TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU TÔM CÀNG XANH
Điều kiện tự nhiên
1.1 Vị trí địa lý của Việt Nam
Việt Nam, với hình dạng chữ S, tọa lạc ở trung tâm Đông Nam Á, giáp Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia ở phía Tây, và hướng ra biển Đông cùng Thái Bình Dương ở phía Đông và Nam Quốc gia này có tổng diện tích tự nhiên khoảng 330.957,6 km².
Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km và biên giới đất liền kéo dài trên 4.926,7 km, tiếp giáp với Campuchia, Trung Quốc và Lào Vị trí địa lý thuận lợi, với ba mặt giáp biển, mang lại cho Việt Nam nhiều lợi thế về giao thông và giao lưu kinh tế với các quốc gia trong và ngoài khu vực.
1.2 Điều kiện tự nhiên, khí hậu
Việt Nam, nằm trong vùng nội chí tuyến với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có nhiệt độ trung bình năm từ 22ºC đến 27ºC, bao gồm một mùa nóng mưa nhiều và một mùa lạnh ít mưa Ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc khiến nhiệt độ trung bình của Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Châu Á Với điều kiện tự nhiên và khí hậu thuận lợi, Việt Nam là nơi sinh trưởng và phát triển của nhiều loài động vật thủy sản quý hiếm, tạo lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu thủy sản so với các nước trong khu vực.
Việt Nam sở hữu hơn 2.860 con sông, suối và hàng ngàn hồ lớn nhỏ, với lưu lượng nước lớn nhưng phân bố không đều giữa các hệ thống sông và vùng miền Các sông ở Việt Nam chuyên chở khoảng 300 triệu tấn phù sa và bùn mỗi năm, trong đó sông Hồng đóng góp 130 triệu tấn và sông Tiền cùng sông Hậu cung cấp 100 triệu tấn Điều này cho thấy Việt Nam có tiềm năng tự nhiên lớn để phát triển ngành tôm theo hướng sản xuất hàng hóa.
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai như bão, lũ lụt và hạn hán hàng năm, điều này tác động lớn đến hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là sản xuất tôm Các hoạt động trong ngành thủy sản gắn liền với điều kiện tự nhiên và bị ảnh hưởng trực tiếp từ các hiện tượng thời tiết cực đoan.
1.3 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên các vùng sinh thái a) Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)
Vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là khu vực rộng lớn xung quanh hạ lưu sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm 11 tỉnh và thành phố: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình Khu vực này có vị trí địa lý thuận lợi, phía Đông giáp biển Vịnh Bắc Bộ, phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc và Trung Quốc, trong khi phía Nam giáp các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa, với thời tiết bất ổn và thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai như bão và lũ lụt Nhiệt độ trung bình dao động từ 22,5 đến 23,5 độ C, trong khi lượng mưa trung bình đạt từ 1.400 đến 2.000 mm Khí hậu tại đây được chia thành 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, với sự chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hạ có thể lên tới trên 10 độ C đến hơn 37 độ C Điều này khiến cho việc nuôi thủy sản trong khu vực chỉ khả thi với một vụ và gặp nhiều khó khăn vào mùa đông.
Trung tâm Đồng bằng Sông Hồng có địa hình bằng phẳng, với độ cao chủ yếu từ 0,4m đến 12m so với mực nước biển, trong đó 56% diện tích thấp hơn 2m Tuy nhiên, lịch sử đã chứng kiến sự biến đổi sâu sắc của thiên nhiên nơi đây do tác động của con người thông qua các hoạt động trị thủy, thủy lợi, cũng như quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa Khu vực nội đồng hiện có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi tôm càng xanh.
Với những hạn chế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, khí hậu của vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) khiến cho việc phát triển thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa lớn trở nên khó khăn, khác với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) Thay vào đó, ĐBSH chủ yếu tập trung vào việc cung cấp đủ nhu cầu tiêu thụ nội vùng Các loài tôm chủ yếu bao gồm tôm thẻ chân trắng, tôm sú và tôm càng xanh Trong khi đó, vùng Trung du miền núi phía Bắc (TDMNPB) cũng có những đặc điểm riêng trong phát triển thủy sản.
Vùng TDNMPB có vị trí địa lý đặc biệt với dãy núi cao nhất Việt Nam, địa hình đồi núi dốc và độ cao trên 1.000 m so với mực nước biển Phía bắc giáp Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc), phía tây giáp Lào, phía nam giáp ĐBSH và phía đông giáp Vịnh Bắc bộ Vùng này bao gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, và Hòa Bình Đặc điểm nổi bật của vùng là địa hình khó khăn, xa các trung tâm thành phố lớn, ảnh hưởng đến việc vận chuyển nhu yếu phẩm và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, thủy sản.
Vùng duyên hải miền Trung Việt Nam có vị trí hẹp ngang, kéo dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận với diện tích đất liền khoảng 96.000 km² Khu vực này nằm giữa hai đồng bằng phì nhiêu, được chia thành hai khu vực lớn: Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Duyên hải Nam Trung Bộ với các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên ở đây không thuận lợi, với địa hình hẹp và dốc cùng khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên phải đối mặt với hạn hán và bão lũ.
Khu vực ven biển miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà, có tiềm năng phát triển nuôi tôm trên cát (tôm sú, chân trắng) và nuôi tôm hùm Với nguồn nước đảm bảo, Nam Trung Bộ có thể trở thành trung tâm cung cấp giống tôm chất lượng cao cho toàn quốc.
Diện tích có thể phát triển nuôi trồng thủy sản ở Bắc Trung Bộ khoảng 52.000 ha, chiếm 1% diện tích tự nhiên của vùng Ngoài ra, vùng nước ngọt nội địa có diện tích trên 80.000 ha, bao gồm 18.500 ha ao hồ nhỏ, 24.500 ha mặt nước lớn và 24.700 ha ruộng trũng Bên cạnh đó, khu vực này còn có diện tích biển kín lớn tại Tĩnh Gia (Thanh Hoá) và vùng đầm phá ở Thừa Thiên-Huế, với tổng diện tích lên đến 37.600 ha.
Diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản tại Nam Trung Bộ lên tới hơn 43.000 ha, trong đó vùng triều chỉ chiếm hơn 1% tổng diện tích tự nhiên Khu vực eo vịnh kín gió với độ mặn cao khoảng 22.000 ha có tiềm năng phát triển nuôi biển đa dạng về quy mô và phương thức Tuy nhiên, diện tích các vùng nước ngọt nội địa chỉ khoảng 18.000 ha, hạn chế khả năng nuôi trồng thủy sản ở khu vực này.
Tây Nguyên là một khu vực có diện tích 54.474 km², chiếm 16,8% tổng diện tích cả nước, bao gồm 5 tỉnh: Kom Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng Vùng lãnh thổ này nằm ở cả Đông và Tây Trường Sơn, mang đến sự đa dạng về đất đai, địa hình và khí hậu.
Tổng quan tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm càng xanh
Theo FAO (2007), trên thế giới có khoảng 150 loài tôm thuộc giống Macrobrachium, chủ yếu phân bố ở Malaysia, Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka, Myanmar, Bangladesh và Việt Nam Nhiều loài trong số này đã được đưa vào sản xuất tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương Đặc biệt, tôm càng xanh (M rosenbergii, De Man 1879) là loài tôm nước ngọt có kích thước lớn và giá trị kinh tế cao, được phân bố rộng rãi tại Việt Nam.
TCX thường xuất hiện tại các khu vực như cửa sông, đầm lầy, mương vườn, kênh rạch và sông Chúng có khả năng di cư từ cửa sông lên các vùng cao hơn, kết nối với hồ và đồng ruộng ngập nước, có thể cách xa biển lên đến 200 km.
Vòng đời của tôm TCX rất phức tạp, bắt đầu từ việc tôm mẹ trưởng thành và đẻ trứng trong môi trường nước ngọt như ao, hồ và sông Sau khi ấp trứng, tôm cái di cư ra khu vực cửa sông có độ mặn từ 8-16‰ để thả ấu trùng vào nước Ấu trùng trải qua 11 giai đoạn biến thái cho đến khi trở thành hậu ấu trùng (postlarvae, PL) Cuối cùng, hậu ấu trùng tiếp tục di cư về vùng nước ngọt để sinh trưởng, phát triển và trưởng thành.
TCX là một đối tượng quan trọng trong nuôi trồng thủy sản, được nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, quan tâm phát triển Thịt TCX không chỉ thơm ngon, giàu dinh dưỡng mà còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao So với các loại tôm nước ngọt khác, TCX nổi bật với kích thước lớn, ít nhạy cảm với bệnh tật hơn tôm biển, khả năng chịu đựng phạm vi độ mặn rộng và khả năng sinh sản quanh năm, cho phép điều chỉnh thời gian sinh sản trong nhiều điều kiện sản xuất khác nhau.
TCX có khả năng nuôi ghép với nhiều loài thủy sản khác, do đó được nghiên cứu để phát triển trong các hệ thống nuôi thủy sản nước ngọt Tôm đực tăng trưởng nhanh hơn tôm cái, và tôm cái thành thục và sinh sản sớm, dẫn đến nhu cầu nuôi TCX toàn đực không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nuôi TCX toàn đực mang lại tốc độ tăng trưởng, năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn so với nuôi hỗn hợp tôm đực và cái trong cùng điều kiện nuôi Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng nuôi TCX toàn đực có hiệu quả kinh tế tốt hơn so với phương pháp nuôi hỗn hợp (New, M.B và W.C Valenti (Eds), 2000).
Thử nghiệm nuôi thương phẩm tôm càng xanh (TCX) đơn tính đầu tiên được thực hiện bởi Sagi và cộng sự vào năm 1986 Trong nghiên cứu này, giống TCX được chọn lựa thủ công khi tôm đạt hơn 2 tháng tuổi Sau 150 ngày nuôi, trọng lượng trung bình của tôm ở các nghiệm thức nuôi đơn tính đực, đơn tính cái và hỗn hợp lần lượt là 473g, 248g và một giá trị chưa được đề cập.
260 g/m 2 Thử nghiệm khác được tiến hành trong ao đất cũng cho kết quả tương tự, ao nuôi TCX đơn tính đực đạt hiệu quả kinh tế cao hơn 18%
Nghiên cứu của các nhà khoa học Ả rập Xê-út về năng suất và hiệu quả kinh tế trong nuôi TCX thâm canh đã so sánh ba nghiệm thức nuôi: toàn đực, hỗn hợp đực cái, và toàn cái trong bể xi măng với mật độ 5 con/m² Sau 112 ngày nuôi, kết quả cho thấy năng suất bể nuôi tôm toàn đực đạt 159 g/m², bể nuôi hỗn hợp là 132 g/m², và bể nuôi toàn cái chỉ đạt 80 g/m² Tỷ lệ tôm lớn hơn 20 g ở bể nuôi toàn đực lên tới 99%, trong khi bể nuôi hỗn hợp là 90% và bể nuôi toàn cái là 75%.
Một thí nghiệm tại Ấn Độ đã nuôi tôm TCX trong 15 ao diện tích 4.000 m² bằng tôm giống nhân tạo trong thời gian 5 tháng Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) về trọng lượng trung bình, năng suất và tốc độ tăng trưởng giữa ba nghiệm thức: toàn đực, hỗn hợp đực cái và toàn cái Nghiệm thức nuôi tôm toàn đực đạt kết quả cao nhất với trọng lượng 80,92 ± 2,41 g/con, năng suất 1.532 kg/ha và tốc độ tăng trưởng 1,97 ± 0,02 g/ngày Phân tích kinh tế cũng cho thấy nuôi tôm toàn đực mang lại lợi nhuận cao hơn so với nuôi tôm hỗn hợp và toàn cái (Nair, C.M và K.R Salin, 2012).
Một trong những thách thức lớn trong việc nuôi tôm càng xanh là sự hung hăng của các con đực, khiến việc nuôi thâm canh trở nên khó khăn hơn so với tôm sú hay tôm thẻ Hiện tại, mật độ nuôi tôm càng xanh chỉ khoảng 20 con/m2, thấp hơn nhiều so với 150 con/m2 của tôm thẻ Giải pháp cho vấn đề này là tạo giống tôm càng xanh đơn tính Nghiên cứu năm 2017 của Levy et al cho thấy nuôi tôm càng xanh toàn cái mang lại hiệu quả cao hơn về tỷ lệ sống, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và năng suất, đồng thời cho thu hoạch tôm có kích cỡ đồng đều Nuôi tôm càng xanh toàn đực cũng giúp giảm thiểu xung đột, cho phép tôm tập trung vào việc ăn uống, từ đó rút ngắn thời gian nuôi và nâng cao năng suất.
Hiện nay, nhiều nông dân đã chuyển sang nuôi tôm càng xanh do lợi nhuận cao hơn so với tôm sú và tôm thẻ Tôm càng xanh ngày càng được chú trọng và dự kiến sẽ trở thành xu hướng mới cho ngành tôm toàn cầu trong tương lai.
Nuôi tôm càng xanh mang lại lợi nhuận cao và phù hợp với nhiều mô hình nuôi, từ nuôi trên cạn đến nuôi công nghiệp và quy mô nhỏ Loại tôm này đặc biệt thích hợp với hệ thống nuôi ghép cùng các loại cá nước ngọt như chép, rô phi, diếc và tra Tại châu Á và Brazil, mô hình nuôi ghép tôm càng xanh trong ruộng lúa được xem là tiềm năng, giúp giảm nhu cầu sử dụng thuốc trừ sâu nhờ việc tôm ăn côn trùng và sâu bọ, đồng thời cải thiện chất lượng đất và dinh dưỡng cho cây lúa.
Theo FAO (2017), tổng sản lượng tôm càng xanh trên toàn cầu đã tăng từ 196.848 tấn lên 213.958 tấn trong giai đoạn 2004 – 2015, với sự sản xuất chủ yếu diễn ra tại khu vực châu Á Các quốc gia dẫn đầu trong sản xuất tôm càng xanh bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam.
Nghề nuôi tôm càng xanh ở Trung Quốc bắt đầu từ những năm 1970, nhưng chỉ phát triển mạnh mẽ từ những năm 1990 do nhu cầu tiêu thụ nội địa gia tăng Đến năm 1993, tôm càng xanh đã được nuôi tại 12 tỉnh với sản lượng hơn 1.000 tấn, và con số này tăng lên 24 tỉnh và hơn 100.000 tấn vào năm 2000 Mặc dù Trung Quốc không có giống tôm càng xanh tự nhiên, nhưng hiện nay, giống tôm này đã trở thành một trong những giống tôm nuôi chủ lực của nước này, chủ yếu được nuôi trong ao đất và theo hình thức xen canh Dự báo diện tích nuôi tôm càng xanh sẽ tiếp tục mở rộng do sự ưa chuộng ngày càng tăng của người tiêu dùng Năm 2010, sản lượng tôm càng xanh tươi sống tại Trung Quốc đạt trên 400.000 tấn, bao gồm cả tôm đánh bắt tự nhiên.
Hoạt động nuôi tôm càng xanh tại Ấn Độ đã phát triển mạnh mẽ từ năm 1999, trở thành loài thủy sản nước ngọt quan trọng nhất, chủ yếu được nuôi ở các ao nhỏ đến trung bình ở Andhra Pradesh và Tamil Nadu Theo Cơ quan quản lý xuất khẩu thủy sản Ấn Độ, sản lượng tôm càng xanh đạt đỉnh vào năm 2005-2006 với 42.780 tấn, trong đó Andhra Pradesh chiếm 70% Thời điểm này cũng ghi nhận sự gia tăng đáng kể trong tiêu thụ nội địa, với sản lượng và giá trị xuất khẩu đạt 6.341 tấn và 57,65 triệu USD vào năm 2005.
Năm 2010, xuất khẩu tôm càng xanh của Ấn Độ đạt 3.401 tấn, tương đương 34,84 triệu USD Tuy nhiên, ngành tôm càng xanh đang gặp khó khăn do dịch bệnh, chất lượng thức ăn và nguồn nước không đảm bảo, cùng với chi phí sản xuất và nhân công tăng cao Thêm vào đó, nhiều vùng nuôi tôm lớn đã chuyển sang nuôi các loại tôm khác như tôm thẻ chân trắng và tôm sú.
Hiện trạng phát triển sản xuất tôm càng xanh tại Việt Nam
3.1 Hiện trạng sản xuất và cung ứng giống Ở Việt Nam, nghề nuôi TCX tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phát triển nhanh trong những năm gần đây Tổng số con giống TCX sản xuất nhân tạo năm 2018 là khoảng hơn 1 tỷ con giống (Báo cáo điều tra nhiệm vụ thường xuyên,Viện Thủy Sản II) so với 1 triệu con năm 1998 Kết quả này cho thấy sản xuất tôm giốngđã phát triển mạnh mẽ phục vụ nghề nuôi TCX ở ĐBSCL, trong đó nguồn giống nhân tạo chiếm đại đa số lượng tôm thả nuôi
Khu vực ĐBSCL là nơi tập trung các trại sản xuất giống TCX cao nhất cả nước Năm 2010 có 52 trại, số giống sản xuất được 252 triệu con Đến năm
2018, đã có hơn 100 trại giống trong đó tập trung chủ yếu ở Bạc Liêu, Kiên Giang, Đồng Tháp, sản lượng tôm giống ước đạt 0,84tỷ con
Bả ng 1:Thống kê trại giống tại các tỉnh được khảo sát
TT Chỉ tiêu kỹ thuật Kiên Giang Bạc Liêu An Giang Đồng Tháp
1 Số lượng trại giống (trại)
(Nguồn: Khảo sát thực tế, 2019)
An Giang là tỉnh hàng đầu trong việc sản xuất tôm giống, đáp ứng nhu cầu nuôi tôm công nghiệp tại địa phương và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long Năm 2012, Trung tâm Giống Thủy sản An Giang đã hợp tác với Tập đoàn Tiran của Israel thông qua công ty New Horizone Việt Nam để phát triển giống tôm công nghiệp toàn đực độc quyền tại tỉnh này.
Từ tháng 11/2012 đến cuối tháng 03/2018, sự hợp tác tại An Giang đã cung cấp cho thị trường hơn 82,3 triệu con post và khoảng 397 triệu ấu trùng TCX toàn đực, theo báo cáo của Trung Tâm Giống Thủy sản An Giang trong các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017 và quý I/2018.
Hiện nay, con giống TCX toàn đực sản xuất theo công nghệ Israel đang là lựa chọn hàng đầu cho người nuôi TCX thương phẩm Trung tâm giống thủy sản An Giang đóng vai trò là hệ thống giống cấp 1, cung cấp con ấu trùng toàn đực chất lượng cho các cơ sở vệ tinh trong tỉnh và mở rộng thêm quy mô sản xuất.
Hiện nay, có 12 trại vệ tinh được phân bổ tại các tỉnh lân cận, bao gồm 05 trại tại Cần Thơ, 02 trại tại Bến Tre, và 05 trại tại Kiên Giang, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Tiền Giang (mỗi tỉnh 01 trại) Số lượng trại vệ tinh này sẽ tiếp tục gia tăng, nhằm cung cấp nguồn giống TCX toàn đực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người nuôi trong và ngoài tỉnh Việc chủ động nguyên liệu đầu vào và thiết lập chuỗi giá trị sản phẩm khép kín từ con giống đến tôm thương phẩm sẽ nâng cao tính cạnh tranh của tôm càng xanh trong tỉnh, đồng thời tăng tiềm năng xuất khẩu.
Trung tâm Giống thủy sản An Giang đã nâng cao chất lượng giống tôm càng xanh toàn đực và xây dựng thương hiệu mạnh mẽ Đơn vị đã đăng ký và công bố tiêu chuẩn chất lượng với số công bố TCCS 02:2018/TCXG-02 vào ngày 02 tháng 03 năm 2018.
Về công nghệ sản xuất giống TCX hiện nay ở ĐBSCL có hai quy trình sản xuất giống chính đang được sử dụng gồm:
Quy trình sản xuất giống tôm TCX theo mô hình nước trong hở sử dụng công nghệ thay nước hàng ngày, giúp duy trì môi trường ương ấu trùng luôn tốt và đảm bảo chất lượng Kỹ thuật quy trình dễ sử dụng, thích hợp cho khu vực nuôi TCX, mang lại tôm post chất lượng cao, màu sắc tươi sáng, kích cỡ lớn và khả năng thích nghi tốt khi ra ao ương và nuôi thương phẩm.
Quy trình sản xuất giống TCX theo phương pháp “nước trong hở” hiện gặp phải tình trạng tỷ lệ sống không ổn định do việc thay nước hàng ngày, dễ gây sốc môi trường như nhiệt độ, độ mặn và chất lượng nước Kỹ thuật này chỉ phù hợp với khu vực sản xuất giống ven biển, trong khi ở những vùng khác, chi phí nước mặn cao làm tăng giá thành sản xuất Hơn nữa, việc sử dụng lượng nước lớn để thay trong bể ương ấu trùng, cùng với thức ăn và thuốc điều trị bệnh quá nhiều, dẫn đến ô nhiễm môi trường ương giống, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nuôi tôm thương phẩm.
Quy trình nước xanh cải tiến trong sản xuất giống TCX sử dụng công nghệ tảo Chlorella spp., được bổ sung vào môi trường ương ấu trùng mà không cần thay nước Phương pháp này giúp tiết kiệm chi phí nước biển và tảo đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát môi trường, nâng cao tỷ lệ sống của tôm, từ đó giảm giá thành con giống.
Quy trình sản xuất giống TCX theo kỹ thuật nước xanh cải tiến tại một số trại giống hiện đang gặp nhiều vấn đề, bao gồm mật độ ấu trùng cao (100-120 ấu trùng/lít) và việc bổ sung quá nhiều tảo mà không kiểm soát được mật độ tảo trong môi trường ương Tỷ lệ sống của ấu trùng chưa ổn định, đặc biệt khi tảo tàn, gây ô nhiễm môi trường nước ương Hơn nữa, quy trình này cũng gặp khó khăn trong việc duy trì tảo và ấu trùng sống, dẫn đến tình trạng ít thay nước và làm cho PL dễ mẫn cảm với môi trường Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống của con giống khi chuyển ra ao ương hay ao nuôi, gây thiệt hại cho người nuôi Do đó, cần nghiên cứu cải tiến quy trình nước xanh để tạo ra một quy trình sản xuất giống hoàn chỉnh hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành nuôi trồng.
Thời gian sản xuất giống tôm sú TCX tại các trại giống thường kéo dài và phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết cũng như mùa vụ Sản lượng và năng suất của giống TCX thường thấp hơn so với tôm biển, trong khi nhu cầu cung cấp giống TCX cho nuôi thương phẩm, đặc biệt ở quy mô công nghiệp, lại rất lớn trong thời điểm chính vụ.
Nguồn tôm bố mẹ hiện tại chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng Việc thiếu kế hoạch và liên kết chặt chẽ giữa người nuôi và nhà sản xuất giống dẫn đến tình trạng thiếu giống trong mùa vụ chính, buộc phải nhập khẩu từ các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc và Thái Lan.
Chi phí sản xuất giống tôm càng xanh hiện đang cao do quá trình sản xuất phụ thuộc vào nguồn thức ăn tự nhiên như artemia và tảo, đồng thời thời gian sản xuất cũng kéo dài.
Cần tăng cường ứng dụng công nghệ trong quy trình sản xuất giống nước, bao gồm sản xuất giống nước trong hệ thống hở tại vùng ven biển, sản xuất giống nước trong tuần hoàn, và sản xuất giống nước xanh ở vùng nội đồng Đồng thời, cần phát triển và cải thiện tỷ lệ sống trong khâu sản xuất giống TCX để đảm bảo hiệu quả và bền vững.
Việc sản xuất giống tôm càng xanh (TCX) hàng loạt ở quy mô thương mại là cần thiết để đánh giá khả năng và hiệu quả cung cấp giống cho khu vực ĐBSCL và toàn quốc Phát triển công nghệ sản xuất giống TCX đạt quy mô hàng hóa không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã hội mà còn là bước đột phá trong kế hoạch phát triển sản xuất và xuất khẩu tôm càng xanh Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, ĐBSCL sẽ trở thành vùng trọng điểm trong việc sản xuất và cung ứng giống TCX phục vụ cho nuôi thương phẩm, không chỉ cho khu vực mà còn cho các vùng nuôi TCX khác trên toàn quốc.
3.2 Hiện trạng phát triển sản xuất và xuất khẩu TCX tại Việt Nam
3.2.1 Hiện trạng phát triển sản xuất thương phẩm tôm càng xanh
Đánh giá chung
Các tỉnh Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), miền núi phía Bắc và đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sở hữu hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt cùng nhiều vùng đất lúa ngập sâu Điều kiện thời tiết nắng ấm quanh năm và nguồn nước dồi dào, trong sạch tạo thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản (TCX), cho phép người dân có thể thả nuôi TCX quanh năm.
TCX là loài cá phân bố tự nhiên tại Việt Nam, và hiện nay, Việt Nam đã phát triển công nghệ sản xuất giống TCX toàn đực thông qua phương pháp vi phẫu tạo con cái giả Ngoài ra, các quy trình sản xuất giống TCX khác như quy trình nước trong hở và quy trình nước xanh cải tiến cũng đã được áp dụng Hệ thống sản xuất giống TCX 02 cấp đã được xây dựng với sự hỗ trợ từ các trung tâm giống thủy sản.
An Giang và các cơ sở sản xuất giống vệ tinh cấp 2 tại 05 tỉnh vùng ĐBSCL, đáp ứng được một phần giống cho nhu cầu nuôi thương phẩm
Quy trình kỹ thuật nuôi TCX đã được nghiên cứu và áp dụng trong thực tiễn sản xuất, tuy nhiên vẫn còn nhiều khía cạnh kỹ thuật cần cải tiến để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Người nuôi tôm TCX sở hữu lực lượng lao động dồi dào và giàu kinh nghiệm, đã được đào tạo bài bản về kỹ thuật nuôi và phòng trị bệnh, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất.
Tôm càng xanh là một loại thủy sản có giá trị dinh dưỡng cao, được thị trường Trung Quốc và nhiều quốc gia trong khu vực ưa chuộng.
Năm 2020, Trung Quốc đã chính thức đồng ý danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, bao gồm nhóm tôm càng (Macrobrachium) Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc xuất khẩu tôm càng xanh một cách hợp pháp.
(Macrobrachium rosenbergii) và các loài khác thuộc nhóm tôm càng sang thị trường đầy tiềm năng này
Trung Quốc, với dân số đông và vị trí địa lý gần gũi với Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển các mặt hàng tươi sống giá trị như thủy sản Thị trường này mang lại tiềm năng lớn cho xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai Đồng thời, nhu cầu nội địa phục vụ khách du lịch cũng đang gia tăng, mở ra cơ hội phát triển cho ngành hàng này.
Mặc dù nghề nuôi tôm công nghiệp (TCX) tại Việt Nam có nhiều thuận lợi, nhưng vẫn đang phải đối mặt với một số khó khăn và thách thức cần được khắc phục để đảm bảo sự phát triển bền vững trong sản xuất.
Hiện nay, các cơ sở sản xuất giống tôm chân trắng (TCX) tại Việt Nam chưa đủ năng lực để cung ứng số lượng lớn con giống chất lượng trong mùa vụ thả tôm, dẫn đến tình trạng thiếu giống cục bộ từ tháng 4 đến tháng 7 âm lịch Do đó, một lượng lớn giống TCX phải được nhập khẩu từ nước ngoài, gây khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng và dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm, kích thước tôm thương phẩm nhỏ, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu Hơn nữa, quy trình sản xuất giống TCX chưa ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, với thời gian kéo dài và năng suất thấp, không đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng con giống, trong khi chi phí sản xuất giống TCX toàn đực lại cao.
- Chất lượng TCX giống chưa ổn định, ảnh hưởng đến chất lượng và kích cỡ tôm càng xanh nuôi thương phẩm
Nuôi thương phẩm tôm TCX gặp khó khăn trong việc duy trì mật độ cao do đặc tính ăn thịt lẫn nhau và tỷ lệ tôm đực thấp hơn so với tôm cái khi thu hoạch, mặc dù tỷ lệ giới tính ở giai đoạn giống được cho là 1:1 Điều này ảnh hưởng đến năng suất vụ nuôi và hiệu quả của mô hình nuôi TCX Hiện nay, xu hướng nuôi tôm đơn tính, tách biệt giữa con đực và con cái, đang ngày càng phổ biến.
Sản xuất tôm càng xanh (TCX) tại Việt Nam hiện đang ở quy mô nhỏ, chỉ đạt vài chục tấn, và chủ yếu thu gom từ nhiều hộ gia đình, dẫn đến sản lượng không đủ cho xuất khẩu Kích cỡ tôm thu hoạch không đồng đều, khó đáp ứng yêu cầu thị trường (8-12 con/kg) Thời gian nuôi tôm kéo dài từ 4-6 tháng, với sản phẩm tập trung chủ yếu vào cuối năm (từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau), gây khó khăn trong việc chủ động nguồn cung cho xuất khẩu Do đó, cần tổ chức sản xuất TCX theo quy mô hàng hóa, nâng cao chất lượng và sản lượng để hướng đến thị trường xuất khẩu hiệu quả hơn.