Giới thiệu tiêu chuẩn Quốc gia
Tên Tiêu chuẩn Quốc gia
TCVN: Nước nuôi trồng thủy sản – Yêu cầu chất lượng – Phần I – Nuôi thâm canh tôm nước lợ
Ký hiệu
Sự cần thiết ban hành tiêu chuẩn Quốc gia
Tính pháp lý
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi và bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X.
Căn cứ vào luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Quốc Hội số 68/2006/QH11 ngày
Vào ngày 29 tháng 6 năm 2006, luật này quy định về hoạt động xây dựng, công bố và áp dụng tiêu chuẩn, cũng như việc xây dựng, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật Ngoài ra, luật còn đề cập đến việc đánh giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Căn cứ Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật;
Căn cứ thông tư số 22/2014/TT-BNNPTNT ngày 29 tháng 07 năm 2014 về ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện nuôi thủy sản;
Theo Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26/11/2013, Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Theo đề nghị của Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Hợp đồng số 10/HĐ-KHCN&HTQT đã được ký kết vào ngày 21/6/2019 giữa Tổng cục Thủy sản và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Sự cần thiết phải ban hành tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) mới quy định về chất lượng nước nuôi trồng thủy sản
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, năm 2019, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 705.545 ha, tương đương 97,9% so với năm 2018, trong đó tôm sú chiếm 603.855 ha và tôm chân trắng 97.865 ha Sản lượng tôm đạt 823.851 tấn, tăng 110,5% so với cùng kỳ năm trước Gần đây, diện tích nuôi tôm nước lợ theo hình thức thâm canh đang gia tăng.
Mặc dù có sự gia tăng sản lượng tôm nuôi, nhiều vùng nuôi tôm vẫn thiếu cơ sở hạ tầng đảm bảo, dẫn đến việc các ao nuôi thâm canh không có hệ thống xử lý nước, làm tăng nguy cơ dịch bệnh và ô nhiễm nguồn nước Năm 2018, tổng diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại lên tới 37.496 ha, chiếm 5,22% tổng diện tích nuôi tôm cả nước, trong đó diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh bị thiệt hại chiếm 54,73% Các bệnh gây thiệt hại chủ yếu bao gồm đốm trắng (5.866 ha), hoại tử gan tụy cấp (5.501 ha), và nhiều bệnh khác Ngoài ra, biến đổi môi trường và thời tiết cũng gây thiệt hại cho 17.373 ha, trong khi 6.815 ha thiệt hại không rõ nguyên nhân.
Ngành nuôi tôm ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực thủy sản, với diện tích và sản lượng chiếm tỷ trọng lớn, góp phần mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể từ xuất khẩu Tuy nhiên, dịch bệnh vẫn là một thách thức lớn cần được chú trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng thu hoạch và tính bền vững của các mô hình nuôi Chất lượng nước môi trường nuôi cũng có mối liên hệ chặt chẽ với bệnh tôm, điều này càng làm tăng tính cấp thiết của việc quản lý môi trường nuôi trồng.
Công tác quan trắc môi trường và phòng ngừa dịch bệnh trên tôm nuôi được Tổng cục Thủy sản và các địa phương thực hiện hàng năm nhằm đảm bảo sản xuất bền vững và cung cấp dữ liệu cho các đoàn thanh tra Trong năm 2019, việc giám sát môi trường và dịch bệnh được tiến hành định kỳ tại 500 điểm nuôi tôm nước lợ với tần suất 2 lần/tháng, tăng lên 4 lần/tháng trong thời gian giao mùa.
Theo Quyết định số 3824/QĐ-BNN-TCTS ngày 06 tháng 9 năm 2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt Việt Nam (VietGAP) yêu cầu các cơ sở nuôi thường xuyên quan trắc và quản lý chất lượng nước theo từng loài nuôi, đồng thời lập, cập nhật và lưu trữ hồ sơ liên quan Ngoài ra, Quyết định số 01/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành một số chính sách hỗ trợ việc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt nhằm thúc đẩy hình thức nuôi trồng có trách nhiệm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Việt Nam đã thiết lập nhiều tiêu chuẩn và quy chuẩn quốc gia cho các loài nuôi thủy sản, nhưng tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước nuôi tôm nước lợ thâm canh vẫn chưa được xây dựng và ban hành Việc phát triển Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN) cho lĩnh vực này là cần thiết để đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản.
Chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ là yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững ngành nuôi tôm, theo Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản đến 2020 và tầm nhìn 2030 Tiêu chuẩn TCVN về chất lượng nước không chỉ hướng dẫn các cá nhân và tổ chức trong việc quan trắc và giám sát môi trường ao nuôi, mà còn hỗ trợ cơ quan quản lý thủy sản trong việc kiểm tra công tác quản lý môi trường thủy sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Cơ sở xây dựng tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ được xây dựng dựa trên các căn cứ pháp lý tại Việt Nam, như đã trình bày ở mục 2.1, cùng với sự cần thiết hình thành tiêu chuẩn nêu ở mục 2.2 và yêu cầu từ Tổng cục thủy sản Các tiêu chuẩn này còn được hỗ trợ bởi các nghiên cứu khoa học đã được chứng minh tại Việt Nam và trên thế giới.
Các chỉ tiêu và giới hạn kỹ thuật về chất lượng nước nuôi tôm nước lợ tại Việt Nam được điều chỉnh để hình thành tiêu chuẩn quốc gia Mục tiêu là thống nhất các chỉ tiêu và giới hạn cho nước nuôi tôm thương phẩm, từ đó nâng cao sức khỏe tôm nuôi, mang lại hiệu quả cho người nuôi và thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước.
Nội dung, phương pháp thực hiện và các nguyên tắc
Nội dung Tiêu chuẩn
Tiêu chuẩn này quy định giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước ao nuôi trong nuôi thâm canh tôm nước lợ.
Phương pháp xây dựng Tiêu chuẩn
Dựa trên các căn cứ pháp lý từ Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Thông tư 50/2009/TT-BNNPTNT, cùng với Hợp đồng số 03/HĐ-TCTS-KHCN&HTQT-TC ký ngày 20/12/2016, nội dung này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ các quy định pháp lý trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
- Thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu, dữ liệu trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến mục tiêu của dự án
- Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng nước nuôi trồng thủy sản đã ban hành trong và ngoài nước, các tổ chức quốc tế
Chất lượng nước trong nuôi thâm canh tôm nước lợ hiện đang là một vấn đề quan trọng Các số liệu thực tiễn từ khảo sát cho thấy rằng việc đánh giá các chỉ tiêu chất lượng nước ở những ao nuôi thành công trong các năm trước là cần thiết để cải thiện hiệu quả nuôi trồng.
- Tiếp nhận ý kiến chuyên gia, doanh nghiệp nuôi trồng, nhà quản lý, v.v… liên quan đến nội dung nghiên cứu
- Thống kê, xử lý và tổng hợp dữ liệu xây dựng dự thảo
- Thẩm định và hoàn thiện tiêu chuẩn.
Các nguyên tắc để thiết lập các mức giới hạn cho phép về chất lượng nước nuôi
Các mức giới hạn cho phép liên quan đến chất lượng nước trong ao nuôi tôm nước lợ cần được thiết lập để đảm bảo sự phát triển của tôm và bảo vệ môi trường Việc thiết lập các mức này phải dựa trên các nguyên tắc của Thực hành Sản xuất Tốt (GMP), Thực hành Thú y Tốt (GVP) và Thực hành Nông nghiệp Tốt (GAP), đồng thời phải có cơ sở khoa học vững chắc để đáp ứng quy định về nuôi trồng thủy sản Các mức giới hạn cũng cần được quy định rõ ràng về mặt pháp lý và mục đích sử dụng, theo QCVN 02-19:2014, nhằm đảm bảo vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm.
Các tiêu chí sau đây phải được xem xét khi xây dựng các khuyến cáo và ra quyết định liên quan đến tiêu chuẩn này:
- Trong nghiên cứu này, Ban biên soạn đã kế thừa các nghiên cứu trước đó về chất lượng nước nuôi trồng thủy sản đã được công bố
Sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao trong các lĩnh vực tài nguyên nước, môi trường và nuôi trồng thủy sản, chúng tôi xem xét và đánh giá các vấn đề liên quan đến chất lượng nước Mục tiêu là tìm ra giải pháp tối ưu nhằm phát triển Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN) về chất lượng nước trong nuôi thâm canh tôm nước lợ.
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thảo luận nhóm, tập hợp các bên liên quan như đại diện cơ quan quản lý nhà nước về nuôi trồng thủy sản, thú y thủy sản, môi trường, các nhà nghiên cứu, và đại diện các đơn vị nuôi tôm nước lợ.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ thảo luận về 9 phương pháp tiếp cận trong việc xây dựng tiêu chuẩn TCVN mới về chất lượng nước cho nuôi tôm nước lợ Các thông số và mức giới hạn cần thiết sẽ được đề cập để đảm bảo môi trường nuôi trồng đạt yêu cầu và tối ưu hóa hiệu quả sản xuất.
Phân tích nguyên nhân và kết quả trong đánh giá rủi ro chất lượng nước là cần thiết để xác định các thông số quan trọng và khả năng xảy ra Quá trình này giúp phân loại các chỉ tiêu chất lượng nước thành hai nhóm: bắt buộc áp dụng và lựa chọn áp dụng Việc này được khuyến khích cho các cơ sở nuôi nhằm xác định và lựa chọn các chỉ tiêu giám sát bổ sung, bên cạnh các chỉ tiêu bắt buộc theo quy định của TCVN.
Luận giải quy định các thông số dự kiến trong xây dựng tiêu chuẩn
Nhóm các thông số thủy lý hóa thông thường
Nhóm thông số hóa lý quan trọng trong ao nuôi bao gồm nhiệt độ, pH, DO, độ kiềm và độ mặn Trong đó, độ mặn được theo dõi theo yêu cầu thực tế, còn các thông số khác như nhiệt độ, pH, DO và độ kiềm sẽ được đo hàng ngày vào buổi sáng từ 5-6 giờ và buổi chiều từ 14-15 giờ.
Nhiệt độ nước trong ao nuôi tôm chủ yếu phụ thuộc vào thời tiết và khí hậu, thay đổi theo thời gian trong ngày và mùa trong năm Tôm, cùng với các loài giáp xác, là động vật máu lạnh và không thể tự điều chỉnh nhiệt độ cơ thể, do đó thân nhiệt của chúng thường cân bằng với nhiệt độ nước, ảnh hưởng lớn đến sinh lý và quá trình trao đổi chất Nhiệt độ cũng ảnh hưởng đến độ hòa tan của khí, muối, các phản ứng hóa học và độc tính trong nước, với khoảng nhiệt độ tối ưu cho tôm chân trắng trưởng thành là từ 28 đến 32°C Đối với ao nuôi tôm sú thâm canh có diện tích và độ sâu lớn, quá trình quạt nước giúp hạn chế sự phân tầng nhiệt, làm chậm quá trình thu và tỏa nhiệt Tôm sú sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ từ 25 đến 30°C.
(1995) nhiệt độ cao hơn 33 o C hay thấp hơn 25 o C thì khả năng bắt mồi của tôm giảm 30-50%, tôm sẽ giảm hoạt động tạo điều kiện cho mầm bệnh tấn công
Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển của tôm chân trắng là từ 28-30 o C, trong khi nhiệt độ dưới 24 o C và trên 34 o C không phù hợp cho tôm sú (Robertson, 2006; Samocha, 2019).
Theo dõi các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL trong giai đoạn 2018-2019 cho thấy nhiệt độ dao động từ 26-33 o C, với nhiệt độ trung bình là 29,4 ± 0,2 o C, điều này phản ánh môi trường thuận lợi cho sự phát triển của tôm.
Hình 12 Biến động nhiệt độ của các ao tôm nuôi nước lợ ở ĐBSCL 2018-2019
Để xây dựng TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ, cần đề xuất giá trị nhiệt độ từ 28-32 oC là mức cho phép, trong khi 29-31 oC là giá trị tối ưu Việc này nên được thực hiện dựa trên việc tham khảo các thông tin và so sánh dữ liệu có liên quan, đồng thời xác định tần suất quan trắc phù hợp.
2 lần/ngày (sáng và chiều)
Theo nghiên cứu của Chanratchakool và cộng sự (1995), pH của nước ao nuôi tôm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe của tôm Mức pH lý tưởng cho tôm nuôi dao động từ 7,50 đến 8,35, với biên độ thay đổi hàng ngày không vượt quá 0,5 Bên cạnh đó, Briggs và cộng sự (1994) cũng chỉ ra rằng nguồn nước có pH từ 7,5 đến 8,5 tạo điều kiện tối ưu cho sự phát triển của vi khuẩn nitrat hóa.
pH là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng nước ao nuôi, đặc biệt đối với ương ấu trùng tôm chân trắng Sự biến động của pH có thể ảnh hưởng đến quá trình sinh lý và sinh hóa của tôm, đồng thời tác động đến các yếu tố khác trong ao như tảo và khí độc.
Trong thực tế, qua theo dõi các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL nhận thấy pH dao động trong phạm vi 7,0-8,6, trung bình là 7,83 ± 0,26 (Hình 2)
Theo nghiên cứu của Robertson (2006), pH lý tưởng cho tôm sú nằm trong khoảng 7,5 – 9,0, với sự biến động không vượt quá 0,5 trong một ngày, trong đó pH 7,8 được xác định là tối ưu cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm sú Đối với tôm chân trắng, khoảng pH tối ưu được đề xuất là từ 7,2 đến 8,2 (Samocha, 2019).
Hình 13 Biến động pH của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-2019
Các tiêu chuẩn của một số quốc gia quy định khoảng pH tối ưu cho nuôi thủy sản nước mặn dao dộng từ 6,5-9,0 (Philminaq, 2014)
Để xây dựng TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ, cần tham khảo và so sánh các thông tin cũng như dữ liệu liên quan, từ đó đề xuất giá trị pH phù hợp.
7,2-8,6 là giá trị cho phép và 7,5 -8,5 là giá trị tối ưu và dao động trong ngày không quá 0,5, với tần suất quan trắc 2 lần/ngày (sáng và chiều)
5.1.3 Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) Ôxy hòa tan trong nước lý tưởng cho ao nuôi tôm sú là trên 5 mg/L và không vượt quá
Theo nghiên cứu của Whetston và cộng sự (2002), nồng độ ôxy trong ao là 15 mg/L Wan và cộng sự (2001) chỉ ra rằng 70% lượng ôxy tiêu hao chủ yếu phục vụ cho sinh vật đáy và sự ôxy hóa các hợp chất hữu cơ, trong khi chỉ có 20% lượng ôxy được sử dụng cho quá trình hô hấp của tôm.
12 nitrate hóa xảy ra tốt nhất nếu DO ở mức lớn hơn 80% trạng thái bão hòa Quá trình nitrate hóa sẽ không xảy ra khi DO = 2 mg/L hoặc thấp hơn
Theo nghiên cứu của Robertson (2006), nồng độ oxy hòa tan (DO) tối ưu cho tôm sú là 5,0 mg/L, trong khi tôm chân trắng cần từ 4,5 đến 6,0 mg/L và 4,0 đến 8,0 mg/L (Samocha, 2019) Thực tế, các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL cho thấy DO dao động từ 2,5 đến 7,5 mg/L, với giá trị trung bình là 4,33 ± 0,55 mg/L (Hình 3).
Hình 14 Dao động DO của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-2019
Các tiêu chuẩn của Úc, Nam Úc, Ấn Độ, Philipin quy định mức DO >5,0 mg/L cho nuôi thủy sản nước mặn (Philminaq, 2014)
Đề xuất giá trị TCVN cho chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ về chỉ tiêu DO là từ 5,0-9,0 mg/L trở lên, với tần suất quan trắc 2 lần/ngày (sáng và chiều) dựa trên việc tham khảo và so sánh các dữ liệu liên quan.
5.1.4 Độ mặn Đối với tôm sú nhu cầu về độ mặn thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của tôm Theo Wan và ctv (2001) độ mặn tối ưu cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm là 15 – 25‰ Chanratchakool (2003) cho rằng độ mặn cao hơn 30‰ tôm nuôi thường bị bệnh mà đặc biệt là bệnh đốm trắng và đầu vàng; tôm nuôi ở nồng độ muối thấp thì bệnh ít xảy ra nhưng độ mặn không nhỏ hơn 7‰ Nếu độ mặn thấp hơn sẽ làm tôm bị còi, mềm vỏ tỷ
13 lệ sống thấp, khi tôm đạt trọng lượng từ 10-12g thì có thể nuôi ở độ mặn thấp mà ít ảnh hưởng đến sự sinh trưởng
Theo Samocha (2019), độ mặn lý tưởng cho tôm chân trắng phát triển là từ 20 đến 35 ‰, trong khi tôm sú phát triển tốt nhất ở độ mặn 15 - 25 ‰, với khoảng thích hợp là 10 - 28 ‰ (Robertson, 2006) Quan sát thực tế tại các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL cho thấy độ mặn dao động từ 1 đến 36 ‰, với trung bình là 11,72 ± 5,53 ‰ (Hình 4).
Hình 15 Dao động độ mặn của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-2019
Để xây dựng TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ, cần tham khảo và so sánh các dữ liệu liên quan Giá trị cho phép về độ mặn được đề xuất là từ 7-25‰, với mức tối ưu là 15-25‰ Tần suất quan trắc sẽ được xác định dựa trên yêu cầu thực tiễn.
Nhóm các chất dinh dưỡng và hữu cơ
Theo Boyd (1998), hàm lượng nitrite trong ao nuôi tôm chủ yếu xuất phát từ thức ăn thừa và quá trình bài tiết của tôm Nitrite là một hợp chất nitrogen độc hại cho động vật thủy sản, đặc biệt là tôm, khi nồng độ cao sẽ kết hợp với hemocyanin trong máu, làm giảm khả năng vận chuyển ôxy Điều này dẫn đến tình trạng tôm bị ngạt, yếu ớt, dễ mắc bệnh và có nguy cơ chết do sốc môi trường.
Nồng độ nitrite an toàn trong ao nuôi tôm được xác định là nhỏ hơn 0,23 mg/L theo nghiên cứu của Theo Whetstone và cộng sự (2002) Boyd (1998) chỉ ra rằng độc tính của nitrite đối với tôm cá phụ thuộc vào hàm lượng Cl- (độ mặn) Ngoài ra, Chen và Chin (1988) cho biết nồng độ nitrite an toàn cho hậu ấu trùng tôm sú với LC 50 trong 96 giờ là 1,36 mg/L, trong khi Boyd (1998) khuyến nghị nồng độ nitrite trong ao nuôi thủy sản không vượt quá 0,3 mg/L.
Theo nghiên cứu của Robertson (2006) và Samocha (2019), khi độ mặn vượt quá 15‰, nồng độ nitrite cho phép là dưới 10 mg/L, trong khi ở độ mặn thấp hơn 15‰, nồng độ nitrite tối đa chỉ nên là 5 mg/L Đặc biệt, đối với tôm nuôi lớn, nên duy trì chỉ số nitrite càng thấp càng tốt Thực tế từ các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL cho thấy hàm lượng nitrite cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo sức khỏe cho tôm.
NO2-N dao động trong phạm vi 0,00-10,55 mg/L, trung bình là 0,72 ± 0,92 mg/L (Hình
Hình 17 Dao động hàm lượng NO2-N của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-
Dựa trên việc tham khảo thông tin và so sánh các dữ liệu liên quan, chúng tôi đề xuất chỉ số thích hợp để xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về chất lượng nước trong nuôi thâm canh tôm nước lợ.
NO2-N < 5 mg/L là giá trị cho phép và < 1 mg/L là giá trị tối ưu, tần suất quan trắc hàng ngày nếu cần thiết hoặc ít nhất 1 lần/tuần
5.2.2 Hàm lượng ammonia tổng số (TAN)
Hàm lượng TAN thích hợp cho ao nuôi tôm dao động từ 0,2 – 2,0 mg/L, trong khi hàm lượng ammoniac (NH3) cần phải nhỏ hơn 0,1 mg/L (Theo Boyd, 1998; Chanratchakool, 2003) Các nghiên cứu của Boyd (1998), Lloyd (1992) và Lawson (1995) cũng chỉ ra rằng mức TAN tối ưu cho sự phát triển của tôm là dưới 1,0 mg/L, với NH3 vẫn phải giữ dưới 0,1 mg/L Ngược lại, Robertson (2006) và Samocha (2019) cho rằng mức TAN tối ưu có thể lên đến 3,0 mg/L, tuy nhiên độ độc của nó phụ thuộc vào pH Theo Chanratchakool và cộng sự (1995), NH3 là khí dễ thoát ra ngoài môi trường nhờ tác động của quạt nước và chuyển hóa thành dạng NH4+.
Các tiêu chuẩn tại Úc, Nam Úc và New Zealand quy định mức TAN tối đa là dưới 1,0 mg/L cho cả nước ngọt và nước mặn, đồng thời quy định mức NH3 chung là 0,02 mg/L (Philminaq, 2014).
Theo nghiên cứu về các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL, hàm lượng TAN ghi nhận dao động từ 0,00 đến 8,81 mg/L, với giá trị trung bình là 0,67 ± 0,69 mg/L.
Hình 18 Dao động hàm lượng TAN của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-
Dựa trên việc tham khảo thông tin và so sánh dữ liệu liên quan, chúng tôi đề xuất các chỉ số phù hợp để xây dựng Tiêu chuẩn Quốc gia (TCVN) về chất lượng nước trong nuôi trồng thâm canh tôm nước lợ.
Giá trị TAN tối đa cho phép là dưới 3,0 mg/L, trong khi giá trị tối ưu là dưới 1,0 mg/L Đồng thời, nồng độ NH3 cần duy trì dưới 0,1 mg/L Tần suất quan trắc nên được thực hiện hàng ngày nếu cần thiết hoặc ít nhất một lần mỗi tuần.
Theo Zweig và ctv (1999) nitrate là sản phẩm cuối cùng của quá trình nitrate hóa và nồng độ thường cao hơn cả ammonia và nitrit nhưng ít độc hơn
Nồng độ nitrate cao có thể ảnh hưởng đến quá trình thẩm thấu và vận chuyển oxy, nhưng mức độ độc hại của nó vẫn cao hơn nhiều so với ammonia và nitrite Ngoài ra, nồng độ nitrate cao còn dẫn đến hiện tượng phú dưỡng, gây ra sự phát triển quá mức của tảo và thực vật thủy sinh, từ đó tác động tiêu cực đến các loài thủy sản nuôi.
Theo Philminaq (2014), mức nồng độ nitrate tối ưu cho nuôi tôm chân trắng là từ 0,4 - 0,8 mg/L (Clifford, 1994) Đối với tôm sú, việc tiếp xúc với nồng độ nitrate trên 200 mg/L trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 tuần không gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng Kuhn và cộng sự (2011) cho rằng nồng độ nitrate trong ao nuôi tôm chân trắng nên nhỏ hơn 220 mg/L, trong khi Wyk và Scarpa (1999) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát nồng độ này.
18 nhỏ hơn 60 mg/L và Boyd (1998) cho rằng nồng độ nitrate 0,2 – 10,0 mg/L là thích hợp cho ao nuôi thủy sản
Đề xuất giá trị TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ cho NO3-N là dưới 10 mg/L, nhằm đảm bảo điều kiện tối ưu cho sự phát triển của tôm.
Phosphate là một yếu tố dinh dưỡng quan trọng ảnh hưởng đến mật độ tảo trong ao nuôi, dẫn đến biến động pH của môi trường nước Theo quan sát tại các ao nuôi tôm nước lợ thành công ở ĐBSCL, hàm lượng PO4-P ghi nhận dao động từ 0,00 đến 7,36 mg/L, với giá trị trung bình là 0,14 ± 0,17 mg/L.
Hình 19 Dao động hàm lượng PO4-P của các ao nuôi tôm nước lợ ở ĐBSCL 2018-
Dựa trên việc tham khảo và so sánh các thông tin cùng dữ liệu liên quan, chúng tôi đề xuất chỉ số phù hợp để xây dựng Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về chất lượng nước trong nuôi thâm canh tôm nước lợ, nhằm đảm bảo các chỉ tiêu cần thiết cho sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản.
PO4-P là 0,15 mg/L, tần suất quan trắc tùy theo yêu cầu
Hàm lượng H2S thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển phải ở mức không phát hiện thấy, theo nghiên cứu của Fast và Boyd (1992) Chanratchakkol và cộng sự (2003) chỉ ra rằng nồng độ H2S trong ao tôm nên nhỏ hơn 0,03 mg/L Phạm Thị Tuyết Ngân và Trương Quốc Phú (2010) cho biết nồng độ H2S 0,003 mg/L đã gây độc cho tôm cá (Chen, 1990) Đối với tôm chân trắng, Samocha (2019) khuyến nghị hàm lượng H2S tối ưu là nhỏ hơn 0,005 mg/L.
19 mg/L và Robertson (2006) cho rằng hàm lượng H2S nhỏ hơn 0,1 mg/L (tùy thuộc pH) sẽ tối ưu cho sự sinh trưởng của tôm sú
Nhóm khoáng chất, kim loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật
5.3.1 Độ cứng tổng, độ cứng canxi và độ cứng magie
Độ cứng tổng của nước, theo Wyk và Scarpa (1999), là phép đo tất cả các cation hóa trị +2, trong đó ion Mg 2+ và Ca 2+ chiếm ưu thế Hai ion này được tôm hấp thụ qua mang, do đó không chỉ quan trọng trong việc đánh giá chất lượng nước mà còn đóng vai trò dinh dưỡng thiết yếu cho tôm nuôi.
Theo nghiên cứu của Venkateswaran và cộng sự (2019), nồng độ tối ưu cho sự phát triển của tôm chân trắng là độ cứng tổng 1.000 mgCaCO3/L, độ cứng canxi 150 mgCaCO3/L và độ cứng magie 450 mgCaCO3/L Những giá trị này cũng phù hợp với tỷ lệ Mg:Ca = 3:1 được công bố bởi Samocha (2019).
Để xây dựng tiêu chuẩn TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ, cần đề xuất chỉ số phù hợp cho độ cứng canxi là 150 mgCaCO3/L và độ cứng magie là 450 mgCaCO3/L Tần suất quan trắc chất lượng nước sẽ phụ thuộc vào mật độ tôm nuôi và quy trình thay nước.
5.3.2 Một số kim loại nặng
Ô nhiễm kim loại nặng chủ yếu do các hoạt động của con người như khai thác, chế biến quặng, lò luyện, công nghiệp mạ, thuộc da và dệt may (Zweig và ctv., 1999) đã trở thành vấn đề nghiêm trọng Tình trạng ô nhiễm này trong môi trường nước ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, gây ra những tác động độc hại và khả năng tích tụ sinh học, từ đó giảm chất lượng sản phẩm và tạo ra nguy cơ cho sức khỏe cộng đồng.
Theo Wyk và Scarpa (1999) đã xác định các giới hạn cho một số kim loại nặng trong tụm nuụi, bao gồm: sắt tổng ≤ 1 mg/L, cadimi ≤ 10 àg/L, crom ≤ 100 àg/L, đồng ≤ 25 àg/L, chì ≤ 100 àg/L, thủy ngân ≤ 0,1 àg/L và kẽm ≤ 100 àg/L Những ngưỡng giá trị này sẽ được áp dụng vào tiêu chuẩn TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ.
5.3.3 Thuốc bảo vệ thực vật
Thuốc bảo vệ thực vật, theo Svobodova và cộng sự (1993), là các hóa chất được sử dụng để kiểm soát sinh vật mang mầm bệnh không mong muốn, bao gồm thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm và rotenone Những hóa chất này rất độc hại và có tính dai dẳng, gây ra mối quan tâm lớn trong nuôi trồng thủy sản Chúng có thể ảnh hưởng đến chất lượng nuôi trồng, sản phẩm thủy sản, đối tượng nuôi và sức khỏe con người.
Theo Philminaq (2014), thuốc trừ sâu chlo hữu cơ được chú ý đặc biệt do tính bền và khả năng tích lũy sinh học Trong số đó, 7 hợp chất đã được công bố ngưỡng an toàn cho sinh vật thủy sản, bao gồm: Aldrin/Dieldrin 0,003 àg/L; BHC 4 àg/L; Chlordane 0,01 àg/L; DDT 0,001 àg/L; Endrin 0,004 àg/L; Heptachlor 0,001 àg/L; và Toxaphene 0,005 àg/L (USEPA, 1993) Các ngưỡng giá trị này sẽ được áp dụng vào tiêu chuẩn TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ.
Nhóm vi sinh
Mật độ Vibrio tổng trong ao nuôi có thể gia tăng do nhiều yếu tố như tần suất thay nước thấp, việc sử dụng phân hữu cơ và vô cơ, mật độ nuôi trồng cao, thức ăn thừa, lượng phân thải lớn, cùng với sự phát triển của tảo Những yếu tố này ảnh hưởng đáng kể đến môi trường sống trong ao nuôi (Moriarty 1997; Lloberra và ctv 1991).
Nghiên cứu năm 2017 cho thấy mẫu nước từ các ao nuôi ở Bạc Liêu có mật độ Vibrio tổng số trung bình đạt 10^3 CFU/mL Mật độ Vibrio bắt đầu gia tăng từ tuần nuôi thứ 3 nhưng không vượt quá 10^4 CFU/mL Đặc biệt, một số ao ghi nhận hiện tượng Vibrio tăng cao vào tuần thứ 3 và thứ 4.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ Vibrio > 10^4 CFU/mL có liên quan đến các vấn đề nghiêm trọng về gan tụy tôm, trong khi mức tối ưu cho tổng số Vibrio trong nước ao nuôi tôm nên duy trì dưới 10^3 CFU/mL (Ganesh và ctv 2010; Carbajal-Hernández và ctv 2012) Theo các tài liệu tham khảo, ngưỡng giá trị Vibrio tổng được khuyến nghị là nhỏ hơn 10^3 CFU/mL, phù hợp với TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ, và cần thực hiện quan trắc ít nhất 1 lần mỗi tuần.
Bệnh hoại tử gan tụy cấp (AHPND), hay còn gọi là hội chứng chết sớm (EMS), trên tôm sú và tôm chân trắng được gây ra bởi vi khuẩn mang Plasmid chứa gen Toxin Nghiên cứu của Đặng Thị Lụa và cộng sự (2016) xác định có ít nhất 3 chủng vi khuẩn gây bệnh AHPND tại Việt Nam, bao gồm hai chủng Vibrio parahaemolyticus (V parahaemolyticus KC12.020 và V parahaemolyticus KC13.14.2) cùng một chủng non-Vibrio parahaemolyticus (V harveyi KC13.17.5) Nghiên cứu này cũng được hỗ trợ bởi kết quả từ Nguyễn Trọng Nghĩa và cộng sự.
(2015) cũng cho thấy Vibrio parahaemolyticus có khả năng gây hoại tử gan tụy trên tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) khỏe Do đó việc loại bỏ hoàn toàn
V.parahaemolyticus trong nước ao nuôi tôm là rất cần thiết và bắt buộc Đề nghị giá trị áp dụng vào TCVN về chất lượng nước nuôi thâm canh tôm nước lợ đối với V parahaemolyticus là 0 CFU/mL Tần suất quan trắc ít nhất 1 lần/tuần.