1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

246 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bồi Dưỡng Trí Tuệ Cảm Xúc Trong Hoạt Động Nghề Nghiệp Cho Giáo Viên Mầm Non
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thị Như Mai, TS. Đinh Văn Vang
Trường học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Chuyên ngành Giáo dục Mầm non
Thể loại Luận án tiến sĩ khoa học giáo dục
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 246
Dung lượng 10,86 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (11)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (12)
  • 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu (13)
  • 4. Giả thuyết khoa học (13)
  • 5. Nhiệm vụ nghiên cứu (13)
  • 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu (13)
  • 7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu (14)
  • 8. Luận điểm bảo vệ (16)
  • 9. Đóng góp mới của luận án (16)
  • 10. Cấu trúc của luận án (16)
  • Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON (17)
    • 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề (17)
      • 1.1.1. Những nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc (17)
      • 1.1.2. Những nghiên cứu về bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc (20)
    • 1.2. Trí tuệ cảm xúc (26)
      • 1.2.1. Khái niệm trí tuệ cảm xúc (26)
      • 1.2.2. Cấu trúc trí tuệ cảm xúc (31)
      • 1.2.3. Vai trò của trí tuệ cảm xúc (36)
      • 1.2.4. Các phương pháp đo lường trí tuệ cảm xúc (38)
    • 1.3. Hoạt động nghề nghiệp và trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (40)
      • 1.3.1. Hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (40)
      • 1.3.2. Trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (49)
    • 1.4. Hoạt động bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (51)
      • 1.4.1. Khái niệm bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc (51)
      • 1.4.2. Ý nghĩa của việc bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (52)
      • 1.4.5. Hình thức bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (56)
      • 1.4.6. Quy trình bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (58)
    • 1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc và bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (60)
      • 1.5.1. Những yếu tố chủ quan (60)
      • 1.5.2. Những yếu tố khách quan (61)
  • Chương 2 THỰC TRẠNG BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON (65)
    • 2.1. Khái quát về khảo sát thực trạng (65)
      • 2.1.1. Mục đích khảo sát (65)
      • 2.1.2. Khách thể khảo sát (65)
      • 2.1.3. Địa bàn khảo sát: tại 04 quận nội thành TP. Hà Nội là Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm, Đống Đa, Hai Bà Trưng và 02 huyện ngoại thành là huyện Ba Vì và Ứng Hoà (65)
      • 2.1.4. Nội dung khảo sát (65)
      • 2.1.5. Phương pháp khảo sát (66)
      • 2.1.6. Kĩ thuật và công cụ đánh giá kết quả khảo sát (66)
    • 2.2. Phân tích kết quả khảo sát thực trạng (73)
      • 2.2.1. Thực trạng mức trí tuệ cảm xúc của giáo viên mầm non (73)
      • 2.2.2. Thực trạng bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (89)
      • 2.2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến sự nảy sinh cảm xúc của giáo viên mầm non trong hoạt động nghề nghiệp (98)
      • 2.2.4. Thực trạng kết quả bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non qua một số trường hợp nghiên cứu điển hình (101)
      • 2.2.5. Thực trạng cảm giác thoải mái và sự tham gia của trẻ trong các hoạt động ở trường mầm non (105)
  • Chương 3. BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON (110)
    • 3.1. Nguyên tắc xây dựng biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (110)
      • 3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp với sự phát triển cảm xúc của con người (110)
      • 3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện (110)
      • 3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và phát triển (111)
      • 3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn và khả thi (111)
    • 3.2. Biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (112)
      • 3.2.1. Nhóm biện pháp chuẩn bị bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (112)
      • 3.2.2. Nhóm biện pháp thực hiện bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (114)
      • 3.2.3. Nhóm biện pháp đánh giá và tiếp tục bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động hướng nghiệp cho giáo viên mầm non (126)
    • 3.3. Mối quan hệ giữa các nhóm biện pháp (135)
    • 3.4. Đánh giá của giáo viên về các biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non (137)
    • 3.5. Thực nghiệm sư phạm (138)
      • 3.5.1. Khái quát thực nghiệm sư phạm (138)
      • 3.5.2. Kết quả và phân tích kết quả thực nghiệm (143)
      • 3.5.3. Kết luận chung về thực nghiệm (157)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (163)
  • PHỤ LỤC (169)

Nội dung

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề trí tuệ và việc đo lường trí tuệ đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu (NC) trên cả bình diện lí luận và thực tiễn. Những thành tựu thu được trong việc NC về trí tuệ cũng đã làm thay đổi quan niệm về trí tuệ. Trí tuệ từ chỗ chỉ được hiểu là trí thông minh thì ngày nay đã được hiểu bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có trí thông minh, trí tuệ cảm xúc (TTCX) và trí sáng tạo, trí tuệ xã hội. TTCX được NC chính thức từ những năm 1990 và thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về TTCX. Hiểu một cách chung nhất, TTCX là loại hình trí tuệ thể hiện năng lực của chủ thể đối với các vấn đề có liên quan đến CX. Với những năng lực đó, TTCX giúp con người nhận biết, sử dụng và kiểm soát được CX của bản thân và của người khác, từ đó giúp chủ thể giải quyết tốt các tình huống giao tiếp ứng xử đang diễn ra trong cuộc sống. Theo đánh giá của các nhà khoa học, TTCX được xem là nhân tố dự đoán tốt cho sự thành công hay thất bại đối với những lĩnh vực công việc có liên quan đến con người. Các NC không chỉ khẳng định sự tồn tại của TTCX mà còn đi đến một kết luận rất quan trọng: TTCX có tương quan thuận với tuổi tác và kinh nghiệm sống, tức là có thể cải thiện TTCX bằng con đường luyện tập. Do vậy nhiều nhà khoa học đã XD chương trình bồi dưỡng (BD) TTCX cho con người nói chung và cho giáo viên (GV), như Chương trình SEL (Social Emotional Learning): BD CX xã hội của Elias, Zins và cộng sự; Chương trình phát triển TTCX của Hiệp hội quản lí Hoa Kì (American Management Association), của Đại học Sydney (University of Sydney); Chương trình đào tạo TTCX cho GV tại Israel của Dolev và Leshem (2016). ỞViệt Nam, các công trình NC về TTCX và BD TTCX cho GV mới được triển khai trong những năm gần đây và cũng chưa nhiều. Những NC chủ yếu tập trung vào GV cấp tiểu học, trung học cơ sở và sinh viên đại học, đề tài NC TTCX của GVMN và BD TTCX trong hoạt động nghề nghiệp (HĐNN) cho GVMN còn ít được nghiên cứu. Các công trình NC khoa học về vấn đề này đều có điểm chung đó là khẳng định vị trí, vai trò của trí tuệ CX như là một trong những kĩ năng XH cần thiết, là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự thành công của mỗi cá nhân trong cuộc sống. Điều này càng quan trọng đối với GVMN, những người chăm sóc, GD trẻ MN và có những đóng góp quan trọng cho giai đoạn đầu của sự hình thành nhân cách trẻ. Giáo dục Việt Nam đứng trước yêu cầu đổi mới nhằm đào tạo ra thế hệ công dân đáp ứng các xu thế phát triển chung toàn cầu. Thực hiện Chương trình nghị sự của Liên Hợp quốc về Phát triển bền vững 2030, Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì và phối hợp với các bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện một số mục tiêu quan trọng, trong đó, cấp học Mầm non thực hiện mục tiêu 4.2: “Đến năm 2030, đảm bảo tất cả các trẻ em gái và trai được tiếp cận với phát triển, chăm sóc giai đoạn trẻ thơ và GDMN có chất lượng để sẵn sàng bước vào cấp Tiểu học” [30]. 2 Từ mục tiêu nói trên, Chính phủ phê duyệt hai Đề án Phát triển toàn diện trẻ em [8]và Phát triển GDMN giai đoạn 2016 -2025 [9] với mục tiêu bảo đảm cho trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần; được bình đẳng tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc phát triển toàn diện theo độ tuổi nhằm thực hiện các quyền trẻ em, góp phần phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Luật GD, Chương trình GDMN quy định mục tiêu của GDMN nhằm phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một [37]; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời [5]. Như vậy, GDMN giữ vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách, phát hiện và tạo cơ hội để trẻ phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục không chỉ dừng lại ở việc trang bị kiến thức mà còn trang bị cho trẻ các kĩ năng và thái độ ứng xử đúng đắn để lĩnh hội và chiếm lĩnh tri thức, để an toàn khỏe mạnh, để chia sẻ và hợp tác vì một cộng đồng cùng chung sống và cùng phát triển bền vững. Để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, thời đại trong công tác CS - GD trẻ em Việt Nam, những năm gần đây, cấp học MN được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm, chất lượng CS - GD trẻ ngày càng được nâng cao. Số lượng và chất lượng đội ngũ GVMN cũng ngày càng được hoàn thiện. Nhiều GVMN tận tụy, yêu thương, hết lòng vì trẻ em. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận GVMN và người trông giữ trẻ vi phạm đạo đức nhà giáo, bạo hành, ngược đãi trẻ với nhiều mức độ và hành động khác nhau. Những hành động đó đã bị dư luận XH lên án mạnh mẽ. Xét từ góc độ xã hội, các hiện tượng đó một phần do nguyên nhân như: do áp lực công việc, sự thiếu hiểu biết về nghề, thiếu tình yêu đối với trẻ em của người CS - GD trẻ, nhưng đặc biệt phải kể đến khả năng kiểm soát CX và làm chủ bản thân còn nhiều hạn chế… GVMN là người làm nhiệm vụ CS - GD trẻ em trong trường MN, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. Công việc của GVMN có nhiều áp lực nặng nề như số trẻ trong một nhóm, lớp đông, thời gian làm việc nhiều, cường độ làm việc cao, việc đảm bảo an toàn cho trẻ, các mối quan hệ, giao tiếp đa dạng và nhạy cảm... Cùng với những kiến thức chuyên môn, sự hiểu biết xã hội, GVMN rất cần có năng lực TTCX để nâng cao hiệu quả CS - GD trẻ em. Việc BD TTCX cho GV MN cần được thực hiện thống nhất giữa các yếu tố: nhận thức, thái độ, hành vi với các biện pháp BD TTCX phù hợp với xu thế GD hiện đại, đem lại hiệu quả thiết thực trong quá trình đổi mới GD ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn trên, đề tài “Bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non” được lựa chọn nghiên cứu. 2.Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở NC lí luận và thực tiễn về BD năng lực nghề nghiệp cho GVMN, luận án đề xuất một số biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN, góp phần nâng cao chất lượng CS - GD trẻ em cho GVMN. 3 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 4. Giả thuyết khoa học TTCX của GVMN còn nhiều hạn chế nhất là các năng lực hiểu, kiểm soát và điều chỉnh CX, điều đó do nhiều nguyên nhân, trong đó các biện pháp BD TTCX cho GVMN chưa phù hợp là nguyên nhân cơ bản. Nếu xây dựng được các biện pháp BD TTCX tác động trực tiếp đến nhận thức, kĩ năng phân tích, kiểm soát và bộc lộ CX, giúp GV giải tỏa áp lực, kiểm soát tốt CX bản thân và người khác, có hành vi phù hợp với chuẩn mực văn hóa, đạo đức nghề nghiệp thì TTCX trong HĐNN của GVMN sẽ được nâng cao. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Tổng quan và NC lí luận về BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 5.2. Đánh giá thực trạng BD TTCX trong HĐNN cho GVMN, các yếu tố ảnh hưởng đến BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 5.3. Xây dựng các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN và thực nghiệm SP nhằm khẳng định hiệu quả, tính khả thi của các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN đã xây dựng. 6.Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1.Về đối tượng nghiên cứu TTCX của GVMN được biểu hiện trong nhiều hoạt động (HĐ) ở trường MN (Xây dựng môi trường giáo dục; tổ chức các HĐ nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em; HĐ vì cộng đồng,..). Trong luận án này, chúng tôi đi sâu NC TTCX trong HĐNN của GVMN (TTCX của GVMN trong mối quan hệ tương tác với trẻ em, với đồng nghiệp và với phụ huynh trong quá trình nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em) và xây dựng các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 6.2. Về khách thể và địa bàn nghiên cứu *Khách thể và địa bàn khảo sát thực trạng: Khảo sát 410 GVMN trên địa bàn Hà Nội với 3 nội dung sau: - Mức độ TTCX của GVMN thông qua trắc nghiệm MSCEIT-1997; - Năng lực xử lí các tình huống SP liên quan đến CX trong HĐNN của GVMN thông qua bài tập đo nghiệm; - Thực trạng BD và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. *Khách thể và địa bàn thực nghiệm: Triển khai TN trên 80 GVMN (trong đó có 40 GVMN trường MN công lập và 40 GV trường MN ngoài công lập) địa bàn TP Hà Nội. 4 7.Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 7.1.Cách tiếp cận 7.1.1.Tiếp cận phát triển Theo quan điểm duy vật biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển và có mối quan hệ biện chứng với nhau. TTCX là một dạng của trí tuệ, vì vậy cần NC vấn đề này trong mối quan hệ biện chứng với các dạng khác của trí tuệ, với các thuộc tính của nhân cách. Việc NC các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN được nhìn nhận là quá trình làm thay đổi năng lực nhận biết, sử dụng, hiểu và kiểm soát, điều chỉnh CX của mình và của người khác ở GVMN khi giao tiếp ứng xử với trẻ em, với đồng nghiệp và với phụ huynh trong quá trình nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em. 7.1.2. Tiếp cận hoạt động Vận dụng lí thuyết HĐ vào việc NC TTCX và BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. TTCX của GV được biểu hiện trong quá trình nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em ở trường MN. BD TTCX trong HĐNN cho GVMN được tiếp cận theo hướng thực hành, trải nghiệm trong thực tế nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em. 7.1.3. Tiếp cận hệ thống Xem xét việc BD TTCX mang tính hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc nâng cao nhận thức TTCX cho GV đến việc tổ chức trải nghiệm vận dụng những hiểu biết về TTCX vào thực tiễn nuôi dưỡng, CS - GD trẻ em nhằm củng cố, mở rộng tri thức, hình thành kĩ năng, phát triển năng lực TTCX trong HĐNN cho GV. 7.1.4. Tiếp cận phức hợp, liên ngành Xem xét TTCX HĐNN của GVMN trong mối quan hệ với nhiều ngành khoa học. Sử dụng thành quả NC của nhiều khoa học có liên quan như sinh lí, tâm lí học, GD học, XH học và văn hoá,… làm cơ sở cho việc XD khung lí luận về việc BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận Nhằm xây dựng cơ sở lí luận về BD TTCX trong HĐNN cho GVMN, với các phương pháp: a. Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các công trình NC, các tài liệu chuyên môn b. So sánh, đánh giá các xu hướng đã NC có liên quan đến đề tài luận án 7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn a. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia về các vấn đề liên quan đến nội dung và biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN đã xây dựng, xem xét sự phù hợp và tính khả thi của các biện pháp. 5 b. Phương pháp trắc nghiệm -Sử dụng trắc nghiệm MSCEIT của J. Mayer, P. Salovey, D. Caruso xây dựng và được các nhà tâm lí học Việt Nam thích ứng, Việt hóa (trong đề tài KX 05-06) để đo mức TTCX của GVMN. -Xây dựng bài tập tình huống (BTTH) liên quan đến HĐNN của GVMN nhằm đo TTCX của GVMN qua năng lực giải quyết vấn đề của họ; đo những thay đổi TTCX trong HĐNN của họ sau những tác động thực nghiệm. -Đo mức độ cảm giác thoải mái và sự tham gia trên 60 trẻ MN theo thang Leuven của Tổ chức GD Việt Bỉ - VVOB được Bộ GDĐT thẩm định và đưa vào sử dụng. c. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi -Khảo sát về biểu hiện TTCX của GVMN trong quá trình tổ chức các hoạt động CS - GD trẻ; -Khảo sát về thực trạng BD TTCX cho GVMN, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động BD TTCX cho GVMN. d. Phương pháp quan sát: -Quan sát những biểu hiện TTCX trong HĐNN của GVMN khi tổ chức các hoạt động CS - GD cho trẻ MN, khi giao tiếp với phụ huynh, với đồng nghiệp và những thay đổi TTCX trong HĐNN của GV khi có những tác động thực nghiệm. -Quan sát mức độ cảm giác thoải mái và mức độ tham gia tích cực của trẻ vào những hoạt động giáo dục GV tổ chức cho trẻ ở trường mầm non. đ. Phương pháp phỏng vấn: -Phỏng vấn trực tiếp GV, CBQL để có thêm thông tin về mức TTCX của GVMN được bộc lộ trong quá trình tổ chức các hoạt động CS - GD trẻ MN. -Phỏng vấn CBQL, GVMN về thực trạng công tác BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. e. Phương pháp phân tích kết quả xử lí các bài tập tình huống: Dựa trên kết quả xử lí tình huống sư phạm (SP) của GV, CBQL để đánh giá TTCX của họ. g. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm SP nhằm kiểm tra mức độ phù hợp, độ tin cậy và tính khả thi của các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN do đề tài luận án xây dựng nhằm rút ra những định hướng SP cải thiện TTCX trong HĐNN cho đội ngũ GVMN. h. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Lựa chọn NC sâu một số trường hợp nhằm đánh giá kết quả tác động của các biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN trên một số đối tượng điển hình. 7.2.3. Phương pháp xử lí số liệu: Sử dụng một số công thức thống kê toán học với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 22.0 để xử lí các số liệu thu được từ việc khảo sát thực trạng và tổ chức thực nghiệm sư phạm. 6 8.Luận điểm bảo vệ 8.1. TTCX là một dạng trí tuệ có vai trò quan trọng trong cuộc sống và nghề nghiệp của mỗi cá nhân. TTCX trong HĐNN của GVMN bao gồm các thành phần: năng lực nhận biết CX, năng lực sử dụng CX, năng lực hiểu CX và năng lực kiểm soát, điều chỉnh CX. Các năng lực này có mối quan hệ mật thiết với nhau thúc đẩy hoặc kìm hãm thái độ, hành vi của GVMN trong HĐNN. 8.2. HĐNN của GVMN chịu nhiều áp lực: đối tượng GD của họ là trẻ em dưới 6 tuổi rất hiếu động trong khi ý thức, hiểu biết về cuộc sống còn rất hạn chế; thời gian làm việc kéo dài hơn 8 tiếng/ngày; rồi áp lực từ phụ huynh, xã hội,... nên họ dễ có những CX tiêu cực nảy sinh trong HĐNN (quát mắng, đánh đập trẻ, to tiếng với phụ huynh, đồng nghiệp,...) khi không có năng lực TTCX tốt. 8.3. Việc BD TTCX trong HĐNN cho GVMN có hiệu quả khi xây dựng được các biện pháp BD tác động trực tiếp đến năng lực nhận biết CX, năng lực sử dụng CX, năng lực hiểu CX và năng lực kiểm soát, điều chỉnh CX phù hợp với chuẩn mực văn hóa, đạo đức nghề nghiệp của GVMN. 9. Đóng góp mới của luận án 9.1. Đóng góp mới về lí luận -Luận án đã chỉ ra những xu hướng NC TTCX, các năng lực thành phần của TTCX của con người nói chung và TTCX trong HĐNN của GVMN nói riêng. -Làm rõ và góp phần làm phong phú cơ sở lí luận về BD TTCX, HĐNN của GVMN; quá trình BD TTCX trong HĐNN của GVMN. -Chỉ ra mối quan hệ và các yếu tố ảnh hưởng đến BD TTCX trong HĐNN cho GVMN dưới góc độ NC lí luận. -Làm rõ và góp phần làm phong phú lí luận về các biện pháp BD nhằm cải thiện TTCX trong HĐNN cho GVMN. 9.2. Đóng góp mới về thực tiễn -Chỉ ra được hiện trạng về BD TTCX trong HĐNN của GVMN và thực trạng mức TTCX trong HĐNN của GVMN, mối quan hệ và mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố ảnh hưởng đến BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. -Luận án đề xuất một số biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN và một số định hướng SP áp dụng những biện pháp này cho các cơ sở GDMN, cơ sở đào tạo GVMN, góp phần nâng cao hiệu quả BD thường xuyên cho GVMN, rèn luyện NVSP ởcác cơ sở đào tạo GVMN. -Các biện pháp được kiểm chứng qua thực nghiệm SP là tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác đào tạo, BD và triển khai ở thực tế cho CBQL nói chung, cho GVMN nói riêng, cho sinh viên chuyên ngành GDMN, cũng như những ai quan tâm tới vấn đề TTCX trong HĐNN của GVMN. 10. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận về BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non Chương 2. Thực trạng BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non Chương 3. Biện pháp BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non 7 Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc TTCX là một hướng NC mới về trí tuệ được rất nhiều nhà KH quan tâm trong những năm gần đây. Trong giai đoạn đầu, cũng như một số thuật ngữ trí tuệ khác, như trí tuệ xã hội, trí tuệ thành công, trí tuệ đa dạng … thì thuật ngữ TTCX được các nhà NC đề cập đến như một dạng trí tuệ và có vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Vào những năm 1900, mặc dù các định nghĩa truyền thống về trí tuệ nhấn mạnh tới yếu tố nhận thức như trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, nhiều nhà KH đã bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh “ngoài nhận thức”. Năm 1920, Edward Thorndike, Nhà tâm lí học Mĩ đã viết về “trí tuệ xã hội”. Ông là một trong những người đầu tiên tìm cách nhận dạng TTCX, ông đã sử dụng khái niệm "hiểu biết xã hội" để miêu tả kĩ năng hiểu và QL người khác. Theo ông, trí tuệ XH là năng lực hiểu và kiểm soát mà một cá nhân dùng để hành động một cách khôn ngoan, sáng suốt, một khả năng hòa hợp của chủ thể với những người xung quanh trong các mối quan hệ của con người [76]. Năm 1937, Robert Thorndike và Saul Stern xem xét những cố gắng đo lường của E. Thorndike đưa ra. Họ nhận diện được ba khu vực khác kề cận với trí tuệ XH có thể liên quan đến nó và thường lầm lẫn với nó, đó là thái độ cá nhân đối với xã hội, sự hiểu biết XH và mức độ điều chỉnh XH của cá nhân. Tuy nhiên, sau một thời gian NC R. Thorndike và S. Stern kết luận rằng, những cố gắng đo lường năng lực ứng xử với mọi người đã ít nhiều thất bại. Điều này có thể là do trí tuệ XH là một phức hợp gồm một số các năng lực khác nhau hoặc một phức hợp của một số lớn các thói quen và thái độ XH cụ thể. David Wechsler, nhà Tâm lí học Mĩ năm 1940 đã đề cập đến yếu tố “phi nhận thức” trong trí thông minh chung của con người, ông gọi là yếu tố tình cảm, yếu tố nhân cách và yếu tố XH. Hơn thế nữa, ông đã đề xuất rằng những yếu tố “phi nhận thức” là rất cần thiết cho dự đoán khả năng thành công của con người trong cuộc sống. Ông cho rằng yếu tố “phi nhận thức” có thể được thừa nhận là thành tố của trí tuệ nói chung [77]. Theo ông thành tố CX đóng vai trò thiết yếu đối với các thành tựu cá nhân, hạnh phúc và thành công trong cuộc sống. R.W. Leeper, nhà Tâm lí học Mĩ, năm 1948 đã PT khái niệm tư duy CX và cho rằng yếu tố này là một thành phần của tư duy logic. Năm 1955, Albert Ellis đưa ra một liệu pháp tâm lí hình thành những hành vi CX có ý thức cho con người. Phương pháp này giúp con người kiểm soát CX của họ một cách có ý thức và mang tính logic. Đây là một trong những đóng góp khá cơ bản và quan trọng. Từ những NC ban đầu này, hàng loạt những NC về TTCX được triển khai với các quan điểm khác nhau. Cùng với thời gian, các nhà NC đã đưa ra cách nhìn mới về TTCX. Có thể khái quát các NC liên quan đến TTCX thành các hướng tiếp cận sau: 1.1.1.1. Hướng tiếp cận trí tuệ cảm xúc theo mô hình đa trí tuệ 8 Theo hướng này, TTCX được xem là một dạng trí thông minh (trí thông minh CX) của con người. Đại diện cho hướng tiếp cận này phải kể đến H. Gardner, H. Hatch, R. Sternberg,…Theo H. Gardner (1975) trí thông minh (intelligence) là “khả năng giải quyết các vấn đề hoặc đưa ra những sản phẩm mới có giá trị trong một hay nhiều nền văn hóa khác nhau” (Gardner&Hatch, 1989). Trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, trong cuốn Những cơ cấu của nhận thức (Frames of Mind), ông đã công bố các NC lí thuyết về sự đa dạng của trí thông minh (Theory of Multiple Intelligences). Những dạng trí tuệ khác nhau đó là: Trí tuệ ngôn ngữ, Trí tuệ lôgic- toán học, Trí tuệ âm nhạc, Trí tuệ không gian, Trí tuệ vận động - cơ thể, Trí tuệ tự nhiên. Đặc biệt, ông đã đến cập đến hai loại trí thông minh gắn với TTCX là trí tuệ về bản thân (Intrapersonal Intelligence) - hiểu mình bao gồm những năng lực đánh giá các CX của bản thân mình, năng lực phân biệt giữa các CX ấy và đưa chúng vào hướng dẫn hành vi và trí tuệ về người khác (Interpersonal Intelligence) - hiểu về người khác bao gồm những năng lực nhận thức rõ ràng và đáp ứng lại các tâm trạng, khí chất, động cơ và các mong muốn của người khác một cách thích hợp. H.Gardner cho rằng trí tuệ về bản thân và trí tuệ về người khác cũng quan trọng không kém gì dạng trí thông minh theo cách hiểu truyền thống được đo bằng các test đo IQ (dùng để đo trí tuệ logic-toán và trí tuệ ngôn ngữ) [63]. R.Sternberg (1984) đã xây dựng thuyết ba nhân tố của trí tuệ (Triachic theory of intelligence). Thuyết này cho rằng có ba loại trí tuệ khác nhau: Trí tuệ phân tích, Trí tuệ sáng tạo và Trí tuệ ngữ cảnh. Một người nào đó có thể xuất sắc trong một loại trí tuệ này mà không xuất sắc trong hai loại kia. Mỗi loại trí tuệ trên đều có thể được tăng cường nhờ sự luyện tập đặc biệt (Robert Sternberg, 1986). Năm 1995, R. Sternberg đề cập đến “Trí tuệ thành công - Successful intelligence”. Đây là loại trí tuệ thể hiện khả năng thích nghi, PT và lựa chọn các điều kiện, hoàn cảnh để hoàn thành những mục đích của mình và XH cùng nền văn hóa nơi cá nhân đó sống. Loại trí tuệ này được thể hiện ở ba khả năng chính: phân tích, sáng tạo và óc thực tế [74]. Ở Việt Nam giai đoạn này, thuật ngữ “TTCX” đã được quan tâm, song số lượng các công trình NC về nó chưa nhiều. Năm 1997, thuật ngữ “TTCX” được chính thức đề cập tới tại một xêmina của các nhà NC thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước KX-07 do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Tác giả đã đề nghị các nhà tâm lí học Việt Nam khởi xướng, NC vấn đề TTCX cả trên bình diện lí luận và thực tiễn. Kể từ đó, một số nhà khoa học Việt Nam như: Lê Đức Phúc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh, bắt đầu đi sâu NC. Thuật ngữ “TTCX” lần đầu tiên được Nguyễn Huy Tú đăng trên Tạp chí Tâm lí học, số 6, tháng 12 năm 2000 với nhan đề: “TTCX - bản chất và phương pháp chẩn đoán”. Thuật ngữ “TTCX” được Nguyễn Huy Tú thích ứng từ thuật ngữ “Emotional intelligence” trong tiếng Anh và thuật ngữ “Emotionale ntelligenz” trong tiếng Đức [39]. Trong bài báo, ông đã đề cập đến bản chất, khái niệm TTCX, các phương pháp NC, đo 9 lường yếu tố tâm lí này; đến các quan niệm về trí tuệ và khẳng định TTCX là một thành tố quan trọng trong cấu trúc trí tuệ của con người. Trong bài báo “TTCX và sự thành công của nhà quản lí lãnh đạo”, đăng trên Tạp chí Thông tin KHGD, tháng 1/2003, Nguyễn Huy Tú đề cập đến vai trò của TTCX trong hoạt động lãnh đạo quản lí [40]. Như vậy theo mô hình đa trí tuệ, TTCX là một thành tố quan trọng trong cấu trúc trí tuệ của con người, gắn với trí tuệ về bản thân và trí tuệ về người khác (H. Gardner), trí tuệ thành công - trí tuệ thể hiện khả năng thích nghi, phát triển và lựa chọn các điều kiện, hoàn cảnh để hoàn thành những mục đích của mình và XH cùng nền văn hóa nơi cá nhân đó sống. 1.1.1.2. Hướng tiếp cận trí tuệ cảm xúc theo mô hình hỗn hợp Đại diện cho hướng này là Reuven Bar - On và Daniel Goleman. Năm 1980 R. Bar - On, đề xuất một mô hình tiên phong về năng lực CX. Năm 1985, Reuven Bar - On là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Chỉ số CX” EQ (Emotional intelligence Quotient) trong luận án tiến sĩ và xuất bản tập EQ-i (Emotional Quotient Inventory), trắc nghiệm đầu tiên về TTCX. Theo ông, trí thông minh thể hiện thông qua một tập hợp các năng lực chung, các năng lực cụ thể và các kĩ năng [47]. Đến năm 1997, R. Bar - On xem xét TTCX trong phạm vi lí thuyết nhân cách và đưa ra mô hình Well – being làm sáng tỏ hơn về TTCX. Ồng cho rằng: TTCX là một tổ hợp các năng lực phi nhận thức và những kĩ năng chi phối năng lực của cá nhân nhằm đương đầu có hiệu quả với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường [48]. R. Bar-On là người đầu tiên dùng bảng kê EQ-i để đo lường TTCX. Cũng theo cách tiếp cận này, Goleman cho rằng các năng lực được gọi là TTCX, gồm: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình, kiên trì và năng lực động cơ hóa bản thân (tự thúc đẩy mình) [14]. Các nhà khoa học khác như: K.V. Petrides và A. Furnham cũng có quan niệm TTCX là một tập hợp năng lực tự nhận thức có liên quan đến xúc cảm được đặt ở mức độ thấp hơn nhân cách, đồng thời đưa ra một mô hình về TTCX, mô hình này được gọi là mô hình đặc điểm, bao gồm 04 nhân tố: Hạnh phúc; Tự kiểm soát; Tính nhạy cảm; Tính hòa đồng với 15 khía cạnh biểu hiện khác nhau [70]. Như vậy theo mô hình hỗn hợp, TTCX là một tổ hợp các năng lực phi nhận thức và những kĩ năng chi phối năng lực của cá nhân nhằm đương đầu có hiệu quả với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường (R. Bar – On) với các năng lực thành phần như: năng lực tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình, kiên trì và năng lực động cơ hóa bản thân (Daniel Goleman). 1.1.1.3. Hướng tiếp cận TTCX theo mô hình thuần năng lực Đại diện cho hướng tiếp cận này là Jonh Mayer và Peter Salovey. Theo họ TTCX là một dạng của trí tuệ XH có liên quan đến khả năng điều khiển tình cảm, CX của bản thân và của những người khác; khả năng phân biệt chúng và sử dụng những thông tin này để hướng dẫn suy nghĩ, hành động của con người [72]. Đến năm 1997 J. Mayer và P. Salovey đưa ra quan niệm về TTCX là năng lực nhận biết, bày tỏ CX, hòa CX vào suy nghĩ, hiểu, suy luận với CX, điều khiển, 10 kiểm soát CX của mình và của người khác [67], định nghĩa đã được thừa nhận rộng rãi trong giới học thuật. Như vậy, TTCX gắn liền với cách thức cá nhân lí luận về CX và nó bao hàm bốn khả năng: nhận biết, vận dụng, hiểu và điều chỉnh CX. Dựa trên định nghĩa này, mô hình TTCX thuần năng lực được xây dựng và được gọi là mô hình EI 97. Kể từ đó, các mô hình khác được thiết lập, nhưng mô hình của Salovey và Mayer vẫn là mô hình về TTCX ổn định, được chấp nhận nhất. Năm 2008, Nguyễn Minh Anh đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại Liên bang Nga về Đặc điểm tâm lí của sự hình thành TTCX ở trẻ mẫu giáo lớn (trên cơ sở trẻ Nga và trẻ Việt Nam). Tác giả đã chứng minh được sự tương quan giữa đặc điểm hình thành TTCX của trẻ mẫu giáo lớn với đặc điểm văn hóa cũng như ảnh hưởng này lên quá trình hình thành TTCX và đưa ra những phương cách hình thành TTCX ở trẻ mẫu giáo lớn… [1]. NC thực tiễn đầu tiên ở Việt Nam về TTCX là đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 05 - 06 do Trần Kiều làm chủ nhiệm đã xác định TTCX là một trong ba thành tố của trí tuệ, gồm trí thông minh, TTCX và trí sáng tạo. Trong đề tài này, các tác giả Trần Trọng Thủy, Lê Đức Phúc, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công Khanh đã tiến hành thích ứng bộ công cụ MSCEIT (Mayer Salovey Caruso Emotional Intelligence Test) và sử dụng bộ công cụ này để đo lường các chỉ số TTCX trên 3741 học sinh phổ thông, sinh viên, người lao động trẻ Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [29]. Dựa trên bộ công cụ MSCEIT đã được NC thích ứng, một số đề tài luận án tiến sĩ được triển khai: Nguyễn Thị Dung (2008) với đề tài “TTCX của GV chủ nhiệm lớp trường trung học cơ sở” [11]; Dương Thị Hoàng Yến (2010) với đề tài “Trí tuệ cảm xúc của giáo viên Tiểu học” [45]; Phan Trọng Nam (2012) với đề tài luận án “TTCX của sinh viên đại học” [32]; Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012) với đề tài “TTCX của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong giao tiếp công vụ” [38]… Trên cơ sở đánh giá thực trạng TTCX của giáo viên, học sinh, sinh viên, CBQL giáo dục,… những NC này đề xuất một số biện pháp rèn luyện nâng cao TTCX cho các đối tượng trên. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về TTCX, nhưng về cơ bản, các tác giả nhất trí xem TTCX liên quan tới những năng lực nhận biết và điều khiển các CX của mình và của người khác, điểm khác nhau quan trọng nhất giữa họ là xem TTCX theo kiểu thuần nhất các năng lực trí tuệ hay là hỗn hợp các năng lực trí tuệ với các năng lực không phải là trí tuệ. Tiếp cận TTCX theo mô hình thuần năng lực là cách tiếp cận được chấp nhận rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam. 1.1.2. Những nghiên cứu về bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc Cũng như NC TTCX, NC BD TTCX cũng có nhiều cách tiếp cận. Có thể hệ thống hóa thành ba hướng NC chính sau: 11 1.1.2.1. Hướng nghiên cứu về bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc theo mô hình thuần năng lực Dựa trên mô hình TTCX thuần năng lực, D. Caruso và các cộng sự XD một quy trình PT TTCX gồm bốn giai đoạn gắn liền với bốn thành tố trí tuệ tạo nên TTCX của mỗi cá nhân cụ thể như sau: Bước 1: Nhận thức chính xác về CX – Kết hợp những dữ kiện sẵn có Nội dung của bước này đòi hỏi người được luyện tập không chỉ có ý thức về CX mà có được năng lực dựa trên sự nhận thức CX của bản thân cũng như của người khác hay của môi trường XH nói chung. Trong nhận thức về người khác, cá nhân lúc này cần dựa trên việc quan sát tinh tế mọi biểu hiện của con người bao gồm: nét mặt, ngôn ngữ, sắc thái giọng nói, cả những biểu hiện phi ngôn ngữ,… và phải nhận ra được sự khác biệt giữa sự biểu lộ những CX có thực và sự biểu lộ CX một cách miễn cưỡng, giả tạo, đóng kịch. Bước 2: Sử dụng CX để đẩy mạnh khả năng tư duy Nội dung của bước này là sử dụng CX để đẩy mạnh năng lực tư duy. Từ những CX được nhận thức một cách chính xác nhờ năng lực quan sát, người được luyện tập liên hệ tình huống hiện tại với những kinh nghiệm CX đã có của bản thân để tìm ra tình huống tương tự mình đã trải qua, nhờ vậy người được luyện tập hiểu rõ những CX thật đang diễn ra ở bản thân hay người cùng giao tiếp. Khi đó, người được luyện tập đã tạo ra được một viễn cảnh CX chung và đã tiến một bước để hiểu sâu sắc về CX đang diễn ra và nguyên nhân làm nảy sinh CX đó, để có thể tìm ra một quyết định đúng đắn và dễ dàng được chấp nhận. Như vậy, bên cạnh vai trò của CX trong việc ra quyết định, năng lực CX này còn cho phép người được luyện tập tạo ra viễn cảnh CX chung với những người khác, cảm nhận được những gì người khác đang cảm nhận, thấu cảm với người khác và nhìn nhận thế giới thông qua con mắt của họ. Bước 3: Hiểu rõ nguyên nhân và sự phát triển của CX - Trả lời câu hỏi “Cái gì sẽ xảy ra nếu...” Việc tìm ra viễn cảnh CX chung chưa cho phép người được luyện tập tìm ra cách giải quyết vấn đề mà nó đỏi hỏi người luyện tập phải lập luận để tìm ra nguyên nhân thật sự đã dẫn đến việc nảy sinh CX này. Người được luyện tập cần phải có sự hiểu biết thật sự về lĩnh vực CX để hiểu: CX hiện tại ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân như thế nào? Nếu cứ để CX này tự do PT trong bối cảnh hiện tại thì nó sẽ phát triển thành CX nào? Và với sự phát triển của CX mới hình thành thì cá nhân sẽ hành động như thế nào? Trả lời được ba câu hỏi này, người được luyện tập đã thể hiện bản thân có năng lực lí giải nguyên nhân và sự phát triển CX. Bước 4: Kiểm soát CX để đạt được những kết luận logic về mặt trí tuệ - Những quyết định chiến lược cơ bản trong CX và lập luận Yêu cầu này là khó khăn nhưng người được luyện tập hoàn toàn có thể kiểm soát được những CX của bản thân cũng như của người khác một cách có chủ định. Nắm được quy luật này và nhận thức chính xác về dữ kiện của những CX trong bối cảnh cụ 12 thể, sử dụng tất cả những dữ kiện đã có của mình để lập luận logic nhằm đề ra được một quyết định chính xác về việc kiểm soát sự phát triển của những CX hiện tại, biến CX tiêu cực thành CX tích cực để cá nhân có được hành vi hiệu quả. Bốn bước này được sử dụng như một hình thức phương pháp luận giải quyết vấn đề, mà trước hết người được luyện tập cần nhận thức được CX; cho phép CX này định hướng và ảnh hướng trực tiếp đến tư duy; cố gắng để hiểu nguyên nhân của CX đó và viễn cảnh “cái gì sẽ xảy ra nếu cứ để CX này tự do phát triển; cuối cùng cần kiểm soát, điều chỉnh CX để luôn sẵn có những thông tin chứa đựng trong những CX này và kết hợp chúng thành một quyết định chiến lược. Quá trình rèn luyện TTCX theo quy trình bốn bước trên đòi hỏi người được luyện tập phải xác định được mục tiêu rèn luyện, tích cực phát triển vốn kinh nghiệm CX của bản thân và kiên trì thực hành trong các tình huống tương tác đa dạng với người khác trong cuộc sống hằng ngày. Như vậy BD TTCX cho con người theo mô hình thuần năng lực hướng vào những tác động làm thay đổi, điều chỉnh bốn thành tố năng lực TTCX của cá nhân (nhận biết CX, sử dụng CX, hiểu CX và kiểm soát, điều chỉnh CX). 1.1.2.2. Hướng NC BD TTCX dựa vào kĩ năng giao tiếp xã hội Đại diện cho hướng BD này phải kể đến Elias, Zins và cộng sự. Trong Chương trình SEL (Social Emotional Learning): BD CX xã hội, được xuất hiện từ năm 1997 trong NC của Elias, Zins và cộng sự là chương trình phát triển, trong đó người lớn và trẻ em lĩnh hội năng lực nhận biết và QL CX, ra quyết định mang tính trách nhiệm, thiết lập mối quan hệ tích cực với người khác và trở thành những cá thể khoẻ mạnh và hiệu quả. Chương trình này bao gồm việc BD một nhóm các năng lực nhận thức, CX, hành vi cốt lõi mang lại sự phát triển tích cực ở trẻ em. Chương trình SEL được XD dựa trên nền tảng thuyết Học tập từ XH của Bandura, mô hình phát triển XH của Hawkins và Weis, thuyết hành vi vấn đề của Jessor và thuyết hành động có lập luận của Fishbein và Ajzen. Một chương trình SEL thường phát triển các năng lực sau: i)Ý thức về bản thân và người khác (Ý thức CX: năng lực tri giác và gọi tên CX một cách chính xác; điều tiết, điều khiển CX; nhìn rộng vấn đề: tri giác vấn đề của người khác một cách bao quát; phân tích chuẩn mực xã hội: đánh giá một cách phản biện những thông điệp XH, văn hóa và truyền thống quy định chuẩn mực XH và hành vicá nhân); ii)Thái độ và giá trị tích cực (Cảm giác tích cực về bản thân: cảm giác lạc quan và tự tin khi đối mặt với những thử thách hằng ngày; tinh thần trách nhiệm: mong muốn phát huy hành vi an toàn, khỏe mạnh và có đạo đức; sự ân cần: mong muốn trở nên công bằng, chính trực, nhân đạo và thông cảm; tôn trọng người khác: mong muốn chấp nhận, trân trọng các cá nhân và nhóm, đánh giá cao quyền con người);

Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề trí tuệ và việc đo lường trí tuệ đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trên toàn thế giới, dẫn đến những nghiên cứu sâu sắc cả về lý thuyết lẫn thực tiễn Những thành tựu trong nghiên cứu trí tuệ đã làm thay đổi cách hiểu về khái niệm này, từ việc chỉ đơn thuần là trí thông minh, giờ đây trí tuệ được nhìn nhận bao gồm nhiều loại hình khác nhau như trí thông minh, trí tuệ cảm xúc (TTCX), trí sáng tạo và trí tuệ xã hội.

TTCX, được nghiên cứu chính thức từ những năm 1990, đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học với nhiều cách hiểu khác nhau Tổng quát, TTCX là trí tuệ thể hiện khả năng của cá nhân trong việc nhận biết, sử dụng và kiểm soát cảm xúc (CX) của bản thân và người khác, từ đó giúp giải quyết hiệu quả các tình huống giao tiếp Theo các nghiên cứu, TTCX là yếu tố dự đoán thành công trong các lĩnh vực liên quan đến con người, và có mối quan hệ tích cực với tuổi tác và kinh nghiệm sống, cho thấy khả năng cải thiện TTCX qua luyện tập Do đó, nhiều chương trình bồi dưỡng TTCX đã được phát triển, như Chương trình SEL và các chương trình tại Hiệp hội quản lý Hoa Kỳ và Đại học Sydney Tại Việt Nam, nghiên cứu và bồi dưỡng TTCX cho giáo viên mới chỉ bắt đầu trong những năm gần đây và còn hạn chế.

GV cấp tiểu học, trung học cơ sở và sinh viên đại học, đề tài NC TTCX của GVMN và

BD TTCX trong hoạt động nghề nghiệp (HĐNN) cho GVMN vẫn còn là một chủ đề ít được nghiên cứu Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này đều khẳng định vai trò quan trọng của trí tuệ cảm xúc (CX) như là một trong những kỹ năng xã hội cần thiết, ảnh hưởng lớn đến sự thành công của mỗi cá nhân trong cuộc sống Đối với giáo viên mầm non (GVMN), những người chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non, việc phát triển trí tuệ cảm xúc càng trở nên quan trọng, giúp họ đóng góp tích cực vào giai đoạn đầu của sự hình thành nhân cách trẻ.

Giáo dục Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu đổi mới để đào tạo công dân phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu Để thực hiện Chương trình nghị sự của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững 2030, Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các bộ, cơ quan thực hiện các mục tiêu quan trọng Trong đó, cấp học Mầm non sẽ thực hiện mục tiêu 4.2: "Đến năm 2030, đảm bảo tất cả trẻ em gái và trai được tiếp cận với phát triển, chăm sóc giai đoạn trẻ thơ và giáo dục mầm non chất lượng, sẵn sàng bước vào cấp Tiểu học."

Từ mục tiêu nói trên, Chính phủ phê duyệt hai Đề án Phát triển toàn diện trẻ em

Chương trình GDMN giai đoạn 2016 - 2025 nhằm đảm bảo trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần Mục tiêu là tạo điều kiện bình đẳng cho trẻ em tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc phát triển theo độ tuổi, thực hiện quyền trẻ em và đóng góp vào sự phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

Luật Giáo dục và Chương trình Giáo dục Mầm non xác định mục tiêu phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, đồng thời hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một Điều này bao gồm việc phát triển các chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất cơ bản, cùng với những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với độ tuổi, nhằm khơi dậy và phát triển tối đa khả năng tiềm ẩn, tạo nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.

Giáo dục mầm non (GDMN) đóng vai trò thiết yếu trong việc phát triển nhân cách và năng lực cá nhân của trẻ, không chỉ cung cấp kiến thức mà còn trang bị kỹ năng và thái độ ứng xử phù hợp Để đáp ứng nhu cầu xã hội hiện đại, chất lượng giáo dục mầm non tại Việt Nam đã được nâng cao, với sự quan tâm đặc biệt từ Đảng và Nhà nước Mặc dù đội ngũ giáo viên mầm non ngày càng được hoàn thiện và nhiều người tận tâm với trẻ em, vẫn tồn tại một bộ phận vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây bạo hành và ngược đãi trẻ Những hành động này đã bị xã hội lên án mạnh mẽ, và nguyên nhân một phần do áp lực công việc, thiếu hiểu biết và tình yêu thương đối với trẻ em, cũng như khả năng kiểm soát cảm xúc còn hạn chế.

GVMN đóng vai trò quan trọng trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em tại các trường mầm non, lớp mẫu giáo độc lập Công việc của họ thường gặp nhiều áp lực do số lượng trẻ đông, thời gian làm việc kéo dài và cường độ công việc cao, cùng với trách nhiệm đảm bảo an toàn cho trẻ và quản lý các mối quan hệ giao tiếp đa dạng Để nâng cao hiệu quả trong công tác này, GVMN cần có năng lực TTCX kết hợp với kiến thức chuyên môn và hiểu biết xã hội Việc bồi dưỡng TTCX cho giáo viên mầm non cần được thực hiện đồng bộ, chú trọng đến nhận thức, thái độ và hành vi, đồng thời áp dụng các biện pháp phù hợp với xu thế giáo dục hiện đại, nhằm đạt được hiệu quả thiết thực trong quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

Dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài nghiên cứu "Bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non" được lựa chọn để phát triển.

Mục đích nghiên cứu

Luận án này dựa trên nghiên cứu lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho giáo viên mầm non, đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng thường xuyên trong hoạt động nghề nghiệp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục trẻ em cho giáo viên mầm non.

Khách thể, đối tượng nghiên cứu

3.1 Khách thể nghiên cứu : Quá trình BD TTCX trong HĐNN cho GVMN. 3.2 Đối tượng nghiên cứu : Biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

Giả thuyết khoa học

TTCX của GVMN gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là trong việc hiểu, kiểm soát và điều chỉnh trải nghiệm khách hàng (CX) Nguyên nhân chính của vấn đề này là do các biện pháp phát triển TTCX cho GVMN chưa phù hợp, dẫn đến khó khăn trong việc cải thiện hiệu quả của CX.

Việc xây dựng các biện pháp bồi dưỡng tâm lý và kỹ năng cho giáo viên mầm non sẽ giúp họ cải thiện nhận thức, phân tích và kiểm soát cảm xúc Điều này không chỉ giúp giáo viên giải tỏa áp lực mà còn nâng cao khả năng quản lý cảm xúc của bản thân và người khác, đồng thời thúc đẩy hành vi phù hợp với chuẩn mực văn hóa và đạo đức nghề nghiệp Nhờ đó, chất lượng tương tác trong hoạt động giáo dục của giáo viên mầm non sẽ được nâng cao.

Nhiệm vụ nghiên cứu

5.1 Tổng quan và NC lí luận về BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

5.2 Đánh giá thực trạng BD TTCX trong HĐNN cho GVMN, các yếu tố ảnh hưởng đến BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

Xây dựng các biện pháp bảo đảm tính khả thi của TTCX trong hoạt động nông nghiệp cho nhóm hộ nông dân miền núi là rất quan trọng Thực nghiệm sản phẩm sẽ giúp khẳng định hiệu quả của các biện pháp này, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu suất trong hoạt động nông nghiệp Việc áp dụng các biện pháp BD TTCX sẽ góp phần phát triển bền vững cho cộng đồng nông dân miền núi.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

6.1 Về đối tượng nghiên cứu

TTCX của GVMN được thể hiện qua nhiều hoạt động tại trường mầm non, bao gồm việc xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc giáo dục trẻ em, cũng như các hoạt động vì cộng đồng Trong luận án này, chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu về TTCX trong hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc giáo dục trẻ em, tập trung vào mối quan hệ tương tác giữa giáo viên mầm non với trẻ em, đồng nghiệp và phụ huynh, đồng thời đề xuất các biện pháp cải thiện hiệu quả trong quá trình này.

BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

6.2 Về khách thể và địa bàn nghiên cứu

* Khách thể và địa bàn khảo sát thực trạng: Khảo sát 410 GVMN trên địa bàn

Hà Nội với 3 nội dung sau:

- Mức độ TTCX của GVMN thông qua trắc nghiệm MSCEIT-1997;

- Năng lực xử lí các tình huống SP liên quan đến CX trong HĐNN của GVMN thông qua bài tập đo nghiệm;

- Thực trạng BD và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

*Khách thể và địa bàn thực nghiệm:

Triển khai TN trên 80 GVMN (trong đó có 40 GVMN trường MN công lập và 40

GV trường MN ngoài công lập) địa bàn TP Hà Nội.

Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Theo quan điểm duy vật biện chứng, mọi sự vật và hiện tượng đều không ngừng vận động và phát triển, đồng thời có mối quan hệ biện chứng với nhau TTCX được xem như một hình thức của trí tuệ, do đó cần phải được nghiên cứu và phát triển một cách sâu sắc.

NC vấn đề này trong mối quan hệ biện chứng với các dạng khác của trí tuệ, với các thuộc tính của nhân cách.

Nghiên cứu các biện pháp bảo đảm tính chất giáo dục trong hoạt động nuôi dạy trẻ em được coi là quá trình nâng cao khả năng nhận thức, sử dụng, hiểu và quản lý cảm xúc của giáo viên mầm non Qua đó, giáo viên có thể giao tiếp và tương tác hiệu quả hơn với trẻ em, đồng nghiệp và phụ huynh, góp phần vào sự phát triển toàn diện của trẻ trong quá trình giáo dục và chăm sóc.

Vận dụng lý thuyết hoạt động vào nghiên cứu và bồi dưỡng tài chính cho giáo viên mầm non là rất quan trọng Tài chính của giáo viên được thể hiện qua quá trình nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục trẻ em tại trường mầm non Bồi dưỡng tài chính trong hoạt động nuôi dạy trẻ em cần được tiếp cận theo hướng thực hành và trải nghiệm thực tế để nâng cao chất lượng giáo dục.

Xem xét việc bồi dưỡng năng lực giáo viên về tích cực hóa trải nghiệm trong giáo dục từ cơ bản đến nâng cao, từ lý thuyết đến thực hành Điều này bao gồm việc nâng cao nhận thức về tích cực hóa trải nghiệm, tổ chức các hoạt động thực tiễn để giáo viên áp dụng kiến thức vào công tác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, nhằm củng cố và mở rộng tri thức, hình thành kỹ năng, và phát triển năng lực tích cực hóa trải nghiệm trong hoạt động giáo dục.

7.1.4 Tiếp cận phức hợp, liên ngành

Xem xét TTCX HĐNN của GVMN cần được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác nhau Việc áp dụng thành quả nghiên cứu từ các lĩnh vực như sinh lý và tâm lý học sẽ giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng của giáo dục mầm non.

GD học, XH học và văn hoá,… làm cơ sở cho việc XD khung lí luận về việc BD TTCX trong HĐNN cho GVMN.

7.2.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

Để xây dựng cơ sở lý luận về bồi dưỡng năng lực tự chủ trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non, các phương pháp được áp dụng bao gồm phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa các công trình nghiên cứu.

NC, các tài liệu chuyên môn b So sánh, đánh giá các xu hướng đã NC có liên quan đến đề tài luận án

Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm hai phương pháp chính Đầu tiên, phương pháp chuyên gia, trong đó tham khảo ý kiến của các chuyên gia nhằm đánh giá sự phù hợp và tính khả thi của các biện pháp bảo đảm chất lượng trong hoạt động nông nghiệp cho giáo viên mầm non Thứ hai, phương pháp trắc nghiệm được sử dụng để thu thập dữ liệu và đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất.

Trắc nghiệm MSCEIT do J Mayer, P Salovey và D Caruso phát triển đã được các nhà tâm lý học Việt Nam thích ứng và Việt hóa trong đề tài KX 05-06, nhằm đo lường mức độ trí tuệ cảm xúc (TTCX) của giáo viên mầm non (GVMN).

Xây dựng bài tập tình huống (BTTH) liên quan đến hoạt động nghề nghiệp (HĐNN) của giáo viên mầm non (GVMN) nhằm đánh giá tình trạng tâm lý xã hội (TTCX) của họ thông qua năng lực giải quyết vấn đề Đồng thời, bài tập này cũng giúp đo lường những thay đổi trong TTCX của GVMN sau khi trải qua các tác động thực nghiệm.

Đo lường mức độ cảm giác thoải mái và sự tham gia của hơn 60 trẻ mầm non được thực hiện theo thang Leuven, một công cụ được Tổ chức Giáo dục Việt Bỉ - VVOB phát triển và đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định Phương pháp điều tra sử dụng bảng hỏi nhằm thu thập dữ liệu chính xác về trải nghiệm của trẻ.

- Khảo sát về biểu hiện TTCX của GVMN trong quá trình tổ chức các hoạt động

- Khảo sát về thực trạng BD TTCX cho GVMN, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động BD TTCX cho GVMN. d Phương pháp quan sát:

Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục và chăm sóc trẻ mầm non, giáo viên mầm non cần quan sát và nhận diện những biểu hiện của tư duy phản biện (TTCX) trong hoạt động nghề nghiệp Điều này thể hiện rõ khi họ giao tiếp với phụ huynh và đồng nghiệp, cũng như khi có những tác động thực nghiệm đến hoạt động nghề nghiệp của mình Sự thay đổi trong TTCX không chỉ giúp nâng cao chất lượng giáo dục mà còn tạo ra môi trường học tập tích cực cho trẻ.

Nghiên cứu tập trung vào việc quan sát cảm giác thoải mái và mức độ tham gia tích cực của trẻ em trong các hoạt động giáo dục mà giáo viên tổ chức tại trường mầm non Phương pháp phỏng vấn sẽ được áp dụng để thu thập thông tin chi tiết về trải nghiệm của trẻ trong môi trường học tập.

- Phỏng vấn trực tiếp GV, CBQL để có thêm thông tin về mức TTCX của

GVMN được bộc lộ trong quá trình tổ chức các hoạt động CS - GD trẻ MN.

Bài viết tập trung vào việc phỏng vấn cán bộ quản lý và giáo viên mầm non về thực trạng công tác bồi dưỡng tay nghề cho giáo viên mầm non Phương pháp phân tích kết quả xử lý các bài tập tình huống sẽ được áp dụng để đánh giá năng lực của giáo viên và cán bộ quản lý Đồng thời, thực nghiệm sư phạm sẽ được tổ chức nhằm kiểm tra tính phù hợp, độ tin cậy và khả thi của các biện pháp bồi dưỡng tay nghề, từ đó rút ra định hướng cải thiện tay nghề cho đội ngũ giáo viên mầm non Cuối cùng, nghiên cứu trường hợp sẽ được thực hiện để đánh giá tác động của các biện pháp bồi dưỡng tay nghề trên một số đối tượng điển hình trong lĩnh vực giáo dục mầm non.

Phương pháp xử lý số liệu trong nghiên cứu này bao gồm việc áp dụng các công thức thống kê toán học, được thực hiện với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 22.0 Quy trình này nhằm phân tích các số liệu thu thập từ khảo sát thực trạng và tổ chức thực nghiệm sư phạm.

Luận điểm bảo vệ

TTCX là một loại trí tuệ quan trọng trong cuộc sống và sự nghiệp của mỗi cá nhân, đặc biệt trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (GVMN) TTCX trong hoạt động giáo dục của GVMN bao gồm các thành phần như năng lực nhận biết, sử dụng, hiểu và kiểm soát, điều chỉnh cảm xúc Các năng lực này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến thái độ và hành vi của GVMN trong công việc.

Giáo viên mầm non (GVMN) đối mặt với nhiều áp lực trong công việc, đặc biệt khi họ phải chăm sóc trẻ em dưới 6 tuổi, những đối tượng rất hiếu động nhưng lại có hiểu biết hạn chế về cuộc sống Thời gian làm việc kéo dài hơn 8 tiếng mỗi ngày, cùng với áp lực từ phụ huynh và xã hội, khiến GVMN dễ phát sinh cảm xúc tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp Khi không có kỹ năng quản lý cảm xúc tốt, họ có thể phản ứng bằng cách quát mắng, đánh đập trẻ, hoặc to tiếng với phụ huynh và đồng nghiệp.

Việc bảo đảm chất lượng trong hoạt động giáo dục mầm non (GVMN) sẽ đạt hiệu quả cao khi xây dựng các biện pháp bảo đảm tác động trực tiếp đến năng lực nhận biết, sử dụng, hiểu và kiểm soát, điều chỉnh chất lượng giáo dục một cách phù hợp với chuẩn mực văn hóa và đạo đức nghề nghiệp của GVMN.

Đóng góp mới của luận án

9.1 Đóng góp mới về lí luận

Luận án đã phân tích các xu hướng nghiên cứu về tư duy sáng tạo (TTCX), đồng thời làm rõ những năng lực thành phần của TTCX ở con người, đặc biệt trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (GVMN).

- Làm rõ và góp phần làm phong phú cơ sở lí luận về BD TTCX, HĐNN của GVMN; quá trình BD TTCX trong HĐNN của GVMN.

- Chỉ ra mối quan hệ và các yếu tố ảnh hưởng đến BD TTCX trong HĐNN cho GVMN dưới góc độ NC lí luận.

- Làm rõ và góp phần làm phong phú lí luận về các biện pháp BD nhằm cải thiện TTCX trong HĐNN cho GVMN.

9.2 Đóng góp mới về thực tiễn

Hiện trạng về bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng của GVMN cho thấy mức độ thực hiện còn hạn chế Nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ giữa các yếu tố như chính sách, quy trình và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng Việc cải thiện các yếu tố này sẽ góp phần nâng cao mức độ bảo đảm tính công khai, minh bạch, từ đó tăng cường niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng.

Luận án đề xuất các biện pháp bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non (GVMN) và định hướng sản phẩm áp dụng những biện pháp này tại các cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở đào tạo GVMN Những đề xuất này nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng thường xuyên cho GVMN và phát triển năng lực sư phạm tại các cơ sở đào tạo.

Các biện pháp đã được kiểm chứng qua thực nghiệm SP là nguồn tài liệu quý giá cho việc đào tạo, bồi dưỡng và triển khai thực tế cho cán bộ quản lý, giáo viên mầm non, sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non, cũng như những người quan tâm đến vấn đề chuyển đổi cơ sở trong hoạt động giáo dục của giáo viên mầm non.

Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương:

Chương 1 Cơ sở lí luận về BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non

Chương 2 Thực trạng BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non

Chương 3 Biện pháp BD trí tuệ CX trong HĐNN cho GV mầm non

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1 Những nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc

TTCX là một lĩnh vực nghiên cứu mới về trí tuệ, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong những năm gần đây Tương tự như các thuật ngữ trí tuệ khác như trí tuệ xã hội, trí tuệ thành công và trí tuệ đa dạng, TTCX được xem là một dạng trí tuệ có vai trò quan trọng trong đời sống con người.

Vào những năm 1900, các nhà khoa học bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh "ngoài nhận thức" trong trí tuệ, bên cạnh các yếu tố truyền thống như trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề Năm 1920, Edward Thorndike, nhà tâm lý học người Mỹ, đã giới thiệu khái niệm "trí tuệ xã hội" để mô tả kỹ năng hiểu và quản lý người khác Ông cho rằng trí tuệ xã hội là năng lực của cá nhân trong việc hiểu và kiểm soát hành động của mình một cách khôn ngoan, đồng thời hòa hợp với những người xung quanh trong các mối quan hệ xã hội.

Vào năm 1937, Robert Thorndike và Saul Stern đã nghiên cứu các nỗ lực đo lường trí tuệ xã hội của E Thorndike Họ đã xác định ba lĩnh vực liên quan đến trí tuệ xã hội, bao gồm thái độ cá nhân đối với xã hội và sự hiểu biết, thường bị nhầm lẫn với khái niệm này.

XH và mức độ điều chỉnh XH của cá nhân là một chủ đề quan trọng trong nghiên cứu tâm lý học R Thorndike và S Stern đã chỉ ra rằng việc đo lường năng lực ứng xử với người khác gặp nhiều khó khăn Nguyên nhân có thể là do trí tuệ XH bao gồm nhiều năng lực khác nhau hoặc là sự kết hợp của nhiều thói quen và thái độ XH cụ thể.

David Wechsler, nhà tâm lý học Mỹ, vào năm 1940 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố “phi nhận thức” trong trí thông minh chung của con người, bao gồm yếu tố tình cảm, nhân cách và xã hội Ông cho rằng những yếu tố này là cần thiết để dự đoán khả năng thành công trong cuộc sống Wechsler khẳng định rằng yếu tố “phi nhận thức” có thể được coi là một thành tố quan trọng của trí tuệ, đóng vai trò thiết yếu đối với thành tựu cá nhân, hạnh phúc và thành công.

R.W Leeper, nhà Tâm lí học Mĩ, năm 1948 đã PT khái niệm tư duy CX và cho rằng yếu tố này là một thành phần của tư duy logic Năm 1955, Albert Ellis đưa ra một liệu pháp tâm lí hình thành những hành vi CX có ý thức cho con người Phương pháp này giúp con người kiểm soát CX của họ một cách có ý thức và mang tính logic Đây là một trong những đóng góp khá cơ bản và quan trọng.

Từ những nghiên cứu ban đầu, nhiều nghiên cứu về TTCX đã được triển khai với các quan điểm đa dạng Qua thời gian, các nhà nghiên cứu đã phát triển những cách nhìn mới về TTCX Các nghiên cứu liên quan đến TTCX có thể được tóm gọn thành các hướng tiếp cận khác nhau.

1.1.1.1 Hướng tiếp cận trí tuệ cảm xúc theo mô hình đa trí tuệ

Theo H Gardner, trí thông minh (trí thông minh CX) không chỉ được đo bằng chỉ số IQ mà còn là khả năng giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm có giá trị trong nhiều nền văn hóa khác nhau Ông đã phát triển lý thuyết về sự đa dạng của trí thông minh trong cuốn sách "Những cơ cấu của nhận thức" (1983), giới thiệu nhiều dạng trí tuệ khác nhau, cho thấy rằng trí thông minh là một khái niệm phong phú và đa chiều.

Trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ lôgic-toán học, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ không gian, trí tuệ vận động-cơ thể và trí tuệ tự nhiên là những loại trí thông minh quan trọng Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến trí tuệ về bản thân (Intrapersonal Intelligence), giúp con người hiểu rõ chính mình, bao gồm khả năng đánh giá các trải nghiệm cá nhân và phân biệt giữa các cảm xúc khác nhau.

Trí tuệ về người khác (Interpersonal Intelligence) là khả năng hiểu và đáp ứng đúng mực với cảm xúc, tâm trạng, động cơ và mong muốn của người khác H Gardner nhấn mạnh rằng trí tuệ về bản thân và trí tuệ về người khác có vai trò quan trọng tương đương với các dạng trí thông minh truyền thống, thường được đánh giá qua các bài kiểm tra IQ liên quan đến trí tuệ logic-toán và ngôn ngữ.

R Sternberg (1984) đã xây dựng thuyết ba nhân tố của trí tuệ (Triachic theory of intelligence) Thuyết này cho rằng có ba loại trí tuệ khác nhau: Trí tuệ phân tích, Trí tuệ sáng tạo và Trí tuệ ngữ cảnh Một người nào đó có thể xuất sắc trong một loại trí tuệ này mà không xuất sắc trong hai loại kia Mỗi loại trí tuệ trên đều có thể được tăng cường nhờ sự luyện tập đặc biệt (Robert Sternberg, 1986) Năm 1995, R Sternberg đề cập đến “Trí tuệ thành công - Successful intelligence” Đây là loại trí tuệ thể hiện khả năng thích nghi, PT và lựa chọn các điều kiện, hoàn cảnh để hoàn thành những mục đích của mình và XH cùng nền văn hóa nơi cá nhân đó sống Loại trí tuệ này được thể hiện ở ba khả năng chính: phân tích, sáng tạo và óc thực tế [74]. Ở Việt Nam giai đoạn này, thuật ngữ “TTCX” đã được quan tâm, song số lượng các công trình NC về nó chưa nhiều.

Năm 1997, thuật ngữ “TTCX” lần đầu tiên được đề cập trong một xêmina của các nhà nghiên cứu thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước KX-07 do Phạm Minh Hạc chủ trì Tác giả đã kêu gọi các nhà tâm lý học Việt Nam khởi xướng nghiên cứu về TTCX cả về lý luận lẫn thực tiễn Kể từ đó, nhiều nhà khoa học Việt Nam như Lê Đức Phúc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Huy Tú, và Nguyễn Công Khanh đã bắt đầu nghiên cứu sâu về vấn đề này.

Thuật ngữ “TTCX” lần đầu tiên được giới thiệu bởi Nguyễn Huy Tú trong bài viết “TTCX - bản chất và phương pháp chẩn đoán” đăng trên Tạp chí Tâm lí học vào tháng 12 năm 2000 Ông đã thích ứng thuật ngữ này từ “Emotional intelligence” trong tiếng Anh và “Emotionale ntelligenz” trong tiếng Đức Trong bài viết, Nguyễn Huy Tú đã trình bày khái niệm và bản chất của TTCX, cũng như các phương pháp nghiên cứu và đo lường yếu tố tâm lý này, khẳng định TTCX là một thành tố quan trọng trong cấu trúc trí tuệ của con người Tiếp theo, trong bài báo “TTCX và sự thành công của nhà quản lí lãnh đạo” đăng trên Tạp chí Thông tin KHGD vào tháng 1 năm 2003, ông đã mở rộng thêm về vai trò của TTCX trong quản lý lãnh đạo.

Huy Tú đề cập đến vai trò của TTCX trong hoạt động lãnh đạo quản lí [40].

Theo mô hình đa trí tuệ của H Gardner, TTCX đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc trí tuệ con người, liên kết với trí tuệ tự nhận thức và trí tuệ xã hội Trí tuệ thành công thể hiện khả năng thích nghi, phát triển và lựa chọn điều kiện để đạt được mục tiêu cá nhân và xã hội trong bối cảnh văn hóa mà cá nhân đang sống.

1.1.1.2 Hướng tiếp cận trí tuệ cảm xúc theo mô hình hỗn hợp Đại diện cho hướng này là Reuven Bar - On và Daniel Goleman Năm 1980 R. Bar - On, đề xuất một mô hình tiên phong về năng lực CX Năm 1985, Reuven Bar -

Trí tuệ cảm xúc

1.2.1 Khái niệm trí tuệ cảm xúc

Trí tuệ, hay còn gọi là trí thông minh, trí lực, trí khôn, là một lĩnh vực có nhiều tên gọi khác nhau trong khoa học và đời sống hàng ngày Mỗi thuật ngữ này mang những sắc thái riêng và được sử dụng trong các ngữ cảnh cụ thể.

Trong Tâm lí học, có nhiều định nghĩa khác nhau về trí tuệ, nhưng tựu trung lại thuật ngữ này thường được định nghĩa theo ba góc độ sau:

+ Trí tuệ là năng lực học tập (N.D Levitov, V.V.Bogoxlovxki).

+ Trí tuệ là năng lực tư duy trừu tượng (X.L Rubinstein, N.A Menchinxcaia).

Nhóm quan niệm thứ nhất và thứ hai đều đồng nhất trí tuệ với khả năng nhận thức và giải quyết các vấn đề phức tạp.

+ Trí tuệ là năng lực thích ứng, thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh

Trong tâm lý học, quan niệm về trí tuệ được nhiều nhà nghiên cứu công nhận, trong đó nổi bật là R Sternberg, người định nghĩa trí tuệ là "sự thích ứng có mục đích, sự lựa chọn và định hướng với môi trường thực tiễn liên quan đến cuộc sống của một cá nhân" Các nhà nghiên cứu khác như V.M Blaykhe, L.Ph Burolachuc, F Raynal, A Rieuneur và N Sillamy cũng góp phần vào việc phát triển quan niệm này.

D.Wechsler xem trí tuệ là năng lực chung của nhân cách, được thể hiện trong hoạt động có mục đích, trong sự phán đoán và thông hiểu một cách đúng đắn, trong sự làm cho môi trường thích nghi với những năng lực của mình [77, tr 72].

Từ cuối thế kỷ XX đến nay, nghiên cứu trí tuệ chủ yếu tập trung vào phát triển các lý thuyết đa trí tuệ, xem xét trí tuệ từ nhiều góc độ sinh lý, tâm lý, xã hội và văn hóa Hướng nghiên cứu này đã mở rộng khả năng hoạt động trí tuệ, coi trí tuệ như một hiện tượng tâm lý mang tính xã hội, điển hình là quan điểm của các nhà nghiên cứu như D Wechsler (1956) và D Hofstadter.

(1971), R Sternberg, H Gardner (1984) … đã khẳng định trí tuệ là kết quả tương tác của con người với môi trường sống, đồng thời là tiền đề cho sự tương tác ấy.

Chúng tôi đồng tình với cách tiếp cận thứ ba về trí tuệ, coi trí tuệ là năng lực thích ứng có mục đích với bối cảnh, không làm hẹp khái niệm này Để thích ứng hiệu quả với sự thay đổi, con người cần khả năng học hỏi, nắm bắt bản chất vấn đề và tư duy trừu tượng Cách tiếp cận này kết hợp cả hai quan điểm trước đó, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ trong việc giúp con người tồn tại và phát triển Theo Từ điển tiếng Việt, trí tuệ bao gồm khả năng suy nghĩ, tư duy, tưởng tượng, ghi nhớ và phê phán, có thể dẫn đến phát minh khoa học và sáng tạo nghệ thuật Các khái niệm liên quan như trí khôn, trí năng, trí lực và trí thông minh đều phản ánh năng lực hiểu biết và ứng phó của con người trong cuộc sống.

Theo Nguyễn Khắc Viện (1991), trí khôn và trí tuệ có sự khác biệt rõ rệt; trí khôn liên quan đến khả năng hành động thích nghi với hoàn cảnh, trong khi trí tuệ thiên về tư duy trừu tượng Nhóm tác giả NC trong đề tài KX 05-06 cho rằng trí tuệ là một thuộc tính độc lập trong nhân cách, có cấu trúc phức hợp và đa dạng Nó bao gồm các năng lực nhận thức và cảm nhận, điều khiển cảm xúc cá nhân, được hình thành trong hoạt động và chịu ảnh hưởng từ điều kiện văn hóa - xã hội, giúp cá nhân tương tác hiệu quả với thực tế và cải tạo nó nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng trong cuộc sống.

Các quan niệm về trí tuệ không loại trừ lẫn nhau, mà phản ánh sự đa dạng trong cách nhìn của từng tác giả về các đặc điểm quan trọng nhất của trí tuệ Do đó, không có định nghĩa nào có thể bao quát toàn bộ khả năng của trí tuệ con người.

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về trí tuệ, nhưng các nhà tâm lí học đều thống nhất rằng:

(1) Trí tuệ là những thuộc tính nhận thức tương đối độc lập của nhân cách mà cốt lõi là năng lực tư duy trừu tượng;

(2) Trí tuệ được hình thành và biểu hiện trong hoạt động;

(3) Trí tuệ chịu sự chế ước và sự quy định của điều kiện văn hóa, lịch sử;

(4) Trí tuệ có chức năng chủ yếu là đảm bảo sự tác động qua lại phù hợp với môi trường xung quanh.

Trí tuệ hiện nay không chỉ đơn thuần là trí thông minh mà còn bao gồm các loại trí tuệ thành phần như trí thông minh, TTCX và trí sáng tạo Trong nghiên cứu đề tài luận án “BD TTCX trong HĐNN cho GVMN”, chúng tôi tiếp cận TTCX của GVMN theo quan niệm mới, coi TTCX của GVMN như một dạng trí tuệ.

Từ những quan niệm trên đây, chúng tôi cho rằng: Trí tuệ là năng lực tổng thể

Trí tuệ cá nhân là năng lực tổng hợp cho phép hành động có mục đích, suy nghĩ hợp lý và ứng phó hiệu quả với môi trường Nó không chỉ là một cấu trúc phức tạp và đa diện, mà còn có tính độc lập tương đối và ổn định Tuy nhiên, trí tuệ không tĩnh tại mà phát triển thông qua trải nghiệm cá nhân, nhờ vào sự tương tác giữa các yếu tố sinh học và môi trường sống, hoạt động cũng như giao tiếp của cá nhân.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về trải nghiệm khách hàng (CX), phụ thuộc vào góc độ nghiên cứu của từng nhà nghiên cứu X.L Rubinstein cho rằng CX được hình thành từ các mối quan hệ giữa con người, cũng như các tập quán và thói quen trong từng hoàn cảnh xã hội và tư tưởng của họ.

Nhóm tác giả J Mayer, P Salovey và D Caruso định nghĩa cảm xúc (CX) là một hệ thống phản ứng của cơ thể, giúp điều phối các thay đổi về sinh lý, tri giác, kinh nghiệm và nhận thức Những phản ứng này tạo thành những trải nghiệm rõ ràng về tâm trạng và tình cảm, bao gồm hạnh phúc, tức giận, buồn chán và ngạc nhiên.

Theo Carroll E Izard, CX (Trải nghiệm cảm xúc) bao gồm ba yếu tố chính: thứ nhất, cảm giác được trải nghiệm hoặc nhận thức về CX; thứ hai, các quá trình diễn ra trong các hệ thống thần kinh, nội tiết, hô hấp, tiêu hóa và các hệ thống khác trong cơ thể; và thứ ba, các phức hợp biểu cảm CX có thể quan sát được, đặc biệt là những biểu hiện trên khuôn mặt.

Theo Frijda N.H (2000) trong cuốn “Sổ tay về CX”, cảm xúc (CX) được định nghĩa là một hoạt động tiến hóa của sinh vật, nhằm ứng phó với những tình huống khó khăn mà cá nhân nhận thức Cảm xúc bao gồm sự kết hợp hài hòa giữa các phản ứng tâm lý và sinh lý, những cảm nhận chủ quan, cùng với các hoạt động nhận thức liên quan.

Trong cuốn "Tâm lý học" của C.Wade và D.R.Detterman (1986), CX được định nghĩa là trạng thái đánh thức liên quan đến sự thay đổi về cơ thể, biểu cảm khuôn mặt, hoạt động não, đánh giá kinh nghiệm và cảm nhận chủ quan, đồng thời hướng tới hành động và chịu ảnh hưởng của các nguyên tắc văn hóa Các nhà tâm lý học Việt Nam cũng có nhiều quan niệm đa dạng về CX.

Hoạt động nghề nghiệp và trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non

1.3.1 Hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non

1.3.1.1 Khái niệm nghề và nghề giáo viên mầm non

Nghề hay nghề nghiệp, theo Từ điển tiếng Việt, là công việc chuyên làm do XH phân công, như nghề GV, nghề trồng trọt…[36]

Nghề Giáo viên Mầm non (GVMN) là công việc chuyên trách trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi Qua quá trình đào tạo, GVMN được trang bị kiến thức về sự phát triển thể chất và tâm sinh lý của trẻ, cùng với các phương pháp nuôi dưỡng và giáo dục hiệu quả Họ cũng phát triển những kỹ năng cần thiết để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong lĩnh vực này.

XH về phát triển con người mới trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa.

1.3.1.2 Khái niệm hoạt động và hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non Hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới HĐ là sự tác động qua lại giữa con người với thế giới khách quan và với chính bản thân mình, qua đó tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới (khách thể), cả về phía con người (chủ thể).

Hoạt động của con người bao gồm hai loại quá trình chính: quá trình bên ngoài, nơi con người tác động vào khách thể như sự vật và tri thức, và quá trình bên trong, liên quan đến tâm lý và trí tuệ Điều này cho thấy hoạt động không chỉ bao gồm hành vi tâm lý mà còn cả công việc chân tay và trí óc.

HĐNN của GVMN là quá trình tương tác giữa giáo viên mầm non với trẻ em, đồng nghiệp, phụ huynh, và cộng đồng, đồng thời cũng là sự tự phản ánh trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ dưới 6 tuổi Qua phương pháp khoa học, HĐNN nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra.

Để đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra, giáo viên mầm non cần tương tác hiệu quả với nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm trẻ em, đồng nghiệp, phụ huynh và cộng đồng.

1.3.1.3 Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non a Mục đích HĐNN của GVMN là giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. b Đối tượng HĐNN của GVMN

Lao động của giáo viên mầm non (GVMN) đặc biệt và không thể so sánh với các loại hình lao động khác, vì đối tượng chính là trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi - giai đoạn phát triển nhanh chóng về thể chất, tâm lý và xã hội Trẻ em ở độ tuổi này thường gặp khó khăn trong giao tiếp do ngôn ngữ và nhận thức còn hạn chế, dẫn đến sự nhút nhát và tự ti Vì vậy, giáo viên cần trang bị kỹ năng nghề nghiệp để tạo sự gần gũi, thân thiện, giúp trẻ cảm thấy thoải mái và dám bày tỏ suy nghĩ Tình cảm và sự yêu thương là yếu tố quan trọng trong giao tiếp sư phạm, giúp trẻ dễ dàng hòa nhập, phát triển tình cảm và tích cực tham gia hoạt động.

Trẻ mầm non thường rất hiếu động nhưng chưa có khả năng tự điều chỉnh hành vi và chăm sóc bản thân, dẫn đến nguy cơ tai nạn cao Do đó, giáo viên mầm non cần thực hiện công tác chăm sóc và giáo dục một cách tỉ mỉ, cẩn thận và tận tâm Mỗi hành động và cảm xúc của giáo viên đều ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn trẻ Vì vậy, trong quá trình tổ chức hoạt động và giao tiếp với trẻ, giáo viên cần thể hiện nhân cách mẫu mực, vai trò chủ đạo và nghệ thuật sư phạm.

Hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo là yếu tố then chốt để giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động giáo dục và chăm sóc phù hợp với nhu cầu, sở thích và khả năng của trẻ Điều này giúp tạo ra những hành vi ứng xử hợp lý, từ đó hình thành bầu không khí tâm lý thân thiện và tích cực giữa giáo viên và trẻ, cũng như giữa các trẻ với nhau trong quá trình giáo dục.

Các hoạt động giáo dục và chăm sóc trẻ em của giáo viên mầm non rất phong phú, bao gồm đón trẻ, thể dục sáng, chơi và học tại các góc, hoạt động ngoài trời, ăn uống và nghỉ ngơi Thời gian làm việc của giáo viên mầm non không giống như thời gian làm việc hành chính, mà thường kéo dài trung bình khoảng 10 tiếng mỗi ngày, với cường độ áp lực cao Do đó, giáo viên mầm non cần tổ chức và thực hiện công việc một cách khoa học để duy trì sức khỏe và hiệu quả làm việc lâu dài.

Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục và chăm sóc trẻ, giáo viên mầm non (GVMN) đảm nhận ba vai trò quan trọng: vừa là người mẹ, vừa là người thầy, vừa là người bạn đồng hành cùng trẻ trong học tập, vui chơi, hát múa và nhiều hoạt động khác.

GVMN đóng vai trò như một người mẹ hiền, chăm sóc một nhóm trẻ với nhu cầu và thói quen đa dạng Để đáp ứng kịp thời các yêu cầu về sức khỏe thể chất và tinh thần, GVMN cần nhanh chóng nhận biết tình trạng, sở thích và tâm lý của từng trẻ Điều này bao gồm việc chăm sóc từ ăn uống, vệ sinh, giấc ngủ cho đến các hoạt động vui chơi và tập luyện.

Giáo viên mầm non (GVMN) đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức cho trẻ em tiếp thu tri thức và kỹ năng, từ đó phát triển phẩm chất và năng lực của trẻ trong quá trình giáo dục Để thực hiện sứ mệnh này, GVMN cần nắm vững nhu cầu, hứng thú và khả năng của từng trẻ, từ đó thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp Điều này tạo cơ hội cho tất cả trẻ em được khám phá, trải nghiệm và phát triển một cách toàn diện trong môi trường học tập.

GVMN đóng vai trò là điểm tựa và hỗ trợ cho trẻ em trong những lúc cần thiết, trong khi trẻ em lại là những chủ thể tích cực, độc lập và sáng tạo trong quá trình trải nghiệm và khám phá để tiếp thu tri thức và hình thành kỹ năng Do đó, trong quá trình hoạt động, GVMN cần phải theo dõi, động viên và khích lệ kịp thời những hành vi và thái độ tích cực của trẻ, đồng thời hướng dẫn và điều chỉnh những hành vi chưa đúng của trẻ.

Giáo viên mầm non (GVMN) cần nắm bắt nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ để tham gia vào các hoạt động như chơi, hát và múa cùng trẻ Họ nên hòa nhập suy nghĩ và cảm xúc của mình với trẻ, tạo ra không khí vui tươi, hồn nhiên và ngộ nghĩnh Điều này không chỉ thu hút trẻ mà còn kích thích sự tích cực trong hoạt động của các em.

Hoạt động bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

1.4.1 Khái niệm bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

1.4.1.1 Khái niệm bồi dưỡng trí tuệ của xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

Theo Từ điển tiếng Việt, BD được định nghĩa là việc nâng cao năng lực hoặc phẩm chất, đồng thời cũng là quá trình trang bị, cập nhật và cải thiện kiến thức cũng như kỹ năng làm việc.

Theo nghĩa hẹp, bồi dưỡng (BD) là quá trình trang bị thêm kiến thức, thái độ và kỹ năng nhằm nâng cao năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể Trong khi đó, theo nghĩa rộng, BD còn bao gồm việc phát triển toàn diện các yếu tố cần thiết để cải thiện hiệu quả công việc và khả năng thích ứng với môi trường thay đổi.

BD là quá trình GD, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn [36, tr 113].

BD là hoạt động có chủ đích nhằm nâng cao kiến thức và trình độ của giáo viên, đáp ứng yêu cầu của ngành học Công tác BD được thực hiện dựa trên nền tảng các trình độ đã được đào tạo trước đó, và là một quá trình liên tục, thường xuyên cho giáo viên ở mọi cấp học và ngành học Mục tiêu của BD là nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ giáo viên, giúp họ thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế xã hội Nội dung BD được triển khai linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng cụ thể.

Bồi dưỡng (BD) là quá trình đào tạo và giáo dục nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng cho con người Đồng thời, BD cũng được hiểu là việc cập nhật kiến thức và kỹ năng để cải thiện năng lực hoạt động nghề nghiệp Quá trình này thường diễn ra khi cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện nay.

BD là quá trình mà cá nhân và tổ chức nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn để đáp ứng nhu cầu lao động Quá trình này giúp cập nhật những kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu, thường được công nhận bằng chứng chỉ.

BD TTCX trong HĐNN cho GVMN là quá trình nâng cao kiến thức và kỹ năng về TTCX, giúp GVMN cải thiện khả năng nhận biết, sử dụng, hiểu và kiểm soát cảm xúc của bản thân và người khác, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ em.

BD TTCX trong HĐNN cho GVMN là quá trình nâng cao kiến thức và hiểu biết của giáo viên mầm non, đồng thời cần thực hành các kỹ năng TTCX như nhận biết, sử dụng, hiểu và kiểm soát cảm xúc của bản thân và người khác Điều này giúp giáo viên mầm non thực hiện nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ em một cách hiệu quả hơn.

1.4.1.2 Khái niệm biện pháp bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

Theo Từ điển Giáo dục học, biện pháp được định nghĩa là cách làm hoặc cách giải quyết một vấn đề cụ thể Nó là phương thức và con đường để thực hiện công việc một cách hiệu quả.

Biện pháp BD TTCX trong HĐNN cho GVMN là phương pháp cụ thể nhằm tác động đến sản phẩm, giúp nâng cao khả năng nhận biết, sử dụng, hiểu biết và kiểm soát của người tiêu dùng.

CX của mình và người khác giúp GVMN CS - GD trẻ em đạt hiệu quả.

Nội hàm của khái niệm:

Biện pháp bảo đảm tăng trưởng tổng sản phẩm trong hoạt động nông nghiệp cho gia đình nông dân là cách thức tác động cụ thể của các chuyên gia đến đối tượng gia đình nông dân, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập trong hoạt động nông nghiệp của họ.

- BD các năng lực nhận biết CX, sử dụng CX, hiểu CX và kiểm soát, điều chỉnh

CX của mình và của của trẻ, của đồng nghiệp, của phụ huynh trong quá trình CS - GD trẻ, giúp nâng cao hiệu quả CS - GD trẻ em.

1.4.2 Ý nghĩa của việc bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp cho giáo viên mầm non

TTCX đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được thành công cá nhân và trong hoạt động nghề nghiệp Những người có TTCX tốt có khả năng nhận diện cảm xúc của bản thân và người khác, nắm bắt sự thay đổi cảm xúc trong các tình huống cụ thể, cũng như hiểu và đồng cảm với cảm xúc của người xung quanh Họ biết cách điều tiết và kiểm soát cảm xúc của mình và của người khác một cách phù hợp với hoàn cảnh, giúp cho cảm xúc không ảnh hưởng tiêu cực đến công việc Nhờ đó, họ dễ dàng gặt hái thành công trong công việc và giao tiếp.

TTCX của con người, đặc biệt là của GVMN trong HĐNN, không phải là bẩm sinh mà là kết quả của hoạt động thực hành, trải nghiệm và kinh nghiệm sống Nó có thể được hình thành và phát triển thông qua quá trình tự lĩnh hội và trải nghiệm cá nhân trong giao tiếp, cũng như từ việc tham gia các chương trình bồi dưỡng và tập huấn.

BD TTCX trong HĐNN cho GVMN là phương pháp hiệu quả để nâng cao TTCX Tham gia chương trình bồi dưỡng, GVMN sẽ tiếp thu tri thức và kỹ năng nhận diện CX, từ đó hiểu rõ CX của bản thân và người khác (bao gồm trẻ em, đồng nghiệp, phụ huynh) trong nhiều tình huống khác nhau Điều này giúp GVMN thực hành và trải nghiệm thực tế trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tại trường mầm non.

BD TTCX cho GV giúp họ biết cách sử dụng CX trong quá trình CS - GD trẻ.

GV có khả năng thể hiện cảm xúc và tình cảm của mình qua lời nói, cử chỉ và điệu bộ Họ biết cách tạo ra những trải nghiệm tích cực trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó điều chỉnh cảm xúc phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt trong quá trình giao tiếp xã hội.

Mặt khác BD TTCX còn giúp GV biết QL các CX khác nhau trong quá trình CS -

Trẻ em có khả năng thoát khỏi cảm xúc tiêu cực và tự điều khiển cảm xúc của bản thân Giáo viên cần kịp thời động viên và khích lệ trẻ, giúp các em giải tỏa tâm lý và vượt qua trạng thái cảm xúc tiêu cực Điều này không chỉ hỗ trợ sự phát triển của trẻ mà còn tạo điều kiện cho các em học tập hiệu quả hơn.

Các yếu tố ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc và bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non

TTCX trong HĐNN của GVMN bị tác động bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan Những yếu tố này liên quan đến môi trường làm việc, điều kiện kinh tế - xã hội, cũng như môi trường cộng đồng địa phương.

1.5.1 Những yếu tố chủ quan

1.5.1.1.Yếu tố kinh nghiệm cá nhân

TTCX là một năng lực tâm lý cá nhân, không hoàn toàn do bẩm sinh mà được hình thành từ kinh nghiệm xã hội và lịch sử Vốn kinh nghiệm sống đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến mọi năng lực tâm lý, đặc biệt là TTCX Mỗi lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp cũng có những kinh nghiệm đặc thù mà cá nhân cần tham gia để thu thập và tích lũy.

Vốn tri thức ẩn từ trải nghiệm công việc là yếu tố quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục và chăm sóc trẻ Kinh nghiệm nghề nghiệp đóng vai trò chủ quan, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy trong giáo dục mầm non.

Theo Lê Thị Thanh Huyền (2019), nhận thức của giáo viên mầm non (GVMN) về kiểm soát và điều chỉnh cảm xúc (CX), cùng với kỹ năng quản lý CX, ứng xử trong trường học, kiểu khí chất, áp lực công việc, cơ hội phát triển và mức độ gắn bó với công việc đều ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát và điều chỉnh CX của GVMN Nếu các yếu tố này được cải thiện theo hướng tích cực, kỹ năng kiểm soát và điều chỉnh CX của GVMN sẽ được nâng cao.

Để nâng cao trải nghiệm khách hàng (CX) cho giáo viên mầm non (GVMN), cần giảm áp lực công việc và tạo cơ hội phát triển cho họ Việc nâng cao nhận thức về kiểm soát và điều chỉnh CX, cũng như kỹ năng quản lý CX, sẽ giúp GVMN gắn bó hơn với công việc Đặc biệt, cải thiện cách ứng xử giữa GVMN với đồng nghiệp và Ban Giám hiệu là yếu tố quan trọng trong quá trình này.

1.5.1.2 Yếu tố nhận thức của giáo viên mầm non

Bên cạnh vốn kinh nghiệm sống và nghề nghiệp nói chung thì những kiến thức mà

GVMN được đào tạo liên quan đến lĩnh vực CX, tình cảm có ảnh hưởng đến năng lực

TTCX của giáo viên mầm non (GVMN) được hình thành từ việc cá nhân hóa và chuyển hóa kiến thức về trải nghiệm khách hàng (CX) vào bản thân Ngoài kiến thức nền tảng về CX, các kỹ năng quan trọng như quan sát nét mặt, cử chỉ, biểu cảm và hành vi, cùng với kỹ năng lắng nghe, làm chủ bản thân và kiềm chế hành vi bột phát, đều ảnh hưởng đến khả năng TTCX Những kỹ năng này đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động hàng ngày cho trẻ, giúp giáo viên xử lý các trải nghiệm tiêu cực trong quá trình giáo dục và chăm sóc trẻ.

1.5.1.3 Thái độ, động cơ của giáo viên mầm non

Thái độ và động cơ cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực Thông minh Cảm xúc (TTCX) Theo Caruso và Salovey, TTCX khác với động cơ và thái độ, nhưng lại bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chúng Do đó, việc bồi dưỡng năng lực TTCX sẽ không mang lại hiệu quả nếu người học không có mong muốn cải thiện khả năng này.

Thái độ và động cơ của giáo viên mầm non (GVMN) đóng vai trò quan trọng trong năng lực tổ chức hoạt động giáo dục (TTCX) trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ Những yếu tố như sự quan tâm, tình yêu thương đối với trẻ, thái độ cầu thị và tích cực học hỏi nhằm nâng cao năng lực bản thân, cùng với mong muốn hoàn thiện bản thân và gia tăng uy tín trong tập thể, đều góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

1.5.1.4 Tính khí/khí chất của giáo viên mầm non

Tính khí và khí chất của giáo viên mầm non (GVMN) có ảnh hưởng đáng kể đến năng lực tham gia công tác giáo dục của họ Một số giáo viên có thái độ làm việc tích cực và thân thiện, nhưng lại khó kiềm chế bản thân do tính khí nóng nảy hoặc hay thay đổi Ngoài ra, những giáo viên có khả năng thích ứng chậm cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công việc Điều này cho thấy rằng hành vi của giáo viên không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng chuyên môn mà còn bị chi phối bởi tính cách và khí chất cá nhân.

CX, hành vi trí tuệ của chúng ta đều có sự phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động thần kinh.

1.5.2 Những yếu tố khách quan

1.5.2.1 Đối tượng lao động của giáo viên mầm non Đối tượng lao động của GVMN là trẻ em dưới 6 tuổi Ở giai đoạn này diễn ra sự thay đổi nhanh chóng và kì diệu về các cấu trúc và chức năng hoạt động của các hệ cơ quan trong cơ thể đặc biệt là hệ vận động, hệ thần kinh, điều đó cho phép trẻ thực hiện các vận động ngày càng phức tạp và thuần thục hơn Phản xạ của trẻ nhanh, chính xác và ít thao tác thừa hơn.

Hành động của trẻ em chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ cảm xúc (CX), với những biểu hiện thường bộc phát và chân thực Để tổ chức hoạt động hiệu quả, cần tạo ấn tượng thu hút sự chú ý và mang lại cho trẻ cảm giác tin tưởng, thoải mái và yêu thương Trẻ em có nhu cầu giao lưu cảm xúc và giao tiếp, nhưng do hạn chế về từ vựng và khả năng biểu đạt, điều này có thể dẫn đến những tình huống ngây thơ và khó chịu khi không được hiểu Do đó, giáo viên mầm non cần hiểu biết về đặc điểm phát triển và nhu cầu lứa tuổi, đồng thời nhận ra và kiểm soát cảm xúc của mình để ứng xử phù hợp với trẻ.

Ở lứa tuổi này, trẻ em rất hiếu động và thường không thể ngồi yên, luôn có nhu cầu khám phá và tìm hiểu xung quanh Sự chú ý của trẻ dễ bị thu hút bởi các đối tượng khác nhau, trong khi động cơ hành vi và tính mục đích trong hành động chưa rõ ràng và bền vững Điều này dẫn đến việc trẻ dễ bị mất tập trung và xao nhãng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ.

Trẻ mầm non chưa có đủ kinh nghiệm sống để tự lập, vì vậy mọi hoạt động của trẻ tại trường đều phụ thuộc vào sự hướng dẫn của giáo viên Áp lực công việc của giáo viên mầm non, cùng với sự đa dạng trong các hoạt động hàng ngày và các tình huống như trẻ mệt mỏi, quấy khóc, hoặc nghịch ngợm, tạo ra một áp lực lớn, ảnh hưởng đến việc tổ chức hoạt động giáo dục Hơn nữa, sự phát triển của trẻ ở mỗi độ tuổi yêu cầu giáo viên mầm non phải có khả năng nhận biết, thấu hiểu và quản lý cảm xúc của bản thân cũng như của trẻ.

1.5.2.2 Môi trường làm việc, chế độ chính sách

Môi trường làm việc có vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực của giáo viên mầm non (GVMN) Thời gian làm việc trung bình của GVMN tại các cơ sở giáo dục mầm non là 10 giờ mỗi ngày, từ 6h30 đến 17h30, với cường độ làm việc cao Công việc bao gồm việc đón trẻ, tổ chức các hoạt động chơi và học, chăm sóc ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh cá nhân, cùng với các nhiệm vụ như vệ sinh phòng học và chuẩn bị đồ dùng dạy học Áp lực công việc và mối quan hệ với đồng nghiệp, cán bộ quản lý, cũng như phụ huynh và người chăm sóc trẻ đều ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của GVMN.

Chế độ, chính sách cho GV trong những năm gần đây đã được quan tâm, nhất là

Giáo viên vùng khó khăn và dân tộc thiểu số đã có sự cải thiện trong đời sống, nhưng giáo viên mầm non vẫn đối mặt với nhiều thách thức Họ phải làm việc trong thời gian dài với thu nhập thấp, và vị trí cũng như vai trò của họ chưa được công nhận và tôn vinh một cách xứng đáng Những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục trong hoạt động nuôi dạy trẻ.

THỰC TRẠNG BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON

BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CHO GIÁO VIÊN MẦM NON

Ngày đăng: 20/10/2021, 16:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Minh Anh (2008), Đặc điểm tâm lí của sự hình thành trí tuệ cảm xúc ở trẻ mẫu giáo lớn (trên cơ sở trẻ Nga và trẻ Việt Nam), Thư viện quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm tâm lí của sự hình thành trí tuệ cảm xúc ở trẻ mẫu giáo lớn (trên cơ sở trẻ Nga và trẻ Việt Nam)
Tác giả: Nguyễn Minh Anh
Năm: 2008
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng IV, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học, Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạngIV
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2019
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Chương trình Giáo dục mầm non, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chương trình Giáo dục mầm non
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2020
7. Carroll E. I. (1992), Những xúc cảm của con người, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những xúc cảm của con người
Tác giả: Carroll E. I
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 1992
10. Lê Thị Mỹ Dung (2019), Kỹ năng quản lý cảm xúc của bản thân, Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng IV, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ năng quản lý cảm xúc của bản thân, Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng IV
Tác giả: Lê Thị Mỹ Dung
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
Năm: 2019
11. Nguyễn Thị Dung (2008), Trí tuệ cảm xúc của giáo viên chủ nhiệm lớp trường trung học cơ sở, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí tuệ cảm xúc của giáo viên chủ nhiệm lớp trường trung học cơ sở
Tác giả: Nguyễn Thị Dung
Năm: 2008
12. Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lí học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tâm lí học
Tác giả: Vũ Dũng
Nhà XB: Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Năm: 2000
13. Fisher Roger, Daniel Shapiro (2016), Sức mạnh của trí tuệ cảm xúc (Đan Châu dịch), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sức mạnh của trí tuệ cảm xúc (Đan Châu dịch)
Tác giả: Fisher Roger, Daniel Shapiro
Nhà XB: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2016
14. Goleman D. (2002), Trí tuệ xúc cảm – Làm thế nào để biến những xúc cảm của mình thành trí tuệ (Lê Diên dịch), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí tuệ xúc cảm – Làm thế nào để biến những xúc cảm của mình thành trí tuệ (Lê Diên dịch)
Tác giả: Goleman D
Nhà XB: Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Năm: 2002
15. Goleman D. (2003), Trí thông minh cảm xúc. Những vấn đề về phương pháp luận tiếp cận (Nguyễn Công Khanh dịch), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí thông minh cảm xúc. Những vấn đề về phương pháp luận tiếpcận (Nguyễn Công Khanh dịch)
Tác giả: Goleman D
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Năm: 2003
16. Goleman D. (2007), Trí tuệ xã hội (Nguyễn Trang – Hồng Việt dịch), Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí tuệ xã hội (Nguyễn Trang – Hồng Việt dịch)
Tác giả: Goleman D
Nhà XB: Nhà xuất bảnLao động – Xã hội
Năm: 2007
17. Goleman D. (2007), Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc (Phương Thúy, Minh Phương, Phương Linh dịch), Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc (Phương Thúy, MinhPhương, Phương Linh dịch)
Tác giả: Goleman D
Nhà XB: Nhà xuất bản Tri thức
Năm: 2007
18. Phạm Minh Hạc (1989), Hành vi và hoạt động, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành vi và hoạt động
Tác giả: Phạm Minh Hạc
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 1989
19. Thích Nhất Hạnh, Katherine Weare (2018), Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới, Nhà xuất bản Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi thế giới
Tác giả: Thích Nhất Hạnh, Katherine Weare
Nhà XB: Nhà xuất bản Hà Nội
Năm: 2018
20. Bùi Hiền (2001), Từ điển giáo dục học, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển giáo dục học
Tác giả: Bùi Hiền
Nhà XB: Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa
Năm: 2001
21. Nguyễn Thị Hiền (2009), "Ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc đến việc hình thành kĩ năng làm công tác chủ nhiệm lớp của sinh viên", Tạp chí Tâm lí học, 7 (124) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của trí tuệ cảm xúc đến việc hình thành kĩ năng làm công tác chủ nhiệm lớp của sinh viên
Tác giả: Nguyễn Thị Hiền
Năm: 2009
22. Ngô Công Hoàn (2002), "Xúc cảm và giáo dục xúc cảm ở trẻ em lứa tuổi mầm non", Tạp chí Giáo dục, 46 (4/2002), tr. 3-4,7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xúc cảm và giáo dục xúc cảm ở trẻ em lứa tuổi mầm non
Tác giả: Ngô Công Hoàn
Năm: 2002
23. Hồ Lam Hồng (2008), Nghề giáo viên mầm non, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghề giáo viên mầm non
Tác giả: Hồ Lam Hồng
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Năm: 2008
24. Lê Thị Thanh Huyền (2019), "Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi kỹ năng quản lý cảm xúc của giáo viên mầm non tại TP.HCM", Tạp chí Khoa học số 11, Trường ĐHSP TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi kỹ năng quảnlý cảm xúc của giáo viên mầm non tại TP.HCM
Tác giả: Lê Thị Thanh Huyền
Năm: 2019
25. Nguyễn Công Khanh (2002), "Bàn về khái niệm trí thông minh và bản chất của nó", Tạp chí thông tin Khoa học Giáo dục, 92, tr. 38-42,49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về khái niệm trí thông minh và bản chất của nó
Tác giả: Nguyễn Công Khanh
Năm: 2002

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w