận được niềm vui trong lòng Đoạn văn này thể hiện sự đa dạng trong các điểm nhìn và hiệu quả nghệ thuật của chúng Câu văn đầu tiên mở ra góc nhìn không gian, tạo nên sự kết nối giữa người nghe và âm nhạc.

Câu chuyện được kể từ góc nhìn hiện tại, với khoảng cách từ xa dần thu hẹp, tạo nên sự rõ nét và chi tiết Việc chuyển từ thị giác sang thính giác không chỉ thay đổi điểm nhìn mà còn phản ánh tâm lý nhân vật Từ “đầu ngõ” biểu thị vị trí địa lý, nhưng khi nhận ra tiếng sáo của người em út, ta thấy sự chuyển biến từ sự kiện sang cảm xúc Âm thanh của tiếng sáo đã chín muồi, thể hiện nỗi bồi hồi và tâm sự, kết nối quá khứ với hiện tại, sự kiện với tâm lý một cách sâu sắc.

Cụm từ “người anh, người em” thể hiện sự gắn bó trong mối quan hệ thân mật, gia đình Dương Nghiễm Mậu đã khéo léo lựa chọn người kể chuyện toàn tri và thay đổi điểm nhìn, giúp độc giả dễ dàng nhận biết mối quan hệ giữa hai nhân vật cũng như diễn biến trước và hiện tại.

Truyện "Tiếng động buổi trưa" mở đầu với hình ảnh người đàn ông uống cạn ly nước, sau đó thực hiện những cử chỉ thuần thục để làm một điếu thuốc Trong khi đó, người phụ nữ khoảng ba mươi tuổi giữ đứa con trong lòng, thể hiện sự chờ đợi Người đàn ông mồi lửa, hít hơi thuốc đầu tiên, ánh mắt nhăn lại vì khói, nhìn vào những bức vách gỗ có dấu vết thời gian Truyện sử dụng ngôi kể toàn tri, với điểm nhìn không bị giới hạn, cho phép người đọc hiểu rõ mối quan hệ giữa các nhân vật Dương Nghiễm Mậu khéo léo xác định điểm nhìn dựa trên giới tính và lứa tuổi, tạo nên sự khác biệt trong cách kể chuyện giữa các tác phẩm của ông.

Bài viết khám phá cách kể chuyện theo hướng "quay cận cảnh", tập trung vào việc truyền đạt chi tiết sự kiện qua cái nhìn của hai nhân vật chính Người kể chuyển đổi giữa hai góc nhìn, từ người đàn ông sang người đàn bà, phản ánh trạng thái tâm lý và hành động đồng thời của họ Thay vì lựa chọn nhịp độ nhanh, nhà văn chậm rãi xây dựng từng cảnh, dừng lại ở những chi tiết nhỏ để "theo dõi" từng cử chỉ của nhân vật Cách kể này thể hiện rõ tâm lý chờ đợi, dò xét, cùng những suy nghĩ nặng nề, đắn đo và băn khoăn của các nhân vật.

2.2.1.2.Điểm nhìn của người kể ngoại hiện, đồng sự Ở truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu gắn với người kể ngoại hiện và người kể đồng sự, thường là cái nhìn bên trong, có tính cá nhân và có giới hạn về nhận thức, cảm nhận Khi đó điểm nhìn nằm ở nhân vật, nói cách khác, các sự kiện trong truyện được kể tương đồng với cảm nhận, nhận thức của nhân vật

Trong "Lời chúc cho kẻ phản bội," Dương Nghiễm Mậu khắc họa những tình cảm giản dị và bình thường giữa những con người có số phận tương đồng Họ đều trải qua sự lừa gạt và phản bội, nhưng cuối cùng lại tìm thấy sự nương tựa lẫn nhau để sống tiếp Nhân vật trong tác phẩm thể hiện sâu sắc nỗi đau và sự kết nối giữa những kẻ bị phản bội, tạo nên một bức tranh chân thực về tình người trong những hoàn cảnh khó khăn.

Khi hồi tưởng về quá khứ, nhân vật "tôi" cảm thấy nỗi đau đớn và mất mát khi Kim rời bỏ, nhận ra rằng tình yêu duy nhất trong đời mình là Kim Dù ban đầu không nghĩ Kim phụ bạc, nhưng theo thời gian, sự thật dần hiện rõ, khiến "tôi" cảm thấy bị lừa dối bởi những ảo tưởng không có thật Nỗi nhớ Kim khiến "tôi" cảm thấy như bị đâm bởi những mũi kim nhọn, vừa oán trách vừa đau khổ Từ đó, "tôi" cảm thông và thấu hiểu cho số phận của Lành, cô gái có vẻ ngoài hiền lành và bình thường, nhưng cũng mang trong mình nỗi đau tương tự.

Lành, cô gái nhỏ nhắn với đôi chân trắng thường đi dép mỏng, đã từng là niềm tự hào của bà chủ nhà và là sự yên tâm cho các bà mẹ Các chàng trai ở trọ đều trải qua giai đoạn ngượng ngùng trước khi thân thiết, khiến bà chủ thêm tự hào Tuy nhiên, Lành giờ đây đã thay đổi, và Trác, một kẻ phản bội, đã rời bỏ Tác giả Dương Nghiễm Mậu khéo léo gắn kết số phận của từng nhân vật, phản ánh những cảm xúc bất chợt trong ký ức Kim đã kết hôn và sống hạnh phúc, nhưng trong lòng vẫn nhớ về những kỷ niệm xưa, đặc biệt là tình yêu dành cho người mình từng yêu Sự lặng im của Kim như một dấu hiệu cho thấy những mâu thuẫn trong tâm hồn.

CẤU, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN DƯƠNG NGHIỄM MẬU

Ngày đăng: 28/10/2021, 18:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Hoài Anh (2009), Lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975(chuyên luận), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975
Tác giả: Trần Hoài Anh
Nhà XB: Nhà xuất bản Hội nhà văn
Năm: 2009
2. Lê Cung (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Tác giả: Lê Cung
Nhà XB: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2015
3. Nguyễn Văn Dân (2010), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận nghiên cứu văn học
Tác giả: Nguyễn Văn Dân
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục
Năm: 2010
4. Trần Trọng Đăng Đàn (2015), Văn học trong cuộc đấu tranh tư tưởng tại miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học trong cuộc đấu tranh tư tưởng tại miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975
Tác giả: Trần Trọng Đăng Đàn
Nhà XB: Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Năm: 2015
5. Trần Trọng Đăng Đàn (1990), Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 – 1975, Nhà xuất bản Thông tin – Nhà xuất bản Long An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 – 1975
Tác giả: Trần Trọng Đăng Đàn
Nhà XB: Nhà xuất bản Thông tin – Nhà xuất bản Long An
Năm: 1990
6. Trần Trọng Đăng Đàn (1988), Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954 – 1975, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954 – 1975
Tác giả: Trần Trọng Đăng Đàn
Nhà XB: Nhà xuất bản Sự thật
Năm: 1988
7. Phan Cư Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2009), Văn học Việt Nam (1930 – 1945), Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam (1930 – 1945)
Tác giả: Phan Cư Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam
Năm: 2009
8. Trần Thái Đỉnh (2015), Triết học hiện sinh, Nhà xuất bản Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học hiện sinh
Tác giả: Trần Thái Đỉnh
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2015
9. Trịnh Bá Đĩnh – Đinh Minh Hằng – Cao Kim Lan – Lê Thị Dương – Trần Thiện Khanh (2016), Lịch sử lí luận phê bình Văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử lí luận phê bình Văn học Việt Nam
Tác giả: Trịnh Bá Đĩnh – Đinh Minh Hằng – Cao Kim Lan – Lê Thị Dương – Trần Thiện Khanh
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Năm: 2016
10. Hà Minh Đức (2014), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam 11. Nguyễn Mộng Giác (1972), Nhìn lại 15 năm văn học miền Nam, Tạp chí Bách khoa số 361 và 362 ngày 15 tháng 1 năm 1972 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học", Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam 11. Nguyễn Mộng Giác (1972), "Nhìn lại 15 năm văn học miền Nam
Tác giả: Hà Minh Đức (2014), Lý luận văn học, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam 11. Nguyễn Mộng Giác
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam 11. Nguyễn Mộng Giác (1972)
Năm: 1972
12. Thành Đức Hồng Hà (2017), Thi pháp văn xuôi A.S. Puskin, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp văn xuôi A.S. Puskin
Tác giả: Thành Đức Hồng Hà
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2017
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục
Năm: 2010
14. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lí luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nhà xuất bản Giáo Dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ
Tác giả: Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo Dục
Năm: 1999
15. Vũ Hạnh (1970), Nghĩ về một số hiện tượng trong sinh hoạt văn nghệ hiện nay, Tạp chí Bách Khoa số 319 và 320 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩ về một số hiện tượng trong sinh hoạt văn nghệ hiện nay
Tác giả: Vũ Hạnh
Năm: 1970
16. Vũ Hạnh (1972), Vài nét về sinh hoạt văn học, nghệ thuật tại miền Nam trong một năm qua, Tạp chí Bách Khoa số 361 và 362 ngày 15 tháng 1 năm 1972 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài nét về sinh hoạt văn học, nghệ thuật tại miền Nam trong một năm qua
Tác giả: Vũ Hạnh
Năm: 1972
17. Phạm Ngọc Hiền (2016), Thi pháp học, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 18. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi pháp học", Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 18. Nguyễn Thái Hòa (2000), "Những vấn đề thi pháp của truyện
Tác giả: Phạm Ngọc Hiền (2016), Thi pháp học, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 18. Nguyễn Thái Hòa
Nhà XB: Nhà xuất bản Văn học
Năm: 2000
19. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX
Tác giả: Nguyễn Phạm Hùng
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2001
20. Nguyễn Văn Kha (2012), Những yếu tố cách tân trong văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM số 35 năm 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những yếu tố cách tân trong văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Tác giả: Nguyễn Văn Kha
Năm: 2012
21. Chu Khắc (1983), Lối sống thực dân mới của Mỹ ở miền Nam trước 1975, Viện xã hội học số 2 năm 1983 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lối sống thực dân mới của Mỹ ở miền Nam trước 1975
Tác giả: Chu Khắc
Năm: 1983
22. Mã Giang Lân (2004), Văn học Việt Nam 1945 – 1954, Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam 1945 – 1954
Tác giả: Mã Giang Lân
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 2004

TỪ KHÓA LIÊN QUAN