Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.
Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, kéo theo việc khai thác tài nguyên thiên nhiên lớn Từ năm 1950, các đô thị sinh thái đã được xây dựng nhằm nâng cao chất lượng sống, sử dụng tài nguyên hợp lý, bảo vệ môi trường và tiết kiệm đất, góp phần vào sự phát triển bền vững Theo khảo sát toàn cầu năm 2011, thế giới có khoảng 174 đô thị sinh thái, cho thấy xu hướng phát triển này đang ngày càng mạnh mẽ và được nhiều quốc gia hướng tới.
Việt Nam, với giai đoạn đầu của quá trình đô thị hóa, có tiềm năng lớn để phát triển thông minh nếu áp dụng chiến lược phát triển đô thị đúng đắn Theo Bộ Xây dựng, tính đến tháng 5 năm 2019, cả nước có 833 đô thị và dự kiến sẽ đạt khoảng 1000 đô thị vào năm 2025 Nhiều đô thị, trong đó có TP Hải Phòng, đã chọn phát triển theo hướng đô thị bền vững (ĐTST) Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Khóa 14 đã xác định mục tiêu phát triển Hải Phòng thành đô thị cảng cửa ngõ quốc tế, văn minh, hiện đại, và bền vững Để đạt được mục tiêu này, quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị là một yếu tố quan trọng cần được nghiên cứu hệ thống và kỹ lưỡng, với các nguyên tắc và giải pháp cụ thể Do đó, đề tài “Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái” là cần thiết để góp phần xây dựng đô thị sinh thái tại đây.
Hải Phòng và là cơ sở để các đô thị khác ở nước ta tham khảo.
Mục đích nghiên cứu
Đề xuất giải pháp QHPTMLĐ thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.
Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng quan QHPTMLĐ đô thị hướng tới ĐTST trên thế giới và Việt Nam, tổng hợp hiện trạng QHPTMLĐ tại TP Hải Phòng.
- Tổng hợp cơ sở lý thuyết, cơ sở pháp lý và bài học kinh nghiệm về QHPTMLĐ tại TP Hải Phòng hướng tới ĐTST.
- Đưa ra những quan điểm, nguyên tắc và xác định các tiêu chí QHPTMLĐ đô thị
TP Hải Phòng hướng tới ĐTST.
- Phân vùng trong QHPTMLĐ tại TP Hải Phòng theo các đặc điểm riêng.
- Ứng dụng mô hình dự báo nhu cầu vận tải TP Hải Phòng thông qua đó đề xuất giải pháp QHPTMLĐ tại TP Hải Phòng hướng tới ĐTST.
Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu dưới đây:
Phương pháp điều tra và khảo sát được áp dụng trong luận án này nhằm nghiên cứu thực tế tại Hải Phòng cùng một số đô thị khác Đối tượng chính của cuộc khảo sát là hệ thống giao thông đô thị (GTĐT) và các văn bản tài liệu liên quan đến phát triển đô thị và giao thông đô thị của Hải Phòng.
Phương pháp phân tích tổng hợp được thực hiện bằng cách thu thập tài liệu và thông tin liên quan đến quản lý đô thị tại một số thành phố của Việt Nam và các nước khác Dựa trên những tài liệu này, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá và so sánh các kinh nghiệm thực tiễn cùng với các kết quả nghiên cứu trước đó liên quan đến quy hoạch phát triển mạng lưới đường, nhằm hướng tới một đô thị sinh thái Đồng thời, việc phân tích và tổng hợp cơ sở khoa học cũng được thực hiện để hoàn thiện phương pháp luận trong nghiên cứu này.
Phương pháp kế thừa trong nghiên cứu Quy hoạch phát triển môi trường đô thị và đô thị sinh thái đã được thực hiện qua nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước Những nghiên cứu này liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, và luận án sẽ kế thừa có chọn lọc các kết quả đã đạt được, từ đó giúp tiếp cận nhanh chóng các vấn đề mới và tránh sự trùng lặp trong nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia là một kỹ thuật thu thập ý kiến từ các hội thảo và chuyên đề, nhằm nhận được sự đóng góp từ các chuyên gia và nhà khoa học dày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý, đặc biệt là trong quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị và giao thông đô thị.
Phương pháp dự báo là một công cụ quan trọng, dựa trên các luận điểm khoa học để phân tích nguyên nhân và quy luật phát triển đô thị Qua đó, nó giúp dự đoán các tình huống và xu thế tương lai của đô thị, cũng như xác định các biện pháp và thời hạn cần thiết để đạt được trạng thái mong muốn Đặc biệt, việc dự báo nhu cầu phát triển trong quy hoạch giao thông là rất cần thiết Hiện nay, nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, đã áp dụng các phương pháp dự báo như Detroit, Fratar, ngoại suy và lực hấp dẫn để xác định nhu cầu vận tải hiệu quả.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án hoàn thành sẽ góp phần quan trọng vào cơ sở khoa học trong lĩnh vực quy hoạch giao thông đô thị hướng tới phát triển bền vững (ĐTST) Nó cung cấp những nội dung cơ bản về quy hoạch phát triển mặt đất (QHPTMLĐ) nhằm làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật và giao thông đô thị Đồng thời, luận án cũng tổng hợp dữ liệu cần thiết cho các nhà quy hoạch và quản lý, giúp họ áp dụng vào công tác lập quy hoạch và xây dựng ĐTST tại Việt Nam Đây sẽ là tài liệu hữu ích trong việc xây dựng đô thị gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đặc biệt cho các đô thị loại 1.
Những đóng góp mới của luận án
- Luận án đề xuất 5 nhóm với 25 tiêu chí trong quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị tại thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.
Đề xuất phân vùng TP Hải Phòng thành ba khu vực khác nhau dựa trên các đặc điểm riêng biệt, bao gồm: phân vùng đô thị cũ, phân vùng phát triển mới, và phân vùng thị trấn cùng nông thôn Từ những phân vùng này, sẽ đưa ra các giải pháp quy hoạch phát triển môi trường lao động phù hợp với từng đặc điểm riêng của từng khu vực.
Luận án đề xuất tích hợp quy hoạch phát triển mật độ lao động đô thị với năm loại quy hoạch chính, bao gồm quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chung đô thị, quy hoạch giao thông đô thị và quy hoạch giao thông vận tải Bằng cách ứng dụng mô hình bốn bước dự báo nhu cầu giao thông vận tải, luận án đã đưa ra các giải pháp cho quy hoạch phát triển mật độ lao động đô thị tại TP Hải Phòng, nhằm hướng tới một đô thị sinh thái bền vững.
Một số thuật ngữ dùng trong luận án
Nghiên cứu giao thông trong đô thị sinh thái là một vấn đề mới mẻ tại Việt Nam, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội Đô thị được định nghĩa theo luật quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 là khu vực có mật độ dân cư cao, chủ yếu hoạt động phi nông nghiệp và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Trong khi đó, đô thị sinh thái, theo Ngân hàng Thế giới, là các thành phố cải thiện phúc lợi cho con người thông qua quy hoạch và quản lý đô thị tích hợp, nhằm bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái cho các thế hệ tương lai.
Tích hợp quy hoạch, theo Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14, là phương pháp tiếp cận tổng hợp và phối hợp đồng bộ giữa các ngành liên quan đến kết cấu hạ tầng, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường Mục tiêu của tích hợp quy hoạch là lập kế hoạch trên một phạm vi lãnh thổ xác định, nhằm đạt được sự phát triển cân đối, hài hòa, hiệu quả và bền vững.
Dấu chân sinh thái, được phát triển vào những năm 1990 bởi các nhà khoa học William E Rees và Mathis Wackernagel tại Đại học British Columbia, là một chỉ số quan trọng để đo lường tác động của con người đối với môi trường Chỉ số này phản ánh nhu cầu về diện tích đất và nước cần thiết cho sản xuất thực phẩm, gỗ, xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng như diện tích cần thiết để hấp thụ chất thải.
CO2 có khả năng chứa đựng và đồng hóa chất thải Đô thị xanh hiện nay chưa có định nghĩa thống nhất toàn cầu, mà chỉ được mô tả thông qua một số từ khóa chính Vào ngày 17/8/2017, Bộ Xây dựng và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã tổ chức hội thảo về dự án Hỗ trợ kỹ thuật Quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam, trong đó đưa ra khái niệm đô thị xanh là nơi sử dụng tài nguyên bền vững và hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời có khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hệ sinh thái đô thị (Urban ecosystem)
Hệ sinh thái đô thị được hình thành từ mối quan hệ chặt chẽ giữa các chức năng đô thị và con người, đồng thời chịu sự tác động qua lại với các hệ sinh thái lân cận như hệ sinh thái nông thôn và tự nhiên (GS.TS.KTS Lê Hồng Kế, 1989) Theo GS.TS Nguyễn Thị Kim Thái (2003), hệ sinh thái đô thị bao gồm ba thành phần chính: thành phần hữu sinh (con người và sinh vật), thành phần vô sinh (môi trường đô thị, đất, nước, không khí), và thành phần công nghệ (các cơ sở hạ tầng như nhà máy, rạp hát, cơ quan).
Hệ sinh thái đô thị là một hệ sinh thái nằm trong môi trường đô thị, trong đó con người đóng vai trò trung tâm và có ảnh hưởng đến các thành phần cấu thành, bao gồm thành phần vô sinh, hữu sinh và công nghệ.
Quy hoạch phát triển đô thị
Quy hoạch đô thị là quá trình tổ chức không gian và kiến trúc của đô thị, bao gồm cảnh quan, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội, cũng như nhà ở Mục tiêu của quy hoạch đô thị là tạo ra môi trường sống phù hợp cho cư dân Nội dung này được thể hiện rõ qua các đồ án quy hoạch đô thị.
Phát triển là một khái niệm triết học, thể hiện quá trình tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn Quá trình này diễn ra thông qua những thay đổi dần dần và những bước nhảy vọt, dẫn đến sự xuất hiện của cái mới thay thế cái cũ Sự phát triển được hình thành từ những biến đổi về lượng, cuối cùng dẫn đến sự thay đổi về chất, diễn ra theo hình xoáy ốc và mỗi chu kỳ mang lại kết quả ở cấp độ cao hơn.
Trong luận án này, "Quy hoạch phát triển đô thị" được định nghĩa là quá trình tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và nhà ở, nhằm tạo ra môi trường sống phù hợp cho cư dân đô thị Mục tiêu là phát triển đô thị theo định hướng kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển bền vững Đường đô thị, bao gồm phố, đường ôtô thông thường và các đường chuyên dụng khác, là một phần quan trọng trong hệ thống giao thông đô thị.
Mạng lưới đường đô thị bao gồm các tuyến đường đô thị và các công trình giao thông liên kết với nhau tạo thành một hệ thống.
Quy hoạch giao thông đô thị là một yếu tố thiết yếu trong quy hoạch đô thị, nhằm cung cấp thông tin hỗ trợ quyết định phát triển và quản lý hệ thống giao thông trong tương lai Quá trình này xác định nhu cầu mở rộng hoặc xây mới các tuyến đường, hệ thống giao thông công cộng, và vận tải hàng hóa, đồng thời xác định quy mô, vị trí của các công trình giao thông và quản lý nhu cầu di chuyển.
Giao thông công cộng là hệ thống vận tải hành khách sử dụng các phương tiện di chuyển theo lộ trình cố định, được quy hoạch trước, phục vụ nhu cầu đi lại của người dân trong đô thị Các phương tiện này bao gồm ô tô buýt, xe buýt nhanh, tàu điện, đường sắt đô thị và tàu điện ngầm, giúp kết nối các điểm đầu và điểm cuối trong thành phố một cách hiệu quả.
Tiêu chí xây dựng đô thị sinh thái (ĐTST) được định nghĩa trong luận án này là những đặc điểm, dấu hiệu và cơ sở dùng để phân biệt và đánh giá ĐTST so với các loại đô thị khác.
Cấu trúc của Luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kiến nghị Luận án được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị hướng tới đô thị sinh thái.
- Chương 2: Cơ sở khoa học quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.
- Chương 3: Quy hoạch phát triển mạng lưới đường đô thị thành phố Hải Phòng hướng tới đô thị sinh thái.
TỔNG QUAN QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI ĐƯỜNG ĐÔ THỊ HƯỚNG TỚI ĐÔ THỊ SINH THÁI
TỔNG QUAN QHPTMLĐ ĐÔ THỊ HƯỚNG TỚI ĐÔ THỊ SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1 Lịch sử phát triển đô thị sinh thái
Nhiều nhà khoa học cho rằng đô thị sinh thái có nguồn gốc từ thành phố vườn, một khái niệm lần đầu tiên được giới thiệu bởi Ebenezer Howard vào năm 1898 Howard đã trình bày ý tưởng này trong cuốn sách của mình.
"Garden Cities of Tomorrow" (1898), tái bản năm 1902, đề xuất mô hình thành phố vườn với không gian xanh và vành đai xanh, tách biệt các khu chức năng như dân cư, công nghiệp và nông nghiệp Ý tưởng này đã lan rộng khắp châu Âu, nơi công nghiệp hóa gây ra nhiều vấn đề về môi trường, sức khỏe và an sinh xã hội Phong trào thành phố vườn đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự hình thành các mô hình đô thị xanh, đô thị sinh thái và đô thị phát triển bền vững.
Năm 1975, tại California, Hoa Kỳ, GS Richard Register đã thành lập tổ chức phát triển ĐTST ở Berkeley với mục tiêu tái thiết các thành phố hài hòa với thiên nhiên Tổ chức này tập trung vào việc trồng cây dọc các con phố chính, xây dựng nhà kính năng lượng mặt trời và làm việc trong hệ thống pháp luật của Berkeley để thông qua các chính sách thân thiện với môi trường, đồng thời khuyến khích giao thông công cộng.
Thuật ngữ "eco-city" được giới thiệu vào năm 1979 bởi GS Richard Register, người sáng lập tổ chức đô thị sinh thái Hiện nay, khái niệm này đã trở nên phổ biến trên toàn cầu Năm 1990, hội nghị đầu tiên về vận động sinh thái quốc tế diễn ra tại Berkeley, California, và đã dẫn đến việc thành lập Ecocity Builders Đến năm 2019, đã có 13 hội nghị được tổ chức tại nhiều địa điểm khác nhau.
Theo khảo sát toàn cầu năm 2011, hiện có khoảng 174 đô thị sinh thái trên thế giới, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của đô thị bền vững (ĐTST) như một xu hướng đô thị hóa được nhiều quốc gia theo đuổi Năm 2019, Chính phủ Trung Quốc công bố kế hoạch xây dựng 285 ĐTST, trong khi Việt Nam cũng đang hướng tới phát triển các đô thị sinh thái tại một số thành phố như Hội An, Hải Phòng, Đà Lạt, Phong Điền, Thái Nguyên và Hà Nội.
1.1.2 Quy hoạch phát triển MLĐ hướng tới ĐTST ở một số đô thị Châu Âu.
Châu Âu, cái nôi của “Thành phố vườn”, nổi bật với những thành phố sáng tạo trong quy hoạch đô thị như Paris, Stockholm, Copenhagen, Freiburg và London Quy hoạch đô thị (MLĐ) tại đây đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, thường bắt nguồn từ một lõi trung tâm và lan tỏa ra các khu vực xung quanh Hình dạng của MLĐ rất đa dạng, bao gồm cả khu vực hình nan quạt và khu vực ô bàn cờ, điển hình là thành cổ Rome ở Italia và Toulouse ở Pháp.
Mạng lưới đường chính cho phương tiện cơ giới thiếu sự phân cấp gây khó khăn cho các thành phố cổ Tuy nhiên, việc xây dựng thêm các đường vành đai cao tốc và tổ chức giao thông công cộng hiệu quả đã giúp cải thiện tình hình giao thông trong và ngoài đô thị.
Hình 1.1: Mạng lưới đường của Thành Rome - Italia và Mạng lưới đường của thủ đô Paris - Pháp, [97]
Tại các đô thị của Cộng hòa Pháp, chương trình Nghị agenda 21 từ Rio 1992 nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển bền vững, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường Các tổ chức nghiên cứu phát triển thường đưa ra khuyến nghị cho chính quyền địa phương nhằm phát triển các thành phố theo mô hình đô thị bền vững Tuy nhiên, với tỷ lệ dân cư đô thị cao và sự phát triển đa cực, việc phát triển đô thị ở Pháp sẽ cần gắn liền với mạng lưới giao thông và sự kết nối chặt chẽ giữa các khu vực, đặc biệt là các khu đô thị mới.
Hai tác giả Pierre Lefèvre và Michel Sabard, với vai trò là kiến trúc sư và nhà đô thị, đã tóm tắt những nội dung quan trọng của một ĐTST, bao gồm các yêu cầu thiết yếu.
Thiết lập một khu vực đa chức năng trong thành phố nhằm tái sử dụng năng lượng, quản lý chất thải và nước, đồng thời tích hợp các cơ sở kinh tế để tạo ra việc làm cho người dân trong nội khu.
Cần xem xét quy hoạch các khu vực có mật độ dân cư cao nhằm tăng cường diện tích không gian xanh Việc phân bố dân cư rộng rãi sẽ cản trở phát triển bền vững, do đó, việc chú ý đến đặc điểm riêng của từng khu vực là rất quan trọng để thực hiện quy hoạch đô thị và quy hoạch giao thông hợp lý.
Phát triển các phương tiện giao thông thô sơ như đi bộ và xe đạp, kết hợp với phương tiện giao thông công cộng (GTCC) là cần thiết để đáp ứng quy hoạch định hướng giao thông TOD, nhằm tạo sự liên kết hiệu quả với các khu vực bên ngoài.
Kiến trúc xanh, hay còn gọi là xây dựng xanh, tập trung vào việc ứng dụng công nghệ xây nhà thụ động và tiết kiệm năng lượng Đồng thời, trong lĩnh vực giao thông, việc sử dụng các phương tiện chạy bằng nhiên liệu sạch và nhiên liệu xanh cũng là một phần quan trọng của xu hướng này.
Phát triển đô thị cần sự tham gia tích cực của cộng đồng, trong đó người dân địa phương có quyền đóng góp ý kiến và tham gia vào các quyết định liên quan đến khu đô thị sinh thái Điều này không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn đảm bảo rằng các nhu cầu và mong muốn của cư dân được lắng nghe và thực hiện.
Thành phố Freiburg – Cộng hòa Liên bang Đức
Freiburg, thành phố gần 900 năm tuổi ở Tây Nam nước Đức, từng bị tàn phá hơn 80% trong Thế chiến II Ngày nay, Freiburg đã hồi sinh mạnh mẽ và trở thành một trong những thành phố có hệ sinh thái tốt nhất thế giới.
TỔNG QUAN QHPTMLĐ HƯỚNG TỚI ĐTST TẠI VIỆT NAM
1.2.1 Giới thiệu khái quát về hệ thống đô thị Việt Nam
Từ năm 1990, tỷ lệ đô thị hóa tại Việt Nam chỉ đạt dưới 20%, nhưng đến năm 2015 đã tăng lên 35,7%, với khoảng 1 triệu người dân chuyển đến đô thị mỗi năm Đến năm 2019, tỷ lệ đô thị hóa đã vượt 38%, với 833 đô thị trên toàn quốc, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Kết cấu hạ tầng đô thị hiện nay phát triển không đồng bộ tại nhiều thành phố, gây khó khăn cho việc kết nối giữa đô thị và các vùng nông thôn Mặc dù MLĐ đô thị đã được đầu tư, cải tạo và nâng cấp theo quy hoạch, nhưng sự thiếu liên kết vẫn tồn tại Tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, hệ thống giao thông công cộng đang được mở rộng, nhưng mức phục vụ chỉ đạt trên 10%, trong khi tình trạng ách tắc giao thông vẫn diễn ra phổ biến.
1.2.2 Khái quát về QHPTMLĐ hướng tới ĐTST tại Việt Nam.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2623/QĐ-TTg vào ngày 31/12/2013, trong đó xác định danh mục chương trình và dự án phát triển đô thị Việt Nam nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2020 Nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân các tỉnh liên quan bao gồm việc phát triển mô hình đô thị sinh thái tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đồng thời phối hợp với Nhật Bản và các tổ chức quốc tế để nhân rộng mô hình này Hiện tại, cả nước đã có những định hướng ban đầu cho phát triển đô thị sinh thái, nhưng Việt Nam vẫn chưa có khu đô thị sinh thái đúng nghĩa theo các tiêu chí hiện hành.
Hiện nay, một số đô thị ở Việt Nam đã định hướng phát triển theo mô hình Đô thị Sinh thái (ĐTST), bao gồm thành phố Hội An, TP Đà Lạt, Thị xã Phong Điền, TP Thái Nguyên và một số đô thị khác, tuy nhiên số lượng này vẫn còn hạn chế Đối với các thành phố trực thuộc trung ương, quy hoạch môi trường sống (MLĐ) được tổng quan với một số nội dung chính, trong đó có thành phố Hà Nội.
Theo quy hoạch xây dựng Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn 2050, được Chính phủ phê duyệt năm 2011, thành phố sẽ phát triển theo mô hình chùm đô thị Mô hình này bao gồm một đô thị trung tâm, năm đô thị vệ tinh và các thị trấn sinh thái nhằm giảm áp lực cho khu vực nội đô Năm đô thị vệ tinh bao gồm Hòa Lạc, Sơn Tây, và Xuân Mai.
Phú Xuyên và Sóc Sơn đang phát triển các đô thị vệ tinh với kế hoạch xây dựng 3 thị trấn theo mô hình đô thị sinh thái mật độ thấp Những thị trấn này sẽ được hình thành từ các thị trấn huyện lỵ hiện có như Phúc Thọ, Quốc Oai và Chúc Sơn.
Hiện trạng môi trường đô thị tại TP Hà Nội đang gặp nhiều thách thức, với hạ tầng kỹ thuật yếu kém và hạ tầng xã hội phân tán, không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân Các hoạt động xây dựng thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến nhiều vấn đề về môi trường tự nhiên và xã hội Để quản lý hiệu quả phát triển và đầu tư xây dựng, cần có các công cụ quản lý hữu hiệu Những hạn chế này sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng các đô thị bền vững tại Hà Nội Định hướng phát triển giao thông trong quy hoạch Hà Nội cần phải được xem xét kỹ lưỡng để giải quyết những vấn đề này.
Trong đô thị trung tâm: Tỷ lệ đất giao thông khu vực đô thị trung tâm chiếm
20% - 26% đất xây dựng đô thị Vận tải hành khách công cộng năm 2020 đáp ứng 35% tổng lượng hành khách, năm 2030 khoảng 55%.
Trong các đô thị vệ tinh: Tỷ lệ đất giao thông chiếm 18% - 23% đất xây dựng đô thị, VTHKCC năm 2020 đáp ứng 26%; năm 2030 khoảng 43%.
Trong các thị trấn, tỷ lệ đất dành cho giao thông chiếm từ 16% đến 20% Việc kết nối khu vực đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh được thực hiện thông qua các phương tiện vận tải hành khách công cộng như đường sắt ngoại ô, BRT và ôtô buýt.
Bản đồ quy hoạch giao thông và GTCC TP Hà Nội chưa xác định rõ tiêu chí cho phát triển môi trường sống bền vững (MLĐ) trong quy hoạch chung Mặc dù thành phố có nhiều khu đô thị sinh thái, nhưng phần lớn do các chủ đầu tư tự phong và chưa có cơ quan độc lập nào đánh giá theo tiêu chí Trong số các khu đô thị sinh thái, Ecopark nổi bật với các tiêu chí như tỷ lệ cây xanh, hạ tầng cho người đi bộ và xe đạp, cùng với hệ thống giao thông công cộng (GTCC) phát triển.
1.2.2.2 Thành phố Hồ Chí Minh
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một trung tâm giao thông quan trọng không chỉ của Việt Nam mà còn của Đông Nam Á Thành phố đang định hướng phát triển đô thị theo mô hình tập trung - đa cực, trong đó khu vực nội thành có bán kính 15 km và bao gồm 4 cực phát triển chính.
Trong quy hoạch phát triển giao thông vận tải TP Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn sau năm 2020, một quan điểm quan trọng là phát triển mạng lưới hạ tầng giao thông đồng bộ, bền vững và hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu di chuyển thuận tiện cho người dân Đồng thời, cần chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nâng cao chất lượng vận tải, chú trọng vào giao thông công cộng khối lượng lớn, hạn chế ô nhiễm môi trường, sử dụng năng lượng hiệu quả, và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải đa phương thức và logistics.
Hình 1.10: QHGT TP Hồ Chí Minh đến năm 2020 tầm nhìn sau 2020
Hình 1.11: Quy hoạch MLĐ GTCC
TP Hồ Chí Minh đến năm 2020 tầm nhìn sau 2020 [15]
- Chỉ tiêu cụ thể như sau: [15] GTCC (xe buýt, đường sắt đô thị, taxi): Đến năm
Đến năm 2030, thị phần giao thông công cộng dự kiến đạt từ 35% đến 45%, và sau năm 2030 sẽ tăng lên từ 50% đến 60% Giao thông cá nhân, bao gồm ô tô, xe máy và xe đạp, sẽ chiếm từ 51% đến 61% vào năm 2030, nhưng sau đó sẽ giảm xuống còn 35% đến 45% Các loại hình giao thông khác dự kiến sẽ giữ mức thị phần khoảng 4% vào năm 2030 và tăng lên khoảng 5% sau năm 2030 Mục tiêu là hoàn thiện và hiện đại hóa mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông, đồng thời tiếp tục xây dựng các công trình hạ tầng khác theo quy hoạch đã được phê duyệt.
Theo quyết định 568/QĐ-TTg ngày 08 tháng 04 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ, TP Hồ Chí Minh sẽ phát triển 17 tuyến giao thông công cộng khối lượng lớn, bao gồm 08 tuyến xuyên tâm và vành khuyên kết nối các trung tâm chính của thành phố, chủ yếu đi ngầm trong nội đô Ngoài ra, sẽ có 03 tuyến xe điện mặt đất hoặc đường sắt một ray (Tramway hoặc Monorail) và 06 tuyến xe buýt nhanh (BRT) Các tuyến giao thông này sẽ kết nối các điểm thu hút chính của thành phố và liên kết với hệ thống xe buýt đô thị.
TP Hồ Chí Minh, giống như Hà Nội, đang phát triển nhiều khu đô thị sinh thái nổi bật như Ecolakes Mỹ Phước, Đảo Kim Cương và Phú Mỹ Hưng Những khu đô thị này nổi bật với môi trường sống trong lành, không gian sống lý tưởng và đầy đủ tiện ích như nhà ở, khu mua sắm, bệnh viện, trường học và công viên Các tòa nhà trong các khu đô thị này được thiết kế theo xu hướng kiến trúc xanh, tạo nên một không gian sống hiện đại và bền vững.
1.2.2.3 Thành phố Đà Nẵng Đà Nẵng là đầu mối giao thông quan trọng và là đô thị loại 1 trực thuộc TW, là một trong những trung tâm quan trọng về kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học của miền Trung – Tây Nguyên và cả nước.
Hình 1.12: Sơ đồ định hướng phát triển không gian và giao thông TP Đà
THỰC TRẠNG QHPTMLĐ TẠI TP HẢI PHÒNG
1.3.1 Giới thiệu chung về thành phố Hải Phòng
1.3.1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên của thành phố Hải Phòng
TP Hải Phòng, đô thị loại I trực thuộc Trung ương, có dân số 2.028.514 người (2019) và diện tích 1.561,8 km² Thành phố gồm 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 7 quận nội thành, 6 huyện ngoại thành và 2 huyện đảo, với tổng cộng 223 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 70 phường, 10 thị trấn và 143 xã.
Hải Phòng, thành phố biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, tọa lạc tại tọa độ từ 20°30’39” đến 21°01’15” vĩ độ Bắc và từ 106°23’39” đến 107°08’39” kinh độ Đông, cách Thủ đô Hà Nội 102 km Là đô thị cảng hơn 100 năm tuổi, Hải Phòng đóng vai trò là đầu mối giao thông quan trọng và cửa ngõ chính ra biển của vùng Bắc Bộ và cả nước Địa hình phía Bắc thành phố là vùng trung du với đồi núi xen kẽ đồng bằng thấp dần về phía Nam ra biển, liên quan đến hệ núi Quảng Ninh Khu vực này có cấu trúc địa chất đa dạng, bao gồm cát kết, đá phiến sét và đá vôi, được phân bố thành hai dãy chính: Dải Kỳ Sơn - Tràng Kênh và An Sơn - Núi Đèo.
Hệ thống sông ngòi tại TP Hải Phòng, bao gồm các sông Bạch Đằng, sông Cấm, sông Lạch Tray và sông Văn Úc, đóng vai trò quan trọng trong giao thông Với mật độ sông ngòi dày đặc từ 0,5 - 0,7 km trên 1 km², hầu hết các sông đều chảy qua khu vực đồng bằng và chịu ảnh hưởng lớn từ chế độ triều của vịnh Bắc Bộ trong mùa kiệt, cũng như chế độ lũ của sông Hồng và sông Thái Bình trong mùa lũ.
Chiều sâu luồng lạch hầu hết đạt từ 1,5-3,0m tương đương tiêu chuẩn sông cấp
II, cấp III, các tuyến sông hàng năm được nạo vét và xây dựng công trình chỉnh trị đảm bảo cao độ luồng chính ở mức -5,0m.
Biển và bờ biển: Bờ biển TP Hải Phòng khá thoải từ bờ đến độ sâu 10-20m khoảng cách từ 7-20 km Đặc biệt là vùng Lạch Huyện - Cát Hải có điều kiện để xây dựng cảng nước sâu.
Chế độ thuỷ triều nhật triều tại khu vực này có độ cao dao động từ 3,7 đến 3,9m, với mức cao nhất đạt 4,44m, ảnh hưởng đáng kể đến việc thoát nước, quy hoạch kỹ thuật đất đai cho xây dựng đô thị và sản xuất nông nghiệp Bên cạnh đó, thiên tai và biến đổi khí hậu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến môi trường và phát triển bền vững.
Khí hậu TP Hải Phòng có đặc điểm chung của vùng đồng bằng Bắc bộ, với sự ảnh hưởng của vùng ven biển Các khu vực đảo và núi tạo ra các tiểu khí hậu riêng, đặc trưng cho khí hậu nhiệt đới gió mùa Nhiệt độ không khí trung bình trong mùa đông (tháng 12, 1, 2) có xu hướng giảm, trong khi mùa hè (tháng 6, 7, 8) lại tăng dần Điều này cho thấy sự thay đổi nhiệt độ theo mùa, với mùa hè nóng hơn và mùa đông lạnh hơn Theo số liệu từ trạm thủy văn Hòn Dấu, mực nước trung bình tại đây đã tăng 12cm trong 10 năm, từ 1,89m vào năm 2005 lên 2,01m vào năm 2014.
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD, TP Hải Phòng nằm trong số 10 thành phố trên toàn cầu có nguy cơ cao nhất bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu trong 70 năm tới.
Hiện nay, biến đổi khí hậu (BĐKH) tại thành phố đang diễn ra rõ rệt, với những tác động nổi bật như nước biển dâng, khí hậu cực đoan, và sự thay đổi về nhiệt độ cũng như lượng mưa Các hiện tượng bão và triều cường diễn biến cực đoan đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân, gây thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng đô thị, đặc biệt là hạ tầng giao thông đường bộ Một ví dụ điển hình là cơn bão số 10 vào năm 2017, khi triều cường dâng cao kỷ lục với sóng đạt gần 4m.
Hình 1.14: Ngập do mưa trên đường
Lương Khánh Thiện, năm 2018, [95] Hình 1.15: Sóng biển Đồ Sơn trong bão năm 2017, [94]
Biến đổi khí hậu tại TP Hải Phòng mang đến nhiều hiểm họa nghiêm trọng như triều cường, sóng thần, động đất, nắng nóng, lốc xoáy và hỏa hoạn Những hiện tượng này không chỉ gây ra mưa, bão, lũ lụt và sạt lở, mà còn dẫn đến các vấn đề khác như xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh.
1.3.1.2 Hiện trạng kinh tế xã hội, [57]
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của thành phố năm 2019 đạt 16,5%, cao nhất từ trước đến nay và gấp 2,4 lần bình quân cả nước, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế địa phương Theo mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV, GRDP dự kiến sẽ đạt khoảng 170 nghìn tỷ đồng vào năm 2020 với tốc độ tăng trưởng bình quân 10,5%/năm Tuy nhiên, với mức tăng trưởng 16,5% trong năm 2019, quy mô GRDP đã ước đạt 179.846 tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra cho năm 2020 và hoàn thành mục tiêu Đại hội trước 01 năm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 24,2%, vượt kế hoạch 22% Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 15,77 tỷ USD, tăng 92,51%, cao hơn kế hoạch 23% Vốn đầu tư toàn xã hội đạt 152.960,5 tỷ đồng, tăng 39,69%, tương đương 141,3% kế hoạch.
108.250 tỷ đồng) Sản lượng hàng qua cảng ước đạt 129,2 triệu tấn, tăng 18,51%, bằng 100% kế hoạch (kế hoạch 129,2 triệu tấn) Thu hút khách du lịch ước đạt 9.078,2 nghìn lượt, tăng 16,39%, bằng 100% kế hoạch (kế hoạch 9.078 nghìn lượt). Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 89.617,8 tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ, bằng 129,3% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao, trong đó: Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu 60.000 tỷ đồng, tăng 27,55%, bằng 148,9% dự toán năm; thu ngân sách địa phương 29.617,8 tỷ đồng, tăng 7,63%, bằng 102,1% dự toán năm, riêng thu nội địa 27.000 tỷ đồng, tăng 8,97%, bằng 102,4% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao (dự toán năm 26.365 tỷ đồng).
1.3.1.3 Lịch sử quy hoạch phát triển thành phố Hải Phòng
Quy hoạch TP Hải Phòng đã được triển khai ngay từ ngày đầu thành lập [23].
Giữa năm 1886 và 1902, Pháp Sadi Carlos đã ký sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng, đưa thành phố này vào danh sách loại I, ngang hàng với hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn.
Năm 1959, giáo sư quy hoạch Ba Lan Zaremba đã thực hiện nghiên cứu sơ phác quy hoạch chung cho TP Hải Phòng theo mô hình cấu trúc đồng tâm, mở rộng từ trung tâm ra ngoại ô Từ năm 1960 đến 1976, Viện quy hoạch đô thị - nông thôn cùng các chuyên gia Ba Lan đã tiếp tục triển khai lập quy hoạch phát triển cho thành phố này.
Từ năm 1990 đến 1993, quy hoạch tổng thể xây dựng Thành phố Hải Phòng đến năm 2010 đã được Thủ tướng phê duyệt, đánh dấu lần đầu tiên sau 50 năm lập quy hoạch Năm 2001, đồ án quy hoạch này đã được điều chỉnh lần thứ nhất.
MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI48 1 Một số công trình khoa học nghiên cứu ngoài nước
1.4.1 Một số công trình khoa học nghiên cứu ngoài nước
Phát triển đô thị sinh thái (ĐTST) đang trở thành xu hướng toàn cầu quan trọng, tập trung vào giao thông bền vững và giao thông xanh Nghiên cứu về giao thông trong đô thị sinh thái ngày càng được chú trọng, với nhiều đề tài và luận án liên quan đã được công bố Dưới đây là một số nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đề tài này.
1.4.1.1 Nghiên cứu quan trọng của một số tổ chức quốc tế
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) trong cuốn sách "Các thành phố sinh thái kiêm kinh tế" (2010) đã phân tích các lĩnh vực như giao thông, nước, năng lượng và quản lý chất thải rắn Tuy nhiên, phát triển mô hình lao động (MLĐ) hướng tới đô thị sinh thái vẫn chưa được đề cập nhiều trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu của Ngân hàng châu Á ADB: Trong cuốn sách “Green Cities – Đô thị xanh” của ADB năm 2012 tập trung vào các nội dung xây dựng đô thị xanh.
Giao thông trong các thành phố xanh được thực hiện qua ba chiến lược chính: "Tránh - Thay đổi - Cải thiện", nhằm xác định rõ nội dung và ưu tiên trong quy hoạch đô thị Các giải pháp bao gồm quy hoạch không gian tích hợp, phát triển giao thông công cộng chất lượng, ưu tiên phương tiện giao thông phi cơ giới, và ứng dụng công nghệ sạch, đồng thời không khuyến khích sử dụng xe hơi và xe máy Nghiên cứu của ADB cung cấp nhiều thông tin hữu ích về giao thông trong đô thị xanh, hướng tới phát triển bền vững, mặc dù nội dung về mạng lưới đường đô thị vẫn chưa được đề cập nhiều.
1.4.1.2 Nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới
Nghiên cứu của tác giả Jeffrey R Kenworthy Phó Giáo sư tại Viện Định cư
Bài báo "Thành phố sinh thái: mười khía cạnh quy hoạch và giao thông chính để phát triển thành phố bền vững" được xuất bản vào tháng 4/2006 tại Đại học Murdoch, Perth, Tây Úc, nêu rõ mối quan hệ giữa giao thông và hình thái đô thị trong phát triển thành phố bền vững Nghiên cứu chỉ ra rằng các đô thị nên có quy mô nhỏ gọn, sử dụng hỗn hợp và mật độ cao hơn tại các trung tâm hoạt động chính, đồng thời ưu tiên phát triển hệ thống giao thông công cộng và phương tiện giao thông phi cơ giới Bài viết cũng áp dụng cho các đô thị ở các nước phát triển và những đô thị đang phát triển nhanh chóng, tuy nhiên, chưa đề cập đến các tiêu chí, nguyên tắc và mô hình dự báo nhu cầu vận tải trong quy hoạch phát triển đô thị.
Nghiên cứu của T Yigitcanlar và D Dizdaroglu, đăng trên tạp chí khoa học và quản lý môi trường toàn cầu năm 2015, mang tên “Cách tiếp cận sinh thái trong việc lập kế hoạch cho các thành phố bền vững”, tập trung vào các vấn đề môi trường và phương pháp sinh thái trong quy hoạch đô thị bền vững Công trình này đã thực hiện một đánh giá toàn diện các tài liệu liên quan, nhưng chưa đề cập đến nội dung phát triển môi trường đô thị (MLĐ).
Nghiên cứu của Dieter Apel và Dietrich Henckel, được thực hiện vào năm 1997 với tiêu đề “Space Demand and Traffic Development - Phát triển giao thông và đáp ứng không gian,” đã phân tích mối quan hệ giữa quy hoạch giao thông và quy hoạch sử dụng đất, cũng như giữa giao thông cá nhân và giao thông công cộng Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa đề cập đến xu hướng giao thông sinh thái trong đô thị.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Yong Gang, Wang Xu Zhu và Wan Sen Xiang từ Trung Quốc về "Quy hoạch giao thông xanh và phát triển bền vững vùng đô thị" nhấn mạnh vai trò của ô nhiễm giao thông trong việc ra quyết định Mặc dù công trình này tập trung vào vấn đề ô nhiễm từ phương tiện và giảm thiểu phát thải trong quy hoạch, nhưng chưa đề xuất các tiêu chí phát triển môi trường đô thị hướng tới một đô thị sinh thái.
Nghiên cứu của nhóm nghiên cứu xã hội bền vững Kyoto-Tokyo, Nhật Bản:
Trong công trình nghiên cứu “A Roadmap Towards Low Carbn Kyoto by: Research
Nhóm Nghiên cứu Kyoto về xã hội bền vững năm 2009 đã xác định lộ trình hướng tới Kyoto với mục tiêu trở thành thành phố carbon thấp Nhóm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển các giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường đi bộ, qua đó hướng tới giao thông sinh thái Mặc dù công trình tập trung vào việc xây dựng “thành phố carbon thấp”, nhưng nội dung quy hoạch phát triển môi trường lao động vẫn chưa được đề cập nhiều.
Qua nghiên cứu tổng quan trên, nhìn chung các nghiên cứu của thế giới chưa đưa ra được tiêu chí, nguyên tắc QHPTMLĐ hướng đến ĐTST.
1.4.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước.
1.4.2.1 Một số luận án liên quan đến quy hoạch phát triển mạng lưới đường
Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Vinh (1996) đã nghiên cứu các vấn đề chủ yếu liên quan đến quy hoạch phát triển mật độ lao động (MLĐ) tại thành phố Hà Nội đến năm 2020 Tác giả đề xuất các giải pháp quy hoạch phù hợp với đặc thù của Hà Nội, bao gồm khu phố cổ, khu phố cũ, khu vực phát triển không quy hoạch và khu vực phát triển mới Luận án cũng đưa ra tỷ lệ các loại phương tiện giao thông hành khách cùng với chính sách giao thông cho Hà Nội Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu chỉ tập trung vào thành phố Hà Nội như một đô thị loại đặc biệt và chưa đề cập đến đô thị loại 1, cũng như chưa xem xét quy hoạch phát triển MLĐ theo hướng phát triển bền vững (ĐTST).
Luận án tiến sĩ của Phạm Hữu Đức (2004) mang tiêu đề “Mối quan hệ giữa đường bộ đối ngoại và đường đối nội trong quy hoạch phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020” đã phân tích thực trạng đường bộ và sự phát triển của các đô thị vừa và nhỏ Nghiên cứu cũng nhấn mạnh ảnh hưởng của giao thông đối ngoại đến giao thông đối nội và các hình thức kết nối giữa hai loại đường này Tuy nhiên, luận án chưa đề cập đến việc nghiên cứu mô hình đô thị hướng tới phát triển đô thị sinh thái.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hồng Tiến (2004) nghiên cứu sự phát triển mạng lưới giao thông trong quy hoạch không gian chùm đô thị, với Hà Nội là địa bàn nghiên cứu chính Tác giả đề xuất các giải pháp quy hoạch và tổ chức mạng lưới giao thông, cũng như lựa chọn phương tiện giao thông phù hợp cho chùm đô thị Hà Nội và các đô thị lân cận, ngoại trừ Hải Phòng Luận án cũng chỉ ra những vấn đề về đô thị hóa chưa được đề cập trong bối cảnh này.
Luận án tiến sĩ của Lê Anh Đức (2007) tập trung vào phát triển mạng lưới giao thông và hiệu quả quản lý đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này chủ yếu phân tích mối quan hệ giữa mạng lưới giao thông và quy hoạch sử dụng đất, nhưng chưa xem xét phát triển môi trường đô thị theo hướng sinh thái.
Luận án tiến sĩ của Trần Quang Phú (2011) tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa giao thông và sử dụng đất tại thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, nghiên cứu chưa chú trọng đến việc phát triển mô hình đô thị sinh thái, điều này cho thấy cần có thêm các nghiên cứu sâu hơn về sự kết hợp giữa giao thông và phát triển bền vững trong bối cảnh đô thị hiện đại.
Luận án tiến sĩ của Trần Văn Tiến (2012) về quản lý quy hoạch môi trường đô thị vùng trung du miền núi Bắc Bộ, được thực hiện tại Đại học Kiến trúc Hà Nội, đã đề xuất tỷ lệ diện tích đất và phân loại đường trong đô thị thông thường Tuy nhiên, luận án chưa đề cập đến khái niệm đô thị sinh thái.
1.4.2.2 Một số luận án liên quan đến ĐTST, PTBV
Luận án tiến sĩ của Vũ Anh (2011) nghiên cứu qui hoạch phát triển hệ thống giao thông công cộng (GTCC) tại thành phố Hà Nội, với mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững đô thị Mặc dù có đề cập đến một số tiêu chí liên quan đến đô thị sinh thái, nhưng tác giả chủ yếu tập trung vào việc phân tích và áp dụng hệ thống GTCC cho Hà Nội.
XÁC ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu về giao thông tại các đô thị thường được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế, nhà khoa học và nhà quản lý, nhưng ít có đề tài nào tập trung vào TP Hải Phòng Với mục đích nghiên cứu của luận án và các hạn chế hiện tại của thành phố, cũng như định hướng quy hoạch môi trường đô thị hướng đến phát triển bền vững, luận án cần giải quyết những vấn đề cụ thể liên quan đến giao thông tại Hải Phòng.
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học QHPTMLĐ đô thị hướng tới ĐTST.
Để phát triển đô thị sinh thái tại TP Hải Phòng, cần làm rõ các đặc điểm riêng biệt của từng khu vực, từ đó xác định các mô hình lao động (MLĐ) phù hợp Việc này sẽ giúp định hướng quy hoạch phát triển MLĐ một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường.
Hiện nay, phát triển đô thị bền vững (ĐTST) ở nước ta vẫn là một lĩnh vực mới mẻ Cần thiết phải có quan điểm và nguyên tắc quy hoạch phát triển đô thị (QHPTMLĐ) hướng tới ĐTST một cách thống nhất Trên cơ sở đó, cần đề xuất các giải pháp phù hợp với đặc điểm riêng của từng đô thị.
- Xây dựng một số tiêu chí QHPTMLĐ hướng tới ĐTST tại TP Hải Phòng để làm cơ sở cho công tác quản lý, thực hiện quy hoạch.
Mô hình dự báo nhu cầu giao thông vận tải tại TP Hải Phòng được ứng dụng nhằm đề xuất giải pháp quy hoạch phát triển nguồn lực lao động phù hợp với đặc thù của thành phố, hướng tới phát triển bền vững.
- Đề xuất một số giải pháp QHPTMLĐ hướng tới đô thị sinh thái tại TP HảiPhòng tương ứng với đặc điểm các khu vực phát triển.