TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến phát triển
1.1.1 Các nghiên cứu trong nước
TS Nguyễn Thị Nga (2007) trong bài viết “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” đã phân tích các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho sự phát triển xã hội Để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển, cần phải kết nối quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ Việc thực hiện mục tiêu này cần được triển khai trên toàn quốc, trong mọi lĩnh vực, qua từng bước và chính sách phát triển Điều quan trọng là bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nhằm phát triển con người, phát huy nhân tố con người, cũng như tăng cường vai trò của nhà nước và thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động xã hội.
TS Trần Đức Hiê ̣p (2009), “Tăng trưởng kinh tế vì phát triển con người ở Viê ̣t
Bài viết trình bày mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển con người, làm rõ khái niệm phát triển con người và các nhân tố định hướng tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu này Nghiên cứu phân tích tác động của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người tại Việt Nam, chỉ ra những thành tựu và thách thức trong thời gian gần đây Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì phát triển con người, bài viết đề xuất các giải pháp như ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân, bảo vệ tài nguyên và môi trường, cùng với việc nâng cao nhận thức của người dân về tiêu dùng bền vững.
GS.TS Ngô Thắng Lợi và PGS.TS Bùi Đức Tuân, Tạp chí Cô ̣ng sản ngày
Ngày 29/08/2019 đã nhấn mạnh rằng tăng trưởng kinh tế cần có tác động tích cực đến nâng cao năng lực con người, bao gồm tài lực, trí lực và thể lực Nghiên cứu đã chỉ ra những ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng đến phát triển con người, đồng thời nêu rõ những vấn đề còn tồn tại Từ đó, bài viết xác định nguyên nhân cơ bản của những vấn đề này và đề xuất giải pháp như cải thiện động lực tăng trưởng kinh tế, cũng như tăng cường tiếp cận giáo dục và y tế cho nhóm người nghèo.
Nghiên cứu của GS TS Ngô Thắng Lợi và các cộng sự (2019) chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, cũng như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam Kết quả cho thấy Việt Nam có khả năng lan tỏa tốt từ tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người, với mối quan hệ đồng thuận giữa hai yếu tố này Ngoài ra, sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến chỉ số HDI ở các vùng cũng có sự khác biệt, cho thấy Việt Nam đạt được kết quả tốt hơn so với các nước trong khu vực Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào những thành quả mà tăng trưởng kinh tế mang lại cho phát triển con người tại Việt Nam.
1.1.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Bài báo của Alejandro Ramirez, Gustav Ranis và Frances Stewart (10/1998) phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển con người, xác định hai chuỗi liên kết: từ tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người và ngược lại Nghiên cứu sử dụng tài liệu thống kê xuyên quốc gia từ 1970-1992, cho thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa hai yếu tố này Đặc biệt, chi tiêu công cho dịch vụ xã hội và giáo dục nữ giới được xác định là những yếu tố then chốt trong việc củng cố mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển con người, trong khi tỷ lệ đầu tư và phân phối thu nhập là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mối quan hệ từ phát triển con người đến tăng trưởng kinh tế.
Gustav Ranis từ Đại học Yale (5/2004) trong bài nghiên cứu “Phát triển con người và tăng trưởng kinh tế” cho rằng phát triển con người (HD) là mục tiêu cuối cùng của quá trình phát triển, trong khi tăng trưởng kinh tế là phương tiện để nâng cao HD Nghiên cứu cho thấy sự tự do và năng lực lớn hơn có thể cải thiện hoạt động kinh tế, từ đó HD có tác động quan trọng đến tăng trưởng Đồng thời, thu nhập tăng lên mở rộng lựa chọn và khả năng của hộ gia đình và chính phủ, thúc đẩy sự phát triển của HD Tác động của tăng trưởng kinh tế đến HD phụ thuộc vào các điều kiện xã hội khác nhau Mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và HD cho thấy các quốc gia có thể rơi vào chu kỳ tăng trưởng cao và cải thiện HD, hoặc ngược lại, vào vòng luẩn quẩn của tăng trưởng thấp và HD kém.
Madhusudan Ghosh (2006), “Economic Growth and Human development in
Bài báo "Indian States" được xuất bản bởi Economic and Political Weekly, Tập 41 số 30, đánh giá kết quả phát triển con người của 15 bang lớn ở Ấn Độ và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển con người Các ước tính hồi quy cho thấy sự hội tụ trong phát triển con người, mặc dù vẫn còn chênh lệch lớn về thu nhập bình quân đầu người Điều này chỉ ra rằng các bang nghèo không theo kịp các bang giàu về thu nhập, nhưng vẫn nỗ lực cải thiện phát triển con người Phân loại các bang theo hiệu suất phát triển con người và tăng trưởng kinh tế cho thấy chỉ có bốn bang nằm trong danh mục chu kỳ đạo đức, trong khi bảy bang còn lại rơi vào vòng luẩn quẩn.
Tavneet Suri, Michael A.Boozer, Gustav Ranis, Frances Stewart (2010),
“Paths to Success: The Relationship Between Human Development and Economic
Growth”, bài báo này nghiên cứu mối quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế (EG) và phát triển con người (HD) cho thấy HD đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quỹ đạo tăng trưởng bền vững HD không chỉ phản ánh mức độ phúc lợi cơ bản của con người mà còn là yếu tố đầu vào thiết yếu cho EG Kết quả nghiên cứu khẳng định tính hợp lý của mô hình tăng trưởng nội sinh và các mô hình hiệu ứng ngưỡng, nhấn mạnh rằng chính sách thành công cần chú trọng đến HD từ sớm, không chỉ vì tác động trực tiếp mà còn vì ảnh hưởng tích cực của nó đến việc duy trì EG.
Các nghiên cứu về tiêu chí và phương pháp đánh giá ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người
1.2.1 Các nghiên cứu trong nước
1 TS Bùi Đại Dũng, ThS Phạm Thu Phương:” Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội” Để góp phần làm rõ khái niệm “công bằng xã hội” trong bối cảnh phát triển bền vững, bài viết cung cấp một số minh chứng định lượng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dựa trên một số tiêu chí và phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích so sánh (thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo), Phương pháp định lượng và dữ liệu nghiên cứu đó là:
Công bằng xã hội cần khuyến khích tối đa khả năng đóng góp và hạn chế khả năng gây hại của cá nhân đối với xã hội Khoảng cách giàu - nghèo được đo bằng tỷ lệ thu nhập giữa 10% dân số giàu nhất và 10% dân số nghèo nhất Tốc độ tăng trưởng được tính trung bình hàng năm trong 20 năm Kết quả cho thấy, chênh lệch giàu - nghèo quá nhỏ hoặc quá lớn đều có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Việc tính toán thu nhập của nhóm nghèo có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế và ngược lại Cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục cho nhóm nghèo không chỉ mang tính đạo đức mà còn có ý nghĩa kinh tế quan trọng Đây là khoản chi phí cần thiết và hiệu quả để đảm bảo mức toàn dụng lao động trong xã hội, đồng thời hạn chế những tổn hại cho xã hội trong tương lai.
Việc tính toán thu nhập của nhóm giàu có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng cho thấy rằng nhóm này cần được khuyến khích làm giàu chính đáng Nhóm giàu đóng vai trò là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển xã hội, nhưng cần phải ngăn chặn các hành vi làm giàu bất chính, bao gồm cả việc trục lợi từ các ngoại ứng tiêu cực.
2 GS TS Ngô Thắng Lợi và các cô ̣ng sự (2019), “Mối quan hê ̣ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiê ̣n tiến bộ và công bằng xã hội ở Viê ̣t Nam hiê ̣n nay: Thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách” Đề tài sử dụng bộ tiêu chí đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cụ thể đó là với từng nội hàm sẽ sẽ có những tiêu chí tương ứng như: Mối quan hệ giữa tăng trưởng với phát triển con người tương ứng với bộ tiêu chí sau: So sánh thứ hạng HDI với GNI/người; Hệ số tăng trưởng vì con người (GHR), đường vành đai phát triển con người Kết hợp với các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập thông tin: Phương pháp nghiên nghiên cứu tại bàn, phương pháp phỏng vấn, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia qua hội thảo khoa học; Phương pháp phân tích thông tin: Phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp định lượng (GHR, GEP, phương pháp mô hình hóa).
Xã hội Việt Nam hiện nay đang đối mặt với nhiều vấn đề cần được giải quyết Việc xác định những thách thức này là cần thiết để định hướng các chính sách phù hợp, dựa trên nguồn lực và tình hình kinh tế cũng như nhu cầu của người dân.
3 Lưu Tiến Dũng, Nguyễn Thị Kim Hiệp: “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Đồng Nai theo hướng bền vững” Nghiên cứu này trước hết tiếp cận vấn đề chất lượng tăng trưởng theo những đặc trưng của phát triển bền vững, đảm bảo hài hòa xen cài 3 trụ cột của phát triển bền vững là bền vững kinh tế, bền vững xã hội (trong đó con người là yếu tố then then chốt) và bền vững môi trường Tiếp đến nghiên cứu dựa trên phân tích đóng góp của các yếu tố đầu vào của nền kinh tế đối với tăng trưởng kinh tế địa phương bao gồm vốn, lao động và yếu tố tổng năng suất theo hướng bền vững Dựa vào tiêu chí phản ánh cấu trúc tăng trưởng: Tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng Cùng với với đó sử dụng các phương pháp định lượng và dữ liệu nghiên nghiên cứu để đưa ra những đánh giá và giải pháp kiến nghị nhằm nâng nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Đồng Nai theo hướng bền vững đến năm 2020 Kết quả nghiên cứu đã cho thấy tăng trưởng kinh tế Đồng Nai đang hướng theo bền vững, vai trò của lao động có chất lượng và công nghệ đối với GDP có xu hướng tăng trong khi vai trò của vốn sản xuất đối với GDP Đồng Nai đang có xu hướng giảm.
1.2.2 Các nghiên cứu nước ngoài
1 Alejandro Ramirez, Gustas Raniz, Frances Stewart: “Economic growth and
Tăng trưởng kinh tế (EG) và phát triển con người (HD) có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó tăng trưởng kinh tế cung cấp nguồn lực cần thiết cho phát triển bền vững Đồng thời, việc cải thiện chất lượng lực lượng lao động đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế Mối liên hệ giữa Tổng sản phẩm trong nước (GNP) và phát triển con người (HD) sẽ càng bền chặt hơn khi các yếu tố này được kết nối chặt chẽ trong quá trình phát triển.
Mức độ đói nghèo giảm cho thấy sự phân chia thu nhập ngày càng công bằng hơn, đặc biệt khi xét đến GNP trên đầu người ở một mức nhất định.
Các hộ gia đình có xu hướng phân bổ thu nhập nhiều hơn cho việc phát triển con người khi đạt đến một mức thu nhập nhất định Điều này đặc biệt liên quan đến việc nâng cao giáo dục cho nữ giới và tăng cường quyền kiểm soát thu nhập của phụ nữ trong gia đình.
- Tỷ lệ GNP dành cho chi tiêu xã hội ưu tiên của chính phủ càng cao
- Đóng góp xã hội ngày càng hiệu quả, bao gồm các tổ chức cộng đồng và các tổ chức phi chính phủ (NGOs) khác.
HDIF (Chức năng cải thiện phát triển con người) có hiệu quả lớn trong việc liên kết các yếu tố đầu vào, như chi tiêu công cho dịch vụ y tế và nước, với mục tiêu nâng cao sức khỏe và phát triển con người.
2 Elena Pelinescu: “The impacts of Human Capital on Economics Development” sử dụng một loạt các phương pháp luận từ các mô hình kinh tế lượng cấu trúc Solow được mở rộng bởi Mankiw, Rommer và Weil (1992) được gọi là mô hình MRW, đến các phân tích hội tụ do Barro và Sala i Martin (1992) đề xuất và cả các mô hình bảng dành riêng cho phân tích dữ liệu xuyên quốc gia (Islam, 1995) Một trong những vấn đề phương pháp luận chính là chọn chỉ số đại diện được sử dụng để đo lường vốn con người, vì mức độ ảnh hưởng bị ảnh hưởng bởi chỉ số được chọn cho mục đích này Trong nhiều bài báo, do khó xác định số năm đi học trung bình nên chỉ số này đã được thay thế bằng tỷ lệ nhập học gộp ở tiểu học, trung học và đại học hoặc bằng tỷ lệ nhập học (tỷ lệ biết chữ) Sử dụng số năm đi học để so sánh giữa các quốc gia, có nhược điểm là không biết chính xác liệu kiến thức thu được trong một năm học ở một quốc gia có trùng khớp với kiến thức thu được ở một quốc gia khác hay không để đảm bảo tính so sánh của dữ liệu và người ta cho rằng kiến thức chỉ đạt được ở trường, trong khi bỏ qua các nguồn đào tạo khác.
Các nghiên cứu về nhân tố tác động đến ảnh hưởng của tăng trưởng
tế đến phát triển con người.
1.3.1 Các nghiên cứu trong nước
Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Mai (2009) trong nghiên cứu về mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và giáo dục ở Đồng bằng sông Cửu Long đã chỉ ra rằng để phát triển nguồn lực con người, cần chú trọng đến năm yếu tố cơ bản: giáo dục và đào tạo, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, và tự do chính trị, kinh tế Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh rằng giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển nguồn lực con người.
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của cư dân thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay Bài viết tập trung vào những khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến chất lượng cuộc sống và phát triển con người, bao gồm: 1) Tình hình việc làm, năng suất lao động và thu nhập; 2) Hạ tầng giao thông, phương tiện đi lại và ý thức của người tham gia giao thông; 3) Sức khỏe, dịch vụ y tế, nơi điều trị, thuốc men, thái độ của bệnh viện và khả năng tự chăm sóc của bệnh nhân cùng gia đình; 4) Dịch vụ giáo dục, phương tiện học tập, văn hóa học đường và năng lực quản lý giáo dục; 5) Điều kiện sống như nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, bữa ăn đảm bảo dinh dưỡng và an toàn thực phẩm; 6) Quan hệ tình cảm trong gia đình, sự gắn kết giữa vợ chồng, con cái và mức độ yêu thương, tôn trọng lẫn nhau.
7) Quan hệ bạn bè, đồng nghiệp; 8) Không gian vui chơi giải trí văn hóa văn nghệ, sinh thái, du lịch, môi trường sống như không khí, ánh sáng, âm thanh; 9) Thể chế, môi trường xã hội và năng lực thực hiện tự do cá nhân, thực hiện quyền bình đẳng, quyền dân chủ (quyền thông tin, phát biểu ý kiến, sự tôn trọng khác biệt) trong gia đình, cộng đồng; 10) Đảm bảo an toàn thân thể và an ninh trong cuộc sống; 11) Văn hóa sống của bản thân (năng lực, lẽ sống, lý tưởng, nhu cầu, tính tự chủ, ý chí vươn lên, kỹ năng sống, ).
Trong luận án tiến sĩ của Trần Đ H (2009) tại Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu "Tăng trưởng kinh tế vì phát triển con người ở Việt Nam" chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển con người thông qua các chỉ số như tuổi thọ, tri thức và thu nhập trong chỉ số phát triển con người HDI Nghiên cứu cũng nhấn mạnh những yếu tố quan trọng cho phát triển con người bền vững, bao gồm sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước, sự phát triển của kinh tế tư nhân để tạo việc làm, bảo vệ tài nguyên môi trường, và nâng cao nhận thức của người dân về hành vi tiêu dùng.
Tiến Sĩ Hoàng Thanh Sơn (2009) trong bài luận án “Vấn đề phát triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” đã tổng quát hóa quá trình phát triển con người tại Vĩnh Phúc, nhấn mạnh tác động của hội nhập quốc tế đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị.
1.3.2 Các nghiên cứu nước ngoài
1 Yolanda, Y (2017), “Analysis of factors affecting inflation and its impact on human development index and poverty in Indonesia” Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa tuyến tính để thấy được tác động của các biến độc lập gồm tỷ lệ BI, Cung tiền và Rupiah, giá dầu thế giới, giá vàng đến các biến phụ thuộc gồm lạm phát, HDI và nghèo đói, được thể hiện qua các mô hình cụ thể:
X3 = tỷ lệ trao đổi ngoại tệ;
Nghiên cứu cho thấy lạm phát có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến chỉ số phát triển con người (HDI), với việc tăng 1 đơn vị lạm phát dẫn đến tăng 0.047 đơn vị HDI Tuy nhiên, chỉ số R^2 là 0,2238 cho thấy lạm phát chỉ giải thích được 22,38% sự thay đổi của HDI.
Suy ra mô hình không phù hợp để giải thích tác động của biến lạm phát đến biến HDI.
2 Noor Hashim Khan & Yanbing Ju & Syed Tauseef Hassan “Modeling the impact of economic growth and terrorism on the human development index: collecting evidence from Pakistan” Bài nghiên cứu sử dụng mô hình tự hồi quy phân phối trễ ( ARDL):
Mô hình LogHDIt = β0 + β1LogTIt + β2LogGDPt + β3LogEPCt + β4LogURBt + εt được sử dụng để phân tích tác động của các yếu tố độc lập như tăng trưởng kinh tế (GDP), khủng bố (TI), tiêu thụ điện năng (EPC) và ô nhiễm môi trường đô thị (URB) Những biến này có vai trò quan trọng trong việc đánh giá mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội hiện nay.
Nghiên cứu chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ điện năng và ô nhiễm môi trường đô thị có ảnh hưởng tích cực đến chỉ số phát triển con người (HDI), trong khi khủng bố lại tác động tiêu cực đến HDI Cụ thể, sự gia tăng tiêu thụ điện năng góp phần nâng cao HDI.
Tăng trưởng HDI có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển kinh tế và các yếu tố xã hội Cụ thể, khi GDP tăng 1%, HDI sẽ tăng 0,467%, trong khi một sự gia tăng 1% về khủng bố lại dẫn đến sự giảm 0,039% của HDI Đặc biệt, ô nhiễm môi trường đô thị có tác động mạnh mẽ hơn, với mỗi 1% gia tăng trong ô nhiễm sẽ làm HDI tăng lên tới 6,903% Những con số này cho thấy tầm quan trọng của các yếu tố kinh tế và môi trường đối với sự phát triển bền vững của chỉ số HDI.
3 Korhan K Gửkmenoğlua Martins Olugbenga Apinranb Nigar Taşpınar
“Impact of Foreign Direct Investment on Human Development Index in Nigeria”
Nghiên cứu này phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến chỉ số phát triển con người (HDI) Các nhà nghiên cứu đã áp dụng mô hình ước lượng DOLS để thực hiện phân tích này.
Phương pháp DOLS (dynamic ordinary least square) có thể áp dụng cho các biến độc lập với bất kỳ mức độ tích hợp nào, tuy nhiên, biến phụ thuộc cần phải ổn định tại điểm khác biệt đầu tiên Kỹ thuật ước lượng DOLS được ưa chuộng vì nó cho phép ước lượng các hệ số dài hạn hiệu quả cho các mẫu nhỏ, nhờ vào việc sử dụng mô phỏng Monte Carlo Hơn nữa, DOLS giúp loại bỏ các vấn đề nội tại và tự tương quan, từ đó cải thiện độ chính xác trong việc ước lượng các giá trị dài hạn của hệ số.
4 Niken Sulistyowati1 , Bonar Marulitua Sinaga2 , Novindra3
“Impacts of Government and Household Expenditure on Human Development Index”
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu phân cực, kết hợp giữa dữ liệu chuỗi thời gian và mặt cắt ngang từ 29 huyện và 6 thành phố trực thuộc trung ương trong giai đoạn 2004 đến 2011 tại Trung Java Mô hình được xây dựng thông qua phương pháp tiếp cận kinh tế lượng đồng thời hệ phương trình, bao gồm 5 khối: thu, chi, đầu vào của chính phủ, đầu ra và hiệu suất Nghiên cứu này bao gồm 26 phương trình, trong đó có 19 phương trình cấu trúc và 7 phương trình nhận dạng.
Thứ nhất, phương trình doanh thu thuế:
TAX = a0 + a1PDRB+ a2 TPP+ a3 INV + a4 TREND+ a5 LTAX+ u1 (1)
Thứ hai, phương trình doanh thu phi thuế:
NTAX = b0 + b1PDRB+ b2 TPP+ b3 POV + b4 PTK + b5 INV+ b6 TREND + b7 LNTAX+ u2 (2)
TAX là doanh thu từ thuế hàng năm (tỷ rupiah/năm), trong khi NTAX đại diện cho doanh thu phi thuế TPP thể hiện tổng chi tiêu của chính quyền địa phương (tỷ/năm), PDRB là tổng sản phẩm quốc nội khu vực (tỷ/năm), INV chỉ ra mức đầu tư (tỷ/năm), và LTAX là thuế của năm trước Điều này dẫn đến việc xem xét công bằng trong tổng thu của Chính phủ.
PENPEM = THUẾ +NTAX (3) b) Khối chi tiêu của Chính phủ: Thứ nhất, Phương trình Chi tiêu Chính phủ vì sức khỏe:
PKESP = c0 + c1PENPEM + c2 POP + c3TREND + c4 LPKESP + u3 (4) Thứ hai, Chi tiêu của Chính phủ cho Giáo dục
PPENP = d0 + d1PENPEM + d2 XU HƯỚNG + d3LPPENP + u4 (5)
Thứ ba, Chi tiêu của Chính phủ cho Cơ sở hạ tầng
PINF = e0 + e1 PENPEM + e2 PPL + e3 POV + e4 LPINF + u5 …… (6) Thứ tư, các khoản chi khác của chính phủ:
PPL = f0 + f1PENPEM + f2 POP+ f3 TREND + f4 LPPL+ u6 (7)
Thứ năm,cân bằng của Tổng chi tiêu của Chính Phủ
TPP = PKESP + PPENP + PINF + PPL (8)