1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Văn học nhật bản thời kì NARA (710 – 794)

113 397 5

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Văn Học Nhật Bản Thời Kì Nara (710 – 794)
Người hướng dẫn Giảng Viên Hoàng Thị Xuân Vinh
Trường học Đại Học Huế
Chuyên ngành Nhập Môn Văn Học Nhật Bản
Thể loại Bài Tập Nhóm
Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 5,54 MB

Cấu trúc

  • A. Bối cảnh lịch sử:

  • I. Tình hình chính trị:

  • II. Tình hình kinh tế - xã hội:

  • B. Bối cảnh văn hóa:

  • I. Sự phát triển văn hóa thời Nara:

    • 1. Về văn học:

    • 2. Về nghệ thuật:

  • II. Sự truyền bá Phật giáo:

  • A. Đặc điểm về ngôn ngữ:

  • I. Chữ viết:

  • II. Một số đặc điểm văn học:

    • 1. Văn học thời kỳ Nara có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị:

    • 2. Văn học thời kỳ Nara ít có sự ảnh hưởng của Phật giáo:

    • 3. Nền văn học mang đậm dấu ấn dân tộc:

    • 4. Tác phẩm văn học thời kỳ này chủ yếu là văn học truyển miệng:

  • B. Thành tựu văn học:

  • I. Đội ngũ sáng tác:

  • II. Tác phẩm tiêu biểu:

    • 1. KOJIKI (Cổ sự kí)

    • 2. NIHONGI (Nhật Bản kỉ)

    • 3. FUDOKI (Phong thổ Kí)

    • 4. KOGOSHUI (Cỗ ngữ thập di)

    • 5. CÁC NORITO (Chức từ)

    • 6. NIHON RYOIKI (Nhật Bản linh dị kí)

    • 7. KAIFUSO (Hoài phong tảo)

    • 8. MANYOHSU (Vạn diệp tập)

  • A. KOJIKI (Cổ sự kí):

  • I. Sự ra đời:

  • I. Học giả Ono Yasumaro:

  • III. Cấu trúc tác phẩm Kojiki:

  • IV. Sơ lược về nội dung tác phẩm KOJIKI (Cổ sự ký):

  • V. Đánh giá về tác phầm KOJIKI:

  • VI. Tầm quan trọng của KOJIKI:

  • B. NIHONGI (Nhật Bản kỉ):

  • C. Tính văn học của Ký Kỷ:

  • A. Thông tin khái quát về tác phẩm:

  • I. Nhan đề:

  • II. Nhà biên tập:

  • III. Nội dung và hình thức nói chung:

    • 1. Phân loại theo thể loại thơ:

    • 2. Phân loại theo đề tài:

    • 3. Phân chia theo lịch đại và các tác giả tiêu biểu:

    • 4. Về thời đại các tác phẩm:

    • 5. Nội dung các quyển thơ:

  • IV. Giá trị của Manyoshu:

  • V. Ảnh hưởng của Manyoshu đến đời sau:

    • 1. Thế hệ thứ nhất: Kamakura

    • 2. Thế hệ thứ hai: Edo tiền kỳ

    • 3. Thế hệ thứ ba: Edo hậu kỳ

    • 4. Thế hệ thứ tư: Meiji

  • B. Manyo no gotaika (Vạn diệp ngũ đại gia)

  • I. Kakimoto no Hitomaro

    • 1. Về ông Hitomaro:

    • 2. Trích thơ của ông Hitomaro

  • II. Yamabe no Akahito

    • 1. Về ông Akahito:

    • 2. Bài thơ “Ngắm phong cảnh núi Phú sĩ”

  • III. Yamanoue no Okura:

    • 1. Về ông Okura:

    • 2. Trích thơ của ông Okura:

  • IV. Otomo no Tabito:

    • 1. Về ông Tabito:

    • 2. Trích thơ tán tửu ca (bài 343):

  • . Otomo no Yakamochi:

    • 1. Về ông Yakamochi:

    • 2. Trích thơ của Yakamochi (bài 4139):

  • C. Thiên nhiên bốn mùa trong Manyoshu:

  • I. Khái quát:

  • II. Thơ mùa xuân (bài 818):

  • III. Thơ mùa hạ (bài 4066):

  • IV. Thơ mùa thu (bài 4515):

  • V. Thơ mùa đông (bài 4488):

  • VI. Thiên nhiên trong cảm quan của người Vạn Diệp:

  • D. Các đề tài khác:

Nội dung

VĂN HỌC NHẬT BẢN THỜI KÌ NARA (710 – 794) GIẢNG VIÊN HOÀNG THỊ XUÂN VINH NHÓM 2 (sáng thứ 4, tiết 3 4) Mục lục Phần 1: Sơ lược về thời kỳ văn học Nhật Bản 5 Phần 2: Bối cảnh lịch sử - văn hóa 6 A. Bối cảnh lịch sử 6 I. Tình hình chính trị 6 II. Tình hình kinh tế - xã hội: 10 B. Bối cảnh văn hóa: 12 I. Sự phát triển văn hóa thời Nara: 12 1. Về văn học: 12 2. Về nghệ thuật: 16 II. Sự truyền bá Phật giáo: 18 Phần 3: Đặc điểm thành tựu văn học thời Nara 20 A. Đặc điểm về ngôn ngữ 20 I. Chữ viết: 20 II. Một số đặc điểm văn học: 22 1. Văn học thời kỳ Nara có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị 22 2. Văn học thời kỳ Nara ít có sự ảnh hưởng của Phật giáo 22 3. Nền văn học mang đậm dấu ấn dân tộc 22 4. Tác phẩm văn học thời kỳ này chủ yếu là văn học truyền miệng ................................................................................................. 24 B. Thành tựu văn học: 24 I. Đội ngũ sáng tác 24 II. Tác phẩm tiêu biểu: 25 1. Kojiki (Cổ sự kí) 25 2. Nihongi (Nhật Bản kỉ): 26 3. Fudoki (Phong thổ kí) 27 4. Kogoshui (Cổ ngữ thập di) 28 5. Các Norito (Chúc từ): 29 6. Nihon Ryoiki (Nhật Bản linh dị kí) 30 7. Kaifuso (Hoài phong tảo): 31 8. Manyoshu (Vạn Diệp tập): 32 Phần 4: Huyền sử của dân tộc: Kojiki và Nihongi 33 A. KOJIKI (Cổ sự kí) 33 I. Sự ra đời: 33 II. Học giả Ono Yasumaro: 33 III. Cấu trúc tác phẩm Kojiki 34 IV. Sơ lược về nội dung tác phẩm KOJIKI (Cổ sự ký) 35 V. Đánh giá về tác phầm KOJIKI 37 VI. Tầm quan trọng của KOJIKI 38 B. NIHONGI (Nhật Bản kỉ): 39 C. Tính văn học của Ký Kỷ 40 Phần 5: Thơ ca từ mọi nèo đường đời Manyoshu (Vạn Diệp tập) 42 A. Thông tin khái quát về tác phẩm: 42 I. Nhan đề 42 II. Nhà biên tập: 42 III. Nội dung và hình thức nói chung 43 1. Phân chia theo thể loại thơ 43 2. Phân chia theo đề tài: 44 3. Phân chia theo lịch đại và các tác giả tiêu biểu: 44 4. Về thời đại các tác phẩm: 45 5. Nội dung các quyển thơ: 46 IV. Giá trị của Manyoshu: 48 V. Ảnh hưởng của Manyoshu đến đời sau: 49 1. Thê hệ thứ nhất: Kamakura 51 2. Thế hệ thứ hai: Edo tiền kỳ 51 3. Thế hệ thứ ba: Edo hậu kỳ 51 4. Thế hệ thứ tư: Meiji 52 B. Manyo no gotaika (Vạn diệp ngũ đại gia) 52 I. Kakimoto no Hitomaro 52 1. Về ông Hitomaro: ..................................................................... 2. Trích thơ của ông Hitomaro:..................................................... II. Yamabe no Akahito 56 1. Về ông Akahito: ........................................................................ 2. Bài thơ ngắm phong cảnh núi Phú Sĩ: ...................................... III. Yamanoue no Okura 58 1. Về ông Okura: .......................................................................... 2. Trích thơ của ông Okura: IV. Otomo no Tabito 60 1. Về ông Tabito 61 2. Trích thơ tán tửu ca (bài 343) 62 V. Otomo no Yakamochi 62 1. Về ông Yakamochi: .................................................................. 2. Trích thơ của Yakamochi (bài 4139):........................................ C. Thiên nhiên bốn mùa trong Manyoshu 63 I. Khái quát 63 II. Thơ mùa xuân (bài 818): 64 III. Thơ mùa hạ (bài 4066): 65 IV. Thơ mùa thu (bài 4515): 66 V. Thơ mùa đông (bài 4488): 67 VI. Thiên nhiên trong cảm quan của người Vạn Diệp: 68 D. Các đề tài khác 68 Phần 6: Tổng kết ............................................................................... Phần 7 Tài liệu tham khảo................................................................. SƠ LƯỢC VỀ THỜI KỲ VĂN HỌC NHẬT BẢN Văn học Nhật Bản được là một trong những nền văn học lâu đời và phong phú nhất trên thế giới, được nảy sinh trong môi trường nhân sinh rộng lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản, rất lâu trước khi quốc gia Nhật Bản được thành lập. Văn học Nhật Bản có bề dày lịch sử với vô vàn những tác phẩm đặc sắc đậm tính n hân văn. Có các tác phẩm thành văn đầu tiên và dài nhất thế giới “Truyện kể Genji”, với thể thơ Haiku ngắn nhất thế giới. Đặc điểm chung của văn học Nhật Bản là mang màu sắc u tối nhưng cũng không thiếu phần hài hước, phản ánh đặc điểm, tính chất của nền văn hóa xứ hoa anh đào – một nền văn hóa rực rỡ có một không hai trên thế giới. Lịch sử văn học Nhật bản có thể chia làm ba thời kì chính tương đương với các phân kì lịch sử đó là: + Văn học cổ đại: Từ khởi thủy 712 đến 1185 + Văn học trung đại: Từ 1185 đến 1868 + Văn học cận - hiện đại: Từ 1868 đến nay Tuy nhiên, trong cuốn “Nhật Bản văn học toàn sử” do Tokyo Kodansha xuất bản, văn học Nhật Bản được chia làm 6 thời kỳ ứng với 6 tập cuốn sách: Thượng đại, Trung cổ, Trung thế, Cận thế, Cận đại và Hiện đại. Văn học thời kỳ Nara thuộc thời kỳ văn học cổ đại và được xem như là buổi bình minh của văn học Nhật Bản với số lượng tác phẩm phong phú, nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. BỐI CẢNH LỊCH SỬ - VĂN HÓA A. Bối cảnh lịch sử: I. Tình hình chính trị: Khoảng đầu Công nguyên, Nhật Bản gồm nhiều xứ nhỏ, có trên 100 xứ. Thật ra, đó chỉ là những bộ tộc tranh giành quyền lực với nhau. Trong số đó, Yamato (Đại Hòa) trở thành xứ hùng mạnh nhất và là nơi khởi nghiệp của các Thiên hoàng. Cho nên Yamato cũng là danh từ để chỉ nước Nhật xưa. Biến cố quan trọng trong lịch sử cổ đại Nhật Bản là khoảng năm 593, Thái tử Shotoku trở thành nhiếp chính. Nhân vật lỗi lạc này đã làm cho đất nước tiến bước về nhiều phương diện . 1. Thánh Đức Thái tử Năm 710, nữ Thiên hoàng Genmei (661 -721) – là Thiên hoàng thứ 43 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế vị ngôi vua, là con gái thứ 4 của Thiên Hoàng Tenji đặt kinh đô tại Heijo-kyo ở Nara, mở đầu thời đại mới gọi là thời Nara (710 -794). 2. Phác họa quy mô kinh đô Heijyo-kyo Trong thời Nara, có một số chính sách được các sử gia đánh giá là vô cùng quan trọng: việc gửi các sứ giả hay còn gọi là Khiển Đường Sứ (Kentoshi) qua nhà Đường. 3. Thuyền đi sứ sang nhà Đường Trải qua bao nhiêu gian khổ, các sứ bộ gồm các du học sinh và tăng lữ đã đóng vai trò vô cùng quan trọng khi đem văn vật nhà Đường nước Nhật. Trong đó có hai nhân vật có năng lực là Kibi no Makibi và tăng Genbo đã giữ vai trò trọng yếu trong chính quyền Tachibana no Moroe dưới triều Thiên hoàng Shomu – Thiên hoàng thứ 45. 4. Kibi no Makibi 5. Nhà sư Genbo Từ những chuyến đi sứ như thế, chẳng những Nhật Bản học hỏi được những tiến bộ của nhà Đường mà còn khỏi bị bỏ quên trong mối quan hệ quốc tế ở châu Á. Nhờ đó mà Nhật Bản đã trở thành một thành viên trong khu vực rộng lớn có văn hóa chung của vùng Đông Á mà nhà Đường đóng vai trò chủ đạo. Trong những lĩnh vực khác, tầng lớp thượng lưu Nhật Bản đã lấy người Trung Quốc làm kiểu mẫu, kể cả chữ viết cũng du nhập vào từ Trung Quốc (Nhật Bản là chữ Kanji – Hán tự). 6. Chữ viết II. Tình hình kinh tế - xã hội: Nara là trung tâm thành thị đầu tiên của Nhật Bản. Dân số ở Nara tăng lên nhanh chóng, có khoảng 200.000 người (chiếm 4% dân số cả nước lúc bấy giờ), có khoảng 10.000 người làm việc cho chính phủ. Hoạt động kinh tế và chính quyền phát triển trong thời kỳ Nara: + Công cụ bằng sắt đã được phổ cập, thêm vào đó, kỹ thuật tưới tiêu cũng tiến bộ hơn. Diện tích trồng trọt (nông địa) của nhà nước luật lệnh nhờ thế cũng gia tăng. + Đường sá nối liền thủ đô các tỉnh bang, và thuế má được thu có hiệu quả và điều đặn hơn. + Tiền đồng được đúc mặc dù chưa được sủ dụng rộng rãi. + Chính quyền địa phương trở nên có thẩm quyền hơn. 7. Đồng tiền Wado Kaichin Tuy nhiên, bên ngoài khu vực Nara, có rất ít hoạt động thương mại và trong phần đất của các tỉnh thuộc về Cựu Shōtoku, hệ thống cải tổ bị khước từ. Đến giữa thế kỷ 8, shōen (荘園, trang ấp), là một trong những điều kiện thành lập kinh tế quan trọng của Nhật Bản thời Trung cổ, bắt đầu phát triển nhờ vào kết quả của sự nghiên cứu về quản lý đất chiếm hữu dễ dàng hơn. Chính quyền địa phương trở nên có thẩm quyền hơn. Trong khi sự thất bại của hệ thống phân chia đất đai cũ và thuế má tăng đã dẫn đến sự mất mát hoặc bỏ rơi đất đai của những người trở thành "vô gia cư," hoặc furōsha (浮浪者, Phù lãng giả). Một vài người trong số những người "quần chúng nhân dân" này được bí mật mướn làm công cho các địa chủ lớn, và "đất công" dần dần trở lại là shōen. Tranh chấp giữa các bè phái vẫn tiếp diễn suốt thời kỳ Nara. Thành viên các gia đình hoàng tộc, các gia đình đứng đầu trong triều đình như Fujiwara (藤原, Đằng Nguyên), và các tu sĩ Phật giáo đều tham gia vào cuộc tranh giành thế lực. Vào đầu thời kỳ này, Hoàng tử Nagaya đã cướp chính quyền sau khi Fujiwara no Fuhito qua đời. Bốn người con trai của Fuhito là Muchimaro, Umakai, Fusasaki, và Maro đã kế vị ông. Họ đã đưa Hoàng đế Shōmu, là cháu ngoại của Fuhito, lên ngôi. Vào năm 729, họ bắt giữ Nagaya và thu lại quyền hành. Vào năm 792, toàn bộ chế độ cưỡng bách tòng quân được bãi bỏ, và lãnh đạo các địa hạt được quyền thiết lập các lực lượng dân quân tư nhân cho công tác cảnh sát địa phương. Sự phân quyền của nhà chức trách đã trở nên nguyên tắc mặc cho sự cải tổ của thời kỳ Nara. Cuối cùng, để trả lại quyền lực cho triều đình, kinh đô đã được dọn đến Nagaoka-kyō (長岡京, Trường Cương Kinh) vào năm 784 và đến Heian-kyō (平安京, Bình An Kinh), vào năm 794 cách Nora khoảng 26 kilômét về phía Bắc. Vào cuối thế kỷ thứ 11, thành phố được đổi tên là Kyoto (京都, Kinh Đô) kể từ đó. B. Bối cảnh văn hóa: I. Sự phát triển văn hóa thời Nara: Công cuộc tiếp thu văn hóa nước ngoài ngay từ thời Nara là một hiện tượng đáng chú ý nhất vì những chuyển biến nhanh chóng và tốt đẹp mà nó tạo ra.

Bối cảnh lịch sử - văn hóa

Bối cảnh lịch sử

Vào khoảng đầu Công nguyên, Nhật Bản bao gồm hơn 100 xứ nhỏ, thực chất là những bộ tộc đang tranh giành quyền lực Trong số đó, bộ tộc Yamato (Đại Hòa) nổi lên trở thành xứ mạnh nhất và là nơi khởi nguồn của các Thiên hoàng, do đó, Yamato cũng được dùng để chỉ nước Nhật cổ đại.

Vào năm 593, Thái tử Shotoku trở thành nhiếp chính, đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử cổ đại Nhật Bản Nhân vật lỗi lạc này đã thúc đẩy sự phát triển của đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Vào năm 710, nữ Thiên hoàng Genmei (661-721), Thiên hoàng thứ 43 của Nhật Bản và là con gái thứ tư của Thiên hoàng Tenji, đã thiết lập kinh đô tại Heijo-kyo ở Nara, đánh dấu sự khởi đầu của thời đại Nara (710-794).

2 Phác họa quy mô kinh đô Heijyo-kyo

Trong thời kỳ Nara, việc cử các sứ giả, hay còn gọi là Khiển Đường Sứ (Kentoshi), sang triều đại Đường được các sử gia đánh giá là một trong những chính sách quan trọng nhất.

3 Thuyền đi sứ sang nhà Đường

Sau nhiều gian khổ, các sứ bộ du học sinh và tăng lữ đã đóng góp quan trọng trong việc mang văn hóa nhà Đường đến Nhật Bản Hai nhân vật nổi bật là Kibi no Makibi và tăng Genbo đã giữ vai trò then chốt trong chính quyền Tachibana no Moroe dưới triều Thiên hoàng Shomu, vị Thiên hoàng thứ 45 của Nhật Bản.

Nhật Bản đã tận dụng những chuyến đi sứ để học hỏi tiến bộ từ triều đại Đường, đồng thời duy trì vị thế trong mối quan hệ quốc tế ở châu Á Điều này giúp Nhật Bản trở thành một phần của khu vực Đông Á, nơi có nền văn hóa chung với sự lãnh đạo của nhà Đường.

Trong những lĩnh vực khác, tầng lớp thượng lưu Nhật

Bản đã lấy người Trung Quốc làm kiểu mẫu, kể cả chữ viết cũng du nhập vào từ Trung Quốc (Nhật Bản là chữ Kanji –

II Tình hình kinh tế - xã hội:

Nara, thành phố đầu tiên của Nhật Bản, đã chứng kiến sự gia tăng dân số nhanh chóng với khoảng 200.000 người, tương đương 4% tổng dân số quốc gia thời điểm đó Trong số đó, có khoảng 10.000 người làm việc trong các cơ quan chính phủ.

Hoạt động kinh tế và chính quyền phát triển trong thời kỳ Nara:

Công cụ bằng sắt đã trở nên phổ biến, cùng với sự tiến bộ trong kỹ thuật tưới tiêu, đã góp phần làm tăng diện tích trồng trọt của nhà nước.

+ Đường sá nối liền thủ đô các tỉnh bang, và thuế má được thu có hiệu quả và điều đặn hơn.

+ Tiền đồng được đúc mặc dù chưa được sủ dụng rộng rãi.+ Chính quyền địa phương trở nên có thẩm quyền hơn.

Tuy nhiên, bên ngoài khu vực Nara, có rất ít hoạt động thương mại và trong phần đất của các tỉnh thuộc về Cựu

Shōtoku, hệ thống cải tổ bị khước từ Đến giữa thế kỷ 8, shōen (荘

Trong thời kỳ Trung cổ, hệ thống shōen (荘) là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành kinh tế Nhật Bản, phát triển nhờ vào nghiên cứu quản lý đất đai hiệu quả hơn Chính quyền địa phương đã gia tăng quyền lực, trong khi sự thất bại của hệ thống phân chia đất đai cũ cùng với thuế má tăng cao đã khiến nhiều người trở thành "vô gia cư" (furōsha, 荘荘荘) Một số trong số họ đã bí mật làm công cho các địa chủ lớn, dẫn đến việc "đất công" dần dần trở lại thành shōen.

Trong thời kỳ Nara, tranh chấp quyền lực giữa các bè phái diễn ra gay gắt, với sự tham gia của các thành viên gia đình hoàng tộc, các gia đình cầm quyền như Fujiwara, và các tu sĩ Phật giáo Đặc biệt, vào đầu thời kỳ này, Hoàng tử Nagaya đã lật đổ chính quyền do Fujiwara nắm giữ.

Fuhito qua đời Bốn người con trai của Fuhito là Muchimaro,

Umakai, Fusasaki và Maro đã kế vị vị trí lãnh đạo và đưa Hoàng đế Shōmu, cháu ngoại của Fuhito, lên ngôi vào năm 729 Họ đã bắt giữ Nagaya và khôi phục quyền lực cho mình.

Năm 792, chế độ cưỡng bách tòng quân bị bãi bỏ, cho phép lãnh đạo các địa hạt thiết lập lực lượng dân quân tư nhân để thực hiện công tác cảnh sát địa phương Sự phân quyền của nhà chức trách trở thành nguyên tắc, mặc dù có sự cải tổ trong thời kỳ Nara Để khôi phục quyền lực cho triều đình, kinh đô được chuyển đến Nagaoka-kyō vào năm 784 và sau đó đến Heian-kyō vào năm 794, cách Nora khoảng 26 kilômét về phía Bắc Cuối thế kỷ 11, thành phố được đổi tên thành Kyoto.

Bối cảnh văn hóa

I Sự phát triển văn hóa thời Nara:

Công cuộc tiếp thu văn hóa nước ngoài từ thời Nara đã tạo ra những chuyển biến nhanh chóng và tích cực, đánh dấu một hiện tượng đáng chú ý trong lịch sử văn hóa Nhật Bản.

Sự tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa diễn ra rộng rãi trên toàn cầu, nhưng Nhật Bản có những điểm khác biệt đáng chú ý Ở Bắc Âu, quá trình tiếp thu các yếu tố văn hóa Hi-La diễn ra rất chậm, trong khi ở một số nước Viễn Đông, sự tiếp nhận này cũng không nhanh chóng.

Trung Quốc, giống như Triều Tiên, đã trở nên quá lệ thuộc vào hình thức, dẫn đến tình trạng “một chứng bệnh Khổng giáo” và “những nguy cơ chết người của Khổng giáo”, như nhận định của G.B Sansom.

Nhật Bản đã chủ động tiếp thu nền văn hóa Tùy – Đường, coi đây là nền văn minh tiên tiến nhất thời bấy giờ, thay vì bị cưỡng bức như nhiều quốc gia khác Kết quả là, mặc dù văn chương Trung Quốc rất phổ biến tại Nhật Bản, nhưng văn chương dân tộc vẫn giữ được bản sắc riêng và không bị lấn át.

Văn học Nhật Bản, bao gồm thơ ca và văn xuôi như tiểu thuyết, tùy bút, nhật ký, đã phát triển mạnh mẽ sau thời kỳ Nara, vượt trội hơn cả Trung Quốc và nhiều quốc gia trên thế giới Ngoài ra, sân khấu Nhật Bản cũng là một sản phẩm độc đáo, thể hiện tài năng sáng tạo của người Nhật.

Sự tiếp thu văn hóa nước ngoài của Nhật Bản là một quá trình tự nhiên và đầy cảm hứng Không bị ép buộc hay xâm lấn, Nhật Bản đã tiếp nhận và biến đổi những giá trị văn hóa từ đại lục thành những hoa trái phong phú cho quần đảo của mình.

Một vài tác phẩm bất hủ của Nhật Bản được viết trong thời Nara: + Kojiki (荘荘荘 - Cổ sự ký) năm 712

+ Nihon shoki (荘荘荘荘 – Nhật Bản thư ký) năm 720, còn có tên khác là Nihongi (荘荘荘 – Nhật Bản kỷ)

+ Fudoki (荘荘荘 – Phong thổ ký)

+ Kogoshui (荘荘荘荘 – Cổ ngữ thập di) năm 807, được biên soạn bởi Inbe no Hironari.

+ Các Norito: những lời cầu nguyện của Thần đạo, được tập hợp trong bộ sách gọi là Engishiki (Diên Hỉ Thức) vào năm

+ Nihon Ryoiki (荘荘荘荘荘 - Nhật Bản linh dị ký) năm 822.

1 Theo nhận định của tác giả cuốn East Asia The Great Tradition, tập I, Nhật Bản, 1964, trang 488

2 Lược sử văn hóa Nhật Bản, tập I, bản dịch của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1990, trang 129.

+ Kaifuso (荘荘荘 - Hoài phong tảo): Hoài niệm thơ ca năm 751 + Manyoshu (荘荘荘 – Vạn diệp tập): Khoảng năm 771

8 Cổ sự ký và Nhật Bản thư ký

11 Nhật Bản linh dị ký

Thời đại Nara đánh dấu lần đầu tiên Nhật Bản tiếp xúc trực tiếp với Trung Hoa dưới triều đại nhà Đường Sự giao lưu không chỉ diễn ra qua việc bổ nhiệm sứ thần mà còn thông qua dòng người sư tăng, danh sư và thương nhân di chuyển giữa hai quốc gia Nghệ thuật thời Đường đã ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ thuật Nhật Bản, đặc biệt trong các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và hội họa.

Về hội họa: Những bức tranh Phật (Butsuga) như tiêu bản tranh Phật đẹp nhất ở thời đại Tempyo là bức tranh Kichijo-ten,

Nữ thần sắc đẹp của chùa Yakushi hiện đang được bảo quản tại bảo tàng Hoàng tộc Nara Những bức tranh thế tục trên bình phong, mô tả mỹ nhân bên gốc cây, phản ánh rõ nét nghệ thuật tranh họa Nhật Bản chịu ảnh hưởng từ tư tưởng mới du nhập từ triều đại Đường của Trung Hoa.

14 Mỹ nhân đứng bên gốc cây

II Sự truyền bá Phật giáo: Đạo Phật bắt đầu từ Ấn Độ thế kỷ thứ 6 trước Công

Nguyên Một nhánh chính của Phật giáo, nhánh

Mahayanna hay gọi là Phật giáo Đại thừa đã du nhập vào Nhật Bản Phật giáo đã du nhập vào Nhật Bản từ

Trung Hoa và Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc

Vào thế kỷ 6 sau Công Nguyên, Nữ thần Kichijo từ Triều Tiên Kudara đã góp phần vào sự phát triển của Phật giáo tại Nhật Bản, ban đầu chỉ được giới quý tộc ủng hộ nhưng sau đó đã trở thành Quốc giáo Nhiều ngôi chùa lớn được xây dựng trong thời kỳ này với niềm tin rằng chúng sẽ bảo vệ nhà vua và đất nước Đến cuối thời Nara, Phật giáo đã phát triển thành 6 tông phái và chiếm ưu thế, mặc dù các tín ngưỡng dân gian như Thần đạo vẫn tồn tại song song và được kết hợp một cách tự nhiên với Phật giáo.

17 Đại tượng Phật Daibutsu - bức tượng Phật bằng đồng mạ vàng lớn Nhất thế giới

Đặc điểm thành tựu văn học thời Nara

Đặc điểm về ngôn ngữ

Cho đến nay, nguồn gốc của tiếng Nhật vẫn chưa được xác định rõ ràng Nhiều ý kiến cho rằng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn ngữ Altaic, liên quan đến tiếng Mông Cổ, Triều Tiên và các ngôn ngữ Trung Á đến Thổ Nhĩ Kỳ Tuy nhiên, về mặt văn hóa, tiếng Nhật lại có nhiều điểm tương đồng với các ngôn ngữ phía nam Trung Quốc Ngoài ra, cấu trúc từ vựng và hệ thống phát âm của tiếng Nhật cũng cho thấy sự tương đồng với các ngôn ngữ Dravidian ở Nam Á và nhóm ngôn ngữ châu Úc Điều này đã tạo ra thách thức cho các nhà ngữ học trong việc đưa ra một kết luận chính thức về nguồn gốc của tiếng Nhật.

Tiếng Nhật là một ngôn ngữ phức tạp với hệ thống chữ viết độc đáo nhất thế giới Nhiều nhà nghiên cứu hài hước nhận định rằng người Nhật đã phải đối mặt với sự bất hạnh khi tiếp xúc với chữ Hán từ Trung Quốc, và từ đó đã phát triển một ngôn ngữ phức tạp hơn Nhờ vào lịch sử đặc biệt này, Nhật Bản đã hình thành nên một hệ thống chữ viết kỳ lạ, bao gồm bốn loại chữ: chữ Hán từ Trung Quốc vào thế kỷ III-IV, chữ Hiragana và Katakana được sáng tạo vào thế kỷ VIII-IX, cùng với chữ Latin do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha mang đến vào thế kỷ XVI-XVII.

Vào đầu công nguyên, Trung Quốc là quốc gia duy nhất ở Đông Á sở hữu hệ thống chữ viết Sự giao lưu và quan hệ giữa Nhật Bản và lục địa đã thúc đẩy nhu cầu phát triển chữ viết, dẫn đến việc du nhập chữ Hán từ Trung Quốc trở thành một lựa chọn tất yếu.

Chữ Hán được cho là đã được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản qua bán đảo Triều Tiên vào khoảng thế kỷ III-IV Những người di cư từ bán đảo Triều Tiên, gọi là Doraijin, đã mang theo chữ Hán và trở thành những người viết thuê, đảm nhận vai trò ghi chép cho triều đình sau này.

Người Nhật đã phát triển một cách đọc riêng cho chữ Hán qua thời gian sử dụng, dẫn đến sự ra đời của “Manyo-gana” - hệ thống chữ viết cổ xuất hiện vào thế kỷ VII, sử dụng ký tự tiếng Hán để diễn đạt tiếng Nhật.

18 Giải thích về nguồn gốc Manyo – gana

Man'yōgana (荘荘荘荘(vạn diệp giả danh)) là một hệ thống chữ viết cổ sử dụng các ký tự tiếng Hán để diễn đạt tiếng Nhật

Man'yōgana thường sử dụng kanji để biểu âm (shakuon 荘荘: "tá âm" tức mượn âm) hơn là biểu ý (shakkun 荘荘: "tá huấn" tức

Nhiều từ kanji có thể diễn đạt cùng một âm tiết, tùy thuộc vào văn phong cụ thể Một ví dụ điển hình là bài thơ 17/4025 trong Man'yōshū, minh chứng cho sự đa dạng trong cách sử dụng từ ngữ.

Man'yōgana is an ancient Japanese writing system that utilizes Chinese characters to represent Japanese sounds This system played a crucial role in the development of the Japanese language and writing It laid the foundation for the creation of kana scripts, which are essential in modern Japanese Understanding Man'yōgana offers valuable insights into Japan's linguistic history and cultural evolution.

The Katakana character set is essential in Japanese writing, primarily used for foreign words, onomatopoeia, and emphasis Understanding Katakana enhances language skills and aids in reading and pronunciation Mastering this script is crucial for effective communication in Japanese.

Hiện đại 荘荘荘荘荘 荘荘荘荘荘荘荘 荘荘荘荘 荘荘荘荘荘 荘荘荘荘荘

Roman hóa Shiojikara Tadakoekureba Hakuhinoumi Asanagishitari Funekajimogam o

Trong một số trường hợp, các âm tiết đặc thù trong từ vựng tiếng Nhật được thể hiện nhất quán bằng những ký tự đặc thù, gọi là Jōdai Tokushu Kanazukai Đây là cơ sở lịch sử ngôn ngữ học cho quan điểm rằng một số âm sắc riêng biệt trong tiếng Nhật cổ được biểu diễn bởi các tập hợp ký tự khác nhau trong man'yōgana, đã được hợp nhất từ thời kỳ đó.

II Một số đặc điểm văn học:

1 Văn học thời kỳ Nara có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị:

Văn học thời kỳ Nara, mặc dù mới chỉ bắt đầu phát triển với chữ viết manyo-gana, đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và ghi chép lịch sử của Nhật Bản Thời kỳ này không chỉ ghi lại các sự kiện lịch sử và triều đại vua chúa mà còn để lại giá trị chính trị và lịch sử vô cùng quý báu cho đến ngày nay.

2 Văn học thời kỳ Nara ít có sự ảnh hưởng của Phật giáo:

Trong thời kỳ này, tín ngưỡng bản địa Nhật Bản chủ yếu là Thần đạo, cùng với sự du nhập của Phật giáo và Khổng giáo vào đời sống xã hội Ban đầu, Phật giáo không được dân chúng chấp nhận do những điều mới lạ so với tín ngưỡng truyền thống Tuy nhiên, khi hiểu biết sâu hơn, người Nhật đã thay đổi cách nghĩ và bắt đầu đánh giá cao các yếu tố tinh thần của Phật giáo, đặc biệt là tình cảm gia đình Tình cảm này được củng cố bởi học thuyết “Đạo hiếu” của Khổng giáo.

Mặc dù Phật giáo có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, nhưng ảnh hưởng của nó trong văn học lại không rõ nét, bởi vì văn học trong thời kỳ này mới chỉ bắt đầu hình thành.

3 Nền văn học mang đậm dấu ấn dân tộc: Đến thời Nara, văn học Nhật Bản dường như đã trở thành một nền văn học mang đậm dấu ấn dân tộc bởi các tác phẩm dân ca, huyền thoại và cổ tích.

Do chưa có hệ thống chữ viết riêng, Nhật Bản đã vay mượn chữ Hán để phát triển văn hóa Khi có chữ viết, việc sao chép kinh điển diễn ra quy mô lớn, góp phần vào sự phát triển văn học Tuy nhiên, những tác phẩm nổi bật của thời kỳ này chủ yếu là thần thoại, truyền thuyết và truyện kể, được biên soạn thành các tuyển tập văn học.

Manyoshu (Vạn diệp tập) và Kaifuso (Hoài phong tảo) là những tác phẩm văn học quan trọng, đặc biệt là các tuyển tập thơ ca mang đậm nét cá tính Manyoshu, được coi là cội nguồn của văn học Nhật Bản, đóng vai trò thiết yếu trong việc phát triển nền văn học này.

Huyền sử của dân tộc: Kojiki và Nihongi

KOJIKI (Cổ sự kí)

Các thần thoại và truyền thuyết đã được truyền miệng từ lâu trước khi được ghi chép trong Kojiki vào đầu thế kỷ VII, thể hiện một quá trình chuyên nghiệp trong việc lưu giữ văn hóa.

Xã hội cổ đại Nhật Bản được cấu thành từ nhiều thị tộc gọi là Uji và các phường hội mang tên Be Trong đó, những người kể chuyện thuộc phường Kataribe, có vai trò quan trọng bên cạnh các bộ quan trọng khác trong triều đình Họ không chỉ kể chuyện và ca hát trong các buổi tiệc quý tộc mà còn tham gia vào các lễ hội Thần đạo, thực hiện nhiệm vụ kể lại những huyền thoại xưa về chư thần và tổ tiên.

Những cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, mối quan hệ đầu tiên với Triều Tiên và Đại Lục, cùng những chuyến đi biển gian nan đã tạo nên huyền thoại Huyền thoại này có nguồn gốc từ ba trung tâm chính, trong đó Izumo đóng vai trò quan trọng.

Năm 711, nữ Thiên hoàng Genmyo (707 – 715) đã chỉ đạo Ono Yasumaro thu thập các truyện kể từ Hieda no Are và biên soạn thành sách, dẫn đến sự ra đời của tác phẩm Kojiki (Cổ sự kí) vào năm 712.

Bộ sách này mang tính chất chính thống, có vai trò quan trọng trong việc xác lập phổ hệ hoàng tộc và xây dựng nền tảng cho nghi thức Thần đạo.

Ono Yasumaro (mất ngày 15/08/723) là một học giả nổi bật của thời kỳ đó, nổi tiếng với việc biên soạn cuốn Kojiki và tham gia vào việc viết Nihongi Ông đã viết một lời tựa bằng Hán văn cho Kojiki, trong đó thể hiện rõ ý định của mình và cách chú giải về sự sáng thế Bài tựa này có thể được so sánh với “Bài ca khởi nguyên” trong kinh điển.

Rig Veda của Ấn Độ Trời, đất có trước,

I nguyên lí vũ trụ có trước rồi mới đến thần linh.

Vào thời kỳ Thiên hoàng Tenmu trị vì (672 – 686), ông đã ra lệnh cho các cung nữ học thuộc lòng tất cả các truyện kể Một trong những nhân vật nổi bật trong giai đoạn này là Hieda no Are, người đã được lấy cảm hứng từ cuốn Bách khoa toàn thư.

Yasumaro đã đề cập đến nữ thần Mặt Trời cùng với sự xuất hiện của ba báu vật: gương, ngọc và kiếm, mà về sau, chúng trở thành tam bảo của Hoàng gia.

Kojiki, tác phẩm ghi chép lịch sử Nhật Bản, bắt đầu từ khởi nguyên của trời đất và kết thúc với triều đại của nữ Thiên hoàng Suiko (593 – 623) Tuy nhiên, Kojiki không đề cập đến tất cả các sự kiện quan trọng trong thời kỳ cổ đại đến đầu thế kỷ thứ bảy, như cuộc chinh phục của nữ Thiên hoàng Jingu tại Silla, Triều Tiên vào giữa thế kỷ thứ ba, và sự du nhập của Phật giáo Đặc biệt, tên tuổi vĩ đại của thái tử Shotoku cũng không được nhắc đến trong tác phẩm này.

Tư tưởng của Yasumaro nhấn mạnh việc định hình lại các lề luật cổ xưa bằng cách tìm kiếm dấu vết của thần linh và các Thiên hoàng đầu tiên, trong khi ông có thể xem nhẹ những điều khác không quan trọng.

III Cấu trúc tác phẩm Kojiki:

Tác phẩm Kojiki được chia làm 3 phần: Kamitsumaki (‘’quyển thượng’’), Nakatsumaki (‘’quyển trung’’) và Shimotsumaki (và

Phần "Kamitsumaki" mở đầu với lời tựa, khám phá các vị thần sáng tạo và sự hình thành của nhiều thần linh, đặc biệt là huyền thoại về nữ thần Mặt Trời Các tác giả dân gian đã khéo léo mã hóa ba yếu tố cốt lõi của văn hóa, bao gồm nghệ thuật, tư tưởng và sức mạnh, thông qua ba vị thần: nữ thần Nghệ thuật Uzume, thần

Tư tưởng Omoikane, thần Sức mạnh Tazikarao cùng những mối tương quan để hổ trợ và tôn vinh nữ thần Mặt Trời.

Phần "Nakatsumaki" kể về Thiên hoàng Jimmu, vị Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản, và kết thúc với Thiên hoàng thứ 15, Ōjin Nhiều câu chuyện trong phần này mang tính thần thoại, dẫn đến việc thông tin lịch sử không hoàn toàn chính xác Đáng chú ý, thành tích của các Thiên hoàng từ thứ 2 đến thứ 9 vẫn chưa được ghi chép rõ ràng, và các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra những nguyên nhân có thể cho sự thiếu hụt này.

Thiên hoàng này được tạo ra để lùi việc đăng cơ của Jimmu lại năm 660 TCN.

Phần "Shimotsumaki" ghi chép về các Thiên hoàng từ thứ 16 đến thứ 33, nổi bật với việc ít đề cập đến các vị thần hơn so với các phần trước Thông tin chi tiết về các Thiên hoàng từ thứ 24 trở đi cũng được trình bày rõ ràng trong phần này.

Kojiki không chỉ là một sử thư mà còn là một tác phẩm nghệ thuật, mang đến những sự thật về tâm lý con người trong bối cảnh nghịch cảnh Nó phản ánh những suy nghĩ và phản ứng của con người, từ sự trào lộng đến bi đát Huyền thoại trong Kojiki thể hiện sự thật nội tại, sâu sắc về trái tim và giấc mộng của con người, chứ không chỉ là những sự kiện vô hồn.

IV Sơ lược về nội dung tác phẩm KOJIKI (Cổ sự ký):

Trong quyển thượng của Kojiki, câu chuyện về việc tạo thiên lập địa theo thần thoại Nhật Bản được kể lại qua hình ảnh hai vị thần Izanaki và Izanami Họ đã nhận lệnh từ Kotoamatsu-kami để rời khỏi cõi thần và thành lập một đất nước lý tưởng Nam thần Izanaki đã dùng ngọn giáo của mình thọc xuống một vũng bầy nhầy, từ đó tạo ra hòn đảo muối Sau khi định cư tại đây, hai vị thần đã kết hôn và Izanami đã sinh ra nước Nhật.

(Ôyashimaguni, Đại Bát Đảo Quốc) và các thần núi, biển, gió, cây cỏ nhưng khi đẻ ra thần hỏa thì bị lửa táp, phải về Cõi Chết

NIHONGI (Nhật Bản kỉ)

Bộ Nihongi tức là Nihon Shoki (Nhật Bản thư kỉ) ra đời năm

720, tương truyền do Hoàng thân Toneri 1 (Toneri Shinno) và

Yasumaro làm tổng biên tập, nghĩa là sau Kojiki chỉ có 8 năm, theo lệnh của thiên hoàng thứ 44 Gensho Đó là tập sử biên niên

2 viết bằng chữ Hán và ghi lại những biến cố từ thời chư thần lập quốc đến đời (nữ) Thiên hoàng thứ 41 Jito (trị vì 686-697).

Nihongi là một bộ sách có tham vọng cao hơn Kojiki, không chỉ kể lại huyền sử mà còn diễn giải chúng, mang tính chất sử học rõ rệt Mặc dù có nhiều điểm tương đồng với Kojiki, Nihongi chủ yếu tập trung vào việc miêu tả thần thoại và lịch sử một cách sâu sắc hơn Bên cạnh đó, tác phẩm này cũng cố ý bắt chước các sử thư Trung Quốc, thể hiện sự ảnh hưởng văn hóa rõ nét.

“Sử Ký” của Tư Mã Thiên và “Hán Thư” của Ban Cố.

Nihon Shoki được coi là bộ sử đầu tiên trong sáu bộ sử của Nhật Bản, được gọi là Lục Quốc Sử (Rikkokushi) Năm bộ sử còn lại cũng được biên soạn bởi các quan trong triều theo chỉ thị của nhà vua, trong đó có Shoku.

Nihongi (Tục Nhật Bản Kỷ, 797, 40 quyển), Nihon koki (Nhật Bản hậu kỷ, 840, 40 quyển), Shoku Nihon koki (Tục Nhật Bản hậu kỷ,

Nihon Montoku Tenno jitsuroku (879, 10 quyển) và Nihon sandai jitsuroku (901, 50 quyển) ghi chép về các triều đại thiên hoàng sau này Trong thời kỳ Heian, quyền lực của gia tộc Fujiwara đã cản trở việc biên soạn lịch sử, lo ngại rằng những âm mưu chính trị của họ sẽ bị phát giác.

Nihon Shoki là một tác phẩm gồm 30 quyển, chứa đựng nhiều thần thoại và truyền thuyết tương đồng với Kojiki, nhưng được ghi chép theo phương pháp sử học tinh tế hơn Chẳng hạn, trong phần nói về các vị thần, Nihon Shoki thường sử dụng cụm từ “Có sách viết…” để trình bày và so sánh nhiều thuyết khác nhau, cho thấy sự tham khảo từ nhiều nguồn tư liệu phong phú Hơn nữa, cách trình bày của sách rất mạch lạc và dễ hiểu.

Thân Vương Toneri (676-735) là con trai của Thiên hoàng thứ 40 Tenmu và đã phục vụ dưới 4 triều đại Thiên hoàng (42, 43, 44, 45) là Mommu, Genmei, Gensho và Shomu Ông được biết đến với trí tuệ sắc sảo và là một nhà thơ nổi tiếng trong Manyoshuu Trong tiếng Nhật cổ, danh xưng Toneri ám chỉ những người thuộc lực lượng cận vệ, thường là con cháu của quý tộc.

Biên niên là phương pháp viết sử mà trình bày các sự kiện theo trình tự thời gian, khác với truyện ký, trong đó có sự phân chia rõ ràng giữa bản kỷ (đế vương) và liệt truyện (nhân vật quan trọng).

Rikkokushi (Lục Quốc Sử) là bộ sử gồm sáu tác phẩm viết bằng chữ Hán, ghi chép lịch sử từ thời kỳ chư thần lập quốc cho đến triều Thiên hoàng thứ 58 Kôkô (Quang Hiếu, trị vì 884-887) Bộ sử này bắt đầu với quyển Nihon shoki (viết năm 720) và kết thúc bằng Nihon sandai jitsuroku (Nhật Bản Tam Đại Thực Lục, 901), cung cấp những thông tin lịch sử đáng tin cậy Có thể thấy rằng, việc biên soạn bộ sách này nhằm nâng cao uy tín của quốc gia trong bối cảnh đối ngoại.

Ishimoda Tadashi, trong tác phẩm "Nihon no kodai kokka," dựa trên các tài liệu như Tùy thư, Đường thư và Nihon shoki, cho rằng đây là văn kiện mà các sứ thần Nhật Bản sử dụng để trình bày về đất nước mình khi trả lời câu hỏi của hoàng đế nhà Tùy và Đường Ảnh hưởng từ lối viết sử thư của Trung Quốc được thể hiện rõ, đặc biệt qua truyền thuyết về vợ Hoàng tử Yamato Takeru Mikoto (được viết với tên chữ Hán là Nhật Bản Vũ Tôn), người đã nhảy xuống biển để làm nguôi giận hải thần, từ đó tiết lộ nguồn gốc và quê quán của bà cùng các vùng biển mà họ đã đi qua.

Trong 30 quyển chỉ có quyển 1 và 2 nói về thời các thần, 28 quyển sau nói về thời của con người, có ngày tháng năm rõ ràng, cạnh chính văn còn có các loại biệt truyện bên lề Có những đọan sử rất hào hứng như đoạn liên quan đến việc đảo chánh và tru diệt tập đoàn Soga Emishi và Iruka vào năm 644 (trong quyển

24) do hoàng tử Naka no Ôe (Trung Đại Huynh, sau này là thiên hoàng Thiên Trí tức Tenji) chủ mưu, cuộc trấn áp hoàng tử Arima cũng do một tay Naka no Ôe dưới thời nữ thiên hoàng Saimei, mẹ ông, năm 658 (quyển 26) và cuộc tranh ngôi giữa hai chú cháu hai Thiên hoàng Tenmu và Kobun (con Tenji) năm Nhâm Thân 672 (quyển 28).

Theo Barrow, tác phẩm "Nihongi hay Nihon Shoki" là một trong những tác phẩm văn học quan trọng nhất của Nhật Bản, cung cấp cái nhìn toàn diện về Nhật Bản cổ đại khi văn hóa mới đang hình thành Ảnh hưởng của "Nihongi" đối với văn chương Nhật Bản rất lớn, và đến nay, giá trị của nó vẫn tươi mới như khi được viết cách đây một ngàn năm Sau một ngàn năm, tác phẩm này vẫn giữ vững vinh quang và tính ứng dụng, chứng tỏ nó là một cuốn sách vĩ đại.

Văn xuôi Nhật Bản đã tạo ra hai tác phẩm vĩ đại là Kojiki và Nihongi ngay từ những bước đi đầu tiên, điều này thật sự đáng ngạc nhiên khi chúng được viết bằng hai ngôn ngữ khác nhau.

Tính văn học của Ký Kỷ

Việc biên tập Kojiki và Nihon Shoki, hay còn gọi là Ký Kỷ, nhằm mục đích củng cố quyền lực của hoàng tộc xuất thân từ Nam Kyuushuu Do đó, hai tác phẩm này không được coi là "bài thơ tự sự của một dân tộc" như thường được thảo luận.

1 Ishimoda Takashi (Thạch Mẫu, Điền Chính), dẫn bởi Kataao Shuuichi, quyển1, trang 41.

Nihongi, phiên bản tiếng Anh do W.G Aston dịch, với lời giới thiệu của Terence Barrow, được xuất bản bởi Charles E Tuttle tại Tokyo vào năm 1990, trang 5 và 8, nhấn mạnh giá trị của thần thoại Tuy nhiên, không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều được chính quyền tự ý sáng tác.

Ký Kỷ, bao gồm Kojiki và Nihon Shoki, là nơi giao thoa của hai dòng văn học: một dòng dân gian từ thời Yayoi (300 trước CN) đến thế kỷ thứ bảy và một dòng trí thức chịu ảnh hưởng bên ngoài từ thế kỷ thứ bảy đến thứ tám Lối viết trong Ký Kỷ mang tính dân gian, thể hiện qua cách diễn đạt tự nhiên, đôi khi lạc đề và có những chi tiết thêm thắt làm mất cân đối Mặc dù Ký Kỷ được tầng lớp cai trị sử dụng để chính thống hóa triều đại, nó vẫn giữ lại dấu vết của truyền thống văn học dân gian Tác phẩm ghi lại những sự kiện chính trị, như thiên hoàng Nintoku thương dân nghèo và tha thuế, nhưng cũng phản ánh các câu chuyện cá nhân như sự ghen tuông của hoàng hậu và những mối quan hệ phức tạp trong triều đình, thể hiện sự hòa quyện giữa chính trị và đời sống thường nhật.

“mâu thuẫn” ấy đã làm mất đi tính cách thiêng liêng của vị

“Thánh đế” Nintoku đã khiến nhiều nhà giải thích lịch sử theo hướng ái quốc cực đoan cảm thấy thất vọng Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy rằng các đế vương thời cổ đại cũng có những cảm xúc rất con người, giống như chúng ta ngày nay.

Ký Kỷ đã khéo léo đưa những bài ca dao mang đậm bản sắc nông dân vào lời nói của các anh hùng trong truyền thuyết Những bài ca này vẫn giữ được tính dân gian rõ nét, không đề cập đến những khái niệm cao siêu hay thành tựu vĩ đại, mà chỉ phản ánh những tình cảm giản dị và gần gũi trong cuộc sống thường ngày như tình yêu, nỗi nhớ gia đình và quê hương.

20 Sự xuất hiện của Amaterasu

Thơ ca từ mọi nèo đường đời Manyoshu (Vạn Diệp tập)

Thông tin khái quát về tác phẩm

Về ý nghĩa của nhan đề Manyoshu (Vạn Diệp Tập), ít nhất có bốn giả thuyết:

1) Thuyết của Shaku Sengaku, Kamo no Mabuchi, Kata no

Azumamaro: “vạn lời nói” bởi vì lời nói trong tiếng Nhật viết bằng 2 chữ Hán “ngôn diệp” (koto no ha, kotoba).

2) Thuyết của Keichuu, Kitamura Kigin, Kamochi Masazumi: diệp là đời (yo) nên tên thi tập phải là “sách hay truyền được đến muôn đời sau”.

3) Thuyết của Ueda Akinari và Tiến sĩ Okada Masayuki: diệp là lá cây, ý nói số bài nhiều như số lá cây – “tập thơ của mười ngàn chiếc lá” (thi diệp)

4) Thuyết cho rằng vạn diệp là số trang giấy, nên gọi là “tập thơ vạn trang”. Để khỏi phải rơi vào ngõ cụt của cuộc tranh luận xem Manyo là “muôn đời”, “vạn chiếc lá” hay “vạn bài thơ”, tưởng cần nhắc đến một khả năng của tiếng Nhật (và cũng có thể tìm thấy trong các ngôn ngữ khác), đó là cách sử dụng kakekotoba (荘荘) 1 nhờ nó, một âm có thể nói lên đưọc nhiều nghĩa tùy theo văn mạch.

Về người soạn hay người biên tập, lại có đến 5 thuyết:

5) Thuyết Thiên hoàng Heizei hạ lệnh soạn.

6) Thuyết nhà quí tộc Tachibana no Moroe soạn.

7) Thuyết thi hào Otomo no Yakamochi soạn.

8) Thuyết Tachibana Moroe và Otomo no Yakamochi cùng soạn.

9) Thuyết tác giả vô danh nhưng những bản Manyoshu xuất hiện từ sau thời Otomo no Yakamochi là do ông soạn.

Với 5 thuyết đó, các nhà chú giải như cha con Fujiwara noShunzei và Teika, các ông Sengaku, Keichuu…mỗi người lại đưa ra bằng cớ để bênh vực cho một thuyết, khi thì cho là Yakamochi,khi thì cho là Moroe, khi thì

Thể thơ Waka của Nhật Bản sử dụng nhiều loại tu từ, trong đó có một loại đặc trưng Việc xác định ai là người soạn thảo Manyoshu, liệu là một cá nhân hay nhiều người, và thời điểm cụ thể vẫn còn là điều chưa rõ ràng Tuy nhiên, có thể suy luận rằng Otomo no Yakamochi là người có vai trò quan trọng nhất trong việc biên soạn tác phẩm này.

III Nội dung và hình thức nói chung:

1 Phân loại theo thể loại thơ:

Vạn diệp tập là một bộ sưu tập gồm 20 cuốn sách với 4,496 bài thơ được viết bằng chữ Nhật kana và manyogana, sử dụng hệ thống ghi âm tiếng Nhật qua chữ Hán Bộ tác phẩm này bao gồm ba thể thơ truyền thống của Nhật Bản.

• Tanka (荘荘 đoản ca), thể loại thơ với 31 âm tiết trong 5 câu trong theo cú pháp 5+7+5+7+7, chiếm số lượng lớn nhất trong Vạn diệp tập với 4173 bài.

• Choka (荘荘 trường ca, còn gọi là nagauta), thể loại thơ không giới hạn về số câu, có khi dài đến 150 câu, trong Vạn diệp tập có 262 bài.

• Sedoka (荘荘荘 toàn/tuyền đầu ca, tức thể thơ lặp lại phần đầu), mỗi bài có 38 âm tiết chia 6 dòng (5+7+7 và 5+7+7), trong Vạn diệp tập có 61 bài.

Một số tài liệu làm tròn số Vạn diệp tập gồm 4500 bài thơ trong đó có 4200 bài tanka, 260 choka và 60 sedoka.

Trong thời kỳ Nara, hai thể thơ choka và sedoka từng nổi bật nhưng dần mất đi sự ưa chuộng, hiện nay các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa vào hợp tuyển Vạn diệp tập để tìm hiểu Ngược lại, thể tanka vẫn phát triển mạnh mẽ và được coi là thể thơ quan trọng nhất trong mười hai thế kỷ thơ ca Nhật Bản, được gọi là waka (荘荘, Hòa ca, thơ Nhật) Dù waka ban đầu là tên chung cho các thể thơ Nhật Bản nhằm phân biệt với thơ Trung Quốc, từ cuối thế kỷ 8, nó đã trở thành đồng nghĩa với tanka.

2 Phân loại theo đề tài:

Vạn diệp tập là bộ bách khoa thư toàn diện về văn hóa, con người và đất nước Nhật Bản cổ xưa, bao quát nhiều chủ đề phong phú, tập trung vào ba lĩnh vực chính.

• Tạp ca (zoka) miêu tả những chuyến ngao du, những bữa tiệc, những truyền thuyết, nói chung là những vấn đề xã hội;

• Tương văn ca (somonka) chủ yếu nói về tình yêu nam nữ;

• Vãn ca (banka) là những bi ca về cái chết.

Ngoài việc phân loại thơ ca Trung Hoa theo các kiểu truyền thống, Vạn diệp tập còn có thể được phân chia theo chủ đề như thơ thù tạc, thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ thường nhật, thơ nhật ký và thơ viễn du Tuy nhiên, trong tập thơ này hầu như không xuất hiện các bài thơ giáo huấn, thơ thời sự, thơ châm biếm hay phản ánh chiến tranh, những thể loại phổ biến trong thơ ca Trung Hoa thời Đường Điều này cho thấy mặc dù văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng lớn đến đời sống Nhật Bản trong giai đoạn này, các thi nhân Nhật Bản cổ xưa vẫn chủ yếu tìm nguồn cảm hứng từ tiếng nói, tình cảm, tâm hồn và quê hương của họ.

3 Phân chia theo lịch đại và các tác giả tiêu biểu:

Cách phân chia này cho phép tách thơ của Vạn diệp tập thành 4 thời kỳ:

• Thời kỳ đầu kéo dài từ huyền sử đến loạn Jinshin năm 672

Những nhà thơ trong thời kỳ này thuộc tầng lớp quý tộc cao nhất, bao gồm các thiên hoàng và hoàng thân quốc thích Đặc biệt, công chúa Nukada, một nhà thơ nữ vĩ đại, đã để lại dấu ấn với những bài thơ waka tuyệt đẹp, được xem như những đóa hoa đầu mùa của văn chương nữ lưu.

Thời kỳ thứ hai, kéo dài khoảng 40 năm trước khi Nara được thành lập vào năm 710, là giai đoạn nổi bật với sự hiện diện của nhà thơ kiệt xuất Kakinomoto no Hitomaro Ảnh hưởng của ông lan tỏa qua Vạn diệp tập, bao gồm 19 bài choka và 75 bài tanka, cùng với 380 bài thơ được lấy từ Hitomaro ca tập (Hitomaro kashu), trong đó nhiều bài thơ vẫn chưa xác định được tác giả chính xác là Hitomaro.

• Thời kỳ thứ ba gồm 30 năm đầu của thế kỷ thứ VIII, với các nhà thơ nổi tiếng như Akahito, Tabito, Okura v.v

• Thời kỳ thứ tư của Vạn diệp tập gồm 30 năm từ năm 730 đến

Vào năm 759, khi Yakamochi 42 tuổi, ông đã trở thành biểu tượng vinh quang trong thời kỳ cuối của Vạn Diệp Tập, ghi dấu ấn mạnh mẽ trong lịch sử văn học.

4 Về thời đại các tác phẩm:

Cổ nhất trong Manyoshu là ngự chế của Hoàng hậu Iwanohime, vợ của Thiên hoàng Nintoku, vua thứ 16 vào khoảng thế kỷ thứ 5 Bài thơ này được ký hiệu 2-85 1.

荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘

1 Ký hiệu 2-85 có nghĩa là bài số 85 đối với 4516 bài của toàn tập và nằm trong quyển

2, còn ký hiệu 20- 4516 nghĩa là bài thơ số 4516 (bài cuối cùng) nằm trong quyển 20 (quyển cuối cùng)

Kimi ga yuki /ke nagaku narinu/ yamatazune/ mukaeka ikan/ machinika matan

Thiên hoàng đã đi tuần du từ lâu, khiến thiếp băn khoăn không biết nên lên núi tìm kiếm ngài hay chỉ ngồi đây chờ đợi mòn mỏi.

Mới nhất trong Manyoshu là tác phẩm của Ôtomo no

Yakamochi (ký hiệu 20-4516) làm trong năm Tempyo Hoji thứ 3

(759) đời Thiên hoàng thứ 47 Junnnin:

荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘

Atarashiki/ toshi no hajime no/ hatsuharu no/ kyô furu yuki no/ iyashike yogoto

(Mong sao cho những điều lành cũng ngập tràn trong năm cũng như lượng tuyết đổ xuống trong ngày đầu năm mới như hôm nay).

Giữa bài thơ xưa nhất và bài thơ mới nhất có một khoảng cách 400 năm Thơ ra đời nhiều nhất là trong khoảng thời gian

Trong suốt 100 năm và 11 đời vua, từ Nữ thiên hoàng Saimei đến Thiên hoàng Junnin, các tác phẩm thơ ca đã được ghi chép lại Những bài thơ cổ xưa nhất nằm trong ba quyển 1, 2, và 13, trong khi bốn quyển 17, 18, 19, và 20 chứa đựng những bài thơ mới nhất Mười ba quyển còn lại là nơi lưu giữ các tác phẩm sáng tác trong khoảng thời gian giữa hai giai đoạn này.

5 Nội dung các quyển thơ:

Quyển 1 và 2: Hai quyển này tương đối hoàn chỉnh hơn cả Quyển đầu có zoka, quyển sau có somonka và banka, gộp cả hai lại đã có thể thành một tập thơ hẳn hoi Điều này có thể xem như bằng chứng bảo vệ luận cứ cho rằng Manyoshu là một tập thơ soạn theo sắc chiếu (ít nhất cho đến phần này) Hơn nữa, quyển

Manyo no gotaika (Vạn diệp ngũ đại gia)

Manyo no gotaika (Vạn diệp ngũ đại gia) hay Manyo no gomeihitsu (Vạn diệp ngũ danh bút) là danh hiệu được người Nhật dành tặng cho các nhà thơ nổi bật trong tác phẩm Manyoshu, bao gồm Hitomaro.

710) dưới nét bút Utagawa Kuniyoshi)

Con số tác giả có tên trong Manyoshu lên đến con số 500 người, nhưng

Hitomaro là ông vua không ngai của tất cả Ví von về ông, giáo sư Uemura

Etsuko coi ông như ngọn Phú Sĩ đơn độc, vươn cao giữa các ngọn núi Bà ước tính ông để lại 87 bài thơ, trong đó có 36 bài tanka và 16 bài chôka được xác định rõ ràng, còn lại là phỏng đoán Dù số lượng bài thơ của ông ít hơn nhiều so với Yakamochi (479 bài), nhưng điều này cũng dễ hiểu vì Yakamochi được xem là nhà biên soạn chính của tuyển tập thơ.

Ông được tôn vinh là đại thi hào tiêu biểu của thời Manyo nhờ những đóng góp to lớn cho làng thơ, đặc biệt trong việc hoàn thiện thể thơ dài choka Ông phát triển kỹ xảo tu sức trong biểu hiện và âm nhạc hóa thơ, dẫn đến sự ra đời của Manyocho (Vạn Diệp điệu) - âm điệu đặc trưng của Manyo Với ý thức quốc gia mạnh mẽ, ông đã thành công trong việc nâng cao nhận thức này qua thi ca, nhận được sự ủng hộ từ đông đảo độc giả.

Hitomaro là tác giả nổi bật với những bài trường ca mang đậm cảm xúc, thể hiện vinh quang và bi tráng của đất nước Ông thường sử dụng hình thức thơ cực dài (daichoka) để bày tỏ tâm trạng và nhân sinh quan, đồng thời thể hiện lòng sùng bái Thiên hoàng như một vị thần Trong các tác phẩm của mình, Hitomaro không chỉ trực tiếp miêu tả cảnh vật mà còn khơi gợi ký ức từ quá khứ, ca ngợi nhân cách và công lao của những người đi trước Qua đó, ông truyền tải niềm tự hào về đế đô và những thời kỳ huy hoàng đã qua.

Hitomaro là một nhà thơ đam mê lý tưởng thẩm mỹ, với mục tiêu tìm kiếm cái đẹp trong từng tác phẩm Thơ của ông thường bắt đầu bằng những âm điệu nhẹ nhàng, sau đó dâng lên mạnh mẽ và bùng nổ, nhưng vẫn giữ được sự cân bằng trong cấu trúc Nội dung thơ thường chia thành ba phần, trong đó phần tự sự chiếm ưu thế, còn lại dành cho mô tả tình cảm nội tâm Ông đặc biệt chú trọng đến thiên nhiên, thể hiện qua hình thức tanka, nhưng chủ yếu là diễn tả cảm xúc sâu sắc Thơ của Hitomaro kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên bên ngoài và suy tư nội tâm, tạo ra những tác phẩm vừa tả tình vừa tả cảnh Ông không chỉ trình bày cảm xúc một cách thô sơ mà còn biễu diễn bằng âm luật, mang đến cho thơ một nhịp điệu và vẻ đẹp trang trọng, hùng tráng.

Tóm lại, đánh giá Hitomaro là thi nhân hàng đầu trong thời kỳ Vạn Diệp và là một trong những ngôi sao sáng giá nhất của nền thơ Nhật Bản là hoàn toàn hợp lý.

2 Trích thơ của ông Hitomaro Đây là bài bi ca nổi tiếng Hitomaro soạn sau cái chết của người vợ, bài số 210 trong Manyoshu:

I'm sorry, but the content you provided appears to be a series of repeated characters and does not convey any coherent meaning Please provide a different text or specific content that you would like me to rewrite.

荘荘 荘荘荘荘 荘荘荘荘荘 荘荘 荘荘荘 荘荘 荘荘荘荘

I'm sorry, but the content you provided appears to be nonsensical or repetitive and doesn't convey any coherent meaning Please provide a different text or more specific information for me to assist you in rewriting it.

荘 荘荘荘荘 荘荘 荘荘荘荘 荘荘荘荘

Dạng huấn độc (đã chua âm):

The content appears to be repetitive and lacks meaningful information Please provide a more detailed article or specific topics you'd like to cover, so I can help rewrite it effectively while ensuring it adheres to SEO guidelines.

It seems that the content you provided consists of repeated characters and does not convey any meaningful information Please provide a different text or specify the topic you'd like to focus on for the rewrite.

The article emphasizes the significance of creating engaging content that resonates with the audience It highlights the importance of using relevant keywords to enhance SEO performance, ensuring that the content is easily discoverable by search engines Additionally, the piece discusses the value of maintaining a coherent structure and flow throughout the article, which helps in retaining readers' attention Ultimately, it underscores the necessity of balancing creativity with strategic optimization to achieve effective content marketing.

The content appears to be repetitive and lacks coherent meaning Therefore, a rewritten paragraph based on the original text cannot be provided, as it does not contain meaningful sentences or ideas to convey Please provide a different text or more specific information for rewriting.

I'm sorry, but it seems that the content you've provided is not meaningful or coherent text Please provide a different article or more specific content that you'd like me to help rewrite.

In the serene embrace of spring, two souls reminisce beneath the moonlit trees, their hearts intertwined like the delicate blossoms of the season The gentle stirrings of nature evoke a sense of longing and reflection, as they navigate the complexities of life together Amidst the vibrant greenery, their bond deepens, symbolizing the beauty of shared experiences and the quiet strength found in companionship As they rest in the warmth of their shared space, the essence of love and connection flourishes, reminding them of the joy that comes from simply being together.

In the quiet of the night, the essence of life reveals itself, even amidst the struggles we face Though we may feel lost, the connections we share resonate like the waves of the ocean The beauty of nature, represented by the mountains and the blooming flowers, reminds us of our roots and the transient nature of existence As we reflect on our experiences, we find that even the most fleeting moments hold profound significance, urging us to cherish the hidden gems of life that often go unnoticed.

Thiên nhiên bốn mùa trong Manyoshu

Bên cạnh tình yêu, hầu như không bao giờ các nhà thơ

Manyoshu lại quên diễn tả cái đẹp của thiên nhiên.

Người Nhật thời xưa có mối liên hệ sâu sắc với thiên nhiên, thể hiện qua thái độ đồng cảm và phản ứng tích cực Trong tác phẩm Manyoshu, có loại thơ shiki (tứ quí) phản ánh bốn mùa, được tác giả Hanai Shiori tuyển chọn 366 bài thơ để diễn tả tâm tình của người Nhật mỗi ngày trong năm Quyển sách của bà, mang tên Manyoshu Ichinichi Isshu (Vạn Diệp Tập Nhất Nhật Nhất Thủ), được phát hành vào tháng giêng năm 2009.

Thiên nhiên Nhật Bản là một bức tranh sống động của bốn mùa, thể hiện vẻ đẹp tuyệt vời qua tuyết, ánh trăng, sương mù, hoa cỏ, núi đồi, sóng biển và suối khe Các nhà thơ Nhật Bản thường tập trung vào vẻ đẹp riêng biệt của quê hương mà không nhắc đến núi sông hay điển cố từ Trung Quốc.

Vẻ đẹp của núi Fuji, biển Iwami, mũi Kara… đã đầy đủ cho đôi mắt và tâm hồn họ.

Tình yêu và thiên nhiên thường gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ Nhật Bản Họ thường mượn hình ảnh thiên nhiên để bày tỏ tình cảm, đồng thời nhìn nhận thế giới xung quanh qua lăng kính của tình yêu, biến thiên nhiên thành một phần không thể thiếu trong những tác phẩm của mình.

Người Nhật với tín ngưỡng dân gian tin rằng thần linh hiện diện trong mọi hiện tượng thiên nhiên, vì vậy họ rất trân trọng từng dòng nước và cọng cỏ dại Trước vẻ đẹp tuyệt tác của núi Fuji, lòng ngưỡng mộ của họ dường như là vô hạn.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu những bài thơ tiêu biểu từ Manyoshu, thể hiện vẻ đẹp của mỗi mùa Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thiên nhiên không bị giới hạn bởi thời gian, vì trong mùa xuân đã có dấu hiệu của mùa hè, và những ngày cuối thu cũng mang đến cảm nhận của mùa đông sắp đến.

II Thơ mùa xuân (bài 818):

It seems that the content provided is not meaningful text, as it consists solely of repeated characters Please provide a coherent article or text for me to rewrite.

Dạng huấn độc (đã chua âm):

荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘

Haru sareba / mazu saku yado no / ume no hana / hitori mitsutsu ya / haru hi kurasamu /

Khi mùa xuân đến, hoa mơ nở rực rỡ, trở thành biểu tượng của mùa này với cái tên “hoa khôi” Trong không khí xuân, chỉ riêng ta ngồi ngắm hoa suốt cả ngày, cảm nhận vẻ đẹp độc đáo của hoa mơ Đây chính là nguồn cảm hứng cho bài thơ “mai hoa ca” nổi tiếng trong yến tiệc của tao đàn do Otomo no Tabito tổ chức tại Kyuushuu.

Ume no hana, hay hoa mơ, là kigo đặc trưng cho mùa xuân, đặc biệt là tháng giêng Trong khi người thưởng hoa cảm thấy vui vẻ, tác giả lại mang nỗi buồn vì sự trôi qua của mùa xuân.

Yamanoue Okura đã đồng hành cùng Tabito, cha của Otomo no Yakamochi, trong chuyến đi đến Dazaifu để đảm nhận chức vụ phó nhậm Sau đó, ông trở thành một thành viên trong phái đoàn sứ bộ sang triều Đường.

Mỗi khi mùa xuân đến, cành mơ bên nhà xưa nở rộ sớm hơn cả những loài hoa khác, khiến ta cảm thấy như chỉ mình ta thưởng thức vẻ đẹp của hoa và mùa xuân đang trôi qua.

III Thơ mùa hạ (bài 4066):

The content provided appears to be repetitive and lacks meaningful information Please provide a more detailed article or specific topics you'd like to focus on for rewriting.

Dạng huấn độc (đã chua âm):

荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘荘

U no hana no / saku tsuki tachinu / hototogisu / kinaki to yome yo / fufumitari tomo /

Hoa u (u no hana, hoa mão) nở vào tháng Mão, hay còn gọi là tháng uzuki, tháng gieo mạ (naeuezuki) trong âm lịch Tháng tư âm lịch đánh dấu sự khởi đầu của mùa hè, khi hoa u bắt đầu nhú mầm và tiếng chim cuốc (hototogisu), hay chim tháng Mão (uzukidori), vang lên như tín hiệu của mùa hè Trong hệ thống thập nhị can chi, Mão đứng ở vị trí thứ tư và tại Nhật Bản, tháng này được biểu tượng bằng hình ảnh con thỏ thay vì mèo.

Bài thơ của Otomo Yakamochi được sáng tác trong một buổi yến tiệc năm 748 tại Takaoka, tỉnh Toyama, nơi ông giữ chức trưởng quan Ông đã cùng với các văn nhân tài tử địa phương thưởng thức tiếng cuốc đầu tiên (hatsune) trong không khí vui tươi của buổi lễ.

Kigo là một thuật ngữ trong thơ ca Nhật Bản, liên quan đến mùa đặc biệt và thường xuất hiện trong các hình thức thơ như renga, renku và haiku Nó chỉ rõ mùa mà bài thơ đề cập đến, ví dụ như mùa hè với hình ảnh hoa u (mão) sắp nở Trong bối cảnh tháng mão, tác giả mời gọi chim cuốc, biểu tượng của tháng này, đến hót, thể hiện sự kết nối giữa thiên nhiên và thời gian trong thơ ca.

Tháng Mão đã đến, báo hiệu sự khởi đầu của mùa hè Hoa Mão nở rộ với những nụ hoa mới, trong khi tiếng chim cuốc bỗng dưng im lặng Mặc dù được biết đến là chim tháng Mão, nhưng sao vẫn chưa thấy chúng cất tiếng hót?

IV Thơ mùa thu (bài 4515):

荘荘荘 荘荘荘荘荘荘荘 荘荘荘荘 荘荘荘荘荘荘荘 荘荘荘荘荘荘荘

Dạng huấn độc (đã chua âm):

Các đề tài khác

Tập hợp một nền thơ ca lớn, Vạn diệp tập bao quát 3 đề tài quan trọng nhất là thiên nhiên, tình yêu và xã hội.

Manyoshu chú trọng đến các huyền thoại và truyền thuyết dân gian, nổi bật với những nhân vật cổ tích như chàng đánh cá Urashima cùng các mỹ nhân Tekona và Unai Sắc đẹp của họ không chỉ thu hút mà còn là nguyên nhân dẫn đến cái chết của chính họ và những người theo đuổi.

Urashima biểu trưng cho khát vọng sâu sắc trong tâm hồn con người, thể hiện sự phân chia nội tâm giữa hai nửa: một nửa khao khát vĩnh cửu, trong khi nửa còn lại lại mong muốn sự vô thường.

Mặc dù ít được chú trọng, nhưng mảng đề tài xã hội như cuộc sống nghèo khốn, lầm than, sự vinh quang của đất nước và những chuyến đi sứ vẫn hiện diện rõ nét trong Manyoshu.

Manyoshu là tiếng hát bất tuyệt về cuộc đời và thiên nhiên, một thi tuyển độc đáo và giàu sang, một công trình mà

W.Maumann gọi là “Thơ ca từ mọi nẻo đường đời của Nhật Bản ban sơ” 1

1 An invitation to Japan’s literature, Japan Culture institute, 1974, trang 44

Sự ra đời của chữ viết và sự truyền bá Phật giáo đã tạo nền tảng cho thơ văn Nhật Bản thời kỳ Nara, thể hiện sâu sắc tín ngưỡng tôn thờ cái đẹp Cái đẹp không chỉ là chuẩn mực trong nghệ thuật mà còn ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống người Nhật, từ chữ viết, trang phục đến ẩm thực Ngay cả hành động tự sát cũng được nhìn nhận qua lăng kính của cái đẹp, cho thấy sự thấm nhuần của giá trị này trong văn hóa Nhật Bản.

Văn học Nhật Bản khởi đầu với những tác phẩm ghi chép về truyền thuyết và huyền thoại, phản ánh cuộc sống giản dị của người dân Thời kỳ Nara chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học với các tác phẩm mang tính "huyền sử dân tộc", để lại di sản quý giá như "Huyền sử của dân tộc Kojiki và Nihongi" cùng tập thơ cổ Manyoshu Những tác phẩm này đã đặt nền móng cho sự phát triển của nền văn học Nhật Bản hiện đại.

Văn học Nhật Bản trải qua hơn ngàn năm phát triển, mang đến sự phong phú và đa dạng đáng kinh ngạc Khám phá sâu sắc về văn học này sẽ để lại ấn tượng mạnh mẽ, thể hiện cái đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và tâm hồn con người.

Cái bí ẩn của sự hòa hợp ấy là điều kì diệ mà thiên tài Nhật Bản đã vươn tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO https://thuvienhoasen.org/a10051/chuong-1-giai-doan-du- nhap-va- tiep-nhan-thoi-nara-va-heian https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB

The Nara period (710-794) marked a significant era in Japanese literature, characterized by the establishment of a unique literary identity influenced by Chinese culture Key literary works from this time include historical texts, poetry, and religious writings that reflect the social and political landscape of the period The growth of Buddhism played a crucial role in shaping literary themes, while the introduction of kana scripts allowed for greater expression of the Japanese language This era laid the foundation for future literary developments in Japan, making it a pivotal point in the country's cultural history.

Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, Nhật Chiêu, NXB

Vietnam's education system has undergone significant changes since 2013, emphasizing the importance of language proficiency, particularly in Japanese Understanding Japan's historical context, such as the Nara period, is crucial for students studying the language Various resources, including educational websites and Wikipedia, provide valuable insights into the unique characteristics of the Japanese language and its cultural significance These elements are essential for fostering a deeper appreciation of Japan's rich heritage among Vietnamese learners.

Văn hóa Nhật Bản là một hệ thống phong phú và đa dạng, phản ánh lịch sử lâu dài và truyền thống độc đáo của đất nước này Từ nghệ thuật, ẩm thực cho đến các phong tục tập quán, văn hóa Nhật Bản thể hiện sự hòa quyện giữa hiện đại và cổ điển Đọc sách trực tuyến về lịch sử văn học Nhật Bản giúp hiểu rõ hơn về sự phát triển và ảnh hưởng của các tác phẩm nổi tiếng Nhật Bản cũng nổi bật với các giá trị như sự tôn trọng, tinh thần cộng đồng và sự kiên nhẫn, điều này được thể hiện rõ trong các hoạt động xã hội và nghệ thuật.

Fudoki (風土記) are ancient Japanese reports that document provincial culture, geography, and oral traditions, presented to the reigning monarchs These local gazetteers encompass agricultural, geographical, and historical records, alongside mythology and folklore Notably, Fudoki manuscripts preserve local myths, rituals, and poems that are absent in the Kojiki and Nihon Shoki chronicles, which are crucial to Japan's ancient mythology and history. **Kofudoki Significance**In a more specific context, Fudoki refers to the oldest records compiled during the Nara period, known as Old-Fudoki (古風土記, Kofudoki) The compilation began in 713, following the Taika Reform and the Code of Taihō, aimed at centralizing imperial power and accounting for lands under control Empress Genmei's decree in 713 mandated provincial governments to report various local information, including geographic names, land fertility, and oral myths. **Names and Manuscripts**Empress Genmei required place names in the provinces to be documented using two kanji characters with positive meanings, occasionally necessitating name changes At least 48 provinces contributed to the Fudoki records, with only the Izumo Fudoki remaining nearly complete Other provinces like Harima and Hizen have partial records, with some passages recognized as National Treasures.

On April 1, 2019, Japan officially changed its era name to Reiwa, marking the ascension of Emperor Naruhito after the Heisei era of Emperor Akihito Unlike most countries that use the Gregorian calendar, Japan employs a unique era system linked to individual emperors The name "Reiwa" was inspired by a poem from the ancient Japanese poetry collection, Manyoshu (万葉集), which is the oldest existing anthology of Japanese poetry, containing approximately 4,500 poems and dating back to the Heian period (794-1185) Manyoshu has significantly influenced Japanese literature and traditional art over the centuries, with notable poets such as Otomono Yakamochi and Kakinomoto no Hitomaro featured in modern Japanese textbooks The authorship of many poems in Manyoshu remains unknown, adding an element of mystery to its creation, with theories suggesting that Otomono Yakamochi may have contributed to its compilation The Reiwa era is symbolically linked to a poem about plum blossoms from Manyoshu, reflecting hopes for a peaceful new era amidst the harshness of winter.

Ngày đăng: 23/10/2021, 08:45

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w