TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI BÀI TẬP LỚN MÔN: Phương pháp nghiên cứu kinh tế Đề tài:Năng lực cạnh tranh của các mặt hàng nông sản của Việt Nam . Giảng Viên: Lưu Quốc Đạt Lớp: TCNHCLC4 Contents DANH MỤC BẢNG 4 LỜI NÓI ĐẦU 1 0.2. Mục đích nghiên cứu 2 0.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2 0.4. Phương pháp nghiên cứu 3 0.5. Bố cục của đề tài 3 CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN 4 1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường 4 1.2. Giới thiệu tổng quan về sản xuất nông sản tại Việt Nam 18 1.3. Bài học kinh nghiệm về năng lực cạnh tranh của các nước trên thế giới 27 1.4. Bài học rút ra cho Việt Nam 28 1.5. Tóm tắt chương 1 31 CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN 32 2.1. Phân tích tình hình thị trường 32 Cà phê 32 Gạo: 32 Chè: 33 Hồ tiêu: 34 Gạo 36 Tinh bột sắn 37 Điều và các sản phẩm từ điều 37 Tiêu 38 Nguyên liệu và thành phẩm gỗ 38 2.2. Các quy định pháp lý đối với hàng nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới 38 Bảng 2.1. Chi tiết tiêu chuẩn gạo Xuất khẩu 39 Bảng 2.2. Nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới 41 2.3. Giới thiệu tổng quan về hàng nông sản Việt Nam 43 Bảng 2.4. Quy mô sản xuất hàng nông sản giai đoạn 2011 – 2013 43 2.4. Tóm tắt chương 2 49 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM 51 3.1. Cơ sở đề ra giải pháp 51 3.2. Xu hướng của thế giới 55 3.3. Các giải pháp cụ thể 56 3.4. Tóm tắt chương 3 58 KẾT LUẬN 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Chi tiết tiêu chuẩn gạo Xuất khẩu 42 Bảng 2.2. Nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới 44 Bảng 2.3. Quy mô sản xuất hàng nông sản giai đoạn 2011 – 2013 47 LỜI NÓI ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, trong xu huớng toàn cầu hóa, các quốc gia luôn phải cạnh tranh với nhau để tự khẳng định mình cũng như để có đủ khả năng tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế khốc liệt và khó khăn như hiện nay Việt Nam là một nước nông nghiệp có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển ngành nông nghiệp nói chung cũng như sản xuất ra nhiều loại nông sản có giá trị lớn. Xuất khẩu nông sản từ lâu đã đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm và thu nhập cho người dân. Hơn nữa, xuất khẩu nông sản còn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, tạo động lực quan trọng cho việc phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là một trong những mũi nhọn nhằm phát triển kinh tế, xã hội của đất nước Trong bối cảnh hiện nay xu thế hội nhập hóa thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Cùng với xu thế đó, những năm gần đây Việt Nam cũng đang tích cực hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu đã và sẽ đem lại nhiều cơ hội cho nước ta nhưng chúng ta cũng sẽ gặp phải những thách thức lớn hơn. Việt Nam muốn hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới thì tất yếu phải đưa ra những sản phẩm có năng lực cạnh tranh hay có lợi thế so sánh đối với các mặt hàng nông sản khác từ các quốc gia trên thế giới Vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá năng lực cạnh tranh hàng Việt Nam , đặc biệt là hàng nông sản để tăng năng lực xuất khẩu nông sản từ Việt Nam với các nước khác là vấn đề mà tác giả đề cập trong bài viết này. Trên cơ sở phân tích đặc điểm thị trường nông sản thế giới nói chung cũng như khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam nhằm đưa ra các đánh giá, những giải pháp nâng cao hơn nữa khả năng canh tranh của hàng nông sản Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế toàn cầu Hàng nông sản của Việt Nam rất đa dạng và phong phú, trong phạm vi đề tài tác giả tìm hiểu đề tài: ―khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong những năm qua và các giải pháp thúc đẩy khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam 1.2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và sức cạnh tranh của hàng nông sản, làm rõ sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập chung với nền kinh tế toàn cầu. Trên cơ sở đó phân tích và đánh giá khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản chủ yếu, chỉ rõ những điểm mạnh, yếu so với các đối thủ cạnh tranh và nguyên nhân gây những điểm yếu đó, đồng thời đề ra những giải pháp góp phần thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam 1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: tập trung chủ yếu vào phân tích năng lực, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới giai đoạn 2011 – 6 tháng đầu năm 2014 để đưa ra các giải pháp cho khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, nhằm đưa ra cái nhìn khách quan về ngành nông nghiệp Việt Nam, cụ thể ở đây là nông sản Phương pháp thống kê, so sánh và phân tích để thu thập những thông tin, phân tích những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam Phân tích kết hợp với lý luận và thực tiễn để đưa ra các giải pháp nhằm đẩy mạnh khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong thời gian tới 1.5. Bố cục của đề tài Bố cục đề tài gồm 3 chương CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường 1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất được sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình của nó thấp hơn các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Theo cách hiểu này thì doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm tương tự sản phẩm của doanh nghiệp khác trên thị trường thì có khả năng cạnh tranh cao hơn Năng lực cạnh tranh của sản phẩm chính là yếu tố đảm bảo sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường, đặt biệt là sự phát triển của một quốc gia trên thị trường thế giới. Sản phẩm có sức cạnh tranh tức sản phẩm có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay mức giá cân bằng. Sản phẩm có sức cạnh tranh sẽ tạo được mặt vượt trội hơn về giá cả, chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường, tạo nên sức hấp dẫn đối với khách hàng trong quá trình sử dụng Theo Randall: khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật để chiếm lĩnh thị phần, thị trường và khách hàng giữa các đối thủ với nhau Cạnh tranh là việc sử dụng các mưu mô, thủ đoạn, chiến lược, chiến thuật để đạt được ưu thế cao hơn so với đối thủ
SỞ LÝ LUẬN
Cơ sở lý luận về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh hàng hóa trên thị trường
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định bởi khả năng sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn so với các sản phẩm tương tự trên thị trường.
Theo cách hiểu này, doanh nghiệp có khả năng sản xuất sản phẩm tương tự như của đối thủ trên thị trường sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nó trên thị trường toàn cầu Sản phẩm có sức cạnh tranh có khả năng duy trì vị thế khi giá thấp hơn hoặc cung cấp chất lượng tương đương với mức giá hợp lý Điều này tạo ra lợi thế về giá cả, chất lượng và cách thức hoạt động, từ đó thu hút khách hàng trong quá trình sử dụng.
Theo Randall: khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định
Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật để chiếm lĩnh thị phần, thị trường và khách hàng giữa các đối thủ với nhau
Cạnh tranh là việc sử dụng các mưu mô, thủ đoạn, chiến lược, chiến thuật để đạt được ưu thế cao hơn so với đối thủ
Cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế trong điều kiện thị trường tự do và công bằng, đồng thời giữ vững và gia tăng thu nhập thực tế cho người dân.
Cạnh tranh kinh tế là sự cạnh tranh giữa các chủ thể như nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng và thương nhân, nhằm giành lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ Mục tiêu của họ là tối đa hóa lợi ích kinh tế và thương mại cho bản thân.
Cạnh tranh diễn ra giữa các nhà sản xuất và phân phối, cũng như giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, khi doanh nghiệp muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao trong khi người tiêu dùng lại tìm kiếm mức giá thấp Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp là cách thức mà họ đối đầu với các đối thủ trong cùng ngành để thu hút khách hàng và tối ưu hóa lợi nhuận.
Cạnh tranh trong kinh doanh có thể được thực hiện qua nhiều biện pháp khác nhau, bao gồm cạnh tranh giá cả như giảm giá và cạnh tranh phi giá cả như khuyến mãi và quảng cáo Mức độ cạnh tranh của một doanh nghiệp, ngành hoặc quốc gia phản ánh khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường trong điều kiện tự do và công bằng, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập thực tế cho người lao động.
Cạnh tranh kinh tế là quy luật tự nhiên trong sản xuất hàng hóa, xuất phát từ quy luật giá trị Sự phân công lao động và tách biệt giữa các nhà sản xuất dẫn đến cạnh tranh nhằm tìm kiếm điều kiện thuận lợi hơn, như nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ, và thị trường tiêu thụ thuận lợi Mục tiêu của cạnh tranh là giảm thiểu hao phí lao động cá biệt, từ đó gia tăng lợi nhuận Khi còn tồn tại sản xuất hàng hóa và phân công lao động, cạnh tranh sẽ luôn hiện hữu.
Cạnh tranh là yếu tố thiết yếu trong hoạt động kinh tế thị trường, với mục tiêu chiếm lĩnh thị phần và tối đa hóa lợi nhuận Câu nói "thương trường như chiến trường" phản ánh sự khốc liệt của môi trường cạnh tranh tự do, nơi các doanh nghiệp phải nỗ lực để tiêu thụ sản phẩm và đạt được vị thế vững chắc.
1.1.2 Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh đóng vai trò thiết yếu trong sản xuất hàng hóa và nền kinh tế, là động lực chính thúc đẩy sự phát triển sản xuất, từ đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế.
1.1.2.1 Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân:
Cạnh tranh là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động Một nền kinh tế mạnh mẽ cần có các doanh nghiệp phát triển với khả năng cạnh tranh cao, nhưng cần đảm bảo đó là cạnh tranh hoàn hảo và lành mạnh Cạnh tranh độc quyền gây ra môi trường kinh doanh không bình đẳng, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích và làm nền kinh tế trở nên không ổn định Do đó, Chính phủ cần thực thi các biện pháp chống độc quyền để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh Cạnh tranh hoàn hảo sẽ loại bỏ những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu với chi phí thấp nhất và hiệu quả cao nhất, từ đó thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2 Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dùng:
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp, khách hàng là người hưởng lợi nhiều nhất Sự cạnh tranh không chỉ giúp người tiêu dùng không phải chịu áp lực mà còn mang lại những lợi ích như sản phẩm chất lượng cao hơn, giá cả hợp lý hơn và dịch vụ tốt hơn Đồng thời, khách hàng cũng tác động đến sự cạnh tranh thông qua việc đặt ra yêu cầu về chất lượng hàng hóa, giá cả và dịch vụ Khi nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên gay gắt hơn nhằm thu hút nhiều khách hàng hơn.
1.1.2.3 Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp:
Cạnh tranh thúc đẩy các nhà sản xuất phải linh hoạt và nhạy bén hơn trong việc nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng Họ cần tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật và áp dụng các nghiên cứu mới nhất vào sản xuất Việc hoàn thiện cách thức tổ chức và quản lý sản xuất là cần thiết để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế Ngược lại, thiếu cạnh tranh hoặc tình trạng độc quyền thường dẫn đến sự trì trệ và kém phát triển.
Cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng để vươn lên và chiếm ưu thế Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đồng thời cải tiến kiểu dáng và mẫu mã để đáp ứng nhu cầu khách hàng Sự cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng công nghệ mới và hiện đại, tạo áp lực để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn lực, giảm giá thành, cải thiện chất lượng và phát triển các sản phẩm mới với tính cạnh tranh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ giúp doanh nghiệp khẳng định bản lĩnh và khả năng của mình trong kinh doanh Nếu doanh nghiệp có thể vượt qua áp lực cạnh tranh, nó sẽ trở nên vững mạnh và phát triển hơn trên thị trường.
Giới thiệu tổng quan về sản xuất nông sản tại Việt Nam
1.2.1 Sự hình thành và phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam
Sản xuất nông lâm là lĩnh vực then chốt cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, trải qua nhiều biến động kể từ khi đất nước thống nhất.
1975 Sự tăng trưởng mạnh được ghi nhận vào năm 1976—tăng đến 10% so với năm 1975—nhưng sản xuất lại giảm khoảng đến còn 95% trong những năm 1976, 1977 và
1978 và sự phục hồi đáng kể trong năm 1979
Trong giai đoạn này, trồng trọt và chăn nuôi đã giúp bù đắp sự thiếu hụt của nông nghiệp Cụ thể, năm 1977, sản lượng gia súc tăng 8% đã bù đắp cho sự sụt giảm 8% của sản lượng cây trồng, chủ yếu do giảm 1 triệu tấn gạo Tuy nhiên, đến năm 1978, tình hình đã thay đổi khi sản lượng gia súc giảm mạnh trong khi sản lượng thóc lúa bắt đầu tăng Lúc này, giá trị sản lượng cây trồng đã vượt hơn bốn lần so với sản lượng gia súc.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là thời tiết thất thường như trận hạn hán năm 1977 và các trận bão lũ năm 1978 Hạn hán đã làm giảm lượng nước cần thiết cho cây trồng, dẫn đến việc cây chết dần, trong khi lũ lụt đã giảm số lượng gia súc xuống tới 20% Thống kê về sự giảm sút số lượng gia súc so với mục tiêu định hướng những năm 1978 và 1980 không được công bố rộng rãi Những kế hoạch sai lầm nghiêm trọng vào cuối thập niên 1970 đã làm chậm lại sự phát triển của ngành nông nghiệp Ngoài ra, vấn đề thiếu hụt phân bón hoá học, thuốc trừ sâu và các dụng cụ cơ khí cũng đang là thách thức lớn đối với ngành này.
Mặc dù đối mặt với tình trạng thiếu lương thực và vật liệu trong những năm đầu, chính phủ vẫn kiên quyết thực hiện các chính sách đã đề ra, hy vọng sản xuất lương thực đủ cho nhu cầu của mỗi người Tuy nhiên, vào năm 1980, sản lượng lương thực dự kiến chỉ đạt khoảng 15 triệu tấn đến 21 triệu tấn, nhưng thực tế lại không đạt được mục tiêu mong muốn.
Chính sách nông nghiệp từ năm 1976 đến 1980 đã mang lại những kết quả trái ngược Mặc dù khuyến khích trồng các loại cây lương thực có năng suất cao như cà chua, sắn, đậu và bắp, sản lượng chỉ tăng dưới 10% vào năm 1975 và đạt mức tăng 20% vào cuối thập niên 1970 Trong hai năm 1978 và 1979, chính phủ đã nỗ lực tăng cường tiêu thụ nông sản ở vùng nông thôn và cải thiện giá thành thông qua các hợp đồng hứa hẹn lợi nhuận cho nông dân Tuy nhiên, sự thiếu hụt nguồn cung và năng lực quản lý của các quan chức đã dẫn đến thất bại của chính sách này.
Việc không thể hợp nhất nông nghiệp đã dẫn đến thất bại, buộc chính quyền phải áp dụng vũ lực để ép buộc nông dân hợp tác, nhưng chính sách này lại phản tác dụng Cuối những năm 1978 và 1979, các nhà lãnh đạo chính quyền đã kiểm soát tình hình nông nghiệp, giúp tăng sản lượng nông sản còn thiếu.
Vào khoảng năm 1959-1960, hình thức làm việc chung giữa các nông dân miền Bắc đã được hình thành, và đến năm 1965, khoảng 90% tài sản của nông dân đã trở thành tài sản chung Đến năm 1975, hơn 96% tài sản nông dân đã thuộc về chính quyền nhà nước để phân chia cho người dân, cho thấy nông dân đã đóng góp đất đai, tài sản và gia súc để đổi lấy thu nhập.
Khoảng thời gian từ 1976 đến 1980, chính sách nông nghiệp ở miền Bắc được thực hiện bởi chính quyền mới nhằm kiểm soát kế hoạch trồng trọt và nông nghiệp Sự kiểm soát lỏng lẻo trong những năm chiến tranh đã dẫn đến việc siết chặt chính sách để tăng cường nhân lực cho các nghĩa vụ khác, tuy nhiên điều này đã làm giảm năng suất lao động Một khảo sát của một người Việt ở nước ngoài về 10 hợp tác xã sản xuất gạo cho thấy, mặc dù có sự gia tăng về nhân công và diện tích gieo trồng trong giai đoạn này.
75, 76 và 77, nhưng sản lượng lại giảm trong khi chi phí lại tăng so với những các năm
Mặc dù không xem xét đến thời tiết và các yếu tố khác, những phát hiện này vẫn phù hợp với kết luận của các nghiên cứu về ảnh hưởng của mô hình tập thể hóa tại các quốc gia khác.
Vốn đầu tư từ quốc gia cho nông nghiệp trong năm thứ ba của kế hoạch 5 năm vẫn duy trì ở mức thấp, gây ra nhiều khó khăn cho các quận huyện trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Trong giai đoạn từ 1986 đến 1987, sản lượng thóc chỉ tăng 5% mỗi năm, trong khi nhu cầu lương thực để đáp ứng mức tăng dân số 2,3% trong thập niên 1980 vẫn chưa đủ Mặc dù số lượng lương thực có thể đáp ứng nhu cầu, mức tiêu thụ trung bình hàng năm của mỗi người vẫn thấp hơn 300 kg Theo thông tin từ chính quyền Việt Nam năm 1986, các gia đình nông dân phải dành tới 80% thu nhập của họ để đổi lấy lương thực cần thiết.
Kết thúc năm thứ ba trong kế hoạch 5 năm, sản lượng nông nghiệp của Việt Nam vẫn chưa đạt yêu cầu, buộc chính quyền phải chuyển sang khai thác các tài nguyên khác để hỗ trợ công nghiệp Đến năm 1986, nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 44% vào lợi tức quốc gia, trong khi cần gần 10% cho tăng trưởng Ngành nông nghiệp vẫn chiếm 66% lực lượng lao động, cao hơn so với các năm 1976 và 1980 Tuy nhiên, sản lượng trung bình mỗi nông dân lại giảm sút trong thời kỳ đổi mới, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng của công nhân trong ngành công nghiệp.
Đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể Cụ thể:
Năm 2013, sản lượng lúa ước đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338,3 nghìn tấn so với năm 2012, với diện tích gieo trồng 7,9 triệu ha, tăng 138,7 nghìn ha Năng suất lúa đạt 55,8 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha so với năm trước Nếu tính thêm 5,2 triệu tấn ngô, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 49,3 triệu tấn, tăng 558,5 nghìn tấn so với năm 2012.
Trong sản xuất lúa, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3.140,7 nghìn ha, tăng 16,4 nghìn ha so với vụ trước, nhưng sản lượng chỉ đạt 20,2 triệu tấn, giảm 54,4 nghìn tấn với năng suất 64,4 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha Đối với lúa hè thu, diện tích gieo trồng đạt 2.146,9 nghìn ha, tăng 15,1 nghìn ha so với vụ trước, tuy nhiên sản lượng giảm còn 11,2 triệu tấn, giảm 81,6 nghìn tấn do năng suất chỉ đạt 52,2 tạ/ha, giảm 0,8 tạ/ha.
Sản lượng lúa hè thu tại một số địa phương giảm đáng kể, với Sóc Trăng giảm 86,4 nghìn tấn, Trà Vinh giảm 16,7 nghìn tấn, Bến Tre và Thừa Thiên - Huế giảm 17,3 nghìn tấn, Quảng Trị giảm 10,7 nghìn tấn, Cà Mau giảm 9,8 nghìn tấn và An Giang giảm 8,9 nghìn tấn Tuy nhiên, vụ thu đông 2013 ở Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận sự tăng trưởng về diện tích, năng suất và sản lượng, với diện tích gieo trồng đạt 626,4 nghìn ha, tăng 99 nghìn ha, năng suất đạt 51,7 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha, và sản lượng đạt 3,2 triệu tấn, tăng 578,8 nghìn tấn.
Bài học kinh nghiệm về năng lực cạnh tranh của các nước trên thế giới
Thái Lan, một trong những quốc gia hàng đầu trong xuất khẩu nông sản, đặc biệt là gạo, đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm gạo trên thị trường toàn cầu.
Thái Lan đang đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là trong quy trình sản xuất lúa Việc trang bị công nghệ hiện đại không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn đảm bảo chất lượng cao, giúp tăng năng suất và cải thiện chất lượng gạo cho xuất khẩu.
Hiệp hội các nhà xuất khẩu Thái Lan là tổ chức tư nhân hỗ trợ các nhà xuất khẩu gạo, với nhiệm vụ chính là nghiên cứu và cung cấp thông tin liên quan đến xuất khẩu gạo cho các thành viên Trong bối cảnh thông tin về thị trường gạo thay đổi nhanh chóng, các doanh nghiệp gạo Thái Lan cần cập nhật thường xuyên tình hình thương mại lúa gạo trong nước và quốc tế Điều này giúp Thái Lan nắm bắt được xu hướng toàn cầu, từ đó phát triển năng suất trên đơn vị diện tích và tối ưu hóa chi phí logistics, như việc thay thế vận chuyển bằng xe tải bằng tàu thủy để tiết kiệm chi phí.
Việc giảm chi phí sản xuất sẽ giúp các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan cạnh tranh hiệu quả hơn trên thị trường toàn cầu Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lương thực gần đây đã làm tăng giá gạo, nhiều quốc gia khác cũng đang tìm cách mở rộng sản xuất lúa gạo để xuất khẩu Do đó, Thái Lan cần phát triển một chiến lược nghiêm ngặt nhằm duy trì vị thế là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Brazil sở hữu lợi thế về khí hậu và đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng sản xuất và nâng cao năng suất cà phê, từ đó thúc đẩy xuất khẩu Bên cạnh đó, các tổ chức tư nhân hoạt động hiệu quả, như cảng, hợp tác xã và máy móc công nghiệp hiện đại, cũng góp phần nâng cao năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu.
Brazin cũng áp dụng công nghệ nông tô tiên tiến phục vụ sản xuất nông nghiệp
Bài học rút ra cho Việt Nam
Việt Nam, với nền nông nghiệp phát triển, vẫn giữ vị thế là một trong những quốc gia hàng đầu xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp, trong đó gạo là mặt hàng chủ lực Kinh nghiệm từ Thái Lan cung cấp những bài học quý giá cho Việt Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh và thâm nhập hiệu quả vào thị trường gạo toàn cầu.
Nông nghiệp Việt Nam đã có sự tăng trưởng trong xuất khẩu, nhưng vẫn chưa thay đổi về chất, với sản phẩm chủ yếu ở dạng thô và hàm lượng dinh dưỡng thấp Để nâng cao giá trị hàng hóa, cần chuyển dịch sang nông nghiệp công nghệ cao và đầu tư vào nghiên cứu, khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học Chính phủ và các ngành liên quan cần hỗ trợ nông dân sử dụng công nghệ sinh học từ nguyên liệu sẵn có như mía, sắn, ngô, khoai, và tận dụng các chất thải như rơm, rạ, lau sậy để tạo ra năng lượng.
Chúng ta cần tập trung vào việc nghiên cứu và hoàn thiện bộ giống chuẩn quốc gia cho các cây lương thực chủ yếu như lúa cao sản, cây ăn trái Nam Bộ, chè, cao su, cà phê và thủy hải sản Chính phủ có trách nhiệm cung cấp kiến thức đa dạng để nông dân có thể bắt kịp với nền nông nghiệp hiện đại.
Chính phủ cần thực hiện những bước đột phá trong việc phát triển thị trường và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa nông sản Việc hoàn thiện thể chế lưu thông, đặc biệt là trong lĩnh vực lưu thông hàng nông sản như lúa gạo, cà phê, cao su và hồ tiêu, là rất quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Việc gia nhập WTO là thách thức lớn nhất đối với nông dân và hàng hóa nông sản Việt Nam, khi phương thức canh tác còn lạc hậu, năng suất thấp, chi phí cao và chất lượng sản phẩm không đồng đều Để nâng cao khả năng cạnh tranh, Việt Nam cần có bước đột phá trong việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, nhằm chiếm lĩnh thị phần tại các thị trường lớn như EU, Úc, Nhật Bản và Hoa Kỳ Trách nhiệm này không thể chỉ thuộc về nông dân hay một doanh nghiệp cụ thể, mà cần sự phối hợp chặt chẽ từ chính phủ, các bộ chuyên ngành và cơ quan hoạch định chiến lược quốc gia.
Cú sốc giá lúa gạo gần đây đã chỉ ra rằng hệ thống thể chế điều hành vĩ mô và thương mại của chúng ta còn yếu kém và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập thị trường hiện đại Chính sách và phản ứng của chính phủ thiếu nhạy bén và chính xác, dẫn đến tổn thất nghiêm trọng cho nông dân, cho thấy chúng ta đã chậm trễ và lạc hậu trước diễn biến của thị trường.
Việc không có sự điều hành thống nhất trong kênh thu mua và phân phối đã tạo điều kiện cho tư thương lũng đoạn, gây bất lợi cho nông dân, những người sản xuất chính.
Đầu cơ, lạm phát và chỉ số CPI tăng cao đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hộ nông dân nghèo với thu nhập thấp, khi nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm tới 70% cơ cấu tiêu dùng của họ Đồng thời, giá bình quân đầu vào của vật tư sản xuất nông nghiệp tăng từ 20 đến 25% so với giá đầu ra của sản phẩm nông sản, đặt ra thách thức cho chính sách hỗ trợ nông dân hiện nay.
Nông dân trồng lúa và cà phê cần hợp tác chặt chẽ trong quá trình thu mua nông sản để quản lý và kiểm soát sản lượng, từ đó đảm bảo đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tối ưu hóa lợi nhuận cho nông dân.
Sau khi xác định tư duy sản xuất theo nhu cầu thị trường, nhà nước và doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ, sử dụng nguồn vốn từ ngân hàng để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm sản xuất Việc áp dụng các giải pháp nhằm giảm thiểu hao phí trong thu hoạch cho từng sản phẩm cụ thể là rất quan trọng Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư và phát triển nông sản với quy mô lớn sẽ giúp đáp ứng nhu cầu thị trường, đặc biệt là các thị trường mục tiêu trong và ngoài nước.
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NÔNG SẢN
Phân tích tình hình thị trường
2.1.1 Tình hình cung cầu các mặt hàng nông sản trên thế giới qua các năm
2.1.1.1 Nguồn cung nông sản chính trên thế giới
Theo thông tin từ Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) cập nhật tháng 7/2014, Brazil hiện đang đứng đầu trong danh sách các quốc gia xuất khẩu cà phê lớn nhất toàn cầu Trong năm 2013, Brazil đã xuất khẩu 49,152 triệu bao cà phê, tương đương gần 3 triệu tấn.
Tiếp sau đó vị trí á quân thuộc về Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới với 27,500 triệu bao (gần 1,7 triệu tấn)
Việt Nam và Thái Lan là 2 quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới
8 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu gạo Thái Lan đạt 6,59 triệu tấn, trong khi xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 4,243 triệu tấn.
Theo số liệu của Hiệp hội Xuất khẩu Gạo Thái Lan (TREA), 8 tháng đầu năm
2014, xuất khẩu gạo của nước này đạt 6,59 triệu tấn, tăng 60% so với cùng kỳ năm ngoái,
Trong 8 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu gạo của Thái Lan đạt 105,83 tỷ baht, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2013 Tính theo USD, con số này đạt 3,27 tỷ USD, tăng 14% so với 2,88 tỷ USD năm trước Trong cùng kỳ năm 2013, Thái Lan chỉ xuất khẩu 4,14 triệu tấn gạo, với giá trị 86,47 tỷ baht.
Trong tháng 8, Thái Lan đã xuất khẩu 975.023 tấn gạo, tăng 3,5% so với tháng 7/2014 và 86% so với tháng 8/2013 Cụ thể, gạo trắng chiếm 344.179 tấn (35% tổng xuất khẩu), gạo Hom Mali 95.166 tấn (10%), gạo tấm 114.599 tấn (12%), gạo nếp 11.172 tấn (1%), gạo đồ 405.716 tấn (42%) và gạo lức 4.191 tấn (0,4%).
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong 8 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 4,243 triệu tấn, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm 2013 Kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 1,831 tỷ USD, giảm 8,7% so với 2,005 tỷ USD năm trước Riêng trong tháng 8, xuất khẩu gạo đạt 627.089 tấn, tăng 1,1% so với tháng 8/2013 Trong tháng 8/2014, gạo 15% tấm chiếm 33% tổng lượng xuất khẩu, tiếp theo là gạo 5% tấm với 26% và gạo thơm jasmine 15%.
Trong tháng 8, tỷ trọng xuất khẩu gạo sang châu Á và châu Phi giữ nguyên, trong khi xuất khẩu sang châu Mỹ và Australia giảm đáng kể Ngược lại, xuất khẩu gạo sang châu Âu và các nước CIS lại ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể.
Trong tháng 8, châu Á là thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam, chiếm khoảng 77% tổng lượng gạo xuất khẩu, tiếp đến châu Phi 19%, châu Âu và CIS 3%, và châu
Tính đến ngày 14/10, giá gạo 5% tấm của Thái Lan dao động từ 430-440 USD/tấn, trong khi giá gạo cùng loại của Việt Nam nằm trong khoảng 435-445 USD/tấn Giá gạo của Ấn Độ là 415-425 USD/tấn, và Pakistan có giá 400-410 USD/tấn.
Kenya hiện là quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu chè với hơn 111.000 hecta đất trồng chè, đóng góp từ 17 đến 20% tổng doanh thu xuất khẩu hàng hóa Mỗi năm, Kenya xuất khẩu 396.641 tấn chè, tăng 39% so với một thập kỷ trước Đặc biệt, 80% sản lượng chè đến từ các nông dân nhỏ lẻ, trong khi chỉ 20% đến từ các nhà sản xuất lớn Giá trị xuất khẩu chè của Kenya đạt khoảng 858.250.000 USD, chiếm 28% tổng lượng chè xuất khẩu toàn cầu.
Sri Lanka hiện đang đứng thứ tư thế giới về sản xuất chè và thứ hai về xuất khẩu chè Mỗi năm, quốc gia này sản xuất 327.500 tấn chè, trong đó có 318.329 tấn được xuất khẩu, mang lại giá trị 1.48 tỷ USD Sri Lanka chiếm 23% tổng lượng chè xuất khẩu toàn cầu và đóng góp 60% lợi nhuận trong các ngành xuất khẩu của quốc gia.
Việt Nam cũng là quốc gia đứng thứ 5 về lượng chè xuất khẩu sang các nước trên thế giới
Việt Nam hiện đang dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu, chiếm hơn 30% tổng sản lượng toàn cầu Trong năm 2014, ước tính Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 150 ngàn tấn hồ tiêu, đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD.
2.1.1.2 Nhu cầu nông sản tại các thị trường chính trên thế giới
Năm 2013, xuất khẩu nông sản và thủy sản sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,64 tỷ USD, tăng 15,1% so với năm 2012 và chiếm 13,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước Hầu hết các mặt hàng trong nhóm này đều ghi nhận sự tăng trưởng tích cực, trong đó thủy sản tăng 25,3%, rau quả tăng 29,1%, hạt điều tăng 32,8%, chè tăng 31,5%, và cao su tăng 1,9% Tuy nhiên, cà phê lại có sự giảm mạnh 34,2%.
Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang Nhật Bản năm 2013 đạt 1,4 tỷ USD, tăng 2,2% so với năm 2012, với các mặt hàng chủ yếu như thủy sản (tăng 2,9%), hạt tiêu (tăng 30%) và rau quả (tăng 13%) Mặc dù nông sản là một trong những ngành hàng mạnh của Việt Nam, nhưng thị phần xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn hạn chế do nhiều sản phẩm chưa đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm Tuy nhiên, một số mặt hàng như hạt tiêu và hạt điều đã vượt qua các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật Bản, và gần đây, quả thanh long của Việt Nam cũng đã được chấp nhận nhập khẩu và tiêu thụ tại thị trường này.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm 2013 đạt gần 1,15 tỷ USD, tăng 1,6% so với năm trước Các mặt hàng nông sản chủ lực như cà phê, chè, hạt tiêu và rau quả cũng ghi nhận doanh thu cao, trong đó cà phê đạt gần 1,1 tỷ USD, hạt điều 285 triệu USD, hạt tiêu 240 triệu USD và rau quả 44 triệu USD Với 27 thành viên và khoảng 500 triệu người tiêu dùng, EU là thị trường hấp dẫn cho hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là nông sản Tuy nhiên, để xuất khẩu vào EU, hàng nông sản phải tuân thủ các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật nghiêm ngặt nhằm bảo vệ sức khỏe con người, môi trường và phát triển bền vững.
2.1.2 Tình hình cạnh tranh hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới
Việt Nam sở hữu năng lực cạnh tranh quốc gia mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, thể hiện qua vị trí dẫn đầu trong nhiều mặt hàng Mỗi năm, nước ta xuất khẩu khoảng 30 tỷ USD các sản phẩm nông lâm thủy sản, khẳng định tiềm năng và sự phát triển của ngành này.
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, với sản lượng xuất khẩu hàng năm đạt từ 7 đến 8 triệu tấn Gạo Việt Nam nổi bật với mức giá cạnh tranh, đặc biệt thu hút sự quan tâm từ các thị trường Trung Quốc, Đông Nam Á và Châu Phi.
Các chủng loại gạo chính A&A Hàng Hóa đang kinh doanh: l Gạo trắng hạt dài, hạt vừa 5%, 15%, 25%, 100% l Gạo thơm: Jasmine, OM4900, KDM, Nàng Hoa… l Gạo nếp 10%, 100% l Gạo lức 5% l Gạo đồ
Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á với các quốc gia như Philippines, Indonesia, Malaysia và Singapore Ngoài ra, châu Phi cũng là một thị trường quan trọng với nhiều quốc gia như Angola, Algeria, Congo, Gabon, Guinea, Madagascar, Cameroon, Benin, Togo, Gambia, Kenya và Mozambique.
Lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam mỗi năm đạt gần 4 triệu tấn, trong đó 1/2 là tinh bột sắn.
Tinh bột sắn của Việt Nam được ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều ngành khác nhau: công nghiệp: giấy, hóa chất, dệt, xây dựng,…; dược phẩm; thực phẩm.
Thị trường tinh bột sắn của Việt Nam bao gồm: Trung Quốc; ASEAN; Ấn Độ; Nhật Bản; Hàn Quốc; Trung Đông; Châu Âu.
Các chủng loại tinh bột sắn phổ biến: tinh bột sắn thường; tinh bột sắn biến tính; bã sắn dạng viên, hạt
Các quy định pháp lý đối với hàng nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới
- Độ ẩm của tất cả các loại gạo được cấp độ xác định không vượt quá 14,0%
Khi mua bán gạo dựa trên mẫu loại mà không có thông số kỹ thuật đi kèm, gạo phải phù hợp với mẫu và các thông số kỹ thuật đã thỏa thuận giữa người mua và người bán, đồng thời cần được Bộ Ngoại thương chấp thuận.
Chất lượng gạo được xác định dựa trên sự kết hợp của nhiều tiêu chí quan trọng, bao gồm phân loại hạt dài, quá trình phay, các loại gạo, lớp và mức độ phay Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị và độ ngon của gạo.
Chất lượng được xác định bởi sự kết hợp của tất cả các yếu tố trên.
Bảng 2.1 Chi tiết tiêu chuẩn gạo Xuất khẩu
Tiêu chuẩn gạo xuất khẩu Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ tư liệu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tiêu đen 580g / l ASTA Recleaned (5mm)
2.2.1.1 Thị hiếu tiêu dùng các mặt hàng nông sản tại các nước trên thế giới
Nhu cầu tiêu thụ thực phẩm tăng nhiều nhất ở các nước đang phát triển
Bảng 2.2 Nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới Đơn vị tính (%)
Nguồn: Tổng cục hải quan
Tiêu thụ nông sản phục hồi chứng minh tính thiết yếu của mặt hàng này, bất chấp những cú sốc kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp cao tại các nước phát triển Trong trung hạn, nhu cầu tiêu thụ sẽ là động lực chính giúp thị trường nông sản vượt qua khó khăn, với tốc độ tiêu thụ dự báo tăng nhanh từ 2013-2022, tác động tích cực đến tình hình thị trường và nâng giá nông sản lên mức cao hơn Đến năm 2022, các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phục hồi này.
OECD Các nước đang phát triển
Bông 15.7 18 18.2 nổi sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thị trường nông sản thế giới và mang đến những thay đổi căn bản cho thị trường này.
Theo Báo cáo đánh giá triển vọng nông sản thế giới 2013-2022 của FAO, các nước đang phát triển sẽ dẫn đầu về tiêu thụ nông sản với sản lượng tăng đều ở tất cả các nhóm mặt hàng Sự gia tăng này được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng dân số nhanh, mật độ dân số cao tại các khu đô thị, thu nhập trên đầu người tăng, sự gia tăng tầng lớp trung lưu và thay đổi trong khẩu phần ăn của người tiêu dùng Những yếu tố này dự kiến sẽ duy trì mức tăng trưởng tiêu thụ thực phẩm, thức ăn chăn nuôi và chất xơ, góp phần ổn định nền kinh tế và tăng nhu cầu tiêu thụ ở các nước phát triển cho đến năm 2020.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng nhanh, sản lượng tiêu thụ nông sản trên đầu người ở các nước đang phát triển tăng chậm hơn so với các nước phát triển do thói quen tiêu dùng tập trung vào các mặt hàng truyền thống như gạo Dự báo, tiêu thụ nông sản trên đầu người sẽ tiếp tục tăng ở các nước đang phát triển nếu họ mở rộng sử dụng các loại nông sản khác Tuy nhiên, sự thay đổi trong lựa chọn tiêu dùng nông sản sẽ không diễn ra thường xuyên trong kỳ dự báo Tiêu thụ nông sản trên đầu người được dự báo tăng nhanh nhất tại Tây Âu và Trung Á, nơi có mức thu nhập cao nhất; trong khi Châu Mỹ Latinh và Châu Á cũng có sự gia tăng nhưng vẫn thấp hơn khu vực cận Sahara, Châu Phi do chênh lệch về thu nhập và phương thức phân phối, là hai nguyên nhân chính cản trở sự tăng trưởng tiêu thụ thực phẩm trong quá khứ.
Tại các nước phát triển, chi tiêu cho thực phẩm chỉ chiếm một phần nhỏ trong ngân sách gia đình, nên tiêu dùng thực phẩm không bị ảnh hưởng bởi mức hàng trong Báo cáo đánh giá triển vọng nông sản thế giới 2013-2022 của FAO Thay vào đó, sự tăng giảm tiêu dùng nông sản ở những thị trường này phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng dân số, thay đổi nhân khẩu học và lối sống, khi thu nhập cao hơn cho phép người tiêu dùng lựa chọn đa dạng các loại thực phẩm tốt cho sức khỏe dựa trên giá trị gia tăng và sự tiện lợi.
Giới thiệu tổng quan về hàng nông sản Việt Nam
2.3.1 Quy mô sản xuất hàng nông sản Việt Nam những năm qua
Bảng 2.4 Quy mô sản xuất hàng nông sản giai đoạn 2011 – 2013
Năm Lúa Cà phê Điều
Tổng diện tích (nghìn ha)
Tổng diện tích (nghìn ha)
Tổng diện tích (nghìn ha)
Năm Cao su Chè Hồ tiêu
Tổng diện tích (nghìn ha)
Tổng diện tích (nghìn ha)
Tổng diện tích (nghìn ha)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn chung, diện tích trồng cây nông nghiệp nước ta qua các năm đều tăng nhưng không đáng kể Cụ thể:
Năm 2012, tổng diện tích lúa đạt gần 7,75 triệu ha, tăng 1,2% so với năm 2011 Năng suất bình quân ước đạt 56,4 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha, với sản lượng ước đạt 43,4 triệu tấn, tăng hơn 1 triệu tấn, tương đương 2,6% so với năm trước.
Theo báo cáo từ các địa phương, vụ lúa mùa miền Bắc năm nay được gieo cấy trong điều kiện thuận lợi với mưa đều, thời vụ kéo dài nhờ năm âm lịch nhuận Lúa được chăm bón hợp lý nên sinh trưởng và phát triển đồng đều Hiện tại, phần lớn diện tích lúa đã trỗ thoát và ngậm sữa, trong khi một số nơi đã bắt đầu thu hoạch trà lúa sớm Dự kiến, trà lúa trung sẽ thu hoạch vào cuối tháng Chín, tạo điều kiện giải phóng đất sớm cho việc mở rộng diện tích trồng cây vụ Đông 2012-2013.
Tiến độ xuống giống lúa mùa ở miền Nam chậm hơn so với miền Bắc, hiện chỉ đạt hơn 450.000ha, tương đương 86% so với cùng kỳ năm trước Tại Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích xuống giống đạt 166.000ha, chỉ bằng 82% so với năm trước Nguyên nhân chính là do thời tiết không thuận lợi tại một số tỉnh và lao động chủ yếu tập trung vào thu hoạch lúa Hè Thu và xuống giống lúa Thu Đông.
Hiện nay, các tỉnh miền Nam đã thu hoạch hơn 1,93 triệu ha lúa Hè Thu, đạt 96,3% diện tích đã xuống giống Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch hơn 1,62 triệu ha, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước Tốc độ thu hoạch lúa Hè Thu ở đây diễn ra nhanh chóng do cảnh báo lũ năm nay đến sớm và nhiều địa phương đã tăng đáng kể diện tích lúa Thu Đông.
Theo đánh giá sơ bộ từ các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long, năng suất lúa Hè Thu đã tăng nhẹ so với vụ trước, đạt bình quân khoảng 55 tạ/ha, với tổng sản lượng toàn vùng ước đạt hơn 9 triệu tấn Tuy nhiên, chi phí sản xuất lúa vẫn là một vấn đề cần được quan tâm.
Hè Thu năm nay tăng khá nhiều trong khi giá lúa không bằng vụ trước, nên lợi nhuận giảm đáng kể.
Tính đến thời điểm hiện tại, tổng diện tích lúa Thu Đông tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đạt 573.000ha, tăng gần 1% so với năm trước Một số tỉnh ghi nhận diện tích lúa Thu Đông tăng đáng kể, như Kiên Giang với hơn 20.000ha, An Giang tăng 15.000ha, và Long An gần 10.000ha Ngược lại, Đồng Tháp chứng kiến sự giảm hơn 22.000ha, chủ yếu do diện tích ngoài đê bao và tình hình sản xuất không ổn định, dẫn đến mất mùa nặng trong vụ trước.
Theo Tổng cục Thống kê, sản lượng lúa năm 2013 ước đạt 44,1 triệu tấn, tăng 338,3 nghìn tấn so với năm 2012 Diện tích gieo trồng đạt 7,9 triệu ha, tăng 138,7 nghìn ha, với năng suất đạt 55,8 tạ/ha.
Năm 2023, ngành nông nghiệp đã điều chỉnh cơ cấu cây trồng lâu năm để phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp chủ yếu đã tăng so với năm 2012: chè đạt 128,2 nghìn ha với sản lượng 921,7 nghìn tấn, tăng 1,3%; cà phê đạt 623 nghìn ha và 1289,5 nghìn tấn, tăng 2,3%; cao su đạt 955,7 nghìn ha và 949,1 nghìn tấn, tăng 8,2%; hồ tiêu đạt 67,9 nghìn ha với sản lượng 121,1 nghìn tấn, tăng 5,3%.
Theo nhận định của cơ quan Thống kê, diện tích gieo trồng lúa đông xuân đạt 3.140,7 nghìn ha, tăng 16,4 nghìn ha so với vụ trước, nhưng sản lượng lại giảm 54,4 nghìn tấn với năng suất 64,4 tạ/ha Tương tự, diện tích lúa hè thu đạt 2.146,9 nghìn ha, tăng 15,1 nghìn ha, nhưng sản lượng chỉ đạt 11,2 triệu tấn, giảm 81,6 nghìn tấn do năng suất chỉ đạt 52,2 tạ/ha Một số địa phương có sản lượng lúa hè thu giảm đáng kể bao gồm Sóc Trăng giảm 86,4 nghìn tấn, Trà Vinh giảm 16,7 nghìn tấn, Bến Tre và Thừa Thiên - Huế giảm 17,3 nghìn tấn, Quảng Trị giảm 10,7 nghìn tấn, Cà Mau giảm 9,8 nghìn tấn, và An Giang giảm 8,9 nghìn tấn.
Vụ thu đông 2013 tại Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng về diện tích, năng suất và sản lượng Cụ thể, diện tích gieo trồng đạt 626,4 nghìn ha, tăng 99 nghìn ha; năng suất đạt 51,7 tạ/ha, tăng 1,3 tạ/ha; và sản lượng đạt 3,2 triệu tấn, tăng 578,8 nghìn tấn Đồng thời, nhờ vào việc chủ động trong luân canh, diện tích gieo trồng lúa mùa của cả nước trong năm 2013 cũng tăng lên 1985,4 nghìn ha, tăng 7,6 nghìn ha so với vụ mùa trước.
Năm 2012, sản lượng lúa mùa ước tính đạt gần 9,4 triệu tấn, giảm 104,4 nghìn tấn so với năm trước, với năng suất chỉ đạt 47,3 tạ/ha Tại các tỉnh phía Bắc, sản lượng lúa mùa đạt 5.677,2 nghìn tấn, giảm 181,3 nghìn tấn, trong khi các tỉnh phía Nam ghi nhận sản lượng 3.706,3 nghìn tấn, tăng 76,9 nghìn tấn Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có sự tăng trưởng 67,6 nghìn tấn trong sản lượng lúa mùa.
2.3.2 Những lợi thế, điều kiện thuận lợi ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam
2.3.2.1 Hoạt động xúc tiến thương mại:
Hoạt động xúc tiến thương mại là yếu tố quan trọng trong kinh doanh quốc tế, giúp các doanh nghiệp hiểu biết lẫn nhau và xây dựng mối quan hệ buôn bán hiệu quả Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động này càng trở nên cần thiết để các doanh nghiệp nắm bắt rõ hơn về thị trường và nhu cầu hàng hóa, nhất là trong lĩnh vực nông sản mà Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu Điều này không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
2.3.2.2 Việt Nam có thế mạnh về sự đa dạng hóa các mặt hàng nông sản
Nông sản Việt Nam đa dạng và chất lượng ngày càng được cải thiện, tạo lợi thế lớn cho việc xuất khẩu ra thị trường quốc tế Khi nhu cầu tiêu dùng gia tăng và mức sống người dân được nâng cao, yếu tố chất lượng sản phẩm trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, việc nâng cao chất lượng nông sản là điều cần thiết.
Nông sản Việt Nam ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại phù hợp hơn với nhu cầu ngày càng cao của con người
2.3.3 Đánh giá khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam
Nông sản Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với sản phẩm nông nghiệp của các quốc gia khác, với uy tín và chất lượng cao trên thị trường quốc tế Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu lúa gạo, trong khi thủy hải sản và rau củ quả Đà Lạt cũng được công nhận là những sản phẩm hàng đầu toàn cầu Nhiều sản phẩm Việt Nam như nước mắm Phú Quốc, muối Bạc Liêu, thanh long Bình Thuận và vải thiều Lục Ngạn đã được bảo hộ thương hiệu và chỉ dẫn địa lý trên phạm vi toàn cầu, khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đã nâng cao chất lượng và dần hình thành thương hiệu sau nhiều năm hoạt động trên thị trường nội địa Tuy nhiên, vị thế của thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường ASEAN và thế giới vẫn còn mơ hồ Việc xác định lộ trình và giải pháp xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam chưa rõ ràng, đòi hỏi sự chung tay của nông dân, doanh nghiệp và toàn xã hội.