Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội
1.1.1.Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp
Cơ cấu xã hội bao gồm các cộng đồng người và toàn bộ các mối quan hệ xã hội được hình thành từ sự tương tác giữa các cộng đồng này.
Cơ cấu xã hội bao gồm nhiều loại, như cơ cấu xã hội – dân cư, nghề nghiệp, giai cấp, dân tộc và tôn giáo Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học chú trọng vào nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp, vì đây là cơ sở quan trọng để phân tích vấn đề liên minh giai cấp và tầng lớp trong một chế độ xã hội cụ thể.
Cơ cấu xã hội và giai cấp là hệ thống các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại trong một chế độ xã hội cụ thể, được hình thành thông qua các mối quan hệ liên quan đến sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý quá trình sản xuất, cũng như địa vị chính trị - xã hội giữa các giai cấp và tầng lớp này.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp bao gồm các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, cùng chung sức cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới Các giai cấp cơ bản trong cơ cấu này bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh nhân, tiểu chủ, thanh niên và phụ nữ Mỗi giai cấp và tầng lớp đều có vai trò quan trọng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, họ hợp lực để thực hiện các mục tiêu của thời kỳ quá độ, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như một hình thái kinh tế - xã hội mới.
Cơ cấu xã hội-giai cấp là hệ thống các giai cấp và tầng lớp xã hội tồn tại khách quan trong một hệ thống xã hội nhất định, không bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người.
Việc xác định cơ cấu xã hội-giai cấp dựa trên mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý sản xuất và địa vị chính trị-xã hội giữa các giai cấp Trong xã hội Tư sản, giai cấp tư sản sở hữu tư liệu sản xuất, trong khi giai cấp vô sản không nắm giữ tư liệu đó Đối với xã hội Xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản đã đấu tranh giành thắng lợi để thay thế giai cấp tư sản, từ đó trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội mới.
1 Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.88.
1.1.2 Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội
Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí và vai trò riêng, đồng thời chúng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau Tuy nhiên, không phải tất cả các cơ cấu xã hội đều có vai trò ngang nhau; cơ cấu xã hội-giai cấp giữ vị trí quan trọng hàng đầu và chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác Nguyên nhân của điều này xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau.
Cơ cấu xã hội-giai cấp ảnh hưởng mạnh mẽ đến các đảng phái chính trị và nhà nước, đồng thời quyết định quyền sở hữu tư liệu sản xuất Nó cũng liên quan đến cách thức quản lý tổ chức lao động và vấn đề phân phối thu nhập trong xã hội.
Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến các cơ cấu xã hội khác và toàn bộ cấu trúc xã hội Ví dụ, trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giai cấp công nhân đã nắm quyền và làm chủ tư liệu sản xuất, dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu xã hội-nghề nghiệp Số lượng công nhân đang gia tăng mạnh mẽ trong khi số lượng nông dân giảm, và giai cấp tư bản dần chuyển mình từ việc nắm quyền tư liệu sản xuất sang vai trò của các tư nhân, doanh nghiệp, tạo ra những tầng lớp xã hội mới.
Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các cơ cấu xã hội khác và toàn bộ cấu trúc xã hội Như Lê-nin đã từng nhấn mạnh, việc hiểu rõ những biến đổi này là cần thiết để tiến bộ trong mọi lĩnh vực hoạt động Hiện nay, trong bối cảnh nước ta chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội-giai cấp đang có sự thay đổi rõ rệt, với giai cấp công nhân nắm giữ quyền lực và làm chủ tư liệu sản xuất Điều này dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu xã hội-nghề nghiệp, khi số lượng công nhân gia tăng mạnh mẽ trong khi số lượng nông dân giảm dần, và các nhà tư bản chuyển mình từ giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất thành những tư nhân, doanh nghiệp mới.
Mặc dù cơ cấu xã hội-giai cấp đóng vai trò quan trọng, nhưng không nên tuyệt đối hóa nó và xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác Việc này có thể dẫn đến sự tùy tiện và ý muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách đơn giản theo ý chủ quan.
Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ cấu xã hội-giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên có những biến đổi mang tính quy luật sau đây:
1.2.1 Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác, vật chất quyết định ý thức, và trong xã hội, kinh tế là yếu tố quyết định chính trị, tức là cơ sở hạ tầng sẽ ảnh hưởng đến kiến trúc thượng tầng Do đó, cơ cấu xã hội giai cấp phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của xã hội Nói một cách khác, cơ cấu kinh tế xã hội sẽ quyết định cơ cấu xã hội giai cấp.
Trong cơ cấu kinh tế phong kiến, vai trò của nó quyết định sự hình thành cấu trúc xã hội giai cấp, với giai cấp địa chủ phong kiến thống trị nông dân và các tầng lớp bị trị khác.
Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là giai cấp thống trị nhờ sở hữu tư liệu sản xuất, trong khi giai cấp công nhân và các thành phần khác bị trị Khi chuyển sang chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp cũng thay đổi theo hướng sở hữu công cộng, với giai cấp công nhân trở thành lực lượng lãnh đạo chủ chốt, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích chung của xã hội, tạo ra sự liên minh rộng rãi giữa các giai cấp và tầng lớp khác để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định rằng trong thời kỳ quá độ, mặc dù có nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế khác nhau, nhưng cơ cấu và vị trí của các giai cấp trong xã hội đã có nhiều thay đổi theo sự biến động của kinh tế và xã hội.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế dẫn đến sự biến đổi trong cơ cấu xã hội giai cấp, làm thay đổi vị trí và vai trò của các giai cấp, tầng lớp và nhóm xã hội Ở những quốc gia đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu kinh tế chuyển từ nông nghiệp và công nghiệp sơ khai sang phát triển công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp Đồng thời, hình thành các vùng kinh tế lớn và phát triển lực lượng sản xuất với công nghệ cao, ứng dụng thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại Những biến đổi này tạo ra cơ cấu kinh tế mới hiện đại hơn, đồng bộ và hài hòa giữa các vùng, nông thôn và thành thị Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường với tính cạnh tranh cao và xu thế hội nhập sâu rộng khiến cho các giai cấp, tầng lớp xã hội trở nên năng động, nhanh nhạy và sáng tạo trong lao động sản xuất.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2001, tr.85. những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị trường trong bối cảnh mới 3
1.2.2 Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa được hình thành từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó trong giai đoạn đầu vẫn tồn tại những "dấu vết của xã hội cũ" ở mọi phương diện như kinh tế, đạo đức và tinh thần Tuy nhiên, sự xuất hiện của những yếu tố mới từ giai cấp công nhân và các tầng lớp khác trong xã hội cũng diễn ra, dẫn đến sự đan xen giữa yếu tố cũ và mới Đây là quy luật thể hiện rõ nét trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế Việt Nam hiện nay đang tồn tại một kết cấu kinh tế đa thành phần, điều này dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, ngành nghề và hành chính Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã tạo ra một xã hội với nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau, hình thành nên một cơ cấu xã hội mới Những biến đổi này không chỉ ảnh hưởng đến cấu trúc kinh tế mà còn định hướng cho sự phát triển theo mô hình xã hội chủ nghĩa.
Trong giai cấp nông dân hiện nay, xuất hiện nhiều thành phần như nông dân làm dịch vụ, mở xưởng cơ khí, và buôn bán nhỏ, bên cạnh những nông dân làm chủ trang trại hay làm thuê Sự chuyển dịch này làm giảm tính chất thuần nông của giai cấp nông dân Trong tương lai, việc chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp và tăng cường lao động công nghiệp, dịch vụ sẽ tạo cơ hội việc làm cho nông dân cả trong và ngoài khu vực nông thôn, thậm chí ở nước ngoài, dẫn đến sự thay đổi rõ rệt về kết cấu và bản chất của giai cấp nông dân.
Trong giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, một nhóm xã hội nổi bật là các chủ trang trại, những người có vai trò quan trọng trong sản xuất và kinh doanh Tên gọi "chủ trang trại" không chỉ đơn thuần phản ánh vị trí của họ, mà còn thể hiện sự ảnh hưởng kinh tế và xã hội mà họ nắm giữ trong ngành nông nghiệp.
Giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay thể hiện tính chất là những chủ sở hữu đất đai, ao hồ, và ruộng vườn, nhưng chưa phản ánh rõ ràng vị trí xã hội của họ Sự phân hóa và phức tạp trong cấu trúc của giai cấp nông dân đang ngày càng rõ nét Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân cũng trải qua nhiều biến động về ngành nghề, dẫn đến sự thay đổi trong kết cấu nội bộ Sự phức tạp trong giai cấp công nhân gia tăng, với sự hiện diện của công nhân làm thuê, công nhân có cổ phần và chủ xưởng Sự xuất hiện của công nhân “cổ trắng” bên cạnh công nhân “cổ xanh” truyền thống cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn để đưa ra các quyết sách phù hợp.
3 Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.90.
4 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 19, tr.33.
Tầng lớp trí thức Việt Nam ngày càng gia tăng về số lượng và đa dạng về cấu trúc, phản ánh sự phức tạp và biến động trong xã hội Họ bao gồm nhiều thành phần như nông dân, công nhân, tiểu thương, và tiểu chủ, với sự đa dạng về độ tuổi và dân tộc Tầng lớp này hoạt động trong hầu hết các ngành nghề, và thường gia nhập vào các giai cấp xã hội khác một cách không tự giác Trong số họ, có những trí thức trở thành doanh nhân, trong khi nhiều người khác chỉ là những lao động bình thường trong các cơ sở sản xuất kinh doanh.
1.2.3 Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn tồn tại, với sự chống phá liên tục từ tàn dư của chế độ cũ Điều này đòi hỏi sự chú ý và các biện pháp hiệu quả để giải quyết những xung đột này trong thời kỳ nhạy cảm, được ví như “những cơn đau đẻ kéo dài”.
Trong xã hội, bên cạnh những mâu thuẫn, giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức còn có mối liên minh chặt chẽ Liên minh này hình thành do sự tương đồng giữa giai cấp công nhân và nông dân, cả hai đều là giai cấp bị trị, bị bóc lột và có số lượng đông đảo Giai cấp công nhân ở Việt Nam có nguồn gốc từ nông dân, trong khi tầng lớp trí thức nắm giữ tri thức và nhạy bén với thời cuộc, nhưng cũng chịu sự bóc lột gián tiếp Mức độ liên minh giữa các giai cấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn Ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, sự phân chia giai cấp rất rõ ràng, với giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất và bóc lột giai cấp bị trị Tuy nhiên, khi giai cấp công nhân nhận thức được vai trò của mình trong cách mạng, mối quan hệ giữa họ, nông dân và trí thức ngày càng gắn bó và liên kết chặt chẽ hơn.
Sự gắn kết giữa các giai cấp trong xã hội phản ánh quy luật phổ biến của đấu tranh giai cấp Mỗi giai cấp, với những lợi ích đối lập, cần phải tìm kiếm liên minh với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác có lợi ích tương đồng Điều này nhằm mục đích tập hợp lực lượng để đáp ứng những nhu cầu và lợi ích chung, tạo ra sự đoàn kết trong cuộc đấu tranh xã hội.
Tính đa dạng và độc lập của các giai cấp, tầng lớp xã hội sẽ thúc đẩy quá trình hòa nhập và chuyển đổi giữa các nhóm, hướng tới việc xóa bỏ dần tình trạng bóc lột giai cấp Hiện nay, số lượng giai cấp công nhân có sự khác biệt đáng kể do tiêu chí, quy mô và cách đánh giá của từng chủ thể nghiên cứu.
5 Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9/2007, tr.51-tr.53.
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Góc độ chính trị
Trong một xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với lợi ích đối lập đòi hỏi mỗi giai cấp phải liên minh với các tầng lớp khác có lợi ích tương đồng để thực hiện nhu cầu chung Đây là quy luật phổ biến và là động lực quan trọng cho sự phát triển của xã hội giai cấp Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân cần liên minh với nông dân và các tầng lớp lao động khác để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đảm bảo thắng lợi cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong việc giành chính quyền và xây dựng chế độ xã hội mới.
Liên minh công - nông là cần thiết không chỉ cho giai cấp công nhân mà còn cho giai cấp nông dân Mâu thuẫn giai cấp giữa công nhân và tư sản cũng như giữa nông dân với các tầng lớp lao động khác đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi sự đoàn kết và hợp tác giữa các giai cấp này để đấu tranh cho quyền lợi chung.
C Mác và Ph Ăngghen trong Toàn tập nhấn mạnh rằng giai cấp tư sản sẽ không thể thoát khỏi sự áp bức và bóc lột nếu không thiết lập liên minh với giai cấp công nhân Để đạt được sự giải phóng thực sự và triệt để, việc trở thành đồng minh với giai cấp công nhân là điều cần thiết.
Trước sự liên minh của giai cấp tư sản phản cách mạng, các phần tử cách mạng hóa từ giai cấp tiểu tư sản và nông dân cần hợp tác với giai cấp vô sản Nông dân nhận ra rằng giai cấp vô sản là đồng minh tự nhiên trong cuộc chiến lật đổ chế độ tư sản Tuy nhiên, để xây dựng liên minh này, cần hiểu rõ vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng Nông dân thường tự cung tự cấp, có tư tưởng hạn chế và thiếu lý tưởng chính trị, nên họ đóng vai trò trung gian trong xã hội tư bản Dù đã xóa bỏ tư hữu ruộng đất, nông dân vẫn giữ quyền sở hữu công cụ sản xuất, dẫn đến tính tự phát trong sản xuất V.I Lênin chỉ ra rằng cần có thái độ đúng đắn với nông dân và cần tuyên truyền để giác ngộ họ, đồng thời khẳng định rằng liên minh công - nông là thiết yếu để lật đổ chế độ Nga hoàng và giai cấp tư sản Nhiệm vụ của đảng vô sản là giải thích cho nông dân thấy rằng chỉ khi nào chủ nghĩa tư bản còn hiện hữu, tình cảnh của họ vẫn sẽ bi đát, và giai cấp công nhân mới là lực lượng có lợi ích chung với họ.
Thời kỳ phát triển của tính tự phát tiểu tư sản chứa đựng mâu thuẫn giữa tính kỷ luật của giai cấp vô sản và tính vô kỷ luật của tiểu tư sản Lênin đã chỉ ra rằng, tiểu tư sản thường dao động, có thể theo giai cấp vô sản trong một thời điểm, nhưng lại dễ dàng hoảng sợ và chuyển sang phe khác khi đối mặt với khó khăn cách mạng.
Nhiệm vụ kêu gọi tầng lớp tiểu tư sản và trí thức tham gia vào liên minh cách mạng là rất quan trọng Mặc dù họ có trình độ nhận thức cao, nhưng do lợi ích trung gian giữa tư sản và vô sản, nên việc gắn bó với cách mạng gặp nhiều khó khăn Cần phải chỉ ra cho tầng lớp tiểu tư sản thấy rằng nếu để tư bản nắm quyền, họ sẽ sớm rơi vào tình trạng bất lợi.
11 C.Mác và Ph Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr 269.
Giai cấp công nhân và nông dân đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của tư sản, do đó cần phải cho họ nhận thức rõ về điều này.
V.I Lênin đã khẳng định rằng để giành và duy trì chính quyền của giai cấp vô sản, cần thiết phải liên minh chặt chẽ với nông dân Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là minh chứng cho việc tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang và kế hoạch khởi nghĩa dựa trên nguyên tắc liên minh giữa công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác Lênin nhấn mạnh rằng không có sự ủng hộ từ đại đa số nhân dân lao động thì cách mạng vô sản sẽ không thể thành công Ông cũng chỉ ra rằng trong quá trình đấu tranh cách mạng, thỏa hiệp với giai cấp tư sản là cần thiết, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn Cách mạng không chỉ là tiến công mà còn cần có khoa học rút lui để chuẩn bị cho những thắng lợi lớn hơn Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy sự cần thiết của khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức để thực hiện các mục tiêu chính trị chung và thỏa hiệp với kẻ thù tư sản khi cần thiết Các cuộc cách mạng ở Trung Quốc và Việt Nam cũng là minh chứng cho sức mạnh của liên minh giai cấp và sự thỏa hiệp cần thiết để đạt được thành công.
V.I Lênin luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp xã hội khác Trong giai đoạn quá độ, các giai cấp bóc lột thường nuôi hy vọng phục hồi chính quyền tư sản, và từ đó có thể biến hy vọng thành hành động Điều này tạo ra nguy cơ cho tầng lớp tiểu tư sản, những người dễ bị dao động, có thể tiếp tay cho họ Lênin đã chỉ ra rằng sau khi thất bại nặng nề, các giai cấp bóc lột không thể tưởng tượng được sự sụp đổ của mình và không tin vào khả năng này, nhưng thực tế lại đang diễn ra.
13 V.I Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978 tập 44, tr.57.
V.I Lênin trong tác phẩm của mình nhấn mạnh rằng, để giành lại "thiên đường" đã mất, cần phải tham gia cuộc chiến với nghị lực gấp mười lần, cùng với sự cuồng nhiệt và lòng hận thù gấp trăm lần Điều này thể hiện rõ quyết tâm và tinh thần chiến đấu mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giành lại những gì đã bị mất.
Chuyên chính vô sản là sự liên minh giữa giai cấp vô sản và các tầng lớp lao động khác nhằm chống lại tư bản và thiết lập chủ nghĩa xã hội Cuộc chiến bảo vệ nước Nga Xô viết và các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ tại Việt Nam từ 1945-1975 là minh chứng cho sự đoàn kết của các giai cấp trong việc bảo vệ Tổ quốc và tiêu diệt kẻ thù chung Nội dung chính trị của liên minh giai cấp không chỉ tạo ra mà còn duy trì và củng cố quyền lực của giai cấp vô sản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự liên minh giữa các giai cấp và tầng lớp là điều tất yếu, phản ánh nhiệm vụ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân cần thực hiện Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác không chỉ là lực lượng sản xuất cơ bản mà còn là lực lượng chính trị xã hội quan trọng Khi cấu trúc xã hội và giai cấp diễn biến phức tạp, giai cấp công nhân, thông qua Đảng Cộng sản, cần có đường lối và chính sách liên minh đúng đắn với các giai cấp và tầng lớp lao động khác, bao gồm cả đội ngũ trí thức, để xây dựng, kiểm soát và sử dụng chính quyền Nhà nước của mình V.I Lênin đã chỉ rõ tầm quan trọng của sự liên minh này.
“Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật,không một thế lực đen tối nào đứng vững được” 17
Góc độ kinh tế
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, liên minh kinh tế được coi là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội, đóng vai trò cơ bản, thường xuyên và lâu dài Liên minh này hình thành từ yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ sản xuất nhỏ nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và khoa học – công nghệ, nhằm xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Mỗi lĩnh vực kinh tế chỉ có thể phát triển khi gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, hướng tới phát triển sản xuất và tạo thành một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất Sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin đã nhận định có 5 thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ và đã xếp thứ tự cho chúng.
Kinh tế hiện nay bao gồm năm thành phần chính: kinh tế tư gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế nhà nước tư bản chủ nghĩa và kinh tế xã hội chủ nghĩa Các nước xã hội chủ nghĩa đang phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, như Lênin đã đề cập Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, sự liên minh giữa công nhân, nông dân và tri thức ngày càng trở nên quan trọng.
16 V.I.Lênin: Toàn tâ ̣p, t.38, NXB Tiến bô ̣, Mát-xcơ-va, 1977, tr.452.
Sự phát triển của nông nghiệp, công nghiệp và khoa học-công nghệ đang tạo ra mối liên hệ chặt chẽ, góp phần tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân, cùng với tầng lớp trí thức và các tầng lớp xã hội khác Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và đang thúc đẩy sự gắn kết giữa các giai cấp trong xã hội.
Trong giai cấp nông dân, tiểu nông là bộ phận cốt lõi, với mỗi gia đình nông dân hoạt động như một đơn vị kinh tế tự túc, cho thấy sự liên kết giữa họ rất hạn chế C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh kinh tế giữa giai cấp công nhân và nông dân, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ của chính đảng vô sản là giúp nông dân nhận thức rằng chỉ khi nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại, tình cảnh của họ sẽ luôn tuyệt vọng Để cứu vãn tài sản của nông dân, cần chuyển đổi ruộng đất thành tài sản của hợp tác xã và khuyến khích sản xuất hợp tác Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng đây là bước trung gian để chuyển đổi nền sản xuất cá thể sang chủ nghĩa xã hội mà không cần qua phát triển tư bản chủ nghĩa Nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp yêu cầu không dùng bạo lực và phải dựa vào sự tự nguyện của nông dân.
Chúng ta cần kiên quyết ủng hộ người tiểu nông, cho họ thời gian suy nghĩ và quyết định về mảnh đất của mình Nguyên tắc phát triển hợp tác xã nên tiến dần từ quy mô nhỏ đến lớn, từ từng xã đến liên xã Để nông dân tiến tới chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải hỗ trợ họ trong quá trình cải cách xã hội chủ nghĩa Theo Ph Ăngghen, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản, nông dân không thể được coi là một khối thống nhất vì sự phân hóa không ngừng, do đó, các đảng xã hội chủ nghĩa cần có sách lược khác nhau cho từng thành phần nông dân.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn
Chuyên chính vô sản đã chuyển chính trị sang lĩnh vực kinh tế, với mục tiêu củng cố liên minh dựa trên nền tảng kinh tế Để phát triển một quốc gia nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội, cần phải gắn kết công nghiệp với nông nghiệp và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại Lênin nhấn mạnh rằng một nước nông nghiệp không thể xây dựng nền công nghiệp nếu không có nền tảng kinh tế nông nghiệp vững chắc.
18 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.737 – tr.738.
19 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.738.
20 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452.
Khi nước Nga Xô viết ra đời, thực hiện “Sắc lệnh ruộng đất”, nông dân đã nhận miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ và được xóa nợ Để cải thiện đời sống nhân dân lao động, việc nâng cao năng suất lao động là rất quan trọng V.I.Lenin đã nhấn mạnh rằng công nhân cần tự nguyện, tự giác và liên kết với nhau, kết hợp với kỹ thuật hiện đại để đạt năng suất cao hơn Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của Lenin, cũng đã chỉ ra tầm quan trọng này.
Liên Xô đã quyết tâm chuyển đổi nước Nga từ một nền nông nghiệp sang một nền công nghiệp tự lực, với mục tiêu sản xuất thiết bị cần thiết và giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nước tư bản Sự chuyển mình này không chỉ đảm bảo độc lập kinh tế mà còn khẳng định tinh thần tự cường của quốc gia Sau chiến tranh Vệ quốc, dưới sự chỉ đạo của Joseph Stalin, Liên Xô đã triển khai các biện pháp khẩn cấp để khôi phục kinh tế ở các vùng vừa được giải phóng, và đến cuối năm 1945, những nỗ lực này đã tạo ra những bước tiến quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa.
Từ năm 1945 đến 1953, Liên Xô đã phục hồi 7.500 nhà máy, xí nghiệp và hàng nghìn nông trường quốc doanh, tạo ra niềm phấn khởi và tự hào trong dân chúng khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng, với thu nhập quốc dân tăng 64% từ 1940 đến 1950 Năm 1954, Liên Xô trở thành quốc gia đầu tiên sở hữu nhà máy điện nguyên tử, đánh dấu sự chấm dứt độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ, được Thủ tướng Anh Winston Churchill công nhận Tương tự, sau công cuộc Đổi mới 1986, Việt Nam cũng nằm trong top các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất, cho thấy tầm quan trọng của liên minh giai cấp trong lĩnh vực kinh tế.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và khoa học kỹ thuật Sự hợp tác chặt chẽ giữa ba lực lượng này là yếu tố then chốt cho sự phát triển kinh tế Liên minh giai cấp và tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự kết nối và hỗ trợ lẫn nhau mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích chung, tạo động lực cho việc thực hiện thành công mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện liên minh giai cấp cũng đem lại những thuận lợi và khó khăn riêng:
Giai cấp công nhân chủ yếu xuất phát từ giai cấp nông dân, tạo nên nhiều điểm tương đồng và mối liên kết chặt chẽ giữa hai nhóm Cả hai đều là nạn nhân của sự bóc lột, vì vậy việc họ đoàn kết và cùng nhau đấu tranh là điều tất yếu.
Nhu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân cần phải hài hòa với lợi ích của dân tộc và đa số nhân dân Sự hợp tác chặt chẽ trong đấu tranh giai cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội là yếu tố quyết định để giai cấp công nhân có thể liên minh vững mạnh hơn với các giai cấp và tầng lớp lao động khác.
Về cơ bản thì giai cấp công nhân, nông dân, tri thức đều có chung lập trường chính trị là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, tầng lớp tri thức ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với hoạt động sản xuất công nghiệp của công nhân và sản xuất nông nghiệp của nông dân, từ đó củng cố mối quan hệ liên minh giữa các giai cấp.
Giai cấp nông dân hiện vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển, đặc biệt ở các vùng nông thôn khó khăn Cuộc sống của nhiều nông dân còn thiếu thốn, trong khi trình độ học vấn và nhận thức chính trị của họ vẫn ở mức thấp Tình trạng này không chỉ hạn chế khả năng phát triển của nông dân mà còn ảnh hưởng đến việc hình thành liên minh giữa nông dân, công nhân và tri thức.
Vấn đề thất nghiệp trong giai cấp công nhân và tri thức đang trở thành thách thức lớn cho liên minh giai cấp, đặc biệt khi dân số ngày càng gia tăng Trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nhân phải đối mặt với nguy cơ bị bóc lột bởi các doanh nghiệp trong và ngoài nước Sự chênh lệch thu nhập giữa công nhân tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, cùng với xu hướng "trung lưu hóa", đã dẫn đến tình trạng mất đoàn kết trong nội bộ giai cấp công nhân và ảnh hưởng đến sự liên minh giữa các giai cấp.
Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1 Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.1.1 Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam
- Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật
Sự vận động và biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được chi phối bởi những biến đổi trong cơ cấu kinh tế Cơ cấu xã hội-giai cấp gắn liền với biến động của các thành phần kinh tế và cơ cấu hành chính kinh tế-xã hội Từ Ðại hội IX của Ðảng vào tháng 4-2001, Đảng đã khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế này đã trở thành mối quan tâm cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, và XIII của Đảng, với Ðại hội XIII một lần nữa xác nhận tầm quan trọng của mô hình kinh tế này trong quá trình phát triển của đất nước.
Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản như các nước tư bản phát triển, dẫn đến sự hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đã tạo ra một cơ cấu giai cấp phong phú, thay thế cho cấu trúc đơn giản trước đây, bao gồm công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức Tính đa dạng này không chỉ thể hiện qua sự xuất hiện của nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội như tư sản, tiểu tư sản, tiểu chủ, mà còn trong sự chuyển hóa giữa các giai cấp Những biến đổi này đã góp phần làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn, tạo ra động lực quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, với mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, định hướng xã hội chủ nghĩa Cơ cấu giai cấp hiện nay bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, tư sản, tiểu tư sản, tiểu chủ, thợ thủ công và tiểu thương, phản ánh sự thay đổi nhanh chóng trong bối cảnh xã hội mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự vận động và biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp thể hiện những đặc trưng riêng của mô hình xã hội chủ nghĩa Điều này không chỉ phản ánh định hướng lâu dài mà còn bao gồm những nhiệm vụ cụ thể cần đạt được trong từng bước đi và giai đoạn của quá trình này.
3.1.2 Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định
21 Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển nền kinh tế đa dạng với nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể, tạo thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân Đồng thời, kinh tế tư nhân được coi là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
23 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Hà Nội, 2019.
Giai cấp công nhân đóng vai trò chủ chốt trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, với sự biến đổi nhanh chóng về số lượng và chất lượng Trước thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân nước ta tương đối ít và đồng nhất do nền kinh tế khép kín Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế đa thành phần, số lượng công nhân đã tăng nhanh, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài Sự đa dạng trong giai cấp công nhân không chỉ theo thành phần kinh tế mà còn theo ngành nghề, với sự phát triển của "công nhân hiện đại" và "công nhân tri thức" Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của công nhân, góp phần vào sứ mệnh của họ trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Tuy nhiên, sự phân hóa giàu nghèo trong giai cấp công nhân ngày càng rõ rệt, dẫn đến chênh lệch thu nhập và sự khác biệt về nhận thức xã hội Một số công nhân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của mình, trong khi chủ nghĩa cá nhân và các tệ nạn xã hội đang ảnh hưởng tiêu cực đến lý tưởng và đạo đức của họ.
Sự biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế đã tạo ra những thay đổi đáng kể trong môi trường doanh nghiệp Hình ảnh người công nhân Việt Nam cũng đã được cải thiện và định hình lại trong bối cảnh toàn cầu hóa, phản ánh sự phát triển và thích ứng của họ với những thách thức mới.
Giai cấp công nhân Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo quan trọng trong cách mạng thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến Họ là lực lượng tiên phong trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và dẫn dắt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Mục tiêu của họ là tạo ra một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ tri thức.
Giai cấp nông dân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp Họ trực tiếp sử dụng các tư liệu sản xuất cơ bản, chủ yếu là đất, rừng và biển, để tạo ra sản phẩm nông nghiệp.
Giai cấp nông dân đóng vai trò chiến lược trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đồng thời góp phần xây dựng nông thôn mới và bảo vệ Tổ quốc Họ là lực lượng then chốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Giai cấp nông dân cũng là chủ thể trong việc phát triển nông thôn mới, kết hợp xây dựng cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch, hướng tới hiện đại hóa nông nghiệp.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân trải qua sự biến đổi đa dạng về cơ cấu, với xu hướng giảm dần về số lượng và tỷ lệ trong xã hội Nhiều nông dân đã chuyển sang làm việc trong các khu công nghiệp hoặc dịch vụ công nghiệp, trở thành công nhân Bên cạnh đó, giai cấp nông dân cũng xuất hiện những chủ trang trại lớn, trong khi vẫn tồn tại những nông dân mất ruộng đất và làm thuê Sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông dân ngày càng trở nên rõ rệt.
Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, nông dân đóng vai trò là tầng lớp trung gian đông đảo nhưng không thể tự giải phóng khỏi chế độ tư hữu và áp bức Họ không thể trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội trong các cuộc giải phóng Để phát huy vai trò của mình và đạt được sự giải phóng, giai cấp nông dân cần liên minh với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong việc giành chính quyền cũng như trong quá trình cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Trí thức là những cá nhân có kiến thức sâu rộng trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật và quản lý kinh tế - xã hội Họ thường xuyên áp dụng hiểu biết của mình để nhận diện và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn, nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng và đáp ứng nhu cầu nhận thức cá nhân.
25 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, H.2008, tr.43-tr.44.
Đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế tri thức và phát triển văn hóa Việt Nam với bản sắc dân tộc đậm đà Họ là lực lượng sáng tạo đặc biệt, nằm trong khối liên minh, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
Trí thức Việt Nam đến từ nhiều tầng lớp xã hội, chủ yếu là công nhân và nông dân, và phần lớn trưởng thành trong bối cảnh xã hội mới, với nguồn gốc đào tạo đa dạng cả trong và ngoài nước Đội ngũ trí thức này mang trong mình tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc sâu sắc, luôn đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo Qua những hoạt động sáng tạo, trí thức Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức không có phương thức sản xuất và địa vị kinh tế, xã hội độc lập, dẫn đến việc họ cũng không sở hữu hệ tư tưởng độc lập Tuy nhiên, trí thức đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ giai cấp thống trị xây dựng lý luận và hệ tư tưởng của họ Mặc dù trí thức có tinh thần đấu tranh chống lại áp bức và bóc lột, nhưng sự kiên quyết và triệt để trong cuộc chiến này còn thiếu Do đó, để đạt được sự giải phóng, trí thức cần chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và tham gia vào khối liên minh.
Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.2.1 Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nội dung kinh tế của liên minh là yếu tố quyết định, đóng vai trò là cơ sở vật chất-kỹ thuật trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội V.I Lênin đã nhấn mạnh rằng trong giai đoạn này, chính trị sẽ chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế, với cuộc đấu tranh giai cấp mang những nội dung và hình thức mới Sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1996) đã rút ra bài học quan trọng: cần kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời tiến hành từng bước đổi mới chính trị.
Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức ở nước ta là sự hợp tác nhằm xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện đại, đồng thời mở rộng liên kết với các lực lượng khác, đặc biệt là doanh nhân Mục tiêu chính trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế nhanh và bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, và cơ cấu lại nền kinh tế Chúng ta cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, cũng như tăng cường năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việc hoàn thiện thể chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết Để đạt được mục tiêu này, cần xác định thực trạng và tiềm năng kinh tế của cả nước, từ đó xây dựng kế hoạch đầu tư phù hợp, đảm bảo lợi ích cho các bên và tránh lãng phí Sự phát triển kinh tế cần được thúc đẩy qua các hình thức hợp tác, giao lưu giữa công nhân, nông dân, trí thức, cũng như giữa các lĩnh vực và vùng miền, đồng thời chuyển giao và ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh.
Cần tập trung vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm đa dạng hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, nhằm tạo ra sự linh hoạt và hiệu quả trong tổ chức kinh doanh.
37 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tập 36, tr.214.
38 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.71.
Kinh tế Việt Nam được xây dựng trên nền tảng đa dạng với sự tham gia của các thành phần kinh tế hợp pháp, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo Kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, tạo động lực cho nền kinh tế Các yếu tố thị trường được thiết lập đồng bộ, đảm bảo tuân thủ quy luật kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ tính định hướng xã hội chủ nghĩa Quyền sở hữu và quyền quản lý được phân định rõ ràng, đảm bảo mọi đơn vị kinh tế tự chủ và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh Quan hệ phân phối công bằng và hợp lý, với việc phân bổ nguồn lực theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời thực hiện chế độ phân phối dựa trên kết quả lao động và mức đóng góp Nhà nước đóng vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách, luật pháp và kế hoạch phát triển.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, gắn liền với công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bảo vệ tài nguyên, môi trường Cần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và bền vững, kết nối chặt chẽ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ Đặc biệt, chú trọng phát triển công nghiệp nặng và chế tạo, cùng với nâng cao công nghệ trong nông, lâm, ngư nghiệp, hướng tới chất lượng cao và xây dựng nông thôn mới Phát triển hài hoà giữa các vùng, miền, thúc đẩy các vùng kinh tế trọng điểm và hỗ trợ vùng khó khăn là rất quan trọng Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực hội nhập quốc tế cũng là mục tiêu cần đạt được Trong bối cảnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, việc thể chế hóa chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường là cần thiết để đảm bảo phát triển bền vững và sáng tạo, trong đó nhân dân là chủ nhân đất nước Trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu đa dạng cần được duy trì và phát triển song song để huy động hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước.
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn đã chỉ ra rằng việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải diễn ra một cách dần dần, không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà phải đảm bảo có đủ lực lượng sản xuất cần thiết Ông nhấn mạnh rằng một chế độ xã hội chỉ có thể thay thế khi các lực lượng sản xuất mà chế độ đó tạo ra đã phát triển đầy đủ Tại Việt Nam, sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất trong các ngành và vùng miền dẫn đến sự tồn tại của nhiều chế độ và hình thức sở hữu khác nhau.
Trong bối cảnh nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, sự phát triển chưa đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn đến sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, bao gồm chế độ tư hữu, chế độ công hữu và sở hữu hỗn hợp như công ty cổ phần, công ty TNHH và hình thức hợp tác công tư (PPP).
Giải quyết vấn đề sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và cần phải tuân theo yêu cầu của lực lượng sản xuất thay vì dựa vào ý chí chủ quan Như Ph Ănghen đã chỉ ra, mọi sự thay đổi trong quan hệ sở hữu đều là hệ quả tất yếu của việc hình thành các lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ.
Trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại và phát triển của nhiều chế độ sở hữu và thành phần kinh tế là điều tất yếu Mỗi thành phần kinh tế đều đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước định hướng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch Với vai trò đại diện cho chủ sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý hiệu quả mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sáng tạo và bao trùm Thành phần kinh tế công giữ vị trí then chốt, trong khi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng, cùng nhau tạo nên nền tảng cho một nền kinh tế tự chủ cao Các chủ thể kinh tế hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, huy động mọi nguồn lực xã hội để đóng góp vào sự phát triển chung.
41 C Mác: Góp phần phê phán Chính trị kinh tế học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.8.
Trong tác phẩm "Toàn tập" của C Mác và Ph Ănghen, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được nhấn mạnh với định hướng "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Điều này phản ánh khát vọng xây dựng một xã hội thịnh vượng và công bằng cho mọi người.
- Nội dung chính trị của liên minh
Khối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức là yếu tố then chốt để xây dựng một nền tảng chính trị-xã hội vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân, giúp vượt qua mọi thử thách và bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Tại Việt Nam, việc giữ vững lập trường chính trị của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là cần thiết để bảo vệ chế độ chính trị và độc lập dân tộc Để thực hiện điều này, cần nâng cao năng lực và uy tín của lãnh đạo Đảng, đồng thời tăng cường hiệu lực của Nhà nước Những yêu cầu này là cần thiết để tuyên truyền và giáo dục giai cấp công nhân, đặc biệt là nông dân, nhằm giúp họ nhận thức và thực hiện đúng đắn đường lối cách mạng của Đảng cũng như pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Khối liên minh công-nông-tri thức là nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho đại đoàn kết toàn dân, giúp vượt qua khó khăn và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Để đạt được điều này, cần đổi mới nhận thức trong bối cảnh còn tồn tại tư tưởng cũ và các thế lực thù địch Việc hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là thiết yếu Cấp bộ đảng ở nông thôn cần hoạt động như những đại biểu tiên tiến của giai cấp công nhân, lãnh đạo nông dân tiến lên chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, nhiều cấp bộ đảng hiện nay vẫn mang tính chất tiểu nông, không chú trọng đến tiêu chuẩn và chất lượng đảng viên Do đó, việc kiểm tra, đánh giá và đổi mới đội ngũ cấp uỷ viên, đảng viên ở nông thôn, kết hợp với giáo dục và đào tạo, là nhiệm vụ cấp bách trong quá trình công nghiệp hoá.
43 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.79.
Trong bài viết "Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh" của Ths Phạm Văn Bích, đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 9/10/2015, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hình thành một khối liên minh vững mạnh giữa công nhân, nông dân và trí thức trong bối cảnh công nghiệp hóa Sự kết hợp này không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn góp phần vào việc thực hiện các giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
Tổ chức xã hội và các đoàn thể nông thôn cần được cải tiến để hoạt động hiệu quả hơn, tránh tình trạng hình thức và hành chính hóa cồng kềnh Cần đổi mới nội dung và hình thức hoạt động phù hợp với vai trò của từng tổ chức, nhằm thu hút nông dân tham gia tích cực Đặc biệt, hội nông dân các cấp cần trở thành tổ chức quần chúng mạnh mẽ, có khả năng tham gia vào các hoạt động của chính quyền và hợp tác xã, đồng thời giáo dục nông dân về sự đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống Hội cũng cần tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân và đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực tại nông thôn.
Chúng ta cần chú trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhằm đảm bảo lợi ích chính trị và các quyền dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ và quyền con người Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, dựa trên liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Nhà nước thực hiện quyền lực một cách thống nhất, với sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp Đồng thời, Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.