1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Dấu ấn văn hóa nam bộ trong tác phẩm lớp lớp phù sa của kiệt tấn

98 31 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong tác phẩm Lớp lớp phù sa của Kiệt Tấn
Tác giả Nguyễn Thị Phương Thúy
Người hướng dẫn PGS.TS. Cao Thị Hồng
Trường học Đại học Thái Nguyên
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Thái Nguyên
Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 1,91 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Lịch sử vấn đề (9)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (11)
  • 4. Mục đích nghiên cứu (11)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (12)
    • 5.1. Văn hóa học (12)
    • 5.2. Hệ thống (12)
    • 5.3. Tiếp cận thi pháp học (12)
  • 6. Đóng góp của luận văn (12)
    • 6.1 Về mặt lý luận (12)
    • 6.2 Về mặt thực tiễn (13)
  • 7. Cấu trúc của luận văn (13)
  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG (14)
    • 1.1. Một số vấn đề về văn hóa (14)
      • 1.1.1. Khái niệm văn hóa (14)
      • 1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học (18)
    • 1.2. Đặc điểm văn hóa Nam Bộ (20)
      • 1.2.1. Nền tảng văn hóa Nam Bộ (20)
      • 1.2.2. Một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ (21)
    • 1.3. Văn học Việt Nam ở hải ngoại (35)
    • 1.4. Nhà văn Kiệt Tấn - Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác (38)
  • CHƯƠNG 2. DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG LỚP LỚP PHÙ SA CỦA KIỆT TẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG (40)
    • 2.1. Thiên nhiên Nam Bộ (40)
      • 2.1.1. Thiên nhiên hoang dã, dữ dội (40)
      • 2.1.2. Thiên nhiên gần gũi, thơ mộng, gắn bó với cuộc sống con người (43)
    • 2.2. Con người Nam Bộ (45)
      • 2.2.1. Phong cách sống của con người Nam Bộ (45)
      • 2.2.2. Đặc trưng tính cách con người Nam Bộ (47)
        • 2.2.2.1. Tính trọng nghĩa (47)
        • 2.2.2.2. Tính bao dung (52)
        • 2.2.2.3. Tính thiết thực (54)
    • 2.3. Đặc trưng đời sống văn hóa Nam Bộ (57)
      • 2.3.1. Tình sông nước (57)
      • 2.3.2. Nét đẹp ẩm thực (61)
      • 2.3.3. Văn hoá ứng xử trong giao tiếp (63)
  • CHƯƠNG 3. DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG LỚP LỚP PHÙ SA CỦA KIỆT TẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT (67)
    • 3.1. Nghệ thuật kể chuyện (67)
      • 3.1.1. Xây dựng cốt truyện (67)
      • 3.1.2. Xây dựng kết cấu (71)
    • 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật (77)
      • 3.2.1. Hệ thống nhân vật (77)
      • 3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật (82)
    • 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (85)
      • 3.3.1. Phương ngữ Nam Bộ (85)
      • 3.3.2. Cách sử dụng chất liệu dân gian Nam Bộ (87)
  • KẾT LUẬN (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (94)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Kiệt Tấn không chỉ nổi tiếng là một nhà thơ mà còn được biết đến như một nhà văn miệt vườn xuất sắc Ông có nhiều tác phẩm phong phú, thể hiện tài năng viết lách và tình yêu quê hương, đặc biệt là về vùng đất Nam Bộ.

Bộ tác phẩm của Kiệt Tấn mang đến cho người đọc cảm nhận sâu sắc về vị ngọt ngào và hơi thở mặn mòi của đất đai, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long Khám phá sáng tác của ông là hành trình tìm hiểu một quê hương vừa quen thuộc vừa mới lạ, với những đặc trưng độc đáo của miền Nam Mặc dù đã có nhiều bài viết và nghiên cứu về Kiệt Tấn, nhưng những phân tích về truyện dài "Lớp lớp phù sa" vẫn còn hạn chế, chủ yếu chỉ dừng lại ở những cái nhìn khái quát mà thiếu sự chuyên sâu.

Trong bài viết của Nguyễn Văn Lục, ông đã khắc họa ba đặc điểm nổi bật về nhà văn Kiệt Tấn: trước hết, Kiệt Tấn là một nhà văn miệt vườn, với ngôn từ đậm chất Nam Kỳ và hình ảnh con người miền Nam sống động Thứ hai, tác phẩm của ông thể hiện những nỗi đam mê tình dục mãnh liệt, khắc họa những khía cạnh sâu sắc của tâm hồn con người Cuối cùng, Kiệt Tấn còn mang trong mình nỗi cô đơn, điều này tạo nên sự đồng cảm với độc giả Ba điều này không chỉ là nét đặc trưng mà còn là những yếu tố sâu sắc trong các sáng tác của ông, khiến cho "Lớp Lớp Phù Sa" trở thành một tác phẩm đáng nhớ.

Trong bài viết của Nguyễn Mạnh Trinh, ông nhận định rằng truyện dài "Lớp Lớp Phù Sa" là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Kiệt Tấn, phản ánh chân thực cuộc sống gia đình ông và những người thân trong vùng Thới Lai, Cờ Đỏ, Bình Thủy Tác phẩm này bắt đầu từ khoảng năm 1920, trong thời kỳ Pháp thuộc, và kéo dài đến thời hiện đại ở miền Nam Nguyễn Mạnh Trinh đã phân tích sâu sắc về Kiệt Tấn, một nhà văn sống hết mình với văn chương, mang trong mình trái tim yêu thương và tấm lòng chân thành.

Cao Thị Hồng đã nhấn mạnh trong bài viết của mình rằng Kiệt Tấn, được công nhận là "Nhà văn miệt vườn" xuất sắc, đã thể hiện tinh tế "khí hậu" riêng của nông thôn miền Tây trong tác phẩm của ông Truyện dài "Lớp lớp phù sa" là một ví dụ tiêu biểu, phản ánh sâu sắc văn hóa sông nước Tây Nam Bộ, mang theo những nỗi ám ảnh vô thức và tâm linh mà Kiệt Tấn đã trải qua suốt cuộc đời.

Tác giả chia sẻ những nhận xét và cảm xúc chân thành về tác phẩm, nhấn mạnh dấu ấn văn hóa Nam Bộ thể hiện qua lối sống, bối cảnh thiên nhiên và đặc biệt là qua các nhân vật mà Kiệt Tấn khéo léo xây dựng.

Trong bài viết "Kiệt Tấn và những đam mê giữa đời thường", Đoàn Nhã Văn đã đưa ra một cái nhìn mới về tác phẩm "Lớp lớp phù sa" của Kiệt Tấn Tác giả nhận định rằng Kiệt Tấn đã chuyển từ viết truyện ngắn sang truyện dài, phản ánh đời sống và tâm tư của người dân miền Nam qua hình ảnh ruộng đồng và sông nước Trong tác phẩm này, Kiệt Tấn không chỉ kể về bản thân mà còn khắc họa những câu chuyện của người khác, với nhiều nhân vật quen thuộc từ các tác phẩm trước đó, như chú câm và Lão Thần Y, cho thấy ông đã mượn hình ảnh từ cuộc sống xung quanh để xây dựng câu chuyện.

Dựa trên các bài viết của các nhà nghiên cứu, độc giả đã thể hiện sự quan tâm đến tác phẩm "Lớp lớp phù sa" của Kiệt Tấn và văn hóa Nam Bộ Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại chủ yếu dừng lại ở cảm nhận, còn nhiều vấn đề quan trọng chưa được khai thác sâu Do đó, tôi quyết định chọn đề tài "Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong tác phẩm Lớp lớp phù sa" nhằm tôn vinh Kiệt Tấn, một nhà thơ và nhà văn hải ngoại xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Mục đích nghiên cứu

Để đạt hiệu quả cao trong quá trình nghiên cứu về dấu ấn văn hóa Nam

Bộ trong tác phẩm Lớp lớp phù sa của Kiệt Tấn thì bài luận văn muốn hướng đến những mục đích cơ bản sau:

Để hiểu rõ hơn về văn hóa Nam Bộ và những đặc trưng của người dân vùng đồng bằng sông nước, cần tìm hiểu khái niệm văn hóa nói chung Qua việc nghiên cứu nhà văn Kiệt Tấn, chúng ta sẽ cảm nhận được tấm lòng của một người con xa quê hương nhưng luôn hướng về Tổ quốc, từ đó trân trọng hơn giá trị văn hóa và tinh thần của quê hương.

Thứ hai: Tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác những đặc sắc văn hóa Nam

Trong tác phẩm "Lớp lớp phù sa" của Kiệt Tấn, tác giả khắc họa vẻ đẹp hoang sơ và dữ dội của miền đất Nam Bộ, đồng thời thể hiện những nét đặc trưng trong hoàn cảnh sống và tính cách của con người nơi đây.

Nghiên cứu văn hóa Nam Bộ sẽ làm nổi bật nghệ thuật biểu hiện của vùng đất này thông qua ba khía cạnh chính: nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đặc trưng của Nam Bộ.

Phương pháp nghiên cứu

Văn hóa học

Phương pháp nghiên cứu văn hóa học bao gồm các kỹ thuật, thao tác và biện pháp nhằm phân tích và hiểu rõ về văn hóa, từ đó xác định đối tượng nghiên cứu văn hóa một cách hiệu quả.

Hệ thống

Phương pháp này cho phép nghiên cứu tác phẩm như một hệ thống hoàn chỉnh, phản ánh những đặc trưng văn hóa vùng miền Qua đó, chúng ta có thể nhận diện rõ nét đặc sắc của văn hóa Nam Bộ trong bức tranh tổng thể của nền văn hóa Việt Nam.

Tiếp cận thi pháp học

Phương pháp này cho phép nghiên cứu sâu sắc các vấn đề liên quan đến hình thức nghệ thuật, bao gồm hệ thống các khía cạnh của hình thức và nội dung của tác phẩm.

Ngoài việc sử dụng các phương pháp đã kể trên thì luận văn còn sử dụng một số thao tác như phân tích, chứng minh, bình luận,…

Đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận

Luận văn này nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và văn học trong các tác phẩm truyện dài Việt Nam hiện đại, đặc biệt là các sáng tác của các tác giả hải ngoại, một lĩnh vực vẫn chưa thu hút nhiều sự chú ý từ độc giả Nghiên cứu về dấu ấn văn hóa Nam Bộ đã chỉ ra vai trò quan trọng của nền văn hóa trong việc định hình nội dung của các tác phẩm văn học.

Về mặt thực tiễn

Việc nghiên cứu dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong Lớp lớp phù sa của Kiệt

Tác phẩm của Tấn phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống của con người Nam Bộ, đặc biệt là tình yêu sâu sắc của họ đối với sông nước.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận thì đề tài còn được triển khai thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung.

Chương 2: Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong Lớp lớp phù sa của Kiệt Tấn nhìn từ phương diện nội dung.

Chương 3: Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong Lớp lớp phù sa của Kiệt Tấn nhìn từ phương diện nghệ thuật.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Một số vấn đề về văn hóa

Văn hóa là một khái niệm đa dạng với nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau, phản ánh góc nhìn và hệ quy chiếu của từng nhà nghiên cứu Nó được ví như một tòa lâu đài đa diện, trong đó mỗi người chỉ tiếp cận được một khía cạnh nhất định Một số người khám phá văn hóa qua những nghiên cứu khách quan, nhưng khi định nghĩa lại thường dựa vào quan điểm chủ quan Sự phức tạp này khiến việc tìm ra một định nghĩa toàn diện về văn hóa trở nên khó khăn.

Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, thẩm thấu vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội và con người Mỗi nhà khoa học có cách hiểu riêng về văn hóa, phản ánh qua lăng kính chủ quan của họ Đào Duy Anh trong nghiên cứu "Việt Nam văn hóa sử cương" định nghĩa văn hóa là sinh hoạt, bao quát các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội và tri thức Ông nhấn mạnh rằng sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc xuất phát từ lối sống riêng và điều kiện tự nhiên Để nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, cần xem xét điều kiện địa lý nơi họ phát triển Qua quá trình nghiên cứu, Đào Duy Anh đã phác họa lịch sử văn hóa Việt Nam và chỉ ra những biến đổi trong thời kỳ Âu hóa, với sự thay đổi giữa các giá trị cũ và mới.

Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng của Nguyễn Như Ý, văn hóa được định nghĩa là những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong suốt lịch sử.

Trong Từ điển tiếng Việt (1995) của Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, do Hoàng Phê chủ biên, đã trình bày nhiều quan niệm về văn hóa.

“- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.

Văn hóa được định nghĩa là một hệ thống toàn diện bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần, được hình thành và tích lũy bởi con người thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.

- Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát).

- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát).

- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.

Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định qua các di vật có đặc điểm tương đồng, như Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa Đông Sơn.

Văn hóa là một khái niệm đa nghĩa, trong tiếng Việt có hai cách hiểu chính: thứ nhất là nghĩa thông dụng liên quan đến học thức và lối sống, thứ hai là nghĩa chuyên biệt chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn Theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả sản phẩm và giá trị về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm của con người, từ những yếu tố hiện đại đến tín ngưỡng, phong tục và lối sống lâu đời Văn hóa được xem như toàn bộ hoạt động tác động vào tự nhiên và xã hội nhằm tạo ra giá trị vật chất và tinh thần, hướng tới chân, thiện, mỹ và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội Như Trần Ngọc Thêm đã nói, “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên”, với bốn đặc trưng cơ bản: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử.

Tính hệ thống trong văn hóa giúp phát hiện mối liên hệ giữa các hiện tượng và quy luật phát triển của nền văn hóa, tạo ra một thực thể có chức năng xã hội rõ ràng Văn hóa không chỉ là tập hợp ngẫu nhiên các yếu tố mà còn là công cụ giúp con người thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời góp phần ổn định đời sống con người và xã hội Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị, phản ánh mức độ nhân bản của xã hội thông qua các loại giá trị vật chất và tinh thần, giá trị sử dụng, đạo đức, thẩm mỹ, cũng như giá trị vĩnh cửu và nhất thời Tính nhân sinh là đặc trưng quan trọng thứ ba, nhấn mạnh rằng văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người, không phải do thiên nhiên sinh ra, và sự biến đổi văn hóa chỉ diễn ra trong tập thể, liên kết con người với nhau qua chức năng giao tiếp Cuối cùng, tính lịch sử cho thấy văn hóa là kết quả của quá trình tích lũy qua nhiều thế hệ, phản ánh chiều sâu của xã hội thông qua các truyền thống văn hóa bền vững như phong tục, tập quán và ngôn ngữ, được duy trì nhờ giáo dục, một chức năng quan trọng của văn hóa.

Khám phá bốn đặc trưng và bốn chức năng cơ bản của văn hóa là cách hiệu quả để xác định khái niệm văn hóa Điều này cũng giúp phân biệt văn hóa với các khái niệm liên quan như văn minh, văn hiến và văn vật.

1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học

Vị trí của văn học trong văn hóa

Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học thể hiện sự liên kết giữa tổng thể và bộ phận, trong đó văn học được xem là đỉnh cao của văn hóa Nếu văn hóa được coi là không gian sống, thì văn học chính là cây cối, nơi cắm rễ, phát triển và nảy nở, góp phần làm phong phú thêm bầu không khí văn hóa.

Văn hóa là một hệ thống bao gồm nhiều yếu tố, trong đó văn học đóng vai trò quan trọng và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là tất yếu, trong đó văn học không chỉ bị chi phối mà còn tạo ra những phản lực tích cực đối với văn hóa Điều này cho phép văn học phát triển và sáng tạo ra những giá trị mới, không chỉ cho chính nó mà còn cho toàn bộ hệ thống văn hóa, thậm chí có thể dẫn đến sự thay đổi lớn trong hệ thống này.

Văn học phản ánh và phác họa văn hóa qua góc nhìn của người nghệ sĩ, giúp hiểu rõ hơn về các giá trị văn hóa Cảm xúc trong văn học bắt nguồn từ văn hóa vùng miền và dân tộc Văn học dân gian, với tâm tư tập thể, là phần phản ánh sâu sắc nhất văn hóa, mang lại sự gần gũi và phong phú cho bản sắc dân tộc Nó kết nối các yếu tố văn hóa như âm nhạc và diễn xướng, đồng thời giáo dục tâm hồn con người Qua văn học dân gian, bài học cuộc sống trở nên sinh động, phản ánh chân thực cuộc sống lao động và truyền thống dân chủ, tinh thần nhân văn của dân tộc Văn học này tổng kết tri thức và kinh nghiệm của nhân dân về mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và bản thân Nét đẹp của văn hóa dân gian được thể hiện qua văn học một cách độc đáo, mang vẻ đẹp giản dị, trở thành phần thiết yếu trong đời sống con người từ lúc sinh ra đến khi ra đi.

Trong văn học, hình ảnh văn hóa được thể hiện qua sự tiếp nhận và tái hiện của các nhà văn Thơ Hồ Xuân Hương mang đậm cá tính với hình ảnh văn hóa dân gian trong các tác phẩm như "Bánh trôi nước" và "Cảnh thu" Truyện ngắn và tùy bút của Nguyễn Tuân khám phá vẻ đẹp văn hóa truyền thống qua những tác phẩm như "Hoa thuỷ tiên" và nghệ thuật pha trà Tiểu thuyết "Mẫu Thượng ngàn" của Nguyễn Xuân Khánh phản ánh tín ngưỡng và phong tục dân tộc, như đạo Mẫu và các nghi lễ thờ cúng Ngoài ra, tác phẩm văn học còn khám phá những mâu thuẫn sâu xa của văn hóa, như trong kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng, và cốt cách người nông dân trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, thể hiện tấm lòng nhân hậu và những tranh chấp nội tâm qua biến thiên cách mạng.

Văn học không chỉ phản ánh văn hóa mà còn thể hiện sự tự ý thức về văn hóa Nó không chỉ bị ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa của thời đại và truyền thống dân tộc mà còn là phương tiện quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa Qua văn học, ta có thể nhận thấy tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và cộng đồng dân tộc.

Đặc điểm văn hóa Nam Bộ

1.2.1 Nền tảng văn hóa Nam Bộ

Văn hóa Nam Bộ hình thành từ sự giao lưu và tiếp biến văn hóa của nhiều tộc người như Khmer, Chăm, Hoa Mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự khởi đầu của văn hóa Nam Bộ là năm 1623, khi vua Chân Lạp cho phép chúa Nguyễn đưa người Việt di cư đến định cư tại Prey Kôr, hiện nay là thành phố Hồ Chí Minh.

Vùng đất Nam Bộ vào cuối thế kỷ XVII còn hoang dại với hệ thống đất đai trũng, úng và sông rạch chằng chịt, bắt đầu từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại Chúa Nguyễn đã tiếp nhận một đoàn người Hoa đến quy thuận, cho phép họ khai phá và định cư tại Biên Hòa.

Đồng Nai và các vùng lân cận như Quảng Bình đã chiêu mộ dân cư, lập hộ tịch, tạo nên nền tảng văn hóa Nam Bộ Gần một thế kỷ sau, Nam Bộ dần hình thành một vùng văn hóa riêng biệt, với các giá trị được hình thành qua tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội Đây cũng là vùng đất nổi tiếng với sản lượng lúa gạo lớn và đa dạng các loại trái cây nhiệt đới như chôm chôm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng, mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam, quýt Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch phong phú, Nam Bộ không chỉ có nhiều món ăn ngon mà còn là nguồn cảm hứng cho văn học dân gian.

Nam Bộ là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa và sức trẻ từ các tộc người, đóng vai trò trung tâm trong quá trình tiếp biến văn hóa, tạo ra một nền văn hóa đặc thù Hệ giá trị văn hóa ở đây bao gồm truyền thống dân tộc và các giá trị cốt lõi, phản ánh tính năng động và nhạy bén của người dân Tính mở của vùng đất này đã góp phần quan trọng trong việc tiếp nhận và phát triển nhiều giá trị văn hóa cao, đồng thời hòa nhập với nền văn minh hiện đại.

1.2.2 Một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ

Cách thức hoạt động sản xuất

Vùng đất phì nhiêu miền Tây với điều kiện địa lý đặc thù đã hình thành nên nền văn hóa sông nước độc đáo, nơi mà hoạt động sản xuất và giao thương diễn ra chủ yếu ven các bờ sông rạch Các trung tâm thương mại như Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho, Sài Gòn và Cần Thơ đã phát triển thuận lợi nhờ vào hệ thống giao thông đường thủy Đặc biệt, chợ nổi như Long Xuyên, Cái Răng và Cái Bè không chỉ là nơi buôn bán hàng hóa nông sản mà còn trở thành biểu tượng văn hóa độc đáo của miền Tây Tại chợ nổi, người dân mua bán qua những chiếc ghe, với các sản phẩm được treo trên cây sào, tạo nên một nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng, thu hút du khách và góp phần làm phong phú thêm sản phẩm du lịch của vùng.

Cách tổ chức xã hội cổ truyền ở Nam Bộ của người Việt có nhiều điểm khác biệt so với các làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ Làng ấp ở Nam Bộ là tập hợp cư dân từ nhiều vùng, họ tộc khác nhau, gắn bó chủ yếu qua quan hệ láng giềng thay vì quan hệ dòng họ Sự biến động của cư dân trong làng ấp thường xuyên xảy ra, dẫn đến không có sự phân biệt rõ rệt giữa dân chính cư và dân ngụ cư Về mặt hình thức, làng ấp Nam Bộ thường được hình thành dọc theo kênh rạch hoặc sông ngòi, không có luỹ tre làng kín đáo, điều này khiến tính cố kết cộng đồng ở đây lỏng lẻo hơn và không bền chặt như ở các vùng khác.

Nam Bộ là vùng đất đa dạng về tôn giáo và tín ngưỡng, nơi giao thoa của các tín ngưỡng từ Bắc Bộ và Trung Bộ, đồng thời là cái nôi của những tín ngưỡng mới Đây cũng là quê hương của các tín ngưỡng địa phương nổi bật như Cao Đài và Hòa Hảo, tạo nên sự phong phú đặc sắc về tôn giáo tại Việt Nam.

Tín ngưỡng của cư dân Nam Bộ thể hiện rõ nhất ở việc tôn thờ các lực lượng siêu nhiên như thiên thần, nhiên thần, nhân thần:

Thiên Thần là sản phẩm văn hóa đặc trưng của các cộng đồng dân tộc, thể hiện sự đa dạng và phức tạp của văn hóa vùng đất Trong khu vực lưu vực sông Hồng, các vị thần như Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Gióng được thờ phụng phổ biến, nhưng lại gần như vắng mặt ở miền Nam Dù thỉnh thoảng có nhắc đến trong các bài văn tế tại lễ hội, sự hiện diện của các vị thần này không mạnh mẽ Đặc biệt, miền Nam thiếu hẳn các Phúc Thần, điều mà nhà nghiên cứu văn hóa Sơn Nam đã chỉ ra khi khẳng định rằng “ở đồng bằng sông Cửu Long, chẳng nghe nói đến hai tiếng phúc thần” Thay vào đó, miền Nam lại có những thiên thần từ các nền văn hóa bản địa Chiêm.

Thành và Chân Lạp đã được công nhận trong hệ thống thần linh của Miền Nam, nổi bật là Thánh Mẫu Pô Nagar của người Chiêm Thành, được triều Nguyễn phong tặng danh hiệu Thiên-Y-A-Na, Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần Nữ thần này được người Việt biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Thiên Y-A-Na, Diễn Ngọc Phi, Vân Hương Thánh Mẫu, Chúa Ngọc, Chúa Tiên Đền thờ chính của Thánh Mẫu tập trung tại tỉnh Khánh Hòa, được bảo tồn bởi cả người Chăm và người Việt, với ngôi đền lớn nhất là Tháp Bà ở Nha Trang, có bia đá từ năm Tự Đức thứ 9 (1856) Tại Nam Bộ, người dân thuần Việt thờ nữ thần này trong gia đình với bàn thờ đơn giản, gọi là Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên.

Nhiên Thần: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.

Trong khối Nhiên Thần, tín ngưỡng dân gian miền Nam nổi bật với việc thờ Thần Ngũ Hành, trong đó Thổ Thần, hay Ông Địa, giữ vị trí quan trọng nhất Mỗi vùng có thể thờ riêng hoặc tập trung vào một hành, ví dụ như vùng thường xảy ra hỏa hoạn thờ hành Hỏa, hay vùng trồng lúa tôn vinh hành Thổ Người nông dân miền Nam đã tiếp cận Thổ Thần một cách gần gũi hơn, coi Ông Địa như gia thần bảo vệ nhà cửa, với bàn thờ khiêm tốn đặt dưới đất gần cửa ra vào Họ thường dâng lễ vật như nải chuối hay bánh, và cầu xin Ông Địa giúp tìm kiếm tài vật mất mát hay cầu mưa Sự tôn thờ này thể hiện lòng kính trọng và gắn bó sâu sắc của người dân với Ông Địa.

Thần Hổ là một nhiên thần được thờ phụng rộng rãi tại nhiều địa phương ở Nam Bộ, đặc biệt trong lịch sử vùng Sài Gòn - Gia Định do người Việt, Khmer, Chăm, Hoa viết nên Trong quá trình khai phá vùng đất Đồng Nai và những đầm lầy ở cực Nam, người dân Đàng Trong không chỉ đối mặt với khó khăn trong việc khai thác đất mà còn phải chiến đấu với nhiều loại thú dữ, trong đó hổ là mối đe dọa lớn nhất Tâm lý sợ hổ và quyết tâm đánh bại nó đã dẫn đến việc thờ Thần Hổ tại nhiều đình làng ở miền Nam Hiện nay, nhiều ngôi đình ở miền Nam vẫn còn tấm bình phong trước cổng với hình hổ, được người dân gọi là bia Ông Hổ.

Thần Cá Voi là một nhiên thần quan trọng được thờ phượng tại các đình làng ở Miền Nam, đặc biệt là ở các làng đánh cá ven biển từ Miền Trung vào Nam Tại Miền Trung, thần này được gọi là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần, với sắc phong ghi nhận những công đức như gia tăng từ tế và bảo vệ tín đồ Trong khi đó, ở Miền Nam, Thần Cá Voi được sắc phong là Nam Hải đại tướng quân Ngư dân thờ phụng Thần Cá Voi không phải vì sợ hãi, mà vì họ tin rằng thần này sẽ cứu mạng họ trong những tình huống nguy hiểm Hài cốt của cá voi được bảo quản cẩn thận tại các đình, thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn của người dân đối với thần.

Nhân Thần: Tín ngưỡng sùng bái con người của nhân dân Nam Bộ.

Trong khối Nhân Thần, các nhân vật lịch sử có công khai phá Miền Nam như Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và Chưởng Cơ Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại được tôn vinh với nhiều đền thờ ở các địa phương như Quảng Bình, Biên Hòa, và Sài Gòn Ngoài ra, các vị khai quốc công thần triều Nguyễn như Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt và Đức Tiền Quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng được ghi nhận, cùng với các anh hùng chống Pháp như Trương Định và Nguyễn Trung Trực Nhiều làng ở Miền Nam còn thờ các vị có công lập làng, thường gọi là Tiền Hiền, Hậu Hiền Đặc biệt, người Minh Hương cũng đóng góp vào việc thờ phụng Quan Vân Trường, biểu tượng của đức tính “Trung can nghĩa khí” trong văn hóa dân gian.

Ngài được tôn xưng là Quan Thánh Đế Quân, trong khi Bà Thiên Hậu là một nhân vật huyền thoại nổi bật trong lịch sử Trung Hoa dưới triều Tống, thường hiện ra để cứu giúp những người gặp nạn trên biển Đến thời kỳ nhà Thanh, Bà được phong tặng danh hiệu “Thiên Hậu thánh mẫu”.

Tiếp nối truyền thống của người Việt ở đồng bằng Trung và Nam Trung

Người Việt Nam tại Bộ dành ưu tiên cho đạo Phật, kết hợp với tín ngưỡng vạn vật hữu linh và thờ cúng tổ tiên Chùa chiền xuất hiện khắp nơi, đặc biệt ở các vùng đồi núi đẹp như Thất Sơn, nơi có chùa Phật Lớn với tượng Phật Di Lặc lớn nhất Việt Nam Núi Bà Đen nổi tiếng với chùa Bà Đen Đạo Phật kết hợp với đạo Lão, đạo Khổng, đạo Kitô và đạo Thánh Mẫu đã hình thành đạo Cao Đài tại Tây Ninh, nơi có khoảng 2,7 triệu tín đồ Đạo Phật cũng góp phần hình thành đạo Hoà Hảo ở An Giang với khoảng 1 triệu tín đồ Các tôn giáo này, dù ít tín đồ, vẫn đáp ứng nhu cầu tâm linh của cư dân vùng đất mới trong giai đoạn các tôn giáo lớn chưa phát triển.

Văn học Việt Nam ở hải ngoại

Các nhà văn Việt Nam hải ngoại, với tài năng và đam mê, đã làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam Những tác phẩm của họ không chỉ ghi dấu ấn của cộng đồng người Việt ở nước ngoài mà còn góp phần làm giàu kho tàng văn hóa Việt Nam, mang lại niềm tự hào cho nhiều thế hệ độc giả.

Quá trình hình thành văn học hải ngoại được chia thành năm giai đoạn, mỗi giai đoạn mang những đặc điểm riêng biệt Giai đoạn đầu tiên diễn ra trong những năm đầu, đánh dấu sự khởi đầu của dòng văn học này.

Giai đoạn 1975 – 1980 đánh dấu sự khởi đầu của nền văn học Việt Nam di tản, chủ yếu tập trung tại Mỹ, Pháp, Úc, Canada và nhiều quốc gia khác Những nhà văn tiêu biểu như Mặc Đỗ, Nhật Tiến, và Nguyễn Mộng Giác đã đặt nền móng cho văn học hải ngoại, với nhiều tác phẩm được in trên các ấn phẩm như báo Trắng Đen, Người Việt, và tạp chí Hồn Việt Văn học giai đoạn này phản ánh nỗi lòng và cảm xúc của những người viết, không chỉ mang nặng tâm tư về quê hương mà còn trải qua cú sốc văn hóa khi đối diện với thực tại mới lạ Tác phẩm đầu tiên của văn học Việt Nam hải ngoại, tập truyện ngắn "Ly hương" của Võ Phiến và Lê Tất Đắc, được xuất bản bởi báo Người Việt, thể hiện rõ những trăn trở về quê hương của tác giả.

Ly Hương gồm tổng cộng năm truyện ngắn, trong đó có bốn truyện được sáng tác vào năm 1976 Truyện thứ năm, mang tên "Kéo cày trên đất Mỹ," của tác giả Lê Tất Đắc, được viết sớm hơn vào năm 1975.

Giai đoạn thứ hai của người Việt lưu vong, bắt đầu từ năm 1980, được gọi là “thuyền nhân” Các nhà văn thuộc nhóm này đã mang đến một luồng sinh khí mới cho văn học hải ngoại, tạo ra sự khởi sắc mặc dù đầy bi thương, do họ mang theo gánh nặng của những thử thách và bi kịch khủng khiếp Nhiều người trong số họ đã từng bị cầm viết, cầm tù vì tư cách văn nghệ sĩ, công chức hoặc lính cho chế độ Cộng hòa.

Trong giai đoạn này, các nhà văn mang tư cách tị nạn chính trị đã phản ánh sâu sắc về chiến tranh, nhưng chủ yếu là từ góc nhìn cay đắng và buồn tủi của cuộc sống trong các trại cải tạo.

Giai đoạn thứ ba (1982 – 1990) đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ trong cơ cấu tác giả, nhà xuất bản và thể loại văn học Nhiều tác giả mới xuất hiện, số lượng tác phẩm và sách được xuất bản gia tăng đáng kể, cùng với sự ra đời của các nhà xuất bản chuyên nghiệp Đặc biệt, giai đoạn này chứng kiến sự phát triển của một đời sống văn hóa phong phú và đa dạng, tạo nền tảng cho văn học Việt Nam.

Thời kỳ hiện nay được coi là giai đoạn thuận lợi và thành công nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hải ngoại Trong khi truyện ngắn dẫn đầu thể loại văn học hải ngoại, giai đoạn này chứng kiến sự xuất hiện của một số tiểu thuyết, đánh dấu bước tiến quan trọng mặc dù số lượng tác phẩm vẫn còn hạn chế Một trong những tác phẩm tiêu biểu là bộ tiểu thuyết sử thi "Mùa biển đông" (5 tập) của Nguyễn Mộng Giác.

Trong giai đoạn 1990 – 1995, văn học hải ngoại phát triển chậm lại do ảnh hưởng của tình hình chính trị toàn cầu và biến đổi tại Việt Nam, đặc biệt là sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sụp đổ của Liên Bang Xô Viết Sự thiết lập quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vào năm 1995 đã thúc đẩy văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay đổi, tìm kiếm sự cô đọng trong cách viết để khám phá bản thân trong bối cảnh bi quan và bế tắc.

Từ năm 1995 đến nay, văn học Việt Nam ở hải ngoại bước vào thời kỳ thứ năm, thể hiện sự ổn định và phát triển bền vững Giai đoạn này tập trung vào việc duy trì văn học bằng tiếng mẹ đẻ và bảo tồn các giá trị văn hóa - văn học Việt Nam Đồng thời, các tác giả cũng tích cực hòa nhập và làm phong phú thêm đời sống văn học tại các quốc gia nơi họ định cư.

Dưới những thăng trầm của lịch sử và chấn thương tâm lý, các nhà văn hải ngoại vẫn kiên cường phát triển nền văn học Việt Nam, kết hợp giữa hội nhập và bảo tồn giá trị truyền thống Các tác phẩm văn học hải ngoại ngày càng thu hút sự quan tâm và đón nhận từ độc giả trong nước và quốc tế.

Nhà văn Kiệt Tấn - Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

Kiệt Tấn, tên thật là Lê Tấn Kiệt, sinh năm 1940 tại làng Vĩnh Lợi, Bạc Liêu Ông bắt đầu học Tiểu học và đến năm 10 tuổi đã rời Bạc Liêu để tiếp tục học Trung học tại Vĩnh Long, Mỹ Tho (tú tài 1) và Sài Gòn (tú tài 2).

Cái duyên sáng tác của Kiệt Tấn khởi nguồn từ những mối tình sâu sắc trong cuộc đời ông Tại Mỹ Tho, vào năm 17 tuổi, ông trải qua mối tình đầu với Hoa, sự kiện này đã thúc đẩy ông sáng tác những câu chuyện đầy cảm xúc.

Bến đò trao thơ Bước sang 18 tuổi, ông khám phá tình dục hừng hực với Tuyết

Năm 19 tuổi, Kiệt Tấn sang Canada du học tại đại học Quebec, nơi ông đã gặp gỡ và yêu thương Louise và Dannỳle, từ đó cho ra đời tác phẩm "Yêu em xứ tuyết" Vào mùa hè năm 1961, ông đến Paris và trải qua mối tình với Daine, được phản ánh trong truyện "Người em xóm học" Cuối cùng, khi trở về Đà Lạt, ông đã sáng tác truyện "Em đến mùa trăng cuối", đánh dấu một mối tình đáng nhớ trong cuộc đời ông.

Từ Canada về nước năm 1963, ông phục vụ tại Sài Gòn (nay là thành phố

Hồ Chí Minh, trong vai trò chuyên viên Bộ Kinh tế, đã nhập ngũ vào năm 1969 và được biệt phái về nhiệm sở cũ Kiệt Tấn từng chia sẻ quan niệm sâu sắc rằng: “Trong đời sống, điều gì cũng quan trọng nhưng cuối cùng, chẳng có gì thực sự quan trọng.” Ông nhấn mạnh rằng “Người ta sinh ra là để sống, mọi thứ khác chỉ là bày đặt.”

Năm 1973, ông được đề cử chức giám đốc Định chuẩn Đến tháng 3 năm

Năm 1975, ông chuyển đến Paris cùng vợ và hai con Đến năm 1977, sau khi thất nghiệp, ông nhập viện tâm thần và tại đây đã gặp Ev-elyne, người con gái với mái tóc đẹp, người đã truyền cảm hứng cho ông viết tác phẩm "Em điên xõa tóc" Ngoài tác phẩm này, ông còn sáng tác ba truyện ngắn về quê hương: "Nụ cười tre trúc", "Em vịt vàng nhỏ", và "Năm nay đào lại nở" Kiệt Tấn nổi bật trong lĩnh vực văn chương với những tác phẩm tình yêu và tình dục táo bạo, cuồng nhiệt và quyến rũ.

Trước năm 1975, ông đã hợp tác với nhiều tạp chí như Văn nghệ, Văn, và Văn học Năm 1966, ông cho ra mắt tập thơ đầu tay mang tên "Điệp khúc tình yêu và trái phá" Sau khi định cư ở nước ngoài, ông đã ngừng sáng tác trong suốt 20 năm cho đến khi trở lại viết lách.

Năm 1985, ông bắt đầu viết trở lại và hợp tác với nhiều tạp chí như Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Văn, Làng Văn, Việt Nam Tự Do, Hợp Lưu, Thế kỷ 21, Người Việt và Tân.

Văn và trên mạng với các diễn đàn Talawas, Tiền Vệ, Văn Chương Việt, Phụ

Các tác phẩm đã được xuất bản của tác giả bao gồm: "Điệp khúc tình yêu và trái phá" (Thơ, 1966), "Nụ cười tre trúc" (Tập truyện, Văn Nghệ, 1987), "Lớp lớp phù sa" (Truyện dài, Văn Nghệ, 1988) và "Thương nàng bấy nhiêu" (Tập truyện, Người Việt, 1988).

Nghe mưa (Tập truyện), Xuân Thu, 1989; Em ơi biết đâu tìm (Tập truyện), An Tiêm 1994; Việt Nam thương khúc (Trường thi), An Tiêm, 1999; Tuyển tập Kiệt

Tấn, Văn Mới, 2002; Em điên xõa tóc (Tập truyện), Nxb Văn hóa Sài Gòn,

2009; Người em xóm học (Tập truyện), Nxb Thời Đại, 2010.

Nghiên cứu văn hóa trong văn học là điều cần thiết vì văn hóa là nền tảng của văn học Mỗi tác phẩm văn học đều phản ánh đặc trưng văn hóa của từng vùng miền, giúp văn học tồn tại bền vững Việc nghiên cứu tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc phân tích hình ảnh hay cấu trúc, mà còn là cách tiếp cận văn hóa qua biểu hiện của văn học Một tác phẩm có giá trị cần mang trong mình vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật, đồng thời phác thảo những đặc trưng văn hóa của dân tộc.

Kiệt Tấn là một tác giả có trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống và văn hóa, không chỉ trong nước mà còn trên toàn cầu Ông trân trọng và gìn giữ các giá trị văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa Nam Bộ Qua góc nhìn văn hóa, độc giả có thể nhận diện những giá trị nghệ thuật căn bản trong các tác phẩm của Kiệt Tấn.

DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG LỚP LỚP PHÙ SA CỦA KIỆT TẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG LỚP LỚP PHÙ SA CỦA KIỆT TẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Ngày đăng: 27/10/2021, 16:01

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hóa sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: NXB Thành phố HồChí Minh
Năm: 1992
[2]. Trần Hoài Anh (2012), Văn học nhìn từ văn hóa, NXB Thanh niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học nhìn từ văn hóa
Tác giả: Trần Hoài Anh
Nhà XB: NXB Thanh niên
Năm: 2012
[3]. Trần Hoài Anh (2014), Văn hóa văn chương và hành trình sáng tạo, NXB Thanh niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa văn chương và hành trình sáng tạo
Tác giả: Trần Hoài Anh
Nhà XB: NXBThanh niên
Năm: 2014
[4]. Nguyễn Tuấn Anh (2009), “Ca dao, tục ngữ người Việt miền Tây Nam Bộ dưới góc nhìn văn hoá học”, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ca dao, tục ngữ người Việt miền Tây Nam Bộdưới góc nhìn văn hoá học
Tác giả: Nguyễn Tuấn Anh
Năm: 2009
[5]. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa học
Tác giả: Đoàn Văn Chúc
Nhà XB: NXB Văn hóa Thông tin
Năm: 1997
[6]. Lê Xuân Diệm – Đào Linh Côn – Võ Sĩ Khải (1995), “Văn hoá Oc Eo những khám phá mới”, NXB KHXH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá Oc Eonhững khám phá mới
Tác giả: Lê Xuân Diệm – Đào Linh Côn – Võ Sĩ Khải
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 1995
[7]. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB TPHCM, TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hóa Việt Nam
Tác giả: Chu Xuân Diên
Nhà XB: NXB TPHCM
Năm: 1999
[8]. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, NXBTổng hợp Đồng Nai. [9]. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, NXB Tổng hợp Đồng Nai Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia Định thành thông chí", NXBTổng hợp Đồng Nai. [9]. Trịnh Hoài Đức (2005), "Gia Định thành thông chí
Tác giả: Trịnh Hoài Đức (2005), Gia Định thành thông chí, NXBTổng hợp Đồng Nai. [9]. Trịnh Hoài Đức
Nhà XB: NXBTổng hợp Đồng Nai. [9]. Trịnh Hoài Đức (2005)
Năm: 2005
[10]. Nguyễn Mộng Giác (1987), Nghĩ về Kiệt Tấn, Bạn Văn, Một Thuở, NXB Văn Mới, Hoa Kỳ. Nguồn: https://nguyenmonggiac.com/phe-binh/505-nghi-ve-kiet-tan.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩ về Kiệt Tấn, Bạn Văn, Một Thuở
Tác giả: Nguyễn Mộng Giác
Nhà XB: NXBVăn Mới
Năm: 1987
[11]. Nguyễn Thị Hậu – Lê Thanh Hải (2010), Khảo cổ học bình dân Nam bộ Việt Nam, từ thực nghiệm đến lý thuyết, NXB Tổng hợp TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo cổ học bình dân Nam bộViệt Nam, từ thực nghiệm đến lý thuyết
Tác giả: Nguyễn Thị Hậu – Lê Thanh Hải
Nhà XB: NXB Tổng hợp TPHCM
Năm: 2010
[13]. Cao Thị Hồng (2020), Những vẻ đẹp văn chương, NXB Hội nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vẻ đẹp văn chương
Tác giả: Cao Thị Hồng
Nhà XB: NXB Hội nhà văn
Năm: 2020

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w