1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao (7)

37 51 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lý thuyết “Khoảng cách tri thức” (Knowledge Gap) của Philip J Tichenor
Tác giả Hồ Thúy Hiền, Giang Ngọc Hải Anh, Đinh Thị Minh Huyền, Nguyễn Thị Thu Hà
Người hướng dẫn TS. Phan Văn Kiền
Trường học Học viện ngoại giao
Chuyên ngành Đại cương truyền thông đại chúng
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 391,66 KB

Cấu trúc

  • I. Lịch sử ra đời của thuyết “Khoảng cách tri thức” (5)
  • II. Nội dung và đặc điểm chính của thuyết “Khoảng cách tri thức” (6)
    • 1. Nguyên nhân tồn tại của “Khoảng cách tri thức” (0)
    • 2. Điểm mạnh và điểm yếu của “Khoảng cách tri thức” (8)
    • 3. Các cách làm giảm khoảng cách tri thức (8)
  • III. Những ứng dụng của “Khoảng cách tri thức” trong báo chí, truyền thông (9)
    • 1. Ứng dụng 1: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong các chiến dịch truyền thông đại chúng nhằm làm giảm sự chênh lệch kiến thức về HIV/ AIDS giữa cư dân thành thị và nông thôn ở phía tây bắc Ethiopia (9)
    • 2. Ứng dụng 2: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong chiến dịch truyền thông đại chúng nhằm giảm nguy cơ ung thư liên quan đến chế độ ăn… (23)
  • KẾT LUẬN (29)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)

Nội dung

Lịch sử ra đời của thuyết “Khoảng cách tri thức”

Theo Sir Francis Bacon, "Kiến thức là sức mạnh", nhưng sự phân bổ kiến thức trong xã hội thường không công bằng do nhiều nguyên nhân khác nhau Hiện tượng này đã được nhận thức từ lâu và được phản ánh trong các nghiên cứu về mối liên hệ giữa kiến thức và tình trạng kinh tế xã hội, đặc biệt là trình độ học vấn của người tiếp nhận Những nghiên cứu như Hyman & Sheatsley (1947), Star & Hughes (1950), và nhiều tác giả khác đã chỉ ra rằng kiến thức không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội.

Kiến thức có thể được đo lường qua nhận thức đơn giản về vấn đề và thông tin chuyên sâu, tương ứng với các khái niệm do Robert E Park (1940) đề xuất Khoảng trống kiến thức có thể không tồn tại trong nhận thức nhưng có thể hiện hữu trong kiến thức chuyên sâu về chủ đề Nhiều nghiên cứu đã xác định khoảng cách kiến thức thông qua sự khác biệt về điểm số kiến thức giữa các nhóm SES, tỷ lệ nắm giữ kiến thức của các nhóm SES, và mối quan hệ giữa kiến thức và SES Ngoài ra, còn có các phân tích hồi quy về tương tác giữa SES và việc sử dụng phương tiện truyền thông, cũng như so sánh các cộng đồng khác nhau dựa trên đặc điểm cấu trúc xã hội (Everland Scheufele, 2000; Gaziano, 1983, 1997; Hwang jeong, 2009; Kwak, 1999; Tichenor, Donohue, Olien, 1970; Viswanath & Finnegan, 1996).

Vào năm 1970, ba học giả tại Đại học Minnesota, gồm Philip Tichenor, George Donohue và Clarice Olien, đã chính thức đề xuất giả thuyết "Khoảng cách tri thức" (Knowledge Gap) trong bài báo mang tên ''Mass Media Flow and Differential Growth in Knowledge'' Nghiên cứu của họ đã tạo ra một bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực truyền thông và xã hội học, mở ra hướng đi mới cho việc tìm hiểu sự khác biệt trong việc tiếp nhận thông tin giữa các nhóm người khác nhau.

1 Artem Cheprasov, Knowledge Gap Hypothesis: Definition & Analysis, Study, truy cập: https://study.com/academy/lesson/knowledge-gap-hypothesis-definition-analysis.html, truy cập ngày 9/6/2021.

2 Boomgaarden, Hajo G, Fabienne Lind, What we do and don’t know: a meta-analysis of the knowledge gap hypothesis, Tandfonline, truy cập: https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23808985.2019.1614475, truy cập ngày 9/6/2021.

Lý thuyết Khoảng cách Tri thức được đề xuất lần đầu vào năm 1970 bởi Philip J Tichenor và các đồng tác giả, nhấn mạnh rằng khi thông tin từ truyền thông đại chúng được truyền tải vào một hệ thống xã hội, các nhóm dân cư có địa vị kinh tế xã hội cao hơn sẽ tiếp thu thông tin này nhanh hơn so với các nhóm có địa vị thấp hơn Điều này dẫn đến việc khoảng cách tri thức giữa các nhóm này có xu hướng gia tăng Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những người ở vị trí thấp hơn hoàn toàn không nhận được kiến thức; giả thuyết chỉ ra rằng họ tiếp thu và phát triển kiến thức chậm hơn, đặc biệt khi việc tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng tăng.

Khi công nghệ ngày càng phát triển và chi phí gia tăng, những lợi ích từ các công nghệ mới trở nên khó tiếp cận đối với người nghèo, dẫn đến việc mở rộng khoảng cách về kiến thức giữa các tầng lớp xã hội Những người thuộc tầng lớp kinh tế cao hơn thường hưởng lợi nhiều hơn, trong khi nếu không có sự bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ thông tin, khoảng cách này sẽ ngày càng gia tăng Do đó, nghiên cứu về lỗ hổng kiến thức do sự khác biệt kinh tế xã hội và sự phát triển của thông tin trên các phương tiện truyền thông đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng, tập trung vào các bất đẳng thức trong truyền thông chính trị và tác động của truyền thông đến thực tiễn.

Nội dung và đặc điểm chính của thuyết “Khoảng cách tri thức”

Điểm mạnh và điểm yếu của “Khoảng cách tri thức”

Thứ nhất, theo Tichenor, Donohue và Olien, lý thuyết “Khoảng cách tri thức” cung cấp

Một lời giải thích cơ bản cho sự thất bại của việc công khai đại chúng trong việc cung cấp thông tin cho công chúng là lý thuyết này chỉ ra rằng thông tin không thể lan tỏa rộng rãi chỉ thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

Lý thuyết này cho thấy rằng những người có địa vị xã hội thấp thường dễ tin vào tin tức giả, do họ có ít thông tin và mối quan hệ xã hội Điều này dẫn đến việc họ khó khăn trong việc nhận diện và phê bình thông tin sai lệch.

Lý thuyết đánh đồng địa vị xã hội và trình độ học vấn thường bị nhầm lẫn, mặc dù hai thuật ngữ này có mối tương quan nhất định Tuy nhiên, việc sử dụng chúng thay thế cho nhau không hoàn toàn chính xác, vì địa vị xã hội và trình độ học vấn là hai khái niệm khác biệt.

Thứ hai, lý thuyết này đã được tạo ra cách đây hơn 50 năm, chính vì vậy có thể nó không còn phù hợp ở thời điểm hiện tại.

Các cách làm giảm khoảng cách tri thức

10 Tichenor, Donohue & Olien, Mass media flow and differential growth in knowledge, 1970, pg 161

11 Knowledge Gap Theory, Communication Theory

Cuối năm 1975, Tichenor, Donohue và Olien đã tiến hành khảo sát các vấn đề quốc gia và địa phương thông qua mẫu xác suất từ 16 cộng đồng ở Minnesota, từ đó xác định ba yếu tố quan trọng giúp thu hẹp khoảng cách tri thức.

Thứ nhất, mức độ tác động đến cộng đồng

Các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng thường thu hút sự chú ý lớn từ xã hội, bất kể địa vị hay trình độ học vấn của người dân Chẳng hạn, người dân thường quan tâm hơn đến các vấn đề địa phương thay vì những vấn đề quốc gia không có tác động rõ rệt đến cuộc sống của họ Điều này giúp thu hẹp khoảng cách tri thức trong cộng đồng.

Thứ hai, mức độ xung đột xung quanh vấn đề

Xung đột và drama luôn thu hút sự chú ý của công chúng, không phân biệt trình độ học vấn, từ đó làm giảm bớt khoảng cách tri thức trong xã hội.

Thứ ba, mức độ đồng nhất của cộng đồng

Tính đồng nhất trong cộng đồng thể hiện sự tương đồng về chủng tộc, tầng lớp xã hội và văn hóa giữa các thành viên Các cộng đồng đồng nhất thường có khoảng cách tri thức hẹp hơn so với những cộng đồng không đồng nhất.

Những ứng dụng của “Khoảng cách tri thức” trong báo chí, truyền thông

Ứng dụng 1: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong các chiến dịch truyền thông đại chúng nhằm làm giảm sự chênh lệch kiến thức về HIV/ AIDS giữa cư dân thành thị và nông thôn ở phía tây bắc Ethiopia

cư dân thành thị và nông thôn ở phía tây bắc Ethiopia.

HIV/AIDS là một bệnh tấn công hệ miễn dịch và được WHO coi là đại dịch Thiếu kiến thức về bệnh này làm tăng nguy cơ lây nhiễm và tỷ lệ tử vong Do đó, việc nâng cao kiến thức cho các nhóm dân số có nguy cơ là cần thiết để thay đổi hành vi và ngăn ngừa HIV/AIDS Mối quan hệ giữa kiến thức và hành vi không phải lúc nào cũng mạnh mẽ; một số nghiên cứu cho rằng kiến thức là điều kiện cần nhưng không đủ để thay đổi hành vi Các lý thuyết như Mô hình Kỹ năng Hành vi - Động lực - Thông tin (IMB) nhấn mạnh rằng thông tin liên quan đến lây truyền và dự phòng HIV là yếu tố tiên quyết cần thiết.

12 Ajzen I., Joyce N., Sheikh S., Cote N G Knowledge and the prediction of behavior: the role of information accuracy in the theory of planned behavior, Basic and Applied Social Psychology, 2011, vol 33 (pg 101-117).

A study by Anderson et al (1990) highlights the significance of HIV/AIDS knowledge and sexual behavior among high school students Research indicates that enhancing awareness and understanding of HIV/AIDS is a crucial preventive measure, especially in sub-Saharan Africa, where the rates of HIV infection remain alarmingly high.

Ngay từ đầu đại dịch, các phương tiện truyền thông như báo in, đài phát thanh, truyền hình và truyền thông trực tuyến đã đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến thông tin phòng chống trên toàn cầu Với khả năng tiếp cận rộng rãi và chi phí hiệu quả, các phương tiện này trở thành công cụ chính trong việc tuyên truyền và nâng cao nhận thức về HIV/AIDS, góp phần tạo ra tác động đáng kể đến kiến thức của cộng đồng về vấn đề này.

Việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác phòng chống HIV/AIDS ở châu Phi cận Sahara đã trở nên phổ biến, nhưng vẫn còn ít người nhận thức được các tác động mà ứng dụng này mang lại Nghiên cứu này nhằm kiểm tra mối liên hệ giữa việc sử dụng truyền thông và kiến thức về đại dịch, đồng thời đánh giá khả năng của truyền thông trong việc làm tăng hoặc giảm khoảng cách kiến thức giữa các nhóm dân số Đánh giá này dựa trên hai lý thuyết truyền thông đại chúng: giả thuyết khoảng cách kiến thức và lý thuyết trồng trọt.

14 Fisher J.D., Fisher W.A., Bryan A.D., Misovich S.J Information-motivation-behavioral skills model-based HIV risk behavior change intervention for inner-city high school youth, Health Psychology, 2002, vol 21 (pg 177-186).

15 Noar S M Pope C., White R T., Malow R The Utility of ‘Old’ and ‘New’ media as Tools for HIV prevention,

HIV/AIDS Global Frontiers in Prevention/Intervention, 2009 New YorkRoutledge

16 Hutton G., Wyss K., Diekhor Y N Prioritization of prevention activities to combat the spread of HIV/AIDS in resource constrained settings: a cost-effectiveness analysis from Chad, Central Africa, International Journal of

Health Planning and Management, 2003, vol 18 (pg 117-136).

17 Hogan D R., Baltussen R., Hayashi C., Lauer J A., Salomon J A Achieving the millennium development goals for health: cost effectiveness analysis of strategies to combat HIV/AIDS in developing countries, BMJ, 2005.

18 Agha S The impact of a mass media campaign on personal risk perception, perceived self-efficacy and on other behavioral predictors, AIDS Care, 2003, vol 15 (pg 749-762)

19 Benefo K D The mass media and HIV/AIDS prevention in Ghana, Journal of Health and Population in

Developing Countries, 2004, http://www.longwoods.com/content/17642 truy cập ngày 13/6/2021.

20 Bertrand J T., O'Reilly K., Denison J., Anhang R., Sweat M Systematic review of the effectiveness of mass communication programs to change HIV/AIDS-related behaviors in developing countries, Health Education

Research: Theory and Practice, 2006, vol 21 (pg 567-597)

21 Kuhlmann A K S., Kraft J M., Galavotti C., Creek T L., Mooki M., Ntumy R Radio role models for the prevention of mother-to-child transmission of HIV and HIV testing among pregnant women in Botswana, Health

22 Tichenor P J., Donohue G A., Olien C N Mass media flow and differential growth in knowledge, Public

23 Tichenor P.J., Donohue G.A., Olien C.N , Community Conflict and the Press, 1980Newbury Park, CASage Publications

24 Gerbner G., Gross L Living with television: the violence profile, Journal of Communication, 1976, vol 26 (pg 172-199)

Theo giả thuyết “Knowledge Gap”, khi thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng gia tăng trong một xã hội, các nhóm dân cư có địa vị kinh tế xã hội cao hơn thường tiếp nhận thông tin nhanh hơn so với các nhóm có địa vị thấp hơn, dẫn đến khoảng cách kiến thức giữa họ ngày càng lớn Một số nghiên cứu ban đầu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm ủng hộ giả thuyết này Tuy nhiên, một số cuộc khảo sát khác lại cho thấy việc truyền thông không nhất thiết tạo ra khoảng cách kiến thức giữa các nhóm xã hội, và trong một số trường hợp, các biện pháp can thiệp có thể giúp thu hẹp khoảng cách này Sự mâu thuẫn giữa các nghiên cứu đã thúc đẩy việc tìm hiểu các yếu tố khác ảnh hưởng đến tác động của các chiến dịch thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng.

Nhiều nghiên cứu đã phân tích vai trò của các yếu tố động lực trong việc hình thành và tần suất của lỗ hổng kiến thức Mặc dù động lực có thể nâng cao khả năng dự đoán về lỗ hổng kiến thức, nhưng một số nhà nghiên cứu cho rằng động cơ một mình không đủ để dự đoán mức độ thiếu hụt kiến thức.

Giả thuyết về khoảng trống kiến thức đã được chấp nhận rộng rãi và nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt là tác động của truyền thông sức khỏe trên các phương tiện truyền thông đại chúng đối với các nhóm xã hội khác nhau Khái niệm lồng ghép, một phần quan trọng trong lý thuyết hiệu ứng truyền thông của Gerbner, nhấn mạnh sức mạnh của truyền thông đối với cá nhân Theo lý thuyết khoảng cách kiến thức, nếu các cá nhân có mức độ tiêu thụ phương tiện truyền thông tương tự, họ sẽ có xu hướng chia sẻ những niềm tin giống nhau về thế giới Tuy nhiên, giả thuyết này lại mâu thuẫn với lý thuyết khoảng cách kiến thức, cho rằng khoảng cách kiến thức có thể được thu hẹp bất kể trình độ học vấn hay các chỉ số kiến thức khác.

Cuộc khảo sát hộ gia đình diễn ra từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011 tại hai thành phố Bahir Dar và Debre Markos, cùng với hai làng nông thôn.

25 Tichenor P J., Donohue G A., Olien C N Mass media flow and differential growth in knowledge, Public

Nghiên cứu được thực hiện tại thôn Jajirab và Kurfa, tây bắc Ethiopia, với 995 người tham gia (497 người thành thị và 498 người nông thôn) trong độ tuổi 15–34 HIV chủ yếu lây truyền qua quan hệ tình dục khác giới ở châu Phi cận Sahara, khiến thanh niên hoạt động tình dục trở thành nhóm dễ bị tổn thương Trong số người tham gia, tỷ lệ nam và nữ ở cư dân thành thị lần lượt là 46,7% và 53,3%, trong khi ở cư dân nông thôn là 46,2% và 53,8% Về trình độ học vấn, 25,2% cư dân thành thị không có trình độ học vấn, trong khi 68,5% cư dân nông thôn không có trình độ học vấn Các hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên và phỏng vấn bởi những người có trình độ đại học, nhằm đảm bảo tỷ lệ trả lời cao, đặc biệt ở những người không biết chữ Nghiên cứu đã được phê duyệt về mặt đạo đức bởi Đại học Bahir Dar, cơ sở học thuật gần nhất với khu vực nghiên cứu.

Một thước đo chi tiết về kiến thức HIV/AIDS đã được phát triển dựa trên các nghiên cứu trước đây, bao gồm 40 mục và tập trung vào bảy lĩnh vực chính: nhận thức về HIV/AIDS (α = 0,70), phương thức lây truyền (α = 0,94), dự phòng lây truyền (α = 0,87), hành vi nguy cơ cao (α = 0,87), biểu hiện của người nhiễm HIV/AIDS (PLWHA) (α = 0,80), và khả năng chữa khỏi Các chỉ số độ tin cậy cao cho thấy tính chính xác và hiệu quả của thước đo này trong việc đánh giá kiến thức về HIV/AIDS.

= 0,81) và tỷ lệ tử vong (α = 0,87) Các mục được trình bày với ba tùy chọn trả lời: có,

26 Berkley S Parenteral transmission of HIV in Africa, AIDS, 1991, vol 5 (pg 87-92)

27 Morison L The global epidemiology of HIV/AIDS, British Medical Bulletin, 2001, vol 58 (pg 7-18)

28 Koopman C., Rotherman-Borus M J., Henderson R., Bradley J S., Hunter J Assessment of knowledge of AIDS and beliefs about AIDS prevention among adolescents, AIDS education and prevention, 1990, vol 2 (pg 58- 69)

29 Zimet G D Reliability of AIDS knowledge scales: conceptual issues, AIDS Education and Prevention, 1992, vol 4 (pg 338-344)

The study by Carey and Schroder (2002) focuses on the development and psychometric evaluation of a brief HIV knowledge questionnaire, highlighting significant challenges in measuring knowledge due to the confusion between knowledge and belief (Zimet, 1992; Ajzen et al., 2011).

1.2.3.1 Sử dụng phương tiện truyền thông liên quan đến HIV/AIDS

Biến này liên quan đến việc cá nhân chủ động hoặc thụ động tiếp cận thông tin về HIV/AIDS qua các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh và truyền hình trong tháng trước Để đánh giá, ba câu hỏi với thang điểm bảy được sử dụng: (1) Bạn có đọc các bài viết liên quan đến HIV/AIDS trên báo, tạp chí hay tài liệu không? (2) Bạn có thường xuyên nghe thông điệp về HIV/AIDS trên đài phát thanh không? (3) Bạn có thường xuyên xem các thông báo về HIV/AIDS trên truyền hình không? Các mức độ phản hồi từ 1 (hoàn toàn không) đến 7 (10 lần trở lên một tuần) Tính khả dụng của phương tiện truyền thông được xác định thông qua việc người trả lời chỉ ra các nguồn truyền thông hiện có tại nhà, bao gồm đài phát thanh, truyền hình và các sản phẩm in như sách, báo, tạp chí.

1.2.3.2 Giao tiếp giữa các cá nhân liên quan đến HIV/AIDS

Biến này được đo lường thông qua thang điểm hai mục, với các câu hỏi phản hồi theo thang điểm năm: (1) Tần suất tham gia vào các cuộc trò chuyện liên quan đến HIV/AIDS và (2) Tần suất thảo luận về các vấn đề HIV/AIDS với người khác Các mức độ phản hồi bao gồm: 1 = không bao giờ, 2 = hiếm khi, 3 = thỉnh thoảng, 4 = thường xuyên và 5 = rất thường xuyên Thang đo được tính bằng cách lấy giá trị trung bình của hai mục, với Cronbach's α là 0,85 và giá trị trung bình (M) là 1,64.

1.2.3.3 Nơi ở thành thị so với nông thôn

Biến này được đo lường kết hợp với các yếu tố nhân khẩu học khác, trong đó người tham gia phải xác định khu vực sinh sống là thành thị hay nông thôn Trước khi thu thập dữ liệu, các khu vực nghiên cứu đã được phân loại rõ ràng Cụ thể, các khu vực đô thị có dân số trên 1000 người, chủ yếu tập trung vào các hoạt động phi nông nghiệp và có nhiều cơ sở thương mại, sản xuất cùng các địa điểm công cộng như khách sạn, quán bar và cửa hàng Ngược lại, các khu vực nông thôn có dân số dưới 1000 người và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

31 Zimet G D Reliability of AIDS knowledge scales: conceptual issues, AIDS Education and Prevention, 1992, vol 4 (pg 338-344)

In their 2011 study published in Basic and Applied Social Psychology, Ajzen et al explore the significance of information accuracy in predicting behavior through the theory of planned behavior The research highlights a distinction between urban and rural residency, with urban areas coded as 1 and rural areas as 0, revealing a nearly equal distribution of 49.9% urban and 50.1% rural residents.

Giáo dục được đo lường như một trong những biến nhân khẩu học Nó được mã hóa là

1 = không có giáo dục (46,8%), 2 = giáo dục tiểu học (31,8%), 3 = giáo dục trung học (13,3%) và 4 = giáo dục đại học (8,1%).

1.2.3.5 Khả năng đón nhận thông tin liên quan đến HIV/AIDS

Ứng dụng 2: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong chiến dịch truyền thông đại chúng nhằm giảm nguy cơ ung thư liên quan đến chế độ ăn…

Lý thuyết “Khoảng cách tri thức” được nhóm tác giả áp dụng để nghiên cứu sự khác biệt về kiến thức giữa hai nhóm người có trình độ học vấn khác nhau, tham gia vào Dự án Can thiệp Ung thư và Chế độ ăn uống (CANDI) Đây là một chiến dịch phòng ngừa ung thư kéo dài một năm, liên quan đến chế độ ăn uống.

Trước khi bắt đầu nghiên cứu, dự án đã triển khai một chiến dịch trực tuyến nhằm khuyến khích người dân tham gia khóa học tại nhà Khóa học này, được thiết kế bởi các chuyên gia dinh dưỡng uy tín, cung cấp trải nghiệm học tập chuyên sâu về các chiến lược giảm thiểu bệnh ung thư liên quan đến chế độ ăn uống, bao gồm lập kế hoạch thực phẩm, mua sắm và kỹ năng chuẩn bị Kết quả, khóa học đã thu hút hơn 3.700 cư dân trong cộng đồng đăng ký tham gia.

64 Raeburn J Akerman M., Chung Tian Sup K., Mejua F., Oladepo O., Community capacity building and healthy promotion in a globalized world, Health Promotion International, 2006, pg 84-90.

65 Moore D., Carr C A., Williams C., Richlen W., Huber M., Wagner J., An ecological approach to addressing HIV/ AIDS in the American Community, Journal of Evidence-Based Social Work, 2010, pg 144-161.

66 Southwell B G., Slater J S., Rothman A J., Friedengberg L M., Allison T R., Nelson C L., The availability of community ties predicts likelihood of peer referral for mammography: geographic constraints on viral marketing, Social Science & Medicine, 2010, pg 1627-1635.

67 McLeroy K R., Bibeau D., Steckler A., Glanz K., An ecological perspective on healthy promotion programs, Healthy Education & Behavior, 1988, pg 351-377

68 Stokols D., Translating social ecological theory into guidelines for community health promotion, American Journal of Health Promotion, 1996, pg 282-298.

69 Green L W., Richard L., Potvin L., Ecological foundations of healthy promotion, American Journal of Health Promotion, 1996, pg 270-281.

The article titled "Media Use and HIV/AIDS Knowledge: A Knowledge Gap Perspective" by Mesfin Awoke Belaku and Steven Eggermont, published in *Health Promotion International*, explores the relationship between media consumption and awareness of HIV/AIDS It highlights significant gaps in knowledge that can affect public health initiatives and emphasizes the importance of targeted media strategies to enhance understanding and prevention of HIV/AIDS For further details, the article can be accessed at [Health Promotion International](https://academic.oup.com/heapro/article/29/4/739/565818?login=true), retrieved on June 15, 2021.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích ngẫu nhiên các tệp người dùng từ những người đăng ký khóa học, bao gồm cả nhóm được thúc đẩy và những người không đăng ký nhưng đã tiếp cận quảng cáo khóa học qua các kênh truyền thông khác nhau.

2.2 Quy trình Đối tượng nghiên cứu của chiến dịch: người dân có độ tuổi từ 25 - 69 tuổi.

Các công dân đã được khảo sát thông qua phương pháp quay số ngẫu nhiên kết hợp với khảo sát qua thư, diễn ra trước chiến dịch (T1) và một năm sau khi chiến dịch hoàn thành (T2).

Bảng: Tỉ lệ phản hồi của chiến dịch

Phần khảo sát qua điện thoại nhằm xác định các cá nhân đủ điều kiện phỏng vấn và thu thập thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, kiến thức dinh dưỡng và thái độ liên quan Bảng 1 trình bày tổng số mẫu và tỷ lệ phản hồi cho các cuộc khảo sát của từng nhóm.

Có thể thấy rằng, ở cả 2 thời điểm T1 và T2, nhóm được chọn lọc ngẫu nhiên có tỉ lệ phản hồi cao hơn nhóm còn lại.

2.2.1 Phương pháp đo lường phụ thuộc vào đối tượng

Kiến thức về chế độ ăn uống được đánh giá qua hai khía cạnh chính: chất béo và chất xơ Các câu hỏi mở được sử dụng để đo lường mức độ hiểu biết Nhóm đầu tiên được yêu cầu nêu ra các chiến lược giảm chất béo trong chế độ ăn, trong khi nhóm thứ hai được hỏi về kế hoạch tăng cường chất xơ trong khẩu phần ăn.

Khoảng cách kiến thức giữa các nhóm có trình độ học vấn khác nhau được thể hiện qua sự chênh lệch về điểm số, cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong kiến thức Thuật ngữ "khoảng cách kiến thức" dựa trên giáo dục đã được sử dụng nhất quán để minh họa sự khác biệt này.

2.2.2 Phương pháp đo lường độc lập

Trên 2 nhóm người, các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về động lực thúc đẩy qua các yếu tố sau:

Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến cách tiếp cận vấn đề là suy nghĩ của cá nhân Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra hai cách đo lường khả năng tiếp cận thông qua việc đánh giá hiệu quả của Internet trong việc thay đổi chế độ ăn uống Thang đo đầu tiên đánh giá mức độ thể hiện sở thích cá nhân trong việc thay đổi chế độ ăn uống, với thang điểm từ 0 đến 10 Thang đo thứ hai xem xét sự thay đổi trong mối quan tâm cá nhân về dinh dưỡng, với thang điểm từ -1 đến 1.

Sự nhận thức về rủi ro sức khỏe đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến kết quả sức khỏe cá nhân, theo mô hình niềm tin về sức khỏe (Rosenstock, 1990; Rosenstock, Strecher & Becker, 1998) Càng nhận thức nhiều về nguy cơ cá nhân, cá nhân đó càng có xu hướng quan tâm đến thông tin và hành động nhằm tránh những hậu quả tiêu cực Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một câu hỏi để đo lường khả năng cá nhân nghĩ rằng họ có thể "bị mắc ung thư trong vòng mười năm tới," với thang điểm từ 0 đến 10.

Yếu tố kỳ vọng cá nhân có khả năng thay đổi hành vi để cải thiện sức khỏe Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhận thức của mỗi người về mối liên hệ giữa việc thực hiện hành động khuyến nghị và việc giảm thiểu mối đe dọa có ảnh hưởng lớn đến quyết định của họ.

Cuộc khảo sát yêu cầu người tham gia cung cấp thông tin về trình độ học vấn chính thức của họ, từ giáo dục trung học cho đến các bằng cấp sau đại học.

Dữ liệu bao gồm 1.002 cuộc khảo sát đã hoàn thành trong hai nhóm (dân số chung và nhóm được lựa chọn ngẫu nhiên) tại hai thời điểm (T1 và T2)

Biến số giữa các nền giáo dục là trình độ học vấn thấp - cao (thấp - đào tạo nghề trở xuống; cao - trình độ cao đẳng trở lên)

Biến phụ thuộc trong nghiên cứu được xác định qua hai số đo cụ thể Để kiểm soát tác động của các yếu tố như độ tuổi, giới tính và khả năng nhớ lại, những biến này được xem là hiệp biến ảnh hưởng đến các thước đo độc lập và phụ thuộc.

Hai phép phân tích hiệp phương sai (ANCOVA) đã được hình thành để kiểm tra các giả thuyết.

Phân tích đầu tiên đã xác minh động cơ thay đổi chế độ ăn uống của nhóm được chọn lọc ngẫu nhiên so với dân số chung tại các thời điểm thực hiện các biện pháp đã nêu.

Phân tích thứ hai đã kiểm tra các giả thuyết của các nhà nghiên cứu thông qua phân tích hiệp phương sai Mỗi giả thuyết được đánh giá với biến số can thiệp của giáo dục và các hiệp biến như tuổi, giới tính và khả năng nhớ lại thông điệp Các phương trình bao gồm ba bậc hai: (a) Nhóm x Thời gian, nhằm xác định sự thay đổi kiến thức giữa các nhóm theo thời gian; (b) Học vấn x Thời gian, để xem xét sự biến đổi kiến thức giữa các cấp học theo thời gian; và (c) Nhóm x Học vấn, nhằm tránh sự xáo trộn kết quả nếu sự khác biệt về giáo dục liên quan chặt chẽ đến sự thúc đẩy.

Bảng 2: Đặc điểm nhân khẩu học của 2 nhóm được nghiên cứu

Ngày đăng: 15/10/2021, 10:07

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

- Chỉnh sửa hình thức - Chỉnh sửa nội dung 3 Hồ Thúy Hiền              - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
h ỉnh sửa hình thức - Chỉnh sửa nội dung 3 Hồ Thúy Hiền (Trang 2)
Bảng 1: Tóm tắt kết quả từ phân tích hồi quy phân cấp.35 - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Bảng 1 Tóm tắt kết quả từ phân tích hồi quy phân cấp.35 (Trang 16)
Hình 1: Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và giáo dục37 - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Hình 1 Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và giáo dục37 (Trang 17)
Hình 2: Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và sự đô thị so với nông thôn. - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Hình 2 Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông và sự đô thị so với nông thôn (Trang 18)
Bảng 2: Tương quan lưỡng biến không thứ tự giữa các biến độc lập và phụ thuộc.45 - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Bảng 2 Tương quan lưỡng biến không thứ tự giữa các biến độc lập và phụ thuộc.45 (Trang 19)
44 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/AIDS knowledge: a knowledge gap perspective, - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
44 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/AIDS knowledge: a knowledge gap perspective, (Trang 19)
Bảng: Tỉ lệ phản hồi của chiến dịch - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
ng Tỉ lệ phản hồi của chiến dịch (Trang 24)
Hai phép phân tích hiệp phương sai (ANCOVA) đã được hình thành để kiểm tra các giả thuyết. - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
ai phép phân tích hiệp phương sai (ANCOVA) đã được hình thành để kiểm tra các giả thuyết (Trang 26)
Bảng 4: Sự khác nhau về kiến thức: Chất béo trong chế độ ăn kiêng - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Bảng 4 Sự khác nhau về kiến thức: Chất béo trong chế độ ăn kiêng (Trang 27)
Bảng 5: Sự khác nhau về kiến thức: Chất xơ trong chế độ ăn kiêng - Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao  (7)
Bảng 5 Sự khác nhau về kiến thức: Chất xơ trong chế độ ăn kiêng (Trang 28)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w