1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

THÔNG DIỄN HỌC TRONG LÝ LUẬN PHÊ BÌNH KIẾN TRÚC TẠI VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC

43 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 43
Dung lượng 404,35 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (7)
  • 2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài…3 3. Mục tiêu nghiên cứu (9)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu (12)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (12)
    • 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài (13)
      • 1.1.1. Lý luận, phê bình kiến trúc (13)
        • 1.1.1.1. Khái niệm về Lý luận, phê bình kiến trúc (13)
        • 1.1.1.2. Vai trò của Lý luận, phê bình kiến trúc (15)
      • 1.1.2. Thông Diễn Học (16)
        • 1.1.2.1. Khái niệm về Thông Diễn Học (16)
        • 1.1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Thông Diễn Học (16)
    • 1.2. Tổng quan tình hình Lý luận, phê bình kiến trúc hiện nay và biểu hiện của Thông Diễn Học trong Lý luận, phê bình kiến trúc (22)
      • 1.2.1. Sơ lược tình hình Lý luận, phê bình kiến trúc trên Thế giới và biểu hiện của Thông Diễn Học (0)
  • CHƯƠNG II: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THÔNG DIỄN HỌC (13)
  • CHƯƠNG III: HƯỚNG ÁP DỤNG CỦA THÔNG DIỄN HỌC (26)
    • 3.1. Đề xuất bộ khung nghiên cứu Thông Diễn trong lý luận, phê bình kiến trúc (28)
    • 3.2. Thông Diễn Học trong Lý luận phê bình kiến trúc Việt Nam (31)
    • 2. Kiến nghị (34)

Nội dung

Việc phân tích và chỉ ra quy luật của sự vận động để từ đó giúp người thiết kế đổi mới ý thức, hỗ trợ công tác sáng tạo, đồng thời tạo cầu nối giữa người thiết kế với công chúng mà lý lu

Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài…3 3 Mục tiêu nghiên cứu

Nhà lý luận và phê bình kiến trúc Charles Jencks đã giới thiệu một quan điểm mới về kiến trúc trong cuốn sách nổi tiếng "The Language of Post-Modern Architecture", xuất bản năm 1977 Ông xem kiến trúc như một ngôn ngữ phản ánh sự đa dạng và phức tạp của xã hội đương đại, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của ngữ nghĩa và biểu tượng trong thiết kế kiến trúc.

Ông nhấn mạnh rằng kiến trúc không chỉ là một hình thức nghệ thuật mà còn là một phương tiện giao tiếp đa nghĩa, phản ánh các khía cạnh văn hóa và xã hội Hướng tiếp cận này từ phê bình văn học giúp làm nổi bật tính giao tiếp trong kiến trúc, cho thấy sự liên kết giữa ngôn ngữ và không gian.

Triết gia Martin Heidegger trong luận văn “Xây, Ở, Suy tư” năm 1953 đã khẳng định rằng kiến trúc không chỉ là chốn “cư trú” mà còn là nơi con người thể hiện sự tồn tại của mình Qua đó, kiến trúc trở thành cầu nối giúp con người giao tiếp với môi trường xung quanh, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xây dựng Nghiên cứu này mở ra hướng đi mới trong việc hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa con người và không gian sống.

Ông nhấn mạnh với các kiến trúc sư rằng môi trường xây dựng không chỉ là "nơi chốn" mà còn có khả năng tác động đến trải nghiệm và cảm xúc của người cư trú thông qua kinh nghiệm thực tiễn.

Trong cuốn “Genius Loci” (Tinh thần nơi chốn) của Norberg-Schulz, xuất bản năm 1979, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của bối cảnh địa lý, xã hội và văn hóa trong việc hình thành “Tinh thần nơi chốn” Theo ông, những yếu tố này, cùng với các hoạt động con người và ý niệm về nơi đó, ảnh hưởng đến ký ức và cảm xúc của con người theo thời gian Norberg-Schulz phân tích cấu trúc và đặc điểm của nơi chốn thông qua ba yếu tố chính: Bầu trời, mặt đất và trường nhìn Ông cũng khẳng định rằng kiến trúc sư không chỉ cần chú ý đến các khía cạnh thực tế như hình thức và kỹ thuật xây dựng, mà còn phải có trách nhiệm diễn giải tinh thần nơi chốn của địa điểm được chọn.

Trong nghiên cứu kiến trúc tại Việt Nam, có nhiều công trình đáng chú ý như "Đọc và hiểu kiến trúc" của PGS.TS.KTS Doãn Minh Khôi và các luận văn như "Tìm hiểu tính ký hiệu của kiến trúc thông qua hai nền kiến trúc dân gian Êđê và Bana" của Nguyễn Thị Kim Tú (1998), "Mã dân gian trong nhà ở đô thị hiện nay" của Lê Thị Thu Hương (2001), "Tính biểu tượng trong kiến trúc chùa miếu Hoa TPHCM" của Lê Nguyên Hùng (2007), và "Ký hiệu học trong phân tích kiến trúc" của Nguyễn Thị Thanh Thảo (2014) Các công trình này đều xem xét kiến trúc như một ký hiệu, cho phép giải mã các thuộc tính văn hóa và lịch sử của khu vực xây dựng Mặc dù nhiều nghiên cứu đã tiếp cận kiến trúc từ góc độ Ký Hiệu Học và các khía cạnh ngôn ngữ như tính biểu tượng và ẩn dụ, nhưng chưa có công trình nào đề xuất hướng tiếp cận kiến trúc bằng Thông Diễn Học.

Tìm hiểu khả năng ứng dụng lý thuyết Thông Diễn Học trong lý luận phê bình, phân tích diễn giải kiến trúc

- Xác định cơ sở khoa học của Thông Diễn Học để phân tích, đánh giá, diễn giải kiến trúc

- Đề xuất hướng áp dụng của Thông Diễn Học trong lý luận, phê bình kiến trúc Việt Nam thông qua bộ khung nghiên cứu, liên hệ

6 đánh giá tổng quan nền LL, PBKT Việt Nam, cụ thể hóa vào phân tích diễn giải kiến trúc Dinh Độc Lập, Thành phố Hồ Chí Minh.

Phương pháp nghiên cứu

Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1 Lý luận, phê bình kiến trúc

1.1.1.1 Khái niệm về Lý luận, phê bình kiến trúc

Từ điển tiếng Việt năm 1988 có giải nghĩa:

 Hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn;

 Những kiến thức khái quát hóa và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nhất định

 Xem xét, phân tích, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm;

 Nêu lên khuyết điểm để góp ý kiến, để chê trách;

 Nhận xét và đánh giá, làm công việc phê bình đối với một tác phẩm [31]

Từ “Lý luận” xuất hiện ở nước ta vốn là từ Hán Việt gốc Nhật, được Người Nhật dùng để dịch từ “Theory” trong tiếng Anh với ý nghĩa “Lý

Hệ thống lý luận trong kiến trúc được định nghĩa là tập hợp tri thức và nguyên lý được xây dựng dựa trên thực tiễn phong phú và đa dạng Trung Quốc và Việt Nam đã thống nhất sử dụng cách dịch này trong ngôn ngữ của mình Lý thuyết và quan điểm về các vấn đề nền tảng không chỉ phục vụ cho hoạt động sáng tác, phê bình mà còn định hướng cho các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực kiến trúc Qua việc tranh luận và giải thích các lý thuyết kiến trúc, lý luận giúp hình thành nhận thức và quan điểm chỉ đạo trong nghiên cứu và thiết kế.

Từ “Phê bình” có nguyên gốc trong tiếng Hy Lạp là “Kritikos” (Tiếng Latin: Criticus, tiếng Pháp: Critique, tiếng Anh: Critic ), có nghĩa là

Nghệ thuật phân định và phán xét đã phát triển hơn 2000 năm tại phương Tây, bắt đầu từ thời Hy Lạp, và trở thành một lĩnh vực độc lập trong hoạt động nghệ thuật Phê bình kiến trúc không chỉ phản ánh quan điểm đa chiều của xã hội về các công trình kiến trúc, kiến trúc sư và nền kiến trúc, mà còn giúp phân tích và nhận định về tính đúng sai, hay dở của các tác phẩm Khác với những ý kiến khen chê thông thường, phê bình kiến trúc chuyên nghiệp dựa trên hệ thống lý luận rõ ràng, đã được chứng minh và công nhận bởi cộng đồng chuyên môn.

Theo Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Anh từ Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Thái Nguyên, ngôn ngữ Việt Nam không có khái niệm ghép "Lý luận phê bình" kiến trúc, điều này cho thấy sự đặc thù trong cách tiếp cận và nghiên cứu về lý luận phê bình trong lĩnh vực kiến trúc tại Việt Nam.

Hoạt động nghiên cứu kiến trúc ở Việt Nam chủ yếu không mang tính lý thuyết thuần túy, mà thường gắn liền với hoạt động phê bình Lý thuyết kiến trúc tại đây chủ yếu là việc giới thiệu và áp dụng lý thuyết từ nước ngoài, được chứng minh qua sự tham gia tích cực của đời sống phê bình Do đó, khái niệm “lý luận phê bình kiến trúc” thực chất là sự kết hợp giữa lý luận kiến trúc và phê bình kiến trúc, nên nên gọi hoạt động này là “Lý luận và phê bình kiến trúc” (LL, PBKT).

1.1.1.2 Vai trò của Lý luận, phê bình kiến trúc

Nhà lý luận và phê bình kết hợp kiến thức lý thuyết với thực tiễn để đưa ra đánh giá chuyên môn qua các sản phẩm chính thống như sách, báo, tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu, luận văn và luận án Tác động của các sản phẩm lý luận này sẽ ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau.

3 – Nghiên cứu và Giáo dục

Như vậy, chú trọng công tác LL, PBKT chính là tiền đề cho một nền kiến trúc ngày càng phát triển, có tinh hoa và đậm đà bản sắc

1.1.2.1 Khái niệm về Thông Diễn Học

Thông Diễn học, hay Hermeneutics trong tiếng Anh, là một lĩnh vực nghiên cứu và lý thuyết về quá trình diễn giải Đối tượng nghiên cứu của Thông Diễn học bao gồm các văn bản (cả viết và nói), hành động của con người, cùng với các tác phẩm bán ngôn ngữ như kiến trúc và nghệ thuật Ý nghĩa của “Thông diễn” phản ánh sự sâu sắc trong việc hiểu và giải thích các hiện tượng văn hóa và xã hội.

 Nói, diễn tả (để có thể hiểu và được hiểu);

 Giải thích, giải nghĩa (khi có trường hợp cần thiết trao đổi thông tin);

 Thông dịch, chuyển nghĩa (để có thể diễn tả được cùng một ý nghĩa trong điều kiện văn hóa, xã hội, ngôn ngữ khác biệt [6]

Thông Diễn Học bắt nguồn từ lý thuyết và phương pháp giải thích các văn bản Thánh Kinh, sau đó phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XIX và trở thành một nền triết học, lý thuyết tổng quát về quá trình đạt được sự hiểu biết đúng đắn và trọn vẹn đối với các đối tượng ngôn ngữ và bán ngôn ngữ.

1.1.2.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu Thông Diễn Học trong

Lý luận, phê bình kiến trúc

Kiến trúc gắn liền với ngôn ngữ, và để đánh giá khả năng sử dụng ngôn ngữ của con người, cần phải liên hệ với khoa học Thông Diễn Đây là bộ môn nghiên cứu các vấn đề diễn giải nhằm hiểu các phát biểu bằng văn bản, bao gồm cả viết và nói, cũng như hành động của con người.

11 người cũng như các tạo tác bán ngôn ngữ như công trình kiến trúc, nghệ thuật)[6][37][52][55]

Đối với các công trình có giá trị lịch sử, việc "hiểu" ý nghĩa của chúng là rất quan trọng, vì điều này giúp ta nhận thức được văn hóa, xã hội và tinh thần của thời đại Từ đó, chúng ta có thể tìm ra những phương pháp phù hợp để truyền tải các giá trị này vào trong công trình.

Đối với các công trình hiện tại, việc "hiểu" là yếu tố quan trọng để đưa ra những đánh giá và nhận định chính xác, từ đó điều chỉnh định hướng lý luận thiết kế và hành nghề một cách hiệu quả.

Hiểu biết về địa phương giúp kiến trúc sư thiết kế các công trình phù hợp với từng khu vực, mang đậm bản sắc văn hóa và tránh những thiết kế chung chung, đại đồng.

Việc nâng cao nhận thức về kiến trúc cho các đối tượng liên quan như người sử dụng, nhà đầu tư, công chúng và nhà lập pháp sẽ tạo ra môi trường xây dựng thuận lợi, từ đó thúc đẩy sự phát triển và bản sắc của nền kiến trúc Việt Nam.

Thứ hai , các hoạt động chính của Kiến trúc trong mảng LL, PB được thể hiện thông qua các hoạt động Thông Diễn Học, bao gồm:

1- Nói, diễn tả (để có thể hiểu và được hiểu): là hoạt động không thể thiếu trong Kiến trúc Kiến trúc sư nói để người thụ hưởng và nhà LL, PB có thể hiểu được giá trị, ý nghĩa mà họ muốn truyền tải Nhà LL, PBKT nói bằng sản phẩm LL, PB để truyền đạt thông tin đến kiến trúc sư và công chúng [3] 2- Giải thích, giải nghĩa: Khi có trường hợp cần thiết người phát biểu cần phải giải thích, giải nghĩa để thông tin có thể được trao đổi tốt hơn, đặc biệt là trong điều kiện khác biệt về ngôn

12 ngữ, văn hóa, xã hội,… Phương tiện mà nhà LL, PBKT sử dụng chính là các sản phẩm LL, PBKT.[6]

3- Thông dịch, chuyển nghĩa: Kiến trúc thuộc về ngôn ngữ, phải gắn liền với đặc điểm nơi nó được sinh ra (cuộc sống con người, văn hóa, lịch sử, chính trị, tự nhiên…) Vì thế nên việc mang các kiến trúc vốn được sinh ra ở một không gian và thời gian xác định đến áp dụng cho một nơi khác nhất thiết phải có quá trình “chuyển ngữ” nhằm khiến cho kiến trúc phù hợp với môi trường và con người của nơi được mang đến LL, PBKT nước ta đã không ít lần phản ảnh về tình trạng Kiến trúc “nhại cổ”, “nhái” cổ điển phương Tây - xa rời và thiếu kết nối với thời đại, điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội bản địa trong môi trường xây dựng

Thông qua các hoạt động Thông Diễn Học, sự hợp tác giữa các nhà hoạt động chuyên môn được củng cố, giúp LL và PB hình thành yêu cầu và bộ tiêu chí riêng Kiến trúc sư Jean Nouvel đã nhấn mạnh rằng kiến trúc là sự truyền tải nhiều giá trị văn hóa trong một công trình, phản ánh nền văn minh nơi nó tồn tại Kiến trúc có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường tự nhiên và xã hội, luôn tìm cách thích nghi với điều kiện địa lý, khí hậu và lối sống của con người Là sự kết hợp giữa kỹ thuật và nghệ thuật, kiến trúc không ngừng biến đổi để đáp ứng nhu cầu mới, đồng thời thể hiện tính địa phương.

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ THÔNG DIỄN HỌC

1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1 Lý luận, phê bình kiến trúc

1.1.1.1 Khái niệm về Lý luận, phê bình kiến trúc

Từ điển tiếng Việt năm 1988 có giải nghĩa:

 Hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn;

 Những kiến thức khái quát hóa và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nhất định

 Xem xét, phân tích, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm;

 Nêu lên khuyết điểm để góp ý kiến, để chê trách;

 Nhận xét và đánh giá, làm công việc phê bình đối với một tác phẩm [31]

Từ “Lý luận” xuất hiện ở nước ta vốn là từ Hán Việt gốc Nhật, được Người Nhật dùng để dịch từ “Theory” trong tiếng Anh với ý nghĩa “Lý

Luận là hệ thống tri thức và nguyên lý được hình thành từ thực tế phong phú và đa dạng trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam đã đồng thuận với cách dịch này và áp dụng trong ngôn ngữ của mình Hệ thống lý thuyết và quan điểm về các vấn đề nền tảng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tác, phê bình và lý luận, định hướng cho chuyên môn trong kiến trúc Thông qua việc tranh luận và giải thích các lý thuyết kiến trúc, lý luận giúp đạt được nhận thức sâu sắc và hình thành các quan điểm chỉ đạo trong nghiên cứu và thiết kế.

Từ “Phê bình” có nguyên gốc trong tiếng Hy Lạp là “Kritikos” (Tiếng Latin: Criticus, tiếng Pháp: Critique, tiếng Anh: Critic ), có nghĩa là

Phê bình kiến trúc, với lịch sử phát triển hơn 2000 năm từ thời Hy Lạp, đã trở thành một lĩnh vực độc lập và chủ đạo trong hoạt động nghệ thuật phương Tây Nó phản ánh quan điểm đa chiều của xã hội về công trình kiến trúc, kiến trúc sư và nền kiến trúc nói chung Thông qua phê bình, những giá trị đúng sai, hay dở của tác phẩm kiến trúc được phân tích và đánh giá một cách có hệ thống Khác với những nhận xét thông thường, phê bình kiến trúc chuyên nghiệp dựa trên lý luận rõ ràng, được chứng minh và công nhận bởi cộng đồng chuyên môn.

Theo Tiến sĩ Trần Thị Ngọc Anh từ Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Thái Nguyên, ngôn ngữ Việt Nam không có khái niệm ghép "Lý luận phê bình" trong lĩnh vực kiến trúc.

Hoạt động nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu không mang tính lý thuyết thuần túy, mà lý thuyết thường được thể hiện qua phê bình Lý luận kiến trúc tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc giới thiệu và áp dụng lý thuyết kiến trúc từ nước ngoài, được chứng minh qua các hoạt động phê bình tích cực Do đó, cụm từ “lý luận phê bình kiến trúc” thực chất là sự kết hợp của lý luận và phê bình kiến trúc Vì vậy, nên gọi hoạt động này một cách chính xác là “Lý luận và phê bình kiến trúc” (LL, PBKT).

1.1.1.2 Vai trò của Lý luận, phê bình kiến trúc

Nhà lý luận và phê bình kết hợp vốn kiến thức lý luận với thực tiễn để đưa ra đánh giá chuyên môn qua các sản phẩm chính thống như sách, báo, tạp chí khoa học, đề tài nghiên cứu, luận văn và luận án Tác động của các sản phẩm lý luận này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều lĩnh vực khác nhau.

3 – Nghiên cứu và Giáo dục

Như vậy, chú trọng công tác LL, PBKT chính là tiền đề cho một nền kiến trúc ngày càng phát triển, có tinh hoa và đậm đà bản sắc

1.1.2.1 Khái niệm về Thông Diễn Học

Thông Diễn học (Hermeneutics) là khoa học nghiên cứu tiến trình diễn giải, bao gồm việc phân tích các văn bản (cả viết và nói), hành động con người, và các tác phẩm bán ngôn ngữ như kiến trúc và nghệ thuật Ý nghĩa của "Thông diễn" thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về các thông điệp và giá trị trong các hình thức giao tiếp khác nhau.

 Nói, diễn tả (để có thể hiểu và được hiểu);

 Giải thích, giải nghĩa (khi có trường hợp cần thiết trao đổi thông tin);

 Thông dịch, chuyển nghĩa (để có thể diễn tả được cùng một ý nghĩa trong điều kiện văn hóa, xã hội, ngôn ngữ khác biệt [6]

Thông Diễn Học bắt nguồn từ lý thuyết và phương pháp giải thích các văn bản Thánh Kinh, sau đó phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XIX, trở thành một nền triết học và lý thuyết tổng quát về quá trình đạt được sự hiểu biết đúng đắn và trọn vẹn đối với các đối tượng thuộc ngôn ngữ và bán ngôn ngữ.

1.1.2.2 Ý nghĩa của việc nghiên cứu Thông Diễn Học trong

Lý luận, phê bình kiến trúc

Kiến trúc có mối liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ, và để đánh giá khả năng sử dụng ngôn ngữ của con người, cần phải tham khảo khoa học Thông Diễn Khoa học này tập trung vào việc giải thích và hiểu các phát biểu, cả bằng văn bản lẫn hành động.

11 người cũng như các tạo tác bán ngôn ngữ như công trình kiến trúc, nghệ thuật)[6][37][52][55]

Đối với các công trình có giá trị lịch sử, việc "hiểu" ý nghĩa của chúng là rất quan trọng, vì điều này giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về văn hóa, xã hội và tinh thần của thời đại đó Từ đó, chúng ta có thể tìm ra những phương pháp phù hợp để chuyển tải và bảo tồn các giá trị văn hóa vào trong công trình.

Đối với các công trình hiện tại, việc "hiểu" là cần thiết để đưa ra những đánh giá và nhận định chính xác, từ đó điều chỉnh định hướng lý luận thiết kế và hành nghề một cách hiệu quả.

Hiểu biết giúp kiến trúc sư thiết kế các công trình phù hợp với từng khu vực, mang đậm tính địa phương và bản sắc riêng, đồng thời tránh việc tạo ra các thiết kế đại trà và chung chung.

Việc nâng cao nhận thức về kiến trúc cho các đối tượng liên quan như người sử dụng, nhà đầu tư, công chúng và nhà lập pháp sẽ tạo ra môi trường xây dựng thuận lợi, góp phần thúc đẩy sự phát triển và bản sắc của nền kiến trúc Việt Nam.

Thứ hai , các hoạt động chính của Kiến trúc trong mảng LL, PB được thể hiện thông qua các hoạt động Thông Diễn Học, bao gồm:

Nói và diễn tả là hoạt động thiết yếu trong lĩnh vực Kiến trúc, giúp kiến trúc sư truyền đạt giá trị và ý nghĩa dự án đến người thụ hưởng cũng như các nhà đầu tư và phát triển Ngược lại, các nhà đầu tư và phát triển cũng sử dụng sản phẩm của mình để truyền tải thông tin tới kiến trúc sư và công chúng Để đảm bảo thông tin được trao đổi hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh có sự khác biệt về ngôn ngữ, việc giải thích và giải nghĩa là điều cần thiết.

12 ngữ, văn hóa, xã hội,… Phương tiện mà nhà LL, PBKT sử dụng chính là các sản phẩm LL, PBKT.[6]

Kiến trúc không chỉ đơn thuần là hình thức, mà còn phải phản ánh đặc điểm văn hóa, lịch sử và tự nhiên của nơi nó xuất hiện Việc áp dụng các kiến trúc từ không gian và thời gian khác đòi hỏi một quá trình "chuyển ngữ" để đảm bảo sự phù hợp với môi trường và con người địa phương Thực tế, nhiều công trình kiến trúc ở Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình trạng "nhại cổ" hoặc "nhái" phong cách cổ điển phương Tây, dẫn đến sự thiếu kết nối với thời đại và bản sắc văn hóa địa phương.

Thông qua các hoạt động Thông Diễn Học, các nhà hoạt động chuyên môn được hỗ trợ trong việc phát triển yêu cầu và tiêu chí riêng cho LL, PB Kiến trúc sư Jean Nouvel đã khẳng định rằng kiến trúc là sự truyền tải nhiều giá trị văn hóa trong một công trình, phản ánh nền văn minh mà nó hiện hữu Kiến trúc không chỉ gắn liền với môi trường tự nhiên và xã hội mà còn phải thích nghi với điều kiện địa phương, khí hậu và lối sống của con người Sự kết hợp giữa kỹ thuật và nghệ thuật trong kiến trúc khiến nó luôn biến đổi để đáp ứng nhu cầu mới, đồng thời thể hiện tính địa phương rõ nét.

HƯỚNG ÁP DỤNG CỦA THÔNG DIỄN HỌC

Đề xuất bộ khung nghiên cứu Thông Diễn trong lý luận, phê bình kiến trúc

Dựa trên các nền tảng Thông Diễn Học trong kiến trúc đã nêu, luận văn này sẽ đề xuất một bộ khung ba bước nhằm phục vụ cho quá trình phân tích và diễn giải kiến trúc hiệu quả.

Bước đầu tiên trong việc phân tích bối cảnh kiến trúc là xem xét hai đối tượng chính: kiến trúc sư (tác giả) và công trình (tác phẩm) Cả hai đều cần được hiểu rõ trong bối cảnh của mình, không chỉ từ ý tưởng mà kiến trúc sư gán cho công trình, mà còn từ những tác động của các lực môi trường và sức ép mà họ phải đối mặt Để đạt được sự thấu hiểu sâu sắc về bản chất của công trình, người diễn giải cần nhìn thấu những yếu tố ẩn giấu dưới lớp màn của các “lực”, từ đó nhận thức rõ mối quan hệ giữa “quyền lực” và “ý nghĩa” Bối cảnh ảnh hưởng đến sáng tác của kiến trúc sư bao gồm các yếu tố tâm lý, tư tưởng, di truyền, môi trường sống, giáo dục và giao tiếp Đối với công trình, bối cảnh ra đời sẽ định hình cả hình thức lẫn ý nghĩa kiến trúc, bao gồm các yếu tố thời gian và không gian như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật.

Bước thứ hai trong quá trình phân tích là phân tích vĩ mô, tập trung vào việc xem xét môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo ở cấp độ đô thị, tức là những yếu tố bên ngoài công trình.

Môi trường tự nhiên và nhân tạo đều chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bầu trời, mặt đất và trường nhìn, tạo ra những "bầu không khí" và tinh thần khác nhau cho mỗi không gian Trong môi trường tự nhiên, khí hậu, ánh sáng và nhiệt độ kết hợp với địa hình và cấu trúc đất quyết định cách con người tương tác với thiên nhiên Đối với môi trường đô thị, các yếu tố này cũng được áp dụng, với bầu trời kết hợp cùng cảnh quan tự nhiên, trong khi mặt đất trong đô thị bị ảnh hưởng bởi cấu trúc tự nhiên, từ đó quy định phương hướng và hệ thống giao thông Cấu trúc đô thị được hình thành từ các thành phần như “nút”, “lưu tuyến”, “cạnh biên”, “cột mốc” và “khu vực” theo Kevin Lynch, hay “quảng trường” và “đường phố” theo Norberg-Schulz, tạo nên một cơ cấu đô thị hoàn chỉnh.

Norberg-Schulz đề xuất ba bước cơ bản để sắp xếp bố cục môi cảnh nhân tạo nhằm thể hiện tinh thần nơi chốn: bước 1 - Hiển thị, bước 2 - Bổ sung, và bước 3 - Tượng trưng Trong quá trình phân tích, người diễn giải cần chú ý đến mức độ mà môi cảnh có thể hiện được tinh thần nơi chốn, cũng như khả năng giúp con người thực hiện chức năng tâm lý “định vị” và “nhận dạng” bản thân.

Bước thứ ba trong phân tích vi mô là đánh giá mối quan hệ của công trình kiến trúc với môi trường xung quanh, nhằm xác định xem nó có phản ánh tinh thần của địa điểm hay không Việc xem xét mối liên kết giữa con người, công trình và môi trường tự nhiên là rất quan trọng để tạo ra sự kết nối bền vững Mối quan hệ hình thức giữa công trình và đô thị xung quanh bao gồm các yếu tố như khớp nối mặt tiền, thể tích không gian và sự tương tác với cảnh quan thiên nhiên Các yếu tố như bầu trời, mặt đất và trường nhìn cũng cần được xem xét trong thiết kế Hai nhà lý luận kiến trúc nổi tiếng, Thomas Thiis-Evensen và Christopher Alexander, đã nghiên cứu để giúp hiểu rõ hơn về ngữ nghĩa của các thành phần kiến trúc Các yếu tố như trần, sàn, tường và cửa được đánh giá dựa trên mối quan hệ giữa hình thức, chức năng và ý nghĩa, theo các tiêu chí chuyển động, trọng lượng và chất liệu mà Thiis-Evensen đã đề cập trong tác phẩm của mình.

Ngôn ngữ kiểu mẫu (Tiếng Anh: A Pattern Language) Christopher

Alexander và các cộng sự đã phát triển 253 kiểu mẫu nhằm hỗ trợ người diễn giải, kiến trúc sư và cả những người dân thường trong việc hiểu và sáng tác, thông qua việc nắm bắt cấu trúc của các thành phần.

Thông Diễn Học trong Lý luận phê bình kiến trúc Việt Nam

Cho tới nay, việc phân tích, đọc hiểu kiến trúc trong Lý luận, phê bình kiến trúc tại Việt Nam có các hướng như tiếp cận:

- Từ bối cảnh, ý tưởng sáng tác của tác giả

- Từ bối cảnh của công trình

- Từ môi trường tự nhiên

Nghiên cứu lý luận phê bình kiến trúc tại Việt Nam thường chỉ tập trung vào một hoặc hai hướng tiếp cận, trong khi các phương pháp phân tích khác trong khung Thông Diễn Học kiến trúc thường bị bỏ qua Việc tìm kiếm các công trình nghiên cứu thực hiện đầy đủ ba bước phân tích (bối cảnh, vi mô, vĩ mô) theo khung này là rất hiếm Gần đây, dưới tác động của xu hướng lý luận phê bình toàn cầu, các nghiên cứu trong nước đã chuyển hướng chú trọng đến tính khu vực và bản địa, với nhiều công trình tập trung vào mối liên hệ giữa thiết kế kiến trúc, con người và môi trường Một số tác phẩm đáng chú ý bao gồm "Đọc và hiểu kiến trúc" của PGS.TS.KTS Doãn Minh Khôi và "Từ Ngôn ngữ học hiện đại đến Kiến trúc học hiện đại" của PGS.TS.KTS Đặng Thái Hoàng Ngoài ra, các luận văn như "Tìm hiểu tính ký hiệu của kiến trúc thông qua hai nền kiến trúc dân gian Êđê và Bana" của Nguyễn Thị Kim Tú cũng góp phần vào lĩnh vực này.

Lê Thị Thu Hương; Luận án tiến sĩ Đặc trưng khai thác văn hóa truyền

27 thống trong kiến trúc nhà ở tại các đô thị lớn Việt Nam - Nguyễn Song

Công tác lý luận phê bình kiến trúc cần chú trọng đến Thông Diễn Học, vì nếu coi kiến trúc là văn bản thuộc về ngôn ngữ, thì Thông Diễn Học - công cụ hiệu quả để diễn giải văn bản - hoàn toàn có thể áp dụng để giải mã kiến trúc.

Thông Diễn Học là một công cụ quan trọng trong việc lý luận và phê bình kiến trúc, giúp giải đáp những câu hỏi về "bàn sắc kiến trúc" đang được quan tâm tại Việt Nam Phân tích tình hình lý luận và phê bình kiến trúc trên thế giới và trong nước cho thấy vai trò của Thông Diễn Học ngày càng trở nên cần thiết trong bối cảnh hiện tại.

Trong Thông Diễn Học kiến trúc, việc tạo ra liên kết với môi trường và giúp con người nhận diện bản thân là rất quan trọng Bài viết tổng hợp các nghiên cứu toàn cầu về Thông Diễn Học kiến trúc và đề xuất một bộ khung áp dụng vào lý luận và phê bình kiến trúc tại Việt Nam Mục tiêu là cung cấp một công cụ lý luận để đọc hiểu kiến trúc một cách khách quan và khoa học hơn, đồng thời đáp ứng yêu cầu giữa lý luận và phê bình qua các bước phân tích cụ thể.

Kiến nghị

Bởi các lý do được nêu lên xuyên suốt nghiên cứu, kiến trúc sư nói riêng và người diễn giải nói chung khi thực hiện công tác diễn giải,

29 đánh giá, phê bình một công trình kiến trúc sẽ luôn mang theo một

“hành trang văn hóa” thế nên thái độ cần có khi thực hiện tiến trình chính là “khiêm nhường” và “cầu thị”

Kiến trúc, giống như văn bản, phản ánh đặc điểm văn hóa, chính trị và tự nhiên của nơi nó xuất hiện Do đó, việc áp dụng kiến trúc từ một không gian hay thời gian khác vào môi trường mới cần một quá trình "chuyển ngữ" để phù hợp với con người và bối cảnh địa phương Để thực hiện điều này, kiến trúc sư cần nắm vững các nguyên tắc của Thông Diễn Học kiến trúc Việc chú trọng đến Thông Diễn Học trong giáo dục là rất cần thiết, vì lý luận và phê bình kiến trúc đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành Nghiên cứu Thông Diễn Học cần được mở rộng trong lý luận phê bình để ảnh hưởng đến giáo dục, đánh giá và thiết kế, từ đó nâng cao vị thế của kiến trúc sư và phát triển kiến trúc nói chung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trần Thị Ngọc Anh (2014) trong bài viết “Lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn học (những vấn đề khái niệm)” đăng trên Tạp chí Khoa học và Công nghệ số 125/2014, trang 15-19, đã trình bày các khái niệm cơ bản liên quan đến lý luận và phê bình văn học Bài viết phân tích vai trò của diễn ngôn trong việc hình thành và phát triển các quan điểm phê bình, đồng thời nêu rõ tầm quan trọng của lý luận văn học trong việc đánh giá và hiểu biết tác phẩm.

Dinh Độc Lập, biểu tượng lịch sử của Việt Nam, không chỉ là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng mà còn là một kiệt tác kiến trúc Xuân Ba (2015) đã khắc họa rõ nét những câu chuyện xung quanh công trình này, từ quá trình xây dựng đến những dấu ấn văn hóa mà nó để lại Các bài viết trên Tiền Phong cung cấp cái nhìn sâu sắc về kiến trúc và lịch sử của Dinh Độc Lập, giúp người đọc hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa và lịch sử của địa điểm này.

Trong bài viết "Luận bàn về phê bình kiến trúc" của Trần Thanh Bình (2019), tác giả phân tích vai trò và tầm quan trọng của phê bình kiến trúc trong việc đánh giá và phát triển không gian sống Bài viết nhấn mạnh rằng phê bình kiến trúc không chỉ đơn thuần là nhận xét, mà còn là một công cụ để nâng cao chất lượng thiết kế và thúc đẩy sự sáng tạo trong ngành kiến trúc Tác giả cũng đề cập đến những thách thức mà phê bình kiến trúc hiện đại phải đối mặt, đồng thời kêu gọi sự cần thiết phải có một cái nhìn sâu sắc và đa chiều hơn trong việc đánh giá các công trình kiến trúc.

Phạm Phú Cường (2015) trong luận án Tiến sĩ Kiến trúc của mình tại Trường Đại học Kiến trúc TP HCM đã nghiên cứu về việc duy trì và chuyển tải các giá trị kiến trúc đô thị đặc trưng trong bối cảnh phát triển mở rộng khu vực trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn các giá trị văn hóa và kiến trúc trong quá trình đô thị hóa, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho thành phố.

[5] Hồ Sơn Đài (2018), Dinh Độc Lập lịch sử và biến động, NXB Chính trị Quốc Gia Sự Thật, TPHCM

[6] Trần Văn Đoàn (2004), Thông Diễn Học và Khoa Học Xã Hội

Nhân Văn, Viện Triết Học - Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam

Phạm Trường Giang là kiến trúc sư Châu Á duy nhất giành giải Khôi nguyên La Mã, một thành tựu nổi bật trong lĩnh vực kiến trúc Giải thưởng này không chỉ khẳng định tài năng của ông mà còn góp phần nâng cao vị thế của kiến trúc Châu Á trên trường quốc tế Thông qua những thiết kế sáng tạo, ông đã thể hiện sự kết hợp giữa văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên những công trình độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao.

Vũ Thị Hồng Hạnh và Khương Văn Mười (2018) trong tác phẩm “Lý luận và phê bình Kiến trúc trước 1986 tại miền Nam” đã phân tích sâu sắc về sự phát triển của lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam Nghiên cứu này, được xuất bản trong cuốn sách “Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam” của NXB Thanh Niên, trang 93-100, cung cấp cái nhìn tổng quan về bối cảnh kiến trúc miền Nam trước năm 1986, nhấn mạnh những ảnh hưởng văn hóa và xã hội đến sự hình thành các trường phái kiến trúc.

Dinh Độc Lập, một biểu tượng kiến trúc của Việt Nam, được xây dựng với cấu trúc ba gian hai chái, mang trong mình nhiều câu chuyện lịch sử Ngôi nhà không chỉ là nơi ở mà còn là chứng nhân cho nhiều sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước Thiết kế độc đáo cùng với các yếu tố văn hóa truyền thống đã tạo nên sự thu hút đặc biệt cho du khách và những người yêu thích kiến trúc Bài viết của Trần Thị Thu Hằng (2012) khám phá sâu sắc những giá trị văn hóa và lịch sử của Dinh Độc Lập qua lăng kính của kiến trúc.

[10] Lê Thị Hân, Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai Nguyễn Thị Uyên Thi (2012), Tâm lý học đại cương, Đại học Quốc gia TP HCM, TP HCM

[11] De Saussure Ferdinand (2017), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, NXB Khoa học xã hội, TPHCM

Nhà văn phương Tây đã có những quan điểm sâu sắc về phê bình văn học, nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc đánh giá tác phẩm trong bối cảnh văn hóa hiện đại Theo Đào Duy Hiệp (2008), phê bình không chỉ giúp độc giả hiểu rõ hơn về tác phẩm mà còn phản ánh những giá trị xã hội và tư tưởng của thời đại Việc phân tích và đánh giá văn học góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa và khuyến khích sự sáng tạo trong viết lách.

[13] Vũ Hiệp (2018), “Nhận diện các xu hướng sáng tác kiến trúc hiện đại Việt Nam”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.107-120

[14] Nguyễn Đức Hòa, Quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố

Hồ Chí Minh từ những năm 1860 đến năm 2008 và những kết quả tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố,

Viện Nghiên cứu và phát triển TPHCM, TPHCM

Nguyễn Bích Hoàng (2018) trong bài viết “Hướng đi mới cho đào tạo kiến trúc sư chuyên ngành lý luận – phê bình kiến trúc” đã đề xuất những phương pháp đổi mới trong việc giảng dạy lý luận và phê bình kiến trúc tại Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của ngành Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp lý thuyết với thực hành, đồng thời khuyến khích sinh viên phát triển tư duy phản biện và sáng tạo trong lĩnh vực này.

[16] Đặng Thái Hoàng (2002), Các bài nghiên cứu lý luận phê bình dịch thuật Kiến trúc Tập 1, NXB Xây Dựng, Hà Nội

Giáo trình "Lịch sử kiến trúc Thế giới" do Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Thị Ngọc Anh, Nguyễn Trung Dũng, Đặng Liên Phương và Đoàn Trần Trung biên soạn, được xuất bản năm 2006 bởi NXB Xây dựng tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn tổng quát về sự phát triển và biến đổi của kiến trúc qua các thời kỳ lịch sử.

[18] Đặng Thái Hoàng (2016), Những bậc thầy Lý luận và phê bình kiến trúc thời kỳ Sau Hiện Đại, NXB Mỹ thuật, Hà Nội

[19] Đặng Thái Hoàng (2016), Từ Ngôn ngữ học hiện đại đến Kiến trúc học hiện đại-Ký hiệu học kiến trúc, NXB Mỹ thuật, Hà

[20] Đặng Thái Hoàng (2016), Hiện Tượng học kiến trúc, NXB Mỹ thuật, Hà Nội

[21] Đặng Thái Hoàng (2017), Toàn cảnh các trào lưu tư tưởng kiến trúc giai đoạn 1960 – 2010, NXB Mỹ thuật, Hà Nội

Nguyễn Thúc Hoàng (2018) trong bài viết “Phát triển kiến trúc Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ xã hội nhân văn” đã phân tích sự phát triển của kiến trúc Việt Nam hiện đại qua lăng kính nhân văn Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố xã hội và văn hóa trong việc hình thành và phát triển kiến trúc, đồng thời chỉ ra những thách thức mà ngành kiến trúc đang phải đối mặt Bài viết được đăng trong cuốn sách “Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam” do NXB Thanh Niên xuất bản, trang 101-106.

[23] Nguyễn Thượng Hỷ (2018), “Học gì từ kiến trúc truyền thống”,

Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr 383

[24] Doãn Minh Khôi (2016), Đọc và hiểu kiến trúc, NXB Xây

[25] Hoàng Đạo Kính (2017), “Nhìn lại lý luận và phê bình kiến trúc những năm gần đây”, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam số 204/2017, tr 25-28

Trương Ngọc Lân (2018) trong bài viết "Mối quan hệ giữa lý luận và phê bình kiến trúc với thực tiễn hành nghề hiện nay" đã phân tích mối liên hệ giữa lý luận và phê bình kiến trúc với thực tiễn hành nghề tại Việt Nam Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn để nâng cao chất lượng thiết kế và xây dựng Bài viết cũng chỉ ra những thách thức mà các kiến trúc sư gặp phải trong việc kết hợp lý luận vào công việc thực tế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện tình hình này.

[27] Nguyễn Hoàng Liên (2005), Giáo trình nguyên lý thiết kế kiến trúc nội thất, NXB Hà Nội, Hà Nội

[28] Vương Hải Long (2018), “Lý luận phê bình kiến trúc trong đào tạo kiến trúc”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.380

[29] Nguyễn Quang Minh (2018), “Lý luận và phê bình kiến trúc”,

Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.382

[30] Nguyễn Hồng Ngọc (2018), “Phê bình kiến trúc từ những quan điểm nhân văn”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam,

[31] Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội Hà Nội

[32] Bjứrn Ramberg và Kristin Gjesdal (2013), Thụng Diễn Học, Đinh Hồng Phúc dịch, https://phebinhvanhoc.com.vn/thong- dien-hoc/

[33] Souquet Olivier (2018), “Kiến trúc là văn hóa “hóa thạch”!”,

Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.357-359

Tôi không biết!

[35] Vũ Ngọc Thành (2016), Ranh giới hành chính đô thị Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện qua các bản đồ (giai đoạn

1859 – 2005), http://thaolqd.blogspot.com/2016/11/ranh-gioi- hanh-chinh-o-thi-sai-gon.html

[36] Nguyễn Trí Thành (2018), “Lý luận và phê bình hay là lý luận phê bình?”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.40-43

[37] Nguyễn Thị Thanh Thảo (2014), Kí Hiệu Học trong phân tích kiến trúc, Luận văn Thạc sĩ kiến trúc, Trường đại học Kiến trúc

[38] Nguyễn Hữu Thái, Võ Đình Diệp (1998), “Kiến trúc Thành phố

Hồ Chí Minh”, Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh Tập 3: Nghệ thuật, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.469-

Nguyễn Hữu Thái (2011) trong bài viết "30 năm nhìn lại và trông xa" trên Tạp chí Kiến trúc đã tổng kết và đánh giá những biến chuyển trong lĩnh vực kiến trúc trong ba thập kỷ qua Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhìn nhận quá khứ để định hình tương lai, đồng thời kêu gọi sự đổi mới và sáng tạo trong thiết kế kiến trúc Bài viết cũng đề cập đến những thách thức và cơ hội mà ngành kiến trúc phải đối mặt trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại.

[40] Nguyễn Hữu Thái (2016), Từ Dinh Norodom ến Hội trường Thống Nhất, Tuổi Trẻ Online, https://tuoitre.vn/tu-dinh- norodom-den-hoi-truong-thong-nhat-1159306.htm

Ngày đăng: 17/10/2021, 09:56

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Trần Thị Ngọc Anh (2014), “Lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn học (những vấn đề khái niệm)”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Số 125/2014, tr.15-19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn học (những vấn đề khái niệm)”, "Tạp chí Khoa học và Công nghệ Số 125/2014
Tác giả: Trần Thị Ngọc Anh
Năm: 2014
[4] Phạm Phú Cường (2015), Duy trì và chuyển tải các giá trị kiến trúc đô thị đặc trưng trong bối cảnh phát triển mở rộng khu vực trung tâm hiện hữu Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Kiến trúc, Trường đại học Kiến trúc TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Duy trì và chuyển tải các giá trị kiến trúc đô thị đặc trưng trong bối cảnh phát triển mở rộng khu vực trung tâm hiện hữu Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Phạm Phú Cường
Năm: 2015
[5] Hồ Sơn Đài (2018), Dinh Độc Lập lịch sử và biến động, NXB Chính trị Quốc Gia Sự Thật, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dinh Độc Lập lịch sử và biến động
Tác giả: Hồ Sơn Đài
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc Gia Sự Thật
Năm: 2018
[6] Trần Văn Đoàn (2004), Thông Diễn Học và Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, Viện Triết Học - Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông Diễn Học và Khoa Học Xã Hội Nhân Văn
Tác giả: Trần Văn Đoàn
Năm: 2004
[10] Lê Thị Hân, Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai. Nguyễn Thị Uyên Thi (2012), Tâm lý học đại cương, Đại học Quốc gia TP HCM, TP HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học đại cương
Tác giả: Lê Thị Hân, Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai. Nguyễn Thị Uyên Thi
Năm: 2012
[11] De Saussure Ferdinand (2017), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, NXB Khoa học xã hội, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình ngôn ngữ học đại cương
Tác giả: De Saussure Ferdinand
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2017
[12] Đào Duy Hiệp (2008), Nhà văn phương Tây nói về phê bình văn học, https://vnexpress.net/giai-tri/nha-van-phuong-tay-noi-ve-phe-binh-van-hoc-1972700.html, ngày 18/7/2018 [13] Vũ Hiệp (2018), “Nhận diện các xu hướng sáng tác kiến trúchiện đại Việt Nam”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.107-120 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhận diện các xu hướng sáng tác kiến trúc hiện đại Việt Nam”, "Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam
Tác giả: Đào Duy Hiệp (2008), Nhà văn phương Tây nói về phê bình văn học, https://vnexpress.net/giai-tri/nha-van-phuong-tay-noi-ve-phe-binh-van-hoc-1972700.html, ngày 18/7/2018 [13] Vũ Hiệp
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2018
[14] Nguyễn Đức Hòa, Quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ những năm 1860 đến năm 2008 và những kết quả tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố, Viện Nghiên cứu và phát triển TPHCM, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ những năm 1860 đến năm 2008 và những kết quả tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố
[15] Nguyễn Bích Hoàng (2018), “Hướng đi mới cho đào tạo kiến trúc sư chuyên ngành lý luận – phê bình kiến trúc”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.379 [16] Đặng Thái Hoàng (2002), Các bài nghiên cứu lý luận phê bìnhdịch thuật Kiến trúc Tập 1, NXB Xây Dựng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng đi mới cho đào tạo kiến trúc sư chuyên ngành lý luận – phê bình kiến trúc”, "Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam", NXB Thanh Niên, tr.379 [16] Đặng Thái Hoàng (2002), "Các bài nghiên cứu lý luận phê bình "dịch thuật Kiến trúc Tập 1
Tác giả: Nguyễn Bích Hoàng (2018), “Hướng đi mới cho đào tạo kiến trúc sư chuyên ngành lý luận – phê bình kiến trúc”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr.379 [16] Đặng Thái Hoàng
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2002
[17] Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Thị Ngọc Anh, Nguyễn Trung Dũng, Đặng Liên Phương, Đoàn Trần Trung (2006), Giáo trình lịch sử kiến trúc Thế giới, NXB Xây dựng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình lịch sử kiến trúc Thế giới
Tác giả: Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Văn Đỉnh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Thị Ngọc Anh, Nguyễn Trung Dũng, Đặng Liên Phương, Đoàn Trần Trung
Nhà XB: NXB Xây dựng
Năm: 2006
[18] Đặng Thái Hoàng (2016), Những bậc thầy Lý luận và phê bình kiến trúc thời kỳ Sau Hiện Đại, NXB Mỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bậc thầy Lý luận và phê bình kiến trúc thời kỳ Sau Hiện Đại
Tác giả: Đặng Thái Hoàng
Nhà XB: NXB Mỹ thuật
Năm: 2016
[19] Đặng Thái Hoàng (2016), Từ Ngôn ngữ học hiện đại đến Kiến trúc học hiện đại-Ký hiệu học kiến trúc, NXB Mỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ Ngôn ngữ học hiện đại đến Kiến trúc học hiện đại-Ký hiệu học kiến trúc
Tác giả: Đặng Thái Hoàng
Nhà XB: NXB Mỹ thuật
Năm: 2016
[21] Đặng Thái Hoàng (2017), Toàn cảnh các trào lưu tư tưởng kiến trúc giai đoạn 1960 – 2010, NXB Mỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn cảnh các trào lưu tư tưởng kiến trúc giai đoạn 1960 – 2010
Tác giả: Đặng Thái Hoàng
Nhà XB: NXB Mỹ thuật
Năm: 2017
[22] Nguyễn Thúc Hoàng (2018), “Phát triển kiến trúc Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ xã hội nhân văn”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr. 101-106 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển kiến trúc Việt Nam đương đại nhìn từ góc độ xã hội nhân văn”, "Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thúc Hoàng
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2018
[23] Nguyễn Thượng Hỷ (2018), “Học gì từ kiến trúc truyền thống”, Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam, NXB Thanh Niên, tr. 383 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học gì từ kiến trúc truyền thống”, "Lý luận và phê bình kiến trúc ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thượng Hỷ
Nhà XB: NXB Thanh Niên
Năm: 2018
[2] Xuân Ba (2015), Chuyện Dinh Độc Lập, https://www.tienphong.vn/xa-hoi/chuyen-dinh-doc-lap-ky-i-bang-khuang-kien-truc-su-ngo-viet-thu-852415.tpo,https://www.tienphong.vn/xa-hoi/chuyen-dinh-doc-lap-ky-cuoi-vuon-dinh-852943.tpo Link
[3] Trần Thanh Bình (2019), Luận bàn về phê bình kiến trúc, Tạp chí Kiến trúc số 01-2019,https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/kientruc-xahoi/luan-ban-ve-phe-binh-kien-truc.html Link
[32] Bjứrn Ramberg và Kristin Gjesdal (2013), Thụng Diễn Học, Đinh Hồng Phúc dịch, https://phebinhvanhoc.com.vn/thong-dien-hoc/ Link
[39] Nguyễn Hữu Thái (2011), 30 năm nhìn lại và trông xa, Tạp chí Kiến trúc, https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/ly-luan-phe-binh-kien-truc/30-nam-nhin-lai-va-trong-xa.html Link
[40] Nguyễn Hữu Thái (2016), Từ Dinh Norodom ến Hội trường Thống Nhất, Tuổi Trẻ Online, https://tuoitre.vn/tu-dinh- norodom-den-hoi-truong-thong-nhat-1159306.htm Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w