1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng

199 36 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Tài Chính Toàn Diện Đối Với Sự Ổn Định Của Hệ Thống Ngân Hàng
Tác giả Dư Thị Lan Quỳnh
Trường học Trường Đại Học Ngân Hàng Tp. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài Chính Ngân Hàng
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 199
Dung lượng 3,9 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (21)
    • 1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (10)
    • 1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU (13)
    • 1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (14)
      • 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu (14)
      • 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu (14)
        • 1.3.2.1. Phạm vi về không gian (14)
        • 1.3.2.2. Phạm vi về thời gian (15)
        • 1.3.2.3. Phạm vi về nội dung (17)
    • 1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU (18)
    • 1.5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI (20)
    • 1.6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (21)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG (21)
    • 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN (23)
      • 2.1.1. Khái niệm của tài chính toàn diện (23)
      • 2.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tài chính toàn diện (26)
        • 2.1.2.1. Tài chính toàn diện và sự ổn định tài chính (26)
        • 2.1.2.2. Tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế (27)
        • 2.1.2.3. Tài chính toàn diện và phát triển bền vững (29)
      • 2.1.3. Các chỉ số đo lường tài chính toàn diện (34)
        • 2.1.3.1. Các chỉ số riêng lẻ (34)
        • 2.1.3.2. Chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện (36)
    • 2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG (43)
      • 2.2.1. Khái niệm về ổn định hệ thống tài chính (43)
      • 2.2.2. Khái niệm về ổn định hệ thống ngân hàng (45)
      • 2.2.3. Các chỉ số đo lường ổn định hệ thống ngân hàng (48)
        • 2.2.3.1. Chỉ số Zscore (48)
        • 2.2.3.2. Một số chỉ số đo lường khác (50)
      • 2.2.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống ngân hàng (0)
        • 2.2.4.1. Các nhân tố bên trong (52)
        • 2.2.4.2. Các nhân tố bên ngoài (58)
    • 2.3. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG (59)
      • 2.3.1. Tài chính toàn diện tác động tiêu cực đến ổn định hệ thống ngân hàng (59)
      • 2.3.2. Tài chính toàn diện tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng (60)
        • 2.3.2.1. Gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định (61)
        • 2.3.2.2. Mở rộng cho vay an toàn (63)
        • 2.3.2.3. Sự phát triển bền vững (65)
    • 2.4. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU (66)
      • 2.4.1. Lược khảo các nghiên cứu về tài chính toàn diện (0)
      • 2.4.2. Lược khảo các nghiên cứu về sự ổn định hệ thống ngân hàng (0)
      • 2.4.3. Lược khảo các nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng (0)
      • 2.4.4. Khoảng trống nghiên cứu (0)
  • CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (21)
    • 3.1. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU (76)
    • 3.2. GIẢ THUYẾT (78)
    • 3.3. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU (79)
      • 3.3.1. Mô hình nghiên cứu (79)
      • 3.3.2. Các biến (80)
        • 3.3.2.1. Các biến đại diện của sự ổn định của ngân hàng (80)
        • 3.3.2.2. Các biến đại diện của tài chính toàn diện (81)
        • 3.3.2.3. Biến đại diện cho sự cạnh tranh của ngân hàng (82)
        • 3.3.2.4. Các biến kiểm soát khác (84)
        • 3.3.2.5. Lựa chọn biến công cụ (89)
      • 3.3.3. Nguồn dữ liệu (90)
    • 3.4. PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG (90)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (0)
    • 4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN (94)
      • 4.1.1. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước khu vực ASEAN (94)
        • 4.1.1.1. Khía cạnh thứ nhất: sự thâm nhập của ngân hàng (94)
        • 4.1.1.2. Khía cạnh thứ hai: tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng (97)
        • 4.1.1.3. Khía cạnh thứ ba: mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng (100)
        • 4.1.1.4. Đánh giá mức độ tài chính toàn diện thông qua chỉ số tổng hợp IFI (106)
      • 4.1.2. Mức độ ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN (108)
    • 4.2. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN (111)
      • 4.2.1. Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến (0)
        • 4.2.1.1. Một số thống kê mô tả các biến trong mô hình (111)
        • 4.2.1.2. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình (113)
        • 4.2.2.1. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng thông (116)
        • 4.2.2.2. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng thông (117)
      • 4.2.3. Thảo luận về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng (0)
    • 4.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN KHÁC ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN (124)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH (0)
    • 5.1. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU (129)
    • 5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH (131)
      • 5.2.1. Tiếp tục thúc đẩy tiến trình tài chính toàn diện (131)
        • 5.2.1.1. Thúc đẩy tài chính toàn diện cần được triển khai trên cả ba khía cạnh (132)
        • 5.2.1.2. Gợi ý chiến lược thúc đẩy tiến trình triển tài chính toàn diện (133)
      • 5.2.2. Đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định (0)
      • 5.2.3. Cải thiện các vấn đề nội tại của các ngân hàng ở khu vực ASEAN (0)
    • 5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO (137)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (141)
  • PHỤ LỤC (161)

Nội dung

1. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Những năm gần đây, việc thúc đẩy tiếp cận tài chính được coi là chương trình ưu tiên hàng đầu ở nhiều quốc gia. Từ đó làm nổi bật lên các vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện (Financial Inclusion) – có nghĩa là tất cả các thành phần trong kinh tế đều có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách chính thức và có thể sử dụng các dịch vụ đó một cách hiệu quả (Ahamed and Mallick, 2019). Không chỉ được các quốc gia cân nhắc cẩn thận, từ khóa “tài chính toàn diện” còn được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Trong các nghiên cứu trên thế giới hiện nay, có nhiều tác giả đã chỉ ra khái niệm của tài chính toàn diện, và xây dựng cách đo lường tài chính toàn diện, chẳng hạn Iqbal and Sami (2017); Kalunda (2014); Shankar (2013); Garcia (2016) Sarma (2008, 2012, 2015); Sarma and Pais (2011); v.v. Cũng có các nghiên cứu tập trung phân tích và cung cấp các bằng chứng chứng tỏ vai trò tích cực của tài chính toàn diện đối với tăng trưởng kinh tế trên cả hai phương diện: vi mô (Dupas and Robinson, 2013a; Brune, Giné, Goldberg and Yang, 2011; Cole, Giné and Vickery, 2013; Jack and Suri, 2014) và vĩ mô (Demirgüç-Kunt, Honohan and Beck, 2008). Đối với phát triển bền vững, tài chính toàn diện cũng có vai trò tích cực trong loại bỏ đói nghèo (Banerjee and Newman, 1994; Beck, Demirgüç-Kunt and Levine, 2007; Ashraf, Karlan and Yin, 2010; ; Burgess and Pande, 2005; Jack and Suri, 2014); giảm tình trạng thiếu đói và tăng cường an ninh lương thực (Karlan, Osei, Osei-Akoto and Udry, 2014; Cole, Giné and Vickery, 2013; Janzen and Carter, 2013; Brune et al., 2011; v.v.); đạt được sức khoẻ và hạnh phúc (Krishna, 2006; Saksena, Xu and Evans, 2011; Frenk and Knaul, 2002; Klapper, ElZoghbi and Hess, 2016; PharmAccess, 2015; Dupas and Robinson, 2013b); tăng cường giáo dục có chất lượng (Thomas and Burnett, 2013; Prina, 2015; Chiapa, Prina and Parker, 2014; Chiapa, Prina and Parker, 2014; v.v.). Cùng với sự quan tâm về tài chính toàn diện, từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, các vấn đề về ổn định hệ thống ngân hàng cũng được các nhà quản lý ở các quốc gia hết sức chú ý (Ovi, Perera and Colombage, 2014). Bởi vì sự ổn định hệ thống ngân hàng là yếu tố quan trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến kinh tế và xã hội khi phát sinh các vấn đề (HKMA, 2017). Sự ổn định và lành mạnh của một hệ thống ngân hàng đảm bảo phân bổ tối ưu các nguồn vốn (Jahn and Kick, 2012); do đó, sự ổn định của ngân hàng là rất quan trọng để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho nhà đầu tư, bảo vệ khách hàng gửi tiền đồng thời giúp nền kinh tế hoạt động trơn tru và hiệu quả. Hơn nữa, sự ổn định ở hệ thống ngân hàng có mối liên kết mật thiết với ổn định hệ thống tài chính (Segoviano and Goodhart, 2009), một yêu cầu thiết yếu không chỉ để ổn định giá cả – mục tiêu chính sách của NHTW, mà còn bảo đảm sự phát triển lành mạnh và ổn định của nền kinh tế (BOK, 2020; CBN, 2020). Đối với ổn định hệ thống ngân hàng nói trên, hiện nay vẫn tồn tại những nghi ngờ về việc tài chính toàn diện có vai trò như thế nào và nghi ngờ này vẫn chưa được trả lời một cách rõ ràng, từ đó khiến cho các ngân hàng lo sợ và ''né tránh'' việc mở rộng dịch vụ tài chính sang các phân đoạn khó khăn của xã hội (Leyshon and Thrift, 1995). Do đó, có thể tồn tại sự đánh đổi giữa các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy tài chính toàn diện (Acharya, Hasan and Saunders, 2006; Hannig and Jansen, 2010). Mặc dù vậy, một số nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện có thể có tác động tích cực đến sự ổn định này. Hannig and Jansen (2010) cho thấy khách hàng ở phân khúc thu nhập thấp chịu nhiều rủi ro nhưng lại thường có tỷ lệ hoàn trả cao và việc giám sát rủi ro các dịch vụ tài chính tại phân khúc này dường như được hiểu rõ hơn so với các phân khúc khác trên thị trường. Ở cấp quốc gia, có bằng chứng cho thấy tài chính toàn diện có thể dẫn đến tính ổn định cao hơn của trung gian tài chính; cụ thể, thông qua trung gian lượng tiết kiệm nội địa lớn hơn, dẫn tới sự vững mạnh hơn về các chu kỳ tiết kiệm và đầu tư nội địa lành mạnh và từ đó có sự ổn định lớn hơn (Prasad, 2010). Ahamed and Mallick (2019) cũng chỉ ra tài chính toàn diện giúp những ngân hàng có tiền gửi của khách hàng cao hơn và chi phí cận biên cung cấp dịch vụ ngân hàng thấp hơn, nhờ đó giúp ngân hàng trở nên ổn định hơn. Trong phạm vi các quốc gia của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (sau đây gọi là các quốc gia ASEAN), thúc đẩy tài chính toàn diện được quan tâm sâu sắc và cũng đã có những động thái rõ ràng (xem Rahman, 2015; World Bank, 2015; Tambunlertchai, 2015; ADB, 2015; MAS, 2006; ASEAN, 2020; Banerjee and Donato, 2021; Loo, 2019; Trujillo, Sitorus and Aviles, 2018; UNCDF, 2020; v.v). Các quốc gia ASEAN được đánh giá là có thành tựu về ổn định chính trị và an ninh khu vực (Jetin and Mikic, 2016) và được xem là những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển của Châu Á (Hong and Tang, 2010). Mặt khác, các quốc gia này đều có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng (bank-based financial system), theo cấu trúc hoạt động – structure activity (Demirgiiu-Kunt and Levine, 1999; Levine, 2002). Do vậy, ngân hàng toàn diện (banking inclusion) cũng được xem tương tự như tài chính toàn diện, và thông qua các ngân hàng, các nhà hoạch định có thể điều chỉnh chính sách tài chính toàn diện một các thuận lợi hơn so với các cách hay các kênh khác (Sarma, 2008, 2012). Ở các quốc gia ASEAN, các tác giả nghiên cứu về tài chính toàn diện với các chủ đề khác nhau. Chẳng hạn như Loo (2019) xác định mức độ mở rộng tài chính toàn diện ở các quốc gia từ đó tìm kiếm thị trường có tiềm năng nhất cho công nghệ tài chính (Fintech); Johnston and Morduch (2008) đã phân tích triển vọng mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho người nghèo ở Indonesia; Rahman (2015) đã kiểm tra thực trạng tài chính toàn diện ở các nền kinh tế này và rút ra bài học để điều chỉnh chương trình tài chính toàn diện ở quốc gia tương ứng, bao gồm tám nền kinh tế trong SEACEN (Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Đông Nam Á), cụ thể bao gồm Campuchia, Đài Bắc Trung Hoa, Indonesia, Malaysia, Nepal, Papua New Guinea, Philippines và Sri Lanka. Các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra điểm chung rằng các quốc gia ở khu vực này rất chú trọng việc phát triển tài chính toàn diện với nhiều cách thức triển khai khác nhau. Đồng thời, tương tự như các nước trên thế giới, các quốc gia ASEAN cũng rất quan tâm đến ổn định hệ thống ngân hàng, nhất là từ sau khủng hoảng 2008 (Ovi, Perera and Colombage, 2014). Tuy nhiên, liệu mục tiêu phát triển tài chính toàn diện nói trên và mục tiêu gia tăng sự ổn định của của hệ thống ngân hàng có mâu thuẫn với nhau ở các quốc gia này? Hay nói cách khác, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm ra tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở ASEAN. Điều này cho thấy một sự thiếu hụt trong nghiên cứu, cần thiết được bổ sung bởi trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng ngày càng tìm kiếm các cơ hội và thị trường mới và nhìn thấy những lợi ích có thể có được từ hoạt động tài chính vi mô (Harper and Arora, 2005), nhất là từ các khoản tiền gửi rẻ và ổn định từ khu vực bán lẻ (Ahamed and Mallick, 2019). Hơn nữa, như đã đề cập trước, hệ thống tài chính của các quốc gia ASEAN dựa vào ngân hàng, do vậy nghiên cứu về tài chính toàn diện dưới góc độ ngân hàng là thật sự cần thiết. Và việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi liệu thúc đẩy tài chính toàn diện đang được đẩy mạnh triển khai ở các quốc gia ASEAN hiện nay có tác động như thế nào đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, sẽ mang lại ý nghĩa hết sức to lớn cho các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia này. Chính vì vậy, để hoàn hiện khoảng trống trên, tác giả lựa chọn đề tài “TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG” trong

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Trong những năm gần đây, việc thúc đẩy tiếp cận tài chính đã trở thành ưu tiên hàng đầu tại nhiều quốc gia, nhấn mạnh tầm quan trọng của tài chính toàn diện Tài chính toàn diện đảm bảo rằng mọi thành phần trong nền kinh tế đều có thể tiếp cận và sử dụng hiệu quả các dịch vụ tài chính chính thức Chương trình này không chỉ được các quốc gia xem xét kỹ lưỡng mà còn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên toàn cầu.

Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã xác định khái niệm tài chính toàn diện và phát triển các phương pháp đo lường liên quan, như các tác giả Iqbal và Sami (2017), Kalunda (2014), Shankar (2013), Garcia (2016), Sarma (2008, 2012, 2015) và Sarma cùng Pais (2011) Các nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò quan trọng của tài chính toàn diện trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cả ở cấp độ vi mô (Dupas và Robinson, 2013a; Brune, Giné, Goldberg và Yang, 2011; Cole, Giné và Vickery, 2013; Jack và Suri, 2014) và vĩ mô (Demirgỹỗ-Kunt, Honohan và Beck).

Inclusive finance plays a crucial role in sustainable development by actively contributing to the eradication of poverty, as highlighted by various studies (Banerjee and Newman, 1994; Beck, Demirgüç-Kunt and Levine, 2007; Ashraf, Karlan and Yin, 2010; Burgess and Pande, 2005; Jack and Suri, 2014) It also helps alleviate hunger and enhance food security, as evidenced by research conducted by Karlan et al (2014) and Cole et al.

Vickery, 2013; Janzen and Carter, 2013; Brune et al., 2011; v.v.); đạt được sức khoẻ và hạnh phúc (Krishna, 2006; Saksena, Xu and Evans, 2011; Frenk and Knaul, 2002; Klapper, El-

Zoghbi and Hess, 2016; PharmAccess, 2015; Dupas and Robinson, 2013b); tăng cường giáo dục có chất lượng (Thomas and Burnett, 2013; Prina, 2015; Chiapa, Prina and Parker, 2014;

Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, sự ổn định của hệ thống ngân hàng đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực đến kinh tế và xã hội Hệ thống ngân hàng ổn định không chỉ đảm bảo phân bổ nguồn vốn hiệu quả mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư và bảo vệ khách hàng gửi tiền Hơn nữa, sự ổn định của ngân hàng liên quan chặt chẽ đến sự ổn định của hệ thống tài chính, điều này không chỉ cần thiết để duy trì ổn định giá cả mà còn để phát triển kinh tế bền vững Tuy nhiên, vẫn còn những nghi ngờ về vai trò của tài chính toàn diện trong việc duy trì sự ổn định ngân hàng, dẫn đến việc các ngân hàng ngần ngại mở rộng dịch vụ đến các phân khúc khó khăn Mặc dù vậy, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện có thể tạo ra tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ở phân khúc thu nhập thấp, nơi mà khách hàng có tỷ lệ hoàn trả cao hơn Ngoài ra, tài chính toàn diện còn giúp gia tăng sự ổn định của các trung gian tài chính thông qua việc tăng cường tiết kiệm nội địa và giảm chi phí cung cấp dịch vụ ngân hàng.

Trong các quốc gia ASEAN, tài chính toàn diện đang được chú trọng và có những động thái rõ ràng để thúc đẩy (Rahman, 2015; World Bank, 2015) Các quốc gia này có thành tựu về ổn định chính trị và an ninh khu vực, đồng thời được xem là nền kinh tế đang phát triển của Châu Á (Jetin và Mikic, 2016; Hong và Tang, 2010) Hệ thống tài chính của họ chủ yếu dựa vào ngân hàng, do đó ngân hàng toàn diện cũng được coi là một phần của tài chính toàn diện (Demirgiiu-Kunt và Levine, 1999) Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các quốc gia ASEAN rất quan tâm đến việc phát triển tài chính toàn diện, với các chủ đề khác nhau như mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho người nghèo (Johnston và Morduch, 2008) và đánh giá thực trạng tài chính toàn diện (Rahman, 2015) Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại ASEAN, điều này cho thấy sự thiếu hụt trong nghiên cứu cần được bổ sung trong bối cảnh ngân hàng đang tìm kiếm cơ hội mới từ hoạt động tài chính vi mô (Harper và Arora, 2005).

Hệ thống tài chính của các quốc gia ASEAN chủ yếu dựa vào ngân hàng, vì vậy việc nghiên cứu tài chính toàn diện từ góc độ ngân hàng là rất quan trọng Tìm hiểu tác động của việc thúc đẩy tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng sẽ mang lại giá trị lớn cho các nhà hoạch định chính sách trong khu vực này.

Tác giả lựa chọn đề tài "Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng" trong sáu quốc gia ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam) với kỳ vọng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa tài chính toàn diện và sự ổn định ngân hàng Sự ổn định của hệ thống ngân hàng được nhấn mạnh, vì ngân hàng cung cấp dịch vụ tài chính thiết yếu cho hộ gia đình và doanh nghiệp trong nền kinh tế Hiểu rõ mối liên kết này là quan trọng cho quản lý và kinh tế vĩ mô Dữ liệu phân tích trong nghiên cứu được thu thập từ các ngân hàng, đảm bảo tính đầy đủ và cập nhật.

MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng Từ nghiên cứu này, luận án sẽ đưa ra các hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện nhằm tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia trong khu vực ASEAN.

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu tổng quát nói trên, các mục tiêu cụ thể được đặt ra như sau:

- Xác định được mô hình tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN

- Xác định được mức độ tác động của tài chính diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN

Đề xuất các chính sách tài chính toàn diện có thể góp phần quan trọng vào việc gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN Những chính sách này nên tập trung vào việc cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho mọi tầng lớp dân cư, đồng thời tăng cường sự minh bạch và quản lý rủi ro trong ngành ngân hàng Việc thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực cũng sẽ giúp nâng cao hiệu quả của các biện pháp này, từ đó tạo ra một môi trường tài chính ổn định và bền vững hơn.

Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nói trên, nghiên cứu cần giải quyết các câu hỏi sau:

Tài chính toàn diện là khái niệm quan trọng trong việc đo lường và ổn định hệ thống ngân hàng Nó có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng thông qua nhiều kênh như tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính và giảm thiểu rủi ro tài chính Để phân tích tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định ngân hàng, các mô hình kinh tế được sử dụng, trong đó các biến đại diện có thể bao gồm tỷ lệ cho vay, mức độ tiết kiệm và sự tham gia của người dân vào các dịch vụ tài chính.

Mức độ tài chính toàn diện và sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN có mối liên hệ chặt chẽ Tài chính toàn diện không chỉ giúp tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính mà còn góp phần vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng trong khu vực Sự phát triển của tài chính toàn diện có thể làm giảm rủi ro và tăng cường niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững ở các quốc gia ASEAN.

Các hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện có thể giúp tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN bao gồm việc thúc đẩy tiếp cận dịch vụ tài chính cho mọi tầng lớp dân cư, cải thiện cơ sở hạ tầng tài chính, và tăng cường giáo dục tài chính Ngoài ra, việc khuyến khích sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng và áp dụng công nghệ tài chính cũng là những yếu tố quan trọng để nâng cao tính minh bạch và giảm rủi ro trong hệ thống ngân hàng Các chính sách này không chỉ giúp cải thiện sự ổn định tài chính mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế khu vực.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia trong khu vực ASEAN

Luận án nghiên cứu trong phạm vi 102 ngân hàng (xem phụ lục A1) ở sáu quốc gia ASEAN, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam

Luận án tập trung nghiên cứu các quốc gia ASEAN do những thành tựu nổi bật về ổn định chính trị và an ninh khu vực (Jetin và Mikic, 2016) Hơn nữa, các quốc gia này còn được coi là những nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của Châu Á (Hong và Tang, 2010).

Tác giả chọn sáu quốc gia đại diện cho khu vực ASEAN để nghiên cứu, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, mặc dù ASEAN có mười quốc gia thành viên Lý do là vì sáu quốc gia này có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh, chiếm hơn 90% tổng giá trị tài sản ngân hàng trong giai đoạn 2014 – 2017, với con số gần 97.23% vào năm 2017 Do đó, mặc dù chỉ tập trung vào sáu quốc gia, nghiên cứu vẫn có thể phản ánh toàn bộ khu vực ASEAN trong các vấn đề liên quan đến hệ thống ngân hàng.

Sáu quốc gia này đều có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, theo cấu trúc hoạt động (bank-based financial system) Để làm rõ đặc điểm này, chúng tôi sẽ dựa vào các chỉ số được đề xuất bởi Demirgiiu-Kunt và Levine (1999) cùng với Levine.

Năm 2002, tác giả tiến hành đo lường và so sánh mức độ hoạt động của các ngân hàng với thị trường chứng khoán thông qua hai chỉ tiêu chính: tỷ lệ tín dụng tư nhân từ ngân hàng trên GDP và tỷ lệ tổng giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán so với GDP Kết quả được trình bày trong bảng 1.1 dưới đây.

Bảng 1.1 Tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán và tỷ lệ tín dụng ngân hàng so với GDP năm 2017 ĐVT:%

Quốc gia Tỷ lệ tín dụng Tỷ lệ giá trị giao dịch

Dữ liệu từ Global Financial Development (World Bank, 2017a) cho thấy rằng sáu quốc gia ASEAN có tỷ lệ tín dụng tư nhân từ các ngân hàng cao hơn so với tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán Kết quả này chứng minh rõ ràng rằng hệ thống tài chính của các quốc gia này phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng.

Nghiên cứu này nhằm tìm ra các gợi ý chính sách thúc đẩy tài chính toàn diện cho các quốc gia ASEAN, dựa trên đặc điểm chung của hệ thống tài chính ngân hàng tại đây Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, hầu hết đều sử dụng mẫu lớn từ các quốc gia khác nhau, thiếu sự chú ý đặc biệt đến các quốc gia ASEAN để đưa ra những gợi ý chính sách phù hợp.

Về phạm vi thời gian, tác giả quyết định chọn thời gian từ năm 2008 đến nay, cụ thể là năm

Từ năm 2008 đến 2019, nền kinh tế ASEAN đã phục hồi sau khủng hoảng và chú trọng đến tài chính toàn diện Sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, ASEAN nổi lên như một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế toàn cầu (Daboub, 2010) Sự ổn định hệ thống ngân hàng trở thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu (Siddik và Kabiraj, 2018) Tài chính toàn diện đã trở thành chính sách ưu tiên ở hầu hết các quốc gia ASEAN (Ahamed và Mallick, 2019; Cihak, Mare và Melecky, 2016) Malaysia ban hành Đạo luật Ngân hàng Trung ương năm 2009, nhấn mạnh vai trò của Ngân hàng Negara Malaysia trong phát triển tài chính toàn diện (Rahman, 2015) Philippines ghi nhận sự cải thiện ấn tượng trong hoạt động tài chính vi mô từ sau 2008, trở thành một trong những nước có khuôn khổ pháp lý tốt nhất (Rahman, 2015) Việt Nam đã đưa ra các quy định đầu tiên về tài chính toàn diện vào năm 2010, nhằm thúc đẩy lĩnh vực này (World Bank, 2015) Indonesia cũng bắt đầu chú trọng đến tài chính toàn diện từ năm 2008, công bố chiến lược quốc gia vào năm 2012 để mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính (Rahman, 2015) Thái Lan triển khai kế hoạch tổng thể về tài chính giai đoạn 2010 – 2014, khuyến khích ngân hàng thương mại mở rộng dịch vụ đến các phân khúc thu nhập thấp hơn (Tambunlertchai, 2015).

Bộ Tài chính Việt Nam, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), đã thông qua Chiến lược quốc gia về hòa nhập tài chính nhằm phát triển tài chính vi mô và thúc đẩy tài chính toàn diện cho cá nhân và hộ gia đình tại Thái Lan.

Singapore đã chú trọng đến tài chính toàn diện từ sớm, bắt đầu từ năm 2004 với Đạo luật Bảo vệ Người tiêu dùng (Thương mại Công bằng) - CPFTA, nhằm đảm bảo quyền lợi và bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực tài chính.

Bộ Thương mại và Công nghiệp (MTI) phối hợp với Ngân hàng trung ương (MAS) nhằm triển khai các dịch vụ tài chính toàn diện, giúp bảo vệ người tiêu dùng thiếu chuyên môn hoặc nguồn tài chính trước các hành vi không công bằng.

2006) Sau khủng hoảng năm 2008, đạo luật này bắt đầu được sửa đổi và hoàn thiện vào năm

Từ năm 2009, tài chính toàn diện tại quốc gia này đã được áp dụng và duy trì cho đến nay Nhờ vào sự định hướng sớm, lĩnh vực tài chính toàn diện luôn nhận được đánh giá cao trong các báo cáo và nghiên cứu qua các năm, như trong các tài liệu của ASEAN (2020), Banerjee và Donato (2021), Loo (2019), Trujillo, Sitorus và Aviles (2018), cũng như UNCDF (2020).

1.3.2.3 Ph ạ m vi v ề n ộ i dung Đề tài nghiên cứu tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, với các giới hạn về nội dung như sau:

(i) chỉ nghiên cứu tác động (một chiều) của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng;

(ii) về tài chính toàn diện, chỉ nghiên cứu về phía các ngân hàng (tức là các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ tài chính chính thức);

Tác giả nghiên cứu về ổn định của các ngân hàng một cách riêng lẻ, nhận thấy tài chính toàn diện đang được các quốc gia ASEAN chú trọng do ảnh hưởng tích cực đến nhiều lĩnh vực Tuy nhiên, vẫn còn nghi ngờ về tác động thực sự của tài chính toàn diện đối với hệ thống ngân hàng, khi Rajan chỉ ra rằng nó có thể dẫn đến sự gia tăng những người vay có mức tín nhiệm thấp, gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng Luận án tập trung phân tích tác động một chiều của tài chính toàn diện đến sự ổn định ngân hàng, đặc biệt là từ góc độ ngân hàng, vì các ngân hàng là kênh hiệu quả cho việc điều chỉnh chính sách tài chính toàn diện Hệ thống tài chính của các quốc gia ASEAN chủ yếu dựa vào ngân hàng, nên việc tìm hiểu tài chính toàn diện từ khía cạnh này là cần thiết Cuối cùng, sự ổn định của hệ thống ngân hàng chỉ đạt được khi từng ngân hàng trong hệ thống ổn định, do hiện tượng lây lan tài chính có thể dẫn đến rủi ro cho toàn bộ hệ thống nếu một ngân hàng gặp bất ổn.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu tổng quát, tác giả kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.

Để xác định mô hình phù hợp, nghiên cứu đã áp dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo cứu những nghiên cứu trước đây có liên quan.

Để đánh giá tác động của tài chính đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN, tác giả sử dụng các phương pháp thống kê mô tả và mô hình hồi quy System Generalized Method of Moments (SGMM).

Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để thảo luận về các kết quả nghiên cứu định lượng Từ đó, bài viết đề xuất các hàm ý chính sách nhằm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những chính sách liên quan đến tài chính toàn diện.

Các bước nghiên cứu được thực hiện như sau:

Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu (bao gồm tài chính toàn diện và sự ổn định của hệ thống ngân hàng)

Bước 2: Tổng quan lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu Tác giả tiến hành khảo sát các cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm toàn cầu cũng như trong khu vực ASEAN liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Bước 3: Thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu là giai đoạn quan trọng, trong đó luận án sẽ tính toán các số liệu cần thiết để chạy mô hình nghiên cứu dựa trên dữ liệu đã thu thập.

Bước 4: Chạy mô hình và kiểm định mô hình nghiên cứu Luận án này sử dụng phần mềm

Stata 16.0 để chạy mô hình và thực hiện các kiểm định

Bước 5: Trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu là giai đoạn quan trọng, trong đó luận án không chỉ trình bày kết quả đạt được mà còn thảo luận và so sánh chúng với các nghiên cứu trước đó có liên quan.

Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra kết luận và hàm ý chính sách nhằm nâng cao mức độ tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng tại các nước ASEAN.

Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng dữ liệu thứ cấp, trong đó dữ liệu cấp quốc gia để tính toán chỉ số tài chính toàn diện chủ yếu được lấy từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF FAS, 2020) Các dữ liệu ở cấp độ ngân hàng được trích xuất từ Worldscope (Datastream, 2020), cùng với số liệu về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cũng từ nguồn Worldscope.

ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

So với các nghiên cứu trước đây, luận án này mang đến những đóng góp mới mẻ về lý luận và thực tiễn Những đóng góp lý luận này mở rộng hiểu biết hiện tại và cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về chủ đề nghiên cứu.

Nghiên cứu trước đây cho rằng việc mở rộng tín dụng nhỏ cho nhiều người vay có thể gây mất ổn định cho hệ thống ngân hàng do sự xuất hiện của các khoản vay dưới chuẩn Tuy nhiên, luận án này đã cung cấp thêm lý luận cho thấy tài chính toàn diện có tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, mở ra cơ hội cho việc cân bằng giữa mục tiêu duy trì ổn định và thúc đẩy tài chính toàn diện.

Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào trong khu vực ASEAN phân tích tác động của tài chính toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng, mà chủ yếu chỉ tập trung vào đánh giá thực trạng tài chính toàn diện và các chính sách thực hiện Như đã nêu ở phần trước, các quốc gia ASEAN có hệ thống tài chính chủ yếu dựa vào ngân hàng, do đó, việc nghiên cứu sự ổn định của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng của tài chính toàn diện là rất cần thiết Nghiên cứu này không chỉ mang lại giá trị cho các quốc gia ASEAN mà còn cho những quốc gia có hệ thống tài chính tương tự.

Luận án này không chỉ dựa vào chỉ số Zscore để đánh giá sự ổn định của hệ thống ngân hàng mà còn xem xét sự biến động của tăng trưởng tiền gửi và tỷ lệ nợ xấu, từ đó phản ánh khả năng xảy ra hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng và rủi ro tín dụng Bên cạnh đó, trong lĩnh vực tài chính toàn diện, tác giả mở rộng phân tích bằng cách đánh giá mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính thông qua tỷ lệ tiền gửi và cho vay so với GDP, bên cạnh số lượng tài khoản ngân hàng và chi nhánh/ATM Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN.

Luận án nghiên cứu đề xuất các hàm ý chính sách về tài chính toàn diện nhằm nâng cao sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN Các hàm ý này được trình bày rõ ràng và tập trung vào các khía cạnh của tài chính toàn diện Dựa trên kết quả hồi quy của các biến giải thích, tác giả đưa ra các gợi ý chính sách cho ngân hàng, nhằm cải thiện sự ổn định hệ thống ngân hàng, giảm thiểu rủi ro rút vốn ồ ạt và rủi ro tín dụng.

KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này có năm nội dung chính sau:

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2.1.1 Khái niệm của tài chính toàn diện

Tài chính toàn diện đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, giúp xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng, điều này đã được công nhận bởi các nhà nghiên cứu, tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ các quốc gia ASEAN đã xác định tài chính toàn diện là một trong ba trụ cột của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) theo tầm nhìn 2025, và đã thành lập nhóm công tác về tài chính toàn diện nhằm thúc đẩy lĩnh vực này trong khu vực.

Hiện nay, khái niệm tài chính toàn diện chưa được thống nhất trong các tổ chức và quốc gia trên thế giới Các định nghĩa này thường xuất hiện trong các báo cáo của tổ chức quốc tế, chiến lược quốc gia và các nghiên cứu Một số tổ chức như ADB, Ngân hàng Thế giới và Liên Hiệp Quốc (UN) đã đóng góp quan điểm về tài chính toàn diện.

Khung chiến lược "Chiến lược 2020" của ADB nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tích hợp tài chính vào sự phát triển khu vực tài chính, khẳng định rằng nếu không có sự tiếp cận đến các dịch vụ tài chính chính thức, các nhóm xã hội chưa được phục vụ sẽ bị loại trừ khỏi lợi ích phát triển chung Nghiên cứu của ADB chỉ ra rằng tài chính toàn diện là khái niệm cho phép tất cả các bộ phận dân cư, kể cả những người có thu nhập thấp nhất, có thể tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính chính thức.

The term "finance for all" was first introduced in a 2008 study by the World Bank, highlighting the importance of inclusive financial services for everyone (Demirgüç-Kunt, Honohan, and Beck).

Tài chính toàn diện, hay còn gọi là tiếp cận dịch vụ tài chính mở rộng, là việc loại bỏ các rào cản phí và phi phí trong việc sử dụng dịch vụ tài chính Theo báo cáo của World Bank năm 2017, tài chính toàn diện được định nghĩa là khả năng của cá nhân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả hợp lý, đáp ứng nhu cầu về giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm Các sản phẩm này cần được cung cấp theo phương châm trách nhiệm và bền vững.

UN nhấn mạnh tầm quan trọng của tài chính toàn diện, định nghĩa khả năng tiếp cận tài chính với chi phí hợp lý cho nhiều dịch vụ tài chính từ các tổ chức bền vững Việc này giúp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa Đặc biệt, ở các nước đang phát triển, việc tiếp cận dịch vụ tài chính là yếu tố then chốt để củng cố lĩnh vực tài chính và huy động nguồn lực trong nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế và xã hội.

Mỗi quốc gia khi xây dựng chiến lược tài chính toàn diện đều có khái niệm riêng để xác định mục tiêu và tầm nhìn cho kế hoạch của mình Ví dụ, Anh đã thành lập Ủy ban Tài chính toàn diện (FIC) vào năm 2002, với mục tiêu thúc đẩy tài chính toàn diện thông qua sự tham gia của Quốc hội và chuyên gia tài chính FIC nhấn mạnh rằng tài chính toàn diện giúp mọi người quản lý tài chính hiệu quả, tối đa hóa cơ hội, nâng cao sức khỏe và tự chủ, từ đó góp phần vào sự di chuyển xã hội, cải thiện hệ thống phúc lợi và tăng cường khả năng phục hồi quốc gia trước các cú sốc kinh tế.

NHTW Indonesia đã thiết lập chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện, coi đó là quyền của mỗi cá nhân được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ tài chính với thông tin rõ ràng và chi phí hợp lý Mục tiêu là cung cấp dịch vụ tài chính cho mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp, lao động di cư và cư dân vùng sâu, vùng xa Tầm nhìn của chiến lược này là xây dựng hệ thống tài chính mà mọi người đều có thể tiếp cận, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, công bằng thu nhập và ổn định hệ thống tài chính tại Indonesia.

Tài chính toàn diện, theo Leyshon và Thrift (1995), là quá trình mà các nhóm xã hội và cá nhân nhất định có thể tiếp cận hệ thống tài chính chính thức Sinclair (2001) định nghĩa tài chính toàn diện là khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cần thiết một cách phù hợp Hiểu biết về dịch vụ và sản phẩm tài chính, bao gồm nhận thức về tài chính, ngân hàng, kênh dịch vụ và lợi ích từ việc sử dụng dịch vụ tài chính qua các kênh chính thức, là rất quan trọng Đặc biệt, chất lượng dịch vụ tài chính trong hệ thống toàn diện cần được cung ứng với giá cả hợp lý, thuận tiện và đảm bảo chất lượng cho khách hàng.

Tài chính toàn diện giúp người dân không sử dụng dịch vụ ngân hàng chuyển sang dịch vụ tài chính chính thức, mở ra cơ hội tiếp cận đa dạng các dịch vụ như tiết kiệm, thanh toán, tín dụng và bảo hiểm (Hannig and Jansen, 2010) Quá trình này đảm bảo rằng các nhóm yếu thế, đặc biệt là khách hàng có thu nhập thấp, có thể tiếp cận dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý Điều này được thể hiện qua khả năng mở tài khoản ngân hàng, tiếp cận tín dụng và thực hiện thanh toán từ tài khoản ngân hàng (Khan, 2011).

Tài chính toàn diện bao gồm ba khía cạnh chính: tiếp cận, sử dụng và chất lượng Khái niệm này mang tính đa chiều và thể hiện khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của từng quốc gia Nó không chỉ nhằm cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà còn nâng cao hiểu biết tài chính và bảo vệ người tiêu dùng Triển khai tài chính toàn diện giúp mọi người có quyền tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ tài chính chất lượng, tiện lợi và nhanh chóng với chi phí hợp lý Mỗi quốc gia cần nghiên cứu để xác định khái niệm phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của mình, từ đó xây dựng mục tiêu, chiến lược và giải pháp để hiện thực hóa tài chính toàn diện một cách hiệu quả và bền vững.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả dựa theo quan điểm của Sarma (2012, trang

3) với khái niệm về tài chính toàn diện là “việc đảm bảo sự dễ dàng tiếp cận, sẵn có và mức sử dụng của hệ thống tài chính chính thức cho tất cả các thành viên của nền kinh tế” Theo đó, khái niệm này đặc biệt nhấn mạnh vào các khía cạnh đã phân tích trên, bao gồm tính dễ tiếp cận, sẵn có và mức sử dụng của của hệ thống tài chính, cấu thành nên tài chính toàn diện Các khía cạnh này sẽ liên quan sâu sắc đến nội dung của phần xây dựng chỉ số đo lường tài chính toàn diện Mặt khác, Sarma (2008, 2012) còn xem ngân hàng là tổ chức tài chính chủ đạo trong cung cấp hình thức dịch vụ tài chính cơ bản nhất, do vậy ngân hàng toàn diện

Ngân hàng bao gồm được coi là tương đương với tài chính toàn diện Do đó, nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích tài chính toàn diện từ góc độ của ngành ngân hàng.

2.1.2 Vai trò và ý nghĩa của tài chính toàn diện

Tài chính toàn diện có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định tài chính, tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững

2.1.2.1 Tài chính toàn di ệ n và s ự ổn đị nh tài chính Đứng ở cấp độ vi mô, theo nghiên cứu của Adasme, Majnoni and Uribe (2006) đã cho thấy bằng chứng liên quan tới danh mục đầu tư của các ngân hàng Chi lê, chỉ ra rằng các thiệt hại của các khoản vay nhỏ có rủi ro hệ thống thấp hơn thiệt hại liên quan tới các khoản vay lớn, không thường xuyên và biến động khó dự đoán Như vậy, tài chính toàn diện về mặt tiếp cận tín dụng có thể đồng thời đồng nghĩa với sự ổn định lớn hơn ở cấp độ các nhà cung ứng dịch vụ tài chính Ở cấp độ vĩ mô giữa tài chính toàn diện và sự ổn định tài chính, ở cấp quốc gia, bằng chứng cho thấy tài chính toàn diện có thể dẫn đến tính hiệu quả cao hơn của trung gian tài chính Nói rõ hơn, thông qua trung gian lượng tiết kiệm nội địa lớn hơn, từ đó dẫn tới sự vững mạnh hơn về các chu kỳ tiết kiệm và đầu tư nội địa lành mạnh và theo đó có sự ổn định lớn hơn (Prasad, 2010)

Theo Khan (2011), việc mở rộng tài chính toàn diện có thể góp phần tích cực vào ổn định tài chính thông qua ba cách chính Thứ nhất, tăng cường tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ giúp đa dạng hóa tài sản của ngân hàng, giảm rủi ro tổng thể trong danh mục cho vay Thứ hai, gia tăng số lượng khách hàng gửi tiết kiệm nhỏ không chỉ nâng cao quy mô mà còn ổn định cơ sở tiền gửi, giảm sự phụ thuộc vào nguồn huy động vốn dễ biến động trong thời kỳ khủng hoảng.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

Sự ổn định là một chủ đề quan trọng trong chính sách, đặc biệt sau khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ (Beck, 2008) Hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (Segoviano và Goodhart, 2009) Do đó, để hiểu rõ về sự ổn định của hệ thống ngân hàng, cần xem xét sự ổn định của hệ thống tài chính và tầm quan trọng của nó.

2.2.1 Khái niệm về ổn định hệ thống tài chính

Sự ổn định tài chính luôn là chủ đề quan trọng trong các cuộc thảo luận của các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ (Beck, 2008) Thuật ngữ “sự ổn định hệ thống tài chính” được nhiều tổ chức quốc tế và nhà nghiên cứu đề cập với nhiều quan điểm khác nhau Khái niệm này được tiếp cận từ hai hướng: một là định nghĩa trực tiếp về ổn định hệ thống tài chính và hai là thông qua định nghĩa về bất ổn (Alawode và Sadek, 2008) Các định nghĩa này có thể thay đổi theo thời gian để phù hợp với sự biến động của các thành phần cấu thành hệ thống tài chính (Schinasi, 2004).

Theo Ngân hàng Thế giới (2020), ổn định tài chính được định nghĩa là hệ thống tài chính có khả năng phân bổ hiệu quả nguồn lực, quản lý rủi ro tài chính và duy trì mức độ việc làm gần với tỷ lệ tự nhiên của nền kinh tế Hệ thống này cần loại bỏ biến động giá của tài sản thực và tài sản tài chính, từ đó bảo đảm sự ổn định tiền tệ và việc làm Một hệ thống tài chính được coi là ổn định nếu nó có thể tự hấp thụ các cú sốc và không bị mất cân đối khi xảy ra các sự kiện bất ngờ, giúp ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và các hệ thống tài chính khác.

Theo Schinasi (2004), một hệ thống tài chính ổn định có khả năng thúc đẩy hiệu quả kinh tế và giảm thiểu bất cân bằng tài chính do các sự kiện bất lợi Hệ thống này hỗ trợ phân bổ nguồn lực hiệu quả, tăng trưởng sản lượng, tiết kiệm và đầu tư, đồng thời duy trì sự ổn định qua cơ chế tự điều chỉnh Ông nhấn mạnh rằng sự ổn định tài chính là điều kiện cần thiết để các cơ chế định giá và quản lý rủi ro tài chính hoạt động hiệu quả, góp phần vào kết quả kinh tế Crockett (1996) định nghĩa sự ổn định tài chính là sự vắng mặt của bất ổn, trong khi Mishkin (1999) chỉ ra rằng bất ổn xảy ra khi thông tin bị cản trở, làm giảm khả năng chuyển tiền đến những nhà đầu tư tiềm năng Điều này có thể dẫn đến việc hạn chế dòng tài chính cho các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ, cũng như làm gián đoạn hoạt động của các tổ chức tài chính Goodhart (2006) cũng khẳng định rằng ổn định tài chính đồng nghĩa với việc không có khủng hoảng tài chính, mà khủng hoảng được định nghĩa là chuỗi sự kiện làm suy yếu khả năng phân bổ vốn.

Từ các quan điểm trên, "ổn định hệ thống tài chính" bao gồm hai nội hàm chính: đầu tiên, các yếu tố của hệ thống tài chính như thị trường tài chính, định chế tài chính và hạ tầng tài chính phải thực hiện tốt chức năng của mình để phân bổ hiệu quả nguồn lực kinh tế; thứ hai, cần đánh giá và quản lý rủi ro cấp độ hệ thống một cách chính xác để ngăn ngừa sụp đổ tài chính Để duy trì ổn định tài chính, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong hệ thống giám sát tài chính quốc gia, trong đó Ngân hàng Trung ương đóng vai trò chủ đạo.

Ổn định tài chính được các Ngân hàng Trung ương (NHTW) trên thế giới xác định là rất quan trọng Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) nhấn mạnh rằng ổn định tài chính không chỉ là yêu cầu cần thiết để duy trì ổn định giá cả, mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.

Sự ổn định tài chính được Ngân hàng Trung ương Namibia (CBN) xác định là rất quan trọng, vì nó tạo ra môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư và người gửi tiền, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính Một hệ thống tài chính ổn định không chỉ củng cố lòng tin của công chúng mà còn ngăn ngừa các hiện tượng như tháo chạy khỏi ngân hàng, giúp duy trì sự ổn định của nền kinh tế Hơn nữa, sự ổn định này đảm bảo rằng tiền của người dân, đặc biệt là tiết kiệm và tiết kiệm lương hưu, được quản lý một cách an toàn và hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và cú sốc cho hệ thống tài chính (BOK, 2020; CBN, 2020).

Mất ổn định tài chính gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, bao gồm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ, suy yếu chức năng trung gian của hệ thống tài chính, mất niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính, và gia tăng chi phí để khắc phục các yếu kém trong hệ thống Do đó, nhiều quốc gia đã chú trọng đến việc duy trì ổn định tài chính trong các chính sách của mình, đặc biệt khi phải đối mặt với những yếu tố mới có khả năng gây bất ổn, như sự liên kết chặt chẽ giữa các khu vực tài chính và sự phát triển của các công cụ tài chính phức tạp.

2.2.2 Khái niệm về ổn định hệ thống ngân hàng

Sự ổn định hệ thống ngân hàng hiện vẫn chưa có khái niệm thống nhất, gây khó khăn cho các cơ quan giám sát trong việc xác định liệu sự ổn định này liên quan đến ngân hàng truyền thống, tổ chức tài chính phi ngân hàng hay ngân hàng không chính thống (shadow banks) (Ozili, 2018) Có hai hướng tiếp cận để xác định khái niệm này: mô tả trực tiếp sự ổn định hệ thống ngân hàng và gián tiếp thông qua sự bất ổn của ngân hàng Một số quan điểm cho rằng sự ổn định ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua ổn định tài chính liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, trong khi Crockett (1997) xác định sự ổn định này là không có căng thẳng tài chính, cho phép các ngân hàng lớn hoạt động mà không cần hỗ trợ bên ngoài Do đó, ổn định hệ thống ngân hàng có thể hiểu là không có khủng hoảng ngân hàng, đạt được thông qua sự ổn định của tất cả các ngân hàng trong hệ thống (Brunnermeier et al., 2009).

Từ đó, nếu xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau (interdependence), Segoviano and Goodhart

Sự ổn định của hệ thống ngân hàng được hiểu là mối liên kết giữa các ngân hàng thông qua thị trường tiền gửi liên ngân hàng và các khoản cho vay hợp vốn (Ozili, 2018; Segoviano và Goodhart, 2009) Segoviano và Goodhart (2009) đã phân tích sự khó khăn của ngân hàng qua ba khía cạnh: khó khăn chung trong hệ thống, khó khăn giữa các ngân hàng cụ thể, và khó khăn liên kết với một ngân hàng cụ thể Sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng có thể xảy ra khi có hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng (bank run) hoặc vấn đề mất khả năng thanh toán Ngalawa, Tchana và Viegi (2016) cho rằng tháo chạy khỏi ngân hàng xảy ra khi người gửi tiền rút tiền một cách đột ngột do dự đoán ngân hàng sắp thất bại, dẫn đến việc ngân hàng phải thanh lý tài sản và có thể dẫn đến thất bại thực sự Hiện tượng này thường xảy ra khi người dân thay đổi kỳ vọng hoặc khi giá trị tài sản của ngân hàng giảm, khiến họ nhanh chóng rút tiền để tránh thua lỗ (Bryant, 1980) Thậm chí, tháo chạy khỏi ngân hàng có thể xảy ra mà không có thông tin bất lợi nào, chỉ cần thấy người gửi tiền xếp hàng dài, dẫn đến suy luận rằng ngân hàng có thể sắp thất bại (Chari và Jagannathan, 1988).

Sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng thường biểu hiện qua khả năng thanh toán kém, đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột của các khoản nợ xấu (Ngalawa, Tchana và Viegi, 2016; Guy và Lowe, 2011) Tình trạng này có xu hướng gia tăng trong các giai đoạn suy thoái kinh tế và sau những đợt "bùng nổ" cho vay tư nhân (Allen và Gale).

Sự bất ổn của hệ thống tài chính thường liên quan đến hiện tượng lây lan tài chính, nơi rủi ro thanh khoản hoặc mất khả năng thanh toán từ một tổ chức tài chính có thể lây lan sang tổ chức khác (Brown et al., 2014) Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có nhiều kênh khác nhau dẫn đến hiện tượng lây lan trong lĩnh vực ngân hàng, gây ra rủi ro cho cả hệ thống ngân hàng và tài chính (Allen và Gale, 2000; Acharya, 2009; Brunnermeier và Pedersen, 2009; Dasgupta, 2004; Freixas và Parigi, 1998; Freixas, Parigi và Rochet, 2000; Ibragimov, Jaffee và Walden, 2011; Rochet và Tirole, 1996; Wagner, 2010) Do đó, sự bất ổn ở một ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Tóm lại, sự ổn định của hệ thống ngân hàng được hiểu là sự ổn định của từng ngân hàng, không có hiện tượng mất khả năng thanh toán, rút chạy vốn hay các khoản nợ xấu không lường trước.

Sự ổn định của hệ thống ngân hàng là mối quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý, công ty bảo hiểm tiền gửi và công chúng, do khả năng lây lan trong lĩnh vực tài chính có thể dẫn đến suy thoái hệ thống tài chính, như đã thấy trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2009 Các ngân hàng trung ương, tổ chức quốc tế và nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tương tác giữa các ngân hàng trong mạng lưới quốc tế có thể ảnh hưởng lớn đến xã hội Do đó, bất kỳ sự gián đoạn nào trong hoạt động ngân hàng đều có thể gây ra tác động kinh tế và xã hội sâu rộng, làm cho sự ổn định hệ thống ngân hàng trở thành yếu tố then chốt để giảm thiểu những rủi ro này.

Ngân hàng được xem là tổ chức tài chính cung cấp đa dạng dịch vụ như tín dụng, tiết kiệm và thanh toán, đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân (Rose và Hudgins, 2012) Sự gián đoạn trong hoạt động ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động xã hội Đảm bảo sự ổn định và lành mạnh của hệ thống ngân hàng là cần thiết để phân bổ tối ưu nguồn vốn (Jahn và Kick, 2012), tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho nhà đầu tư, bảo vệ khách hàng gửi tiền và giúp nền kinh tế vận hành hiệu quả.

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

Tài chính toàn diện đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, nhưng tác động của nó đến sự ổn định này vẫn còn gây tranh cãi Theo Ahamed và Mallick (2019), chưa có sự đồng thuận lý thuyết về ảnh hưởng tích cực của tài chính toàn diện đối với sự ổn định ngân hàng Phần này sẽ trình bày các quan điểm trái chiều về vấn đề này, nhằm xác định và phân tích cách mà tài chính toàn diện tác động đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

2.3.1 Tài chính toàn diện tác động tiêu cực đến ổn định hệ thống ngân hàng Ở quan điểm này, có tác giả cho rằng các ngân hàng thu hút một lượng lớn những người đi vay có mức tín dụng thấp (low creditworthy) do tài chính toàn diện, điều này có thể làm mất ổn định hệ thống ngân hàng khi họ cần mở rộng các khoản tín dụng nhỏ cho nhiều người vay hơn Lý giải chi tiết hơn, Rajan (2011) phân tích rằng từ cuộc khủng hoảng dưới chuẩn gần đây, “tín dụng dễ dàng” (easy credit) như một cơ chế để giảm bất bình đẳng thu nhập, nhưng lại có thể tạo ra một “đường đứt gãy” (fault line) dọc theo hệ thống tài chính làm xói mòn sự ổn định tài chính do những căng thẳng lớn Đây được xem như là sự đánh đổi giữa các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống và thúc đẩy tài chính toàn diện (Hannig and Jansen, 2010)

Các tác giả chỉ ra rằng ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện và quản lý khoản vay cho hộ gia đình cá nhân và doanh nghiệp nhỏ do thiếu thông tin yêu cầu, tài sản đảm bảo và lịch sử tín dụng Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Trong bối cảnh tài chính toàn diện, việc các ngân hàng mở rộng tiếp cận và đa dạng hóa địa lý có thể dẫn đến sự mất ổn định trong hệ thống ngân hàng Nguyên nhân chính là do bất cân xứng thông tin giữa ngân hàng và các hộ nghèo hoặc doanh nghiệp nhỏ, cùng với sự thiếu hụt chuyên môn về quản lý và kỹ thuật Thêm vào đó, các vấn đề đại diện liên quan đến sự phức tạp trong cấu trúc tổ chức và sản phẩm cũng góp phần làm gia tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng.

2006) Về vấn đề này, các cuộc điều tra được thực hiện ở Italia (Acharya, Hasan and Saunders,

Nghiên cứu của Goetz, Laeven và Levine (2013) cho thấy rằng ở Hoa Kỳ, không có sự cải thiện nào trong mối quan hệ giữa lợi nhuận - rủi ro và định giá thị trường khi ngân hàng mở rộng thâm nhập về mặt địa lý.

Neaime và Gaysset (2018) đã bày tỏ sự nghi ngờ về tác động tích cực của tài chính toàn diện, cho rằng khả năng tiếp cận tài chính dễ dàng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và nỗ lực xóa đói giảm nghèo Họ lập luận rằng người nghèo gặp khó khăn trong việc tích lũy tiết kiệm, xây dựng tài sản để phòng ngừa rủi ro và đầu tư vào các dự án tạo thu nhập.

Tài chính toàn diện không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng mà còn mang lại nhiều tác động tích cực hơn Bài viết này sẽ phân tích các kênh thể hiện tác động của tài chính toàn diện để làm rõ vấn đề này.

2.3.2 Tài chính toàn diện tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng Ở góc độ này, tài chính toàn diện được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ trong vai trò tích cực thúc đẩy ổn định hệ thống ngân hàng Cụ thể, tác động này được thể hiện thông qua hai kênh chính yếu, bao gồm: tiền gửi và cho vay Ngoài hai kênh này, tác động của tài chính toàn diện còn thể hiện một cách gián tiếp thông qua việc góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, tạo môi trường cho hệ thống ngân hàng có được sự ổn định

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại của Harry Markowitz, được công bố vào năm 1959, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đa dạng hóa danh mục đầu tư thay vì chỉ tập trung vào một kênh đầu tư duy nhất Điều này giúp giảm thiểu rủi ro khi thị trường không phát triển theo dự đoán Áp dụng lý thuyết này vào tài chính toàn diện cho thấy rằng nó giúp các ngân hàng tiếp cận nhiều khách hàng nhỏ lẻ tiềm năng, từ đó đa dạng hóa danh mục tiền gửi và cho vay Tài chính toàn diện không chỉ gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định mà còn mở rộng cho vay một cách an toàn.

2.3.2.1 Gia t ăng t i ề n g ử i bán l ẻ ổn đị nh

Thông qua tài chính toàn diện và việc mở rộng mạng lưới chi nhánh ngân hàng theo địa lý hoặc nhân khẩu học, các ngân hàng có thể phục vụ nhiều đối tượng khách hàng với chi phí thấp hơn khi đã có cơ sở hạ tầng cần thiết Bằng cách tận dụng quản lý và kỹ thuật, ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả hoạt động và doanh thu nhờ vào nguồn vốn rẻ hơn, tạo ra cơ hội mới và ổn định hơn trong kinh doanh.

Một số tác giả cho rằng tiền gửi bán lẻ có phản ứng chậm và không nhạy cảm với rủi ro, từ đó trở thành nguồn tài trợ dài hạn, ổn định và chi phí thấp hơn so với nguồn vốn bán buôn, vốn dễ bay hơi và thường tốn kém.

Các khoản tiền gửi bán lẻ thường phản ứng chậm với việc rút tiền do nhu cầu của người gửi cá nhân, điều này có thể dự đoán dựa trên quy luật số lượng lớn (Ahamed and Mallick, 2019) Chúng cũng ít nhạy cảm với rủi ro nhờ vào sự bảo hiểm tiền gửi từ chính phủ (Kim, Kliger và Vale, 2003; Song và Thakor, 2007) Ví dụ điển hình là trường hợp của Northern Rock, nơi người gửi tiền bán lẻ rút tiền ồ ạt khi ngân hàng gần như cạn kiệt tài sản thanh khoản để trả cho các nhà tài chính bán buôn ngắn hạn (Shin, 2009; Goldsmith-Pinkham và Yorulmazer, 2010), cho thấy rằng các nhà tài chính bán buôn ngắn hạn rút vốn nhanh hơn so với người gửi tiền lẻ.

Huang và Ratnovski (2011) chỉ ra rằng các nhà tài chính bán buôn rất nhạy cảm với thông tin tiêu cực và thường không muốn rút hoặc chuyển vốn ngắn hạn do họ có quyền truy cập thông tin về chất lượng dự án ngân hàng Tuy nhiên, họ có thể ngừng cấp vốn cho những dự án không có giá trị, trừ khi được bù đắp bằng lãi suất cao hơn (Rajan, 1992) Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng các ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi bán lẻ cao hơn bán buôn sẽ ổn định hơn trong thời kỳ khủng hoảng tài chính (Demirgỹỗ-Kunt và Huizinga, 2010; Poghosyan và Čihak).

2011) Cụ thể, Demirgỹỗ-Kunt and Huizinga (2010), sử dụng mẫu cỏc ngõn hàng niờm yết ở

Trong giai đoạn 1995-2007, nghiên cứu của Ratnovski và Huang cho thấy rằng 101 quốc gia đã ghi nhận tỷ lệ tài trợ không phải là tiền gửi cao hơn, điều này làm gia tăng tính mong manh của các ngân hàng.

Nghiên cứu năm 2009 cho thấy rằng nguồn tiền gửi bán lẻ phong phú đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng phục hồi của các ngân hàng Canada trong giai đoạn khủng hoảng năm 2008.

QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Ngày đăng: 20/10/2021, 14:21

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Dữ liệu ở bảng 1.1, được lấy từ Global Financial Development (World Bank, 2017a), đã - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
li ệu ở bảng 1.1, được lấy từ Global Financial Development (World Bank, 2017a), đã (Trang 15)
Chạy mô hình và kiểm định mô hình nghiên cứu  - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
h ạy mô hình và kiểm định mô hình nghiên cứu (Trang 77)
Các mã biến ở phương trình 3.6, 3.7, 3.8 được tổng hợp ở bảng 3.1 dưới đây. Trong bảng này, tác giả còn có tổng hợp các mô tả, cách tính, các nghiên cứu đã đề xuất sử dụ ng và k ỳ - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
c mã biến ở phương trình 3.6, 3.7, 3.8 được tổng hợp ở bảng 3.1 dưới đây. Trong bảng này, tác giả còn có tổng hợp các mô tả, cách tính, các nghiên cứu đã đề xuất sử dụ ng và k ỳ (Trang 86)
độ là 18.97%. Trong đó, tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2011 với con số là 99.30%. Bảng - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
l à 18.97%. Trong đó, tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2011 với con số là 99.30%. Bảng (Trang 95)
có xu hướng giảm số chi nhánh, với tốc độ â mở các năm (xem bảng 4.2), bình quân tốc độ - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
c ó xu hướng giảm số chi nhánh, với tốc độ â mở các năm (xem bảng 4.2), bình quân tốc độ (Trang 98)
mại so với GDP của ASEAN đều có tỷ lệ cao hơn (hình 4.3). Mặc dù hai khía cạnh trước đều cho thấy mức độ thâm nhập và sử dụng của các nước thuộc khối ASEAN thấp hơn, nhưng ở - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
m ại so với GDP của ASEAN đều có tỷ lệ cao hơn (hình 4.3). Mặc dù hai khía cạnh trước đều cho thấy mức độ thâm nhập và sử dụng của các nước thuộc khối ASEAN thấp hơn, nhưng ở (Trang 102)
Kết quả xác định IFI (bảng 4.7) của các quốc gia ASEAN cho thấy mức độ tài chính toàn diện tương đối khác nhau giữa các quốc  gia, nhưng nhìn chung tài chính toàn diệ n có xu  - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
t quả xác định IFI (bảng 4.7) của các quốc gia ASEAN cho thấy mức độ tài chính toàn diện tương đối khác nhau giữa các quốc gia, nhưng nhìn chung tài chính toàn diệ n có xu (Trang 106)
đổi giữa các năm và giữa các quốc gia (xem bảng 4.9). Trong đó Việt Nam là quốc gia có độ - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
i giữa các năm và giữa các quốc gia (xem bảng 4.9). Trong đó Việt Nam là quốc gia có độ (Trang 110)
ở mô hình 2, hầu hết các biến còn lại đều có kết quả đúng như kỳ vọng và ý nghĩa thống kê. - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
m ô hình 2, hầu hết các biến còn lại đều có kết quả đúng như kỳ vọng và ý nghĩa thống kê (Trang 116)
p-value đều lớn hơn 0.05 nên phần dư của mô hình không tồn tại hiện tượng tự tương quan - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
p value đều lớn hơn 0.05 nên phần dư của mô hình không tồn tại hiện tượng tự tương quan (Trang 117)
ý nghĩa thống kê. Các kiểm định Hansen ở cả ba mô hình có hệ số p-value đều lớn hơn 0.05, - Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng
ngh ĩa thống kê. Các kiểm định Hansen ở cả ba mô hình có hệ số p-value đều lớn hơn 0.05, (Trang 118)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w