Mục Lục PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn chọn đề tài. 1 2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: 2 3. Đối tượng nghiên cứu: 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: 2 5. Kết cấu đề tài: 2 PHẦN NỘI DUNG 4 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ, ĐẢNG CẦM QUYỀN. 4 1.1. Quan niệm về Đảng chính trị. 4 1.2. Quan niệm về Đảng cầm quyền. 5 1.3. Các Đảng chính trị tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. 7 CHƯƠNG II: VAI TRÒ ĐẢNG CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC. 12 2.1. Khái quát về Đảng Cộng Sản Trung Quốc. 12 2.3. Vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước. 14 2.3. Những kỳ đại hội nỗi bật của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. 17 CHƯƠNG III: LIÊN HỆ VAI TRÒ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. 22 3.1. Sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam. 22 3.2. Vai trò Đảng Cộng Sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước. 23 PHẦN KẾT LUẬN 29 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 30 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn chọn đề tài. Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn hệ thống chính trị, đặt biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước là hoạt động cơ bản của các Đảng chính trị. Tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng như mục tiêu theo đuổi mà mỗi Đảng cầm quyền có mỗi phương thức tổ chức và hoạt động khác nhau, song đều nhầm tới một hướng đích là giành, thực thi và chi phối quyền lực nhà nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của Đảng mình đối với các đảng khác và toàn xã hội. Cũng như đảng cầm quyền, đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bả. Nó có vai trò là một trong những thành phần cơ bản của hệ thống chính trị, của xã hội công dân hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh lợi ích của giai cấp, của tầng lớp xã hội, nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt được mục tiêu và lý tưởng nhất định. Các đảng chính trị luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận về việc đổi mới nền chính trị. Các lợi ích chi chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của đảng chính trị cầm quyền đó. Nhứng lợi ích như vậy không chỉ được tìm thấy trong đảng cầm quyền mà còn ở trong các các đảng chính trị đối lập. Nghiên cứu về Đảng chính trị cầm quyền Trung Quốc góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về quá trình hình thành, phát triển và vai trò quan trọng của đảng cầm quyền trong việc lãnh đạo đất nước phát triển. Đồng thời qua việc nghiên cứu về Đảng cầm quyền Trung Quốc – một trong những nước bạn truyền thống lâu đời của nước ta, mối quan hệ giữa 2 nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại. Giúp ta có những hiểu biết sâu hơn, rút ra những bài học quý báo trong việc xây dụng Đảng cầm quyền vững mạnh lãnh đạo đát nước đi đến thành công xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ những lý do trên mà em đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của Đảng chính trị cầm quyền Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước. Liên hệ đến Đảng Cộng Sản Việt Nam. ” là đề tài tiểu luận của mình. 2.Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Mục đích nghiên cứu đề tài: đi sâu vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về Đảng chính trị cầm quyền, tập chung nghiên cứu một quốc gia đại diện là Trung Quốc. Từ đó chúng ta có cái nhìn chung về Đảng chính trị cầm quyền rút ra những kinh nghiệm cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Làm rõ những vấn đề lý luận chung về Đảng chính trị và Đảng cầm quyền ở Trung Quốc. Đồng thời làm rõ sự lãnh đạo, vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước. 3.Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận chung về Đảng chính trị và Đảng cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước Trung Quốc. 4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về kiểm tra kiểm soát quyền lực nhà nước. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp loogic; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh... 5.Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo thì kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận chung về Đảng chính trị, Đảng cầm quyền. Chương II: Vai trò của Đảng chính trị cầm quyền Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước. Chương III: Liên hệ với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành tiểu luận chắc chắn có rất nhiều thiếu sót và khuyết điểm. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ýcủa cô giáo hướng dẫn để nội dung của tiểu luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn....... ..... PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ, ĐẢNG CẦM QUYỀN. 1.1.Quan niệm về Đảng chính trị. 1.1.1.Khái niệm: Có nhiều quan điểm khác nhau về Đảng chính trị do trong thực tế đã tồn tại nhiều hình thức tổ chức của Đảng chính trị, nhiều loại hình đảng chính trị. Có quan điểm cho rằng Đảng chính trị là một tổ chức goomg những người nhất trí và hành động vì quyền lợi dân tộc thể theo những nguyên tắt cụ thể mà họ đã thỏa thuận với nhau. Quan điểm khác lại cho rằng Đảng chính trị là mọt tổ chức gồm những người ưu tú nhất của một tầng lớp hay một giai cấp, hoạt động vì lợi ích của giai cấp hay tầng lớp đó. Từ đó có thể khái quát về Đảng chính trị như sau: Là một tổ chức chính trị gồm những người đại biểu ưu tú của một giai cấp, một tầng lớp hay một nhóm xã hội, cũng thừa nhận một hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị, được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định, đại diện cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp hay tập đoàn xã hội ấy, có mục đích và thỏa mãn mục đích đó bằng cách giành lấy quyền lực nhà nước hoặc tham gia vào việc thực thi của nhà nước. Đặt trưng: Là một tổ chức chính trị; Cùng thừa nhận một hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị nhất định; Được tổ chức thao những nguyên tắt nhất định; Có chức năng chính trị, tức là hướng tới mục tiêu giành giữ và thực thi quyền lực nhà nước; Lãnh đạo quần chúng, được sự ửng hộ của quần chúng và cử tri. 1.1.2.Sự ra đời của Đảng chính trị. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản: Đó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp đã đạt đến mức tự giác. Sự ra đời của Đảng Tư Sản: Là sản phẩm tất yếu của chật tự dân chủ tư sản. 1.1.3.Vai trò của Đảng chính trị. Trong xã hội hiện đại, ở mỗi quốc gia có Đảng cầm quyền và Đảng không cầm quyền trong hệ thống chính trị. Vì vậy vai trò của Đảng chính trị phụ thuộc bào bản chất giai cấp và vị trí của Đảng trong đời sống chính trị của các quốc gia. Về cơ bản, vai trò của Đảng chính trị là vai trò lãnh đạo chính trị. 1.1.4.Quyền lực của Đảng chính trị. Quyền lực chính trị là khả năng, năng lực của đảng trong việc lãnh đạo quần chúng, thực hiện lý tưởng mà đảng đó theo đuổi.....
Lý do chọn chọn đề tài
Đảng cầm quyền luôn giữ vai trò lãnh đạo và chi phối toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước Thông qua nhà nước, đảng thực hiện các mục tiêu và chiến lược của mình Việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước là hoạt động cốt lõi của các đảng chính trị.
Mỗi Đảng cầm quyền có phương thức tổ chức và hoạt động khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của từng quốc gia, cũng như mục tiêu mà họ theo đuổi Tuy nhiên, tất cả đều hướng tới việc giành, thực thi và chi phối quyền lực nhà nước, từ đó ảnh hưởng đến quyền lực của Đảng mình đối với các đảng khác và toàn xã hội.
Đảng chính trị đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bản, là một trong những thành phần cơ bản của xã hội công dân hiện đại Nó ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến vận hành của hệ thống chính trị Là tổ chức phản ánh lợi ích của giai cấp và tầng lớp xã hội, đảng chính trị liên kết và lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất để đạt được mục tiêu và lý tưởng chung.
Các đảng chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc thảo luận và tranh luận về sự đổi mới chính trị Lợi ích của chính thể phụ thuộc vào các quyết định sáng suốt của đảng cầm quyền, nhưng cũng có thể tìm thấy trong các đảng đối lập.
Nghiên cứu Đảng chính trị cầm quyền Trung Quốc làm rõ lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành, phát triển và vai trò lãnh đạo của đảng này trong sự phát triển đất nước Đồng thời, việc tìm hiểu về Đảng cầm quyền Trung Quốc - một trong những đối tác truyền thống lâu dài của Việt Nam - giúp tăng cường hiểu biết về mối quan hệ giữa hai nước láng giềng, từ các tương tác văn hóa lịch sử đến những cuộc chiến tranh trong quá khứ Qua đó, chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá cho việc xây dựng Đảng cầm quyền vững mạnh, dẫn dắt đất nước tiến tới thành công trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên những lý do đã nêu, tôi đã quyết định chọn đề tài "Vai trò của Đảng chính trị cầm quyền Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước và mối liên hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam" làm nội dung tiểu luận của mình.
Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của nghiên cứu là phân tích những vấn đề lý luận chung về Đảng chính trị cầm quyền, với trọng tâm là quốc gia Trung Quốc Qua đó, nghiên cứu giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát về Đảng chính trị cầm quyền và rút ra những kinh nghiệm quý báu cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về Đảng chính trị và Đảng cầm quyền ở Trung Quốc.
- Đồng thời làm rõ sự lãnh đạo, vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được xây dựng dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với đường lối và quan điểm của Đảng về việc kiểm tra và kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp loogic; phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo thì kết cấu đề tài gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận chung về Đảng chính trị, Đảng cầm quyền.
- Chương II: Vai trò của Đảng chính trị cầm quyền Trung
Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Chương III: Liên hệ với Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận, chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều thiếu sót và khuyết điểm Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm và góp ý từ cô giáo hướng dẫn để nâng cao chất lượng nội dung của tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn./.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ, ĐẢNG CẦM QUYỀN
Quan niệm về Đảng chính trị
Có nhiều quan điểm về Đảng chính trị do sự đa dạng trong hình thức tổ chức và loại hình của các đảng này Sự tồn tại của nhiều loại hình đảng chính trị phản ánh sự phong phú trong cách thức hoạt động và vai trò của chúng trong hệ thống chính trị.
Đảng chính trị được xem là một tổ chức tập hợp những cá nhân có cùng quan điểm, hợp tác nhằm bảo vệ quyền lợi dân tộc dựa trên các nguyên tắc cụ thể đã được thống nhất.
Một quan điểm khác cho rằng Đảng chính trị là tổ chức tập hợp những người ưu tú nhất của một tầng lớp hoặc giai cấp, hoạt động nhằm bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của giai cấp hay tầng lớp đó.
Đảng chính trị là tổ chức chính trị bao gồm những người đại diện ưu tú của một giai cấp, tầng lớp hoặc nhóm xã hội, cùng chia sẻ hệ tư tưởng hoặc quan điểm chính trị Đảng được tổ chức theo nguyên tắc nhất định nhằm đại diện cho lợi ích của giai cấp hoặc tập đoàn xã hội đó Mục tiêu của đảng là giành quyền lực nhà nước hoặc tham gia vào việc thực thi quyền lực của nhà nước để phục vụ lợi ích chung.
- Là một tổ chức chính trị;
- Cùng thừa nhận một hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị nhất định;
- Được tổ chức thao những nguyên tắt nhất định;
- Có chức năng chính trị, tức là hướng tới mục tiêu giành giữ và thực thi quyền lực nhà nước;
- Lãnh đạo quần chúng, được sự ửng hộ của quần chúng và cử tri.
1.1.2 Sự ra đời của Đảng chính trị.
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản: Đó là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp đã đạt đến mức tự giác.
Sự ra đời của Đảng Tư Sản: Là sản phẩm tất yếu của chật tự dân chủ tư sản.
1.1.3 Vai trò của Đảng chính trị.
Trong xã hội hiện đại, mỗi quốc gia đều có sự phân chia giữa Đảng cầm quyền và Đảng không cầm quyền trong hệ thống chính trị Vai trò của các Đảng chính trị vì thế phụ thuộc vào bản chất giai cấp và vị trí của chúng trong đời sống chính trị của từng quốc gia.
Về cơ bản, vai trò của Đảng chính trị là vai trò lãnh đạo chính trị.
1.1.4 Quyền lực của Đảng chính trị.
Quyền lực chính trị là khả năng, năng lực của đảng trong việc lãnh đạo quần chúng, thực hiện lý tưởng mà đảng đó theo đuổi.
Mục tiêu tác động quyền lực của Đảng chính trị chủ yếu tập trung vào việc ảnh hưởng đến nhà nước, quyền lực nhà nước và các thiết chế xã hội, nhằm thực hiện hóa các mục tiêu và định hướng của đảng.
Quyền lực của Đảng chính trị được biểu hiện rõ nét qua cương lĩnh và nghị quyết của Đảng, cũng như thông qua các tổ chức và thiết chế xã hội mà Đảng nắm giữ, bao gồm nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Phương thức thực hiện quyền lực của Đảng chính trị: Tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Quan niệm về Đảng cầm quyền
"Đảng cầm quyền" là khái niệm phổ biến ở các nước phương Tây, chỉ sự hoạt động của đảng thông qua quyền lực của các đảng viên trong bộ máy nhà nước Đảng cầm quyền nắm giữ các vị trí chủ chốt để hoạch định và thực thi chính sách quốc gia, với mục tiêu chính trị được thể hiện dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước Vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền chi phối toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mình Mỗi đảng cầm quyền có phương thức tổ chức và hoạt động khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của từng quốc gia, nhưng đều hướng tới việc giành và thực thi quyền lực nhà nước Các đảng chính trị cầm quyền tuân theo nguyên tắc lãnh đạo và sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện mục tiêu của mình, mặc dù phương thức lãnh đạo và tổ chức có thể khác nhau Do đó, đảng cầm quyền đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị của mọi quốc gia.
Đảng Cộng sản cầm quyền đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo giai cấp công nhân, thiết lập chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội Sự trưởng thành của Đảng tạo ra sức mạnh mới, giúp lãnh đạo nhân dân đạt được những thắng lợi cách mạng lớn hơn Tuy nhiên, lý luận về Đảng cầm quyền vẫn còn mới mẻ và phức tạp Mặc dù chủ nghĩa xã hội đã tồn tại hơn 80 năm, sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô đã đặt ra nhiều thách thức cho lý luận và thực tiễn Để củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cách mạng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Các Đảng chính trị tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
Trung Quốc tên chính thức là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Chế độ chính trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên hình thức là chế độ đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và các đảng phái nhỏ đang hoạt động trong một mặt trận thống nhất Tuy nhiên, do thể chế "một nước, hai chế độ", Hồng Kông và Ma Cao có chế độ chính trị khác biệt so với phần còn lại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với sự tồn tại của chế độ đa đảng thực sự tại hai đặc khu này.
Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xác định Đảng Cộng sản Trung Quốc là chính đảng duy nhất cầm quyền, trong khi 8 đảng phái còn lại được xem là đảng dân chủ Hầu hết các đảng này được thành lập trong bối cảnh chiến tranh Trung-Nhật và nội chiến Trung Quốc Các đảng phái dân chủ tham gia chính trị qua Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, đóng vai trò giám sát và hỗ trợ Đảng Cộng sản Chủ tịch của các đảng này thường giữ chức vụ phó ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc hoặc phó chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc Phương châm hợp tác giữa Đảng Cộng sản và 8 đảng phái dân chủ được xác định là "Trường kỳ cộng tồn, hỗ tương giám sát, can đảm tương chiếu, vinh nhục dữ cộng".
Một số ý kiến cho rằng 8 đảng phái dân chủ không giữ được vai trò độc lập và trở thành phụ thuộc vào Đảng Cộng sản Chẳng hạn, để gia nhập Đồng minh dân chủ Trung Quốc, các thành viên mới phải trải qua sự thẩm tra của Đảng Cộng sản để đảm bảo đủ tiêu chuẩn gia nhập.
1.3.1 Uỷ ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc. Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc gọi tắt là Dân Cách là một trong những đảng phái dân chủ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Chủ yếu được thành lập bởi phái tả của Quốc dân đảng Trung Quốc trong thời kỳ Nội chiến Quốc - Cộng, hiện nay không có quan hệ với Quốc dân đảng Trung Quốc tại Đài
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1948, Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc được thành lập bởi Lý Tề, không nên nhầm lẫn với Trung Quốc Quốc dân đảng cách mạng ủy viên hội được thành lập trong khởi nghĩa Nam Xương năm 1927.
Đến năm 2007, Đảng Quốc dân đảng đã thu hút khoảng 82.000 đảng viên, trong đó phần lớn là con cái hoặc thân thuộc của các cựu đảng viên từ Đại lục Nổi bật trong số đó là Lý Bái Dao, con trai của cựu Chủ tịch trung ương Dân Cách Lý Tề Thâm, và Hà Lỗ Lệ, con gái của cựu thị trưởng Bắc Kinh Hà Tư Nguyên Sự gia nhập của nhiều đảng viên mới đã làm phong phú thêm lực lượng của đảng.
Uỷ ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc không chỉ là đảng đối lập mà còn là đảng tham chính, hợp tác cùng Đảng cộng sản Trung Quốc trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng Trung Quốc Vai trò này tương tự như tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
1.3.2 Đồng minh dân chủ Trung Quốc. Đồng minh dân chủ Trung Quốc gọi tắt là Dân Minh là một trong những đảng phái dân chủ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Dân Minh được thành lập vào tháng 3 năm 1941 với tên gọi Trung Quốc dân chủ chính đoàn đồng minh, lúc bấy giờ tham gia có Đảng Thanh niên Trung Quốc, Đảng xã hội quốc gia (sau đổi tên là Đảng dân chủ xã hội Trung Quốc), Uỷ ban hành động giải phóng dân tộc Trung Hoa (sau đổi tên là Đảng dân chủ nông công Trung Quốc), Trung Hoa chức nghiệp giáo dục xã, Trung Quốc hương thôn kiến thiết hiệp hội Năm 1942, Thẩm Quân Nho lãnh đạo Hội liên hợp cứu quốc các giới toàn quốc gia nhập Dân Minh Ngày 10 tháng 9 năm 1944 đổi tên thành Đồng minh dân chủ Trung Quốc Hiện tại các thành viên của Dân Minh chủ yếu tham gia công tác văn hoá giáo dục, số lượng thành viên khoảng 157000.
Vai trò: Đối với Đảng cộng sản Trung Quốc, Dân Minh đóng vai trò là đảng tham chính, cùng với Đảng cộng sản quản lý đất nước.
1.3.3 Hội kiến quốc dân chủ Trung Quốc.
Hội kiến quốc dân chủ Trung Quốc, hay còn gọi là Dân Kiến, là một trong những đảng phái dân chủ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Được thành lập vào ngày 16 tháng 12 năm 1945, Dân Kiến chủ yếu gồm các nhà doanh nghiệp tại các thành phố lớn và tầng lớp trí thức trong lĩnh vực kinh tế, hiện tại có khoảng 90.000 thành viên.
Vai trò: Dân Kiến là một trong 8 đảng phái dân chủ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, là chính đảng tham chính cùng Đảng cộng sản Trung Quốc.
1.3.4 Hội xúc tiến dân chủ Trung Quốc.
Hội xúc tiến dân chủ Trung Quốc, hay còn gọi là Dân Tiến hội, được thành lập vào ngày 30 tháng 12 năm 1945 tại Thượng Hải Đây là một trong những đảng phái dân chủ quan trọng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Thành viên chủ yếu của Dân Tiến bao gồm các trí thức trung cấp và cao cấp, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xuất bản và nhiều lĩnh vực khác.
Dân Tiến hiện nay là một trong tám đảng phái dân chủ tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cùng với Đảng Cộng sản Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý đất nước.
1.3.5 Đảng dân chủ nông công Trung Quốc. Đảng dân chủ nông công Trung Quốc gọi tắt là Nông công Đảng là một trong những đảng phái dân chủ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, nằm trong liên minh chính trị do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc Nông công Đảng do tầng lớp trí thức trong phái tả của Quốc dân đảng Trung Quốc sáng lập như Đặng Diễn Đạt, Hoàng Kỳ Tường, Chương Bá Quân; đảng viên chủ yếu là trí thức trung và cao cấp trong ngành y dược.
1.3.6 Đảng trí công Trung Quốc. Đảng trí công Trung Quốc gọi tắt là Trí công Đảng là một trong những đảng phái dân chủ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Tiền thân của Trí công đảng là Hồng môn Trí công đường- một tổ chức do Hoa kiều tại Mỹ thành lập nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho Hoa kiều, đấu tranh vì độc lập dân tộc và phồn vinh cho Trung Quốc Đảng viên chủ yếu của Trí công Đảng là Hoa kiều và người thân Hoa kiều về nước, số lượng đảng viên khoảng
Đảng trí công Trung Quốc là một trong 8 chính đảng tham chính tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý đất nước cùng với Đảng Cộng sản Trung Quốc.
VAI TRÒ ĐẢNG CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN TRUNG QUỐC TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
Khái quát về Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Nó được thành lập vào năm 1921, chủ yếu là Trần Độc
Tú và Lý Đại Chiêu Đảng này phát triển nhanh chóng và đến năm
Năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lật đổ Chính phủ Quốc dân đảng, buộc họ phải rút lui về Đài Loan sau Nội chiến Trung Quốc Sự kiện này dẫn đến việc thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, với Đảng Cộng sản kiểm soát các lực lượng vũ trang của Quân đội Giải phóng Nhân dân.
2.1.1 Hình thức tổ chức ĐCSTQ được tổ chức chính thức trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, một nguyên tắc do nhà lý luận Mác xít Nga
Vladimir Lenin nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thảo luận dân chủ và cởi mở về chính sách, trong khi vẫn đảm bảo sự thống nhất trong việc thực hiện các chính sách đã được đồng thuận Theo lý thuyết, cơ quan cao nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là Đại hội Toàn quốc, diễn ra hàng năm Tuy nhiên, khi Đại hội không họp, Ban Chấp hành Trung ương trở thành cơ quan cao nhất, nhưng do chỉ họp một lần mỗi năm, hầu hết nhiệm vụ và trách nhiệm được chuyển giao cho Bộ Chính trị và Ban Thường vụ của Bộ Chính trị, với các thành viên của Ủy ban này được coi là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Lãnh đạo của đảng hiện đang giữ các vị trí quan trọng như Tổng Bí thư, Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Chủ tịch nước, qua đó đảm nhận vai trò lãnh đạo tối cao của đất nước Tổng Bí thư Tập Cận Bình, người được bầu tại Ban Chấp hành Trung ương khóa 18 vào ngày 15 tháng 11 năm 2012, hiện là lãnh đạo tối cao.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) chính thức cam kết ủng hộ chủ nghĩa cộng sản và tham gia Hội nghị Quốc tế của các Đảng Cộng sản và Công nhân hàng năm Theo điều lệ, ĐCSTQ tuân thủ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, học thuyết Đặng Tiểu Bình, ba đại diện, quan điểm phát triển khoa học và tư tưởng Tập Cận Bình Chính phủ giải thích rằng các cải cách kinh tế của Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh nước này đang ở giai đoạn sơ khai của chủ nghĩa xã hội, tương tự như phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Nền kinh tế chỉ huy dưới thời Mao Trạch Đông đã được thay thế bằng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dưới thời Đặng Tiểu Bình, dựa trên nguyên tắc “Thực tiễn là tiêu chí duy nhất cho chân lý”.
Kể từ sự sụp đổ của các chính phủ cộng sản Đông Âu vào năm 1989–1990 và sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991, ĐCSTQ đã nhấn mạnh mối quan hệ đảng - đảng với các đảng cầm quyền của các quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại Mặc dù vẫn duy trì quan hệ với các đảng cộng sản không cầm quyền trên toàn cầu, từ những năm 1980, ĐCSTQ đã thiết lập quan hệ với nhiều đảng không cộng sản, đặc biệt là các đảng cầm quyền của các quốc gia độc đảng, các đảng thống trị trong các nền dân chủ và các đảng dân chủ xã hội, bất kể hệ tư tưởng của họ.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hệ tư tưởng chính thức đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được ĐCSTQ coi là công cụ tiết lộ quy luật phát triển của lịch sử xã hội ĐCSTQ khẳng định rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin cung cấp cái nhìn về mâu thuẫn trong xã hội tư bản và sự cần thiết của một xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản trong tương lai Theo Nhân dân Nhật báo, Tư tưởng Mao Trạch Đông là sự áp dụng và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin tại Trung Quốc, được hình thành không chỉ bởi Mao Trạch Đông mà còn bởi các lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc tổ chức của ĐCSTQ là tập trung dân chủ, dựa trên hai nguyên tắc chính: dân chủ và tập trung Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V năm 1927, nguyên tắc này đã trở thành chỉ đạo của Đảng Điều lệ đảng khẳng định rằng "Đảng là một bộ phận hợp thành được tổ chức theo chương trình, điều lệ và trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ." Mao Trạch Đông từng chỉ trích rằng chế độ này có sự mâu thuẫn giữa dân chủ và tập trung, nhưng ông cho rằng sự ưu việt nằm ở chính những mâu thuẫn đó ĐCSTQ hiện nay tuyên bố rằng “dân chủ là huyết mạch của Đảng”, nhưng để thực hiện dân chủ hiệu quả, cần có sự tập trung hóa Mục tiêu của nguyên tắc này không phải là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản mà là điều chỉnh nó trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội ĐCSTQ khẳng định rằng không có nguyên tắc tập trung thì sẽ không có trật tự, và theo Mao, nguyên tắc này thể hiện sự kết hợp giữa dân chủ và tập trung, bảo đảm quyền lực được giao cho đại hội nhân dân các cấp trong khi vẫn duy trì sự điều hành tập trung.
Vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong công cuộc xây dựng đất nước
Sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc bảo vệ độc lập và an ninh quốc gia Đảng đã thành công trong việc chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa dân chủ mới sang chủ nghĩa xã hội, đồng thời triển khai xây dựng xã hội chủ nghĩa với quy mô lớn Kết quả là, sự nghiệp kinh tế và văn hóa của Trung Quốc đã có những bước phát triển to lớn chưa từng thấy trong lịch sử.
Sau khi hoàn thành cải tạo chủ nghĩa xã hội đối với chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mắc phải những sai lầm trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội do thiếu kinh nghiệm Từ năm 1966 đến 1976, Đại cách mạng văn hóa đã diễn ra, đánh dấu một sai lầm mang tính toàn cục kéo dài trong thời gian này.
Tháng 10 năm 1976, Đại cách mạng văn hóa kết thúc, Trung Quốc bước vào thời kỳ phát triển mới trong lịch sử.
Sau hội nghị toàn thể lần thứ 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào cuối năm 1978, đất nước đã bước vào một giai đoạn chuyển mình quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại kể từ khi thành lập nước Trung Hoa mới.
Từ năm 1979, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện chính sách cải cách mở cửa do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, mang lại những thành tựu kinh tế và xã hội đáng kể cho đất nước Sự thay đổi này không chỉ làm biến đổi diện mạo Trung Quốc mà còn tạo ra thời kỳ phát triển tốt nhất kể từ khi thành lập nước, mang lại lợi ích lớn cho nhân dân Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng tích cực phát triển quan hệ đối ngoại nhằm tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc cải cách mở cửa và hiện đại hóa đất nước.
Trong lĩnh vực quốc tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc theo đuổi chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập và tự chủ, nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước Đảng phản đối chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, đồng thời nỗ lực giữ gìn hòa bình thế giới và thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
Trên cơ sở 5 nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng, cùng có lợi và chung sống hòa bình, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát triển quan hệ hữu nghị với các chính đảng trên thế giới Điều này được thực hiện dựa trên 4 nguyên tắc: độc lập tự chủ, bình đẳng hoàn toàn, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện duy trì quan hệ hữu nghị với hơn 300 chính đảng trên 120 quốc gia Là một chỉnh thể thống nhất, Đảng hoạt động theo cương lĩnh và điều lệ của mình, tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ Theo điều lệ, công dân từ 18 tuổi trở lên, bao gồm công nhân, nông dân, quân nhân, tri thức và các cá nhân tiên tiến, nếu công nhận cương lĩnh và điều lệ của Đảng, có thể xin gia nhập và tham gia tích cực vào tổ chức Đảng, thực hiện nghị quyết và nộp đảng phí định kỳ.
Tổ chức Trung ương Đảng bao gồm các cơ quan quan trọng như Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành, Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Ban Chấp hành, Ban Bí thư Trung ương, Quân ủy Trung ương và Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đóng vai trò then chốt trong việc quyết định các chính sách và định hướng phát triển của Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc tổ chức đại hội 5 năm một lần, với Ban Chấp hành là cơ quan lãnh đạo tối cao Hiện tại, Đảng có gần 70 triệu đảng viên, và Tổng Bí thư đương nhiệm là đồng chí Tập Cận Bình.
Những kỳ đại hội nỗi bật của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
Trong cuộc chiến tranh giải phóng toàn quốc, các đảng phái dân chủ đã ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thể hiện sự lựa chọn lịch sử trong quá trình hợp tác lâu dài Các đảng phái này được hưởng tự do chính trị, tổ chức độc lập và bình đẳng về địa vị pháp lý theo quy định của Hiến pháp Phương châm hợp tác của Đảng Cộng sản Trung Quốc với các đảng phái dân chủ là "tồn tại lâu dài, giám sát lẫn nhau, đối xử chân thành và vinh nhục có nhau" Các đảng phái dân chủ không chỉ là đảng nắm quyền hay đối lập, mà là những đảng tham chính, góp phần vào sự phát triển chung.
2.3 Những kỳ đại hội nỗi bật của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng Sản Trung Quốc là sự kiện chính trị quan trọng nhất ở nước này, trong đó có những đại hội mang ý nghĩa rất lớn góp phần thay đổi diện mạo đất nước Trung Quốc hiện đại
2.3.1 Đại hội lần thứ nhất. Đại hội đầu tiên của đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra từ ngày 23/7 đến 31/7/1921 tại địa điểm bí mật ở Thượng Hải và sau đó là trên một con thuyền ở Nam Hồ, quận Gia Hưng, tỉnh Chiết
Vào đại hội, 12 đại biểu, bao gồm cả Mao Trạch Đông, đã đại diện cho hơn 50 đảng viên để thảo luận về việc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng như thông qua cương lĩnh và điều lệ của đảng.
Sự kiện ra đời của đảng Cộng sản Trung Quốc được đánh dấu vào ngày 1/7/1921, mặc dù có sự nhầm lẫn về thời gian diễn ra đại hội đầu tiên từ ngày 1/7 đến 5/7/1921 Mặc dù thời điểm tổ chức đại hội đã được xác minh lại, ngày 1/7 vẫn được công nhận là ngày thành lập đảng Tại đại hội, ba người được bầu vào Trung ương Cục là Trần Độc Tú, Trương Quốc Đào và Lý Đạt, trong đó Trần Độc Tú giữ chức Bí thư Trung ương.
2.3.2 Đại hội lần thứ bảy. Đại hội lần thứ 7 của CPC diễn ra từ 23/4 đến 11/6/1945, vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Nhật 544 đại biểu chính thức và 208 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 1,21 triệu đảng viên tham gia đại hội ở Diên An, ngôi làng nhỏ ở tỉnh Thiểm Tây miền bắc Trung Quốc. Đại hội thông qua điều lệ mới của CPC, trong đó nhấn mạnh
Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) đã lấy Tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với chủ nghĩa Marx-Lenin làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đánh dấu Mao Trạch Đông là lãnh đạo tối cao của đảng.
Hành động này đã giúp CPC đạt được sự đoàn kết và thống nhất cao, tạo nền tảng cho chiến thắng trước phát xít Nhật và xây dựng một Trung Quốc dân chủ mới Đại hội đã bầu ra Ủy ban Trung ương mới với 44 ủy viên chính thức và 33 ủy viên dự khuyết, trong đó Mao Trạch Đông được bầu làm chủ tịch Ủy ban Trung ương.
2.3.3 Đại hội lần thứ chín. Đại hội lần thứ chín của CPC được tổ chức vào tháng 4/1969 ở Bắc Kinh, giữa thời điểm cao trào của cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng từ năm 1966 đã gây ra không ít tổn thất cho đảng Hàng loạt đảng bộ cấp tỉnh và chi bộ cấp cơ sở bị xóa sổ và phần lớn đảng viên chưa quay lại sinh hoạt đảng bình thường.
Tại đại hội, Mao Trạch Đông đã chỉ định nguyên soái Lâm Bưu làm người kế nhiệm, khẳng định lý thuyết và phương pháp thực hiện cách mạng văn hóa, đồng thời sa thải hơn 80% ủy viên Ủy ban Trung ương đảng Đại hội đã bầu Mao Trạch Đông làm chủ tịch Ủy ban Trung ương và Lâm Bưu làm phó chủ tịch Tuy nhiên, hai năm sau, Lâm Bưu đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay.
2.3.4 Đại hội lần thứ 12. Đại hội lần thứ 12 diễn ra vào tháng 9/1982 ở Bắc Kinh, nhằm mục đích tổng kết thực tiễn từ sau đại hội đảng lần thứ 11 và loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực do thời kỳ hỗn loạn trong Cách mạng Văn hóa để lại.
Trong bài phát biểu khai mạc, Đặng Tiểu Bình đã giới thiệu khái niệm "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" nhằm thúc đẩy cải cách kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường Đại hội xác định nhiệm vụ quan trọng của CPC trong "thời kỳ lịch sử mới" là tăng gấp bốn lần giá trị sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, từ 710 tỷ nhân dân tệ năm 1980 lên khoảng 2.800 tỷ nhân dân tệ vào năm 2000, nhằm nâng cao mức sống của người dân Đồng thời, đại hội đã bầu ra Ủy ban Trung ương mới với 210 ủy viên chính thức và 138 ủy viên dự khuyết, cùng với Ủy ban Cố vấn Trung ương.
Trong một cuộc họp quan trọng, 172 thành viên đã tham gia, cùng với Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương gồm 132 thành viên Hồ Diệu Bang đã được bầu làm tổng bí thư, trong khi Đặng Tiểu Bình đảm nhận vai trò chủ tịch Quân ủy Trung ương và chủ tịch Ủy ban Cố vấn Trung ương.
Vào tháng 11/2002, đại hội lần thứ 16 của đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra tại Bắc Kinh, đánh dấu sự kiện quan trọng khi lần đầu tiên cho phép các doanh nhân tư nhân gia nhập đảng Đại hội cũng đã chính thức đưa học thuyết "Ba đại diện" của Giang Trạch Dân vào Điều lệ của đảng.
Học thuyết "Ba đại diện" của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh rằng Đảng đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, nền văn hóa tiên tiến và lợi ích của đông đảo nhân dân Theo học thuyết này, trí thức và doanh nhân được xem là lực lượng sản xuất chủ chốt, trong khi kinh tế tư nhân giữ vai trò quan trọng và nền kinh tế chủ yếu được điều chỉnh bởi cơ chế thị trường.
LIÊN HỆ VAI TRÒ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam
Vào mùa xuân năm 1930, từ ngày 3 đến 7 tháng 2, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã diễn ra tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc Hội nghị có sự tham gia của các đại biểu như Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh từ Đông Dương Cộng sản Đảng, và Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm từ An Nam Cộng sản Đảng, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc tế Cộng sản Tại hội nghị, quyết định quan trọng được đưa ra là hợp nhất ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành một Đảng duy nhất mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập vào ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng như Chánh cương, Sách lược, Điều lệ và Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, đánh dấu sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Đây là cương lĩnh đầu tiên của Đảng, giải quyết các vấn đề cơ bản và định hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và yêu nước, phản ánh sự phát triển thống nhất của hai phong trào này Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là lý luận của giai cấp công nhân mà còn là vũ khí giải phóng cho toàn xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng việc thành lập Đảng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, thể hiện qua Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Cương lĩnh, phù hợp với nguyện vọng của giai cấp công nhân và toàn dân tộc Đảng khẳng định vai trò trung tâm của giai cấp công nhân trong việc dẫn dắt xã hội Việt Nam hướng tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Con đường cách mạng này phù hợp với xu thế thời đại mới từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, khẳng định rằng chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân Đây là sự lựa chọn lịch sử rõ ràng từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng, dẫn dắt cách mạng Việt Nam đạt nhiều thắng lợi.
Vai trò Đảng Cộng Sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1980, đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Với Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, Đảng luôn phấn đấu để trở thành đội tiên phong và đại diện trung thành của nhân dân Việt Nam Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các tổ chức và đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ lợi ích của họ và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ vai trò của mình là đảng duy nhất cầm quyền Mỗi đảng viên và cán bộ cần thấm nhuần đạo đức cách mạng, sống cần kiệm, liêm chính và chí công vô tư Việc giữ gìn sự trong sạch của Ðảng là rất quan trọng, nhằm xứng đáng với vai trò lãnh đạo và phục vụ trung thành cho nhân dân.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
Năm 2013, Hiến pháp đã khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại diện cho lợi ích của các tầng lớp này Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ và chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Vai trò lãnh đạo của Đảng là một tư tưởng xuyên suốt, nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà đất nước đã lựa chọn.
Lịch sử Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay ghi dấu nhiều mốc son quan trọng dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam Các sự kiện nổi bật bao gồm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân và phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như quá trình kháng chiến, kiến quốc và thống nhất đất nước Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Vai trò và sứ mệnh của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định từ khi thành lập, như được nêu rõ trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
Nhờ đó, "Ðảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại: Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
Năm 1945 đánh dấu sự thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở đầu cho một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc Thắng lợi của các cuộc kháng chiến đã giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời khẳng định sức mạnh của tinh thần đoàn kết Hơn 30 năm đổi mới đã mang lại những thành tựu to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, chứng minh vai trò lãnh đạo quan trọng của Đảng trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Mặc dù đã có những nỗ lực, nhưng đời sống xã hội vẫn gặp nhiều khó khăn, với việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng chưa đạt hiệu quả cao và thiếu sự lan tỏa Nhiều cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt, chưa thể hiện rõ trách nhiệm và gương mẫu trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí và tiêu cực Đặc biệt, một số cán bộ cấp cao đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân Để khắc phục những hạn chế này và đối phó với các thế lực thù địch, Đảng cần nâng cao năng lực lãnh đạo, tập trung vào những nội dung chủ yếu để thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Một là, củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng, tiếp tục giành được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân.
Theo quan điểm mác-xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, đóng vai trò đại diện cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Một chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích và nguyện vọng của các tập đoàn xã hội Đảng cần kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời vận dụng sáng tạo để phát triển những tư tưởng này trong bối cảnh mới, nhằm củng cố nền tảng xã hội của Đảng Do đó, Đảng không chỉ giữ vai trò lãnh đạo mà còn phải thực hiện tốt bổn phận là "người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Đảng cần có trí tuệ và bản lĩnh chính trị để đề ra đường lối đúng đắn, vượt qua khó khăn và thực hiện mục tiêu đã chọn, xứng đáng với niềm tin của nhân dân Mỗi cán bộ, đảng viên phải phụng sự Tổ quốc và nhân dân vô điều kiện, làm mọi việc có lợi cho dân và tránh những điều có hại Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, đảng viên cần thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính và chí công vô tư Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về việc đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận có vai trò quan trọng, nhấn mạnh rằng cán bộ, đảng viên phải "hết lòng vì dân" để nhận được sự ủng hộ từ dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam cần kiên quyết phòng, chống các biểu hiện quan liêu, độc đoán và kiêu ngạo Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua hiệu quả quản lý Nhà nước và toàn xã hội, từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cho đến công cuộc đổi mới hiện nay Lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là trụ cột trong cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, đảm bảo xây dựng Nhà nước pháp quyền vì nhân dân Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, với tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, điều này là nguyên tắc không thể thay đổi Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của việc có một đảng cầm quyền, cũng tồn tại những hạn chế và nguy cơ, như đã được V.I Lê-nin cảnh báo về sai lầm trong đường lối, quan liêu và xa rời quần chúng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh nguy cơ sai lầm và suy thoái của cán bộ, đảng viên ngay sau khi giành chính quyền, yêu cầu cần phải chiến thắng tham ô, lãng phí và quan liêu để bảo vệ sự nghiệp của Đảng Để ngăn ngừa và khắc phục những nguy cơ này, Đảng cần từng bước đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ dân chủ trong Đảng và các cơ quan quyền lực nhà nước, đồng thời mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt chức trách và đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực.
Mặc dù họ tuyên bố tôn trọng dân chủ, nhưng thực tế lại áp dụng phương thức "quan" chủ Họ nói về việc "phụng sự quần chúng", nhưng lại hành động trái ngược với lợi ích của cộng đồng Nếu các lãnh đạo chỉ tập trung vào quyền lực, thì sự phục vụ quần chúng sẽ trở thành một điều xa vời.
Làm việc theo cách quan liêu và sử dụng mệnh lệnh để ép buộc dân chúng thể hiện sự thiếu văn hóa trong lãnh đạo Văn hóa cầm quyền của Đảng cần phải hướng tới việc "làm hài lòng dân" và nhớ rằng "Chính phủ là công bộc của dân".
Ba là, lãnh đạo cần thực hiện nghiêm túc Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên để xây dựng hình ảnh trong sạch, liêm khiết Tình trạng tham nhũng và sự kém hiệu quả trong cuộc chiến chống lại tệ nạn này xuất phát từ việc thiếu gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã chỉ ra rằng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, bao gồm cả những người lãnh đạo, đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống Họ thể hiện sự phai nhạt lý tưởng, rơi vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, chạy theo danh lợi và tiền tài, dẫn đến sự giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ.
Trong bối cảnh hiện nay, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, cần nghiêm túc thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết và quy định của Đảng, cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước Họ phải gương mẫu trong việc chấp hành các quy định về trách nhiệm nêu gương, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch và liêm khiết Việc khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống là rất quan trọng, cùng với việc nâng cao lập trường cách mạng và bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cán bộ, đảng viên cần học tập đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình thức Tính đảng và tính gương mẫu trong tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và lối sống là những yếu tố quyết định đến uy tín lãnh đạo của Đảng và lòng tin của nhân dân.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đất nước đã vượt qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh Không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội Thực hiện nhất quán và thành công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; nâng cao vị thế của đất nước Hiện nay, Ðảng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, toàn quân chung sức, đồng lòng, tạo xung lực mới thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.