TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lƣợc sử nghiên cứu nòng nọc lƣỡng cƣ
1.1.1 Lược sử nghiên cứu nòng nọc lưỡng cư trên thế giới
Từ cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16, nghiên cứu về nòng nọc lưỡng cư đã bắt đầu được thực hiện trên toàn thế giới Tác giả Gosner (1551 - 1604) đã có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này.
"Historiae Animalium" (1579) đã ghi chép về nòng nọc và cá thể trưởng thành của loài lưỡng cư Tác giả Rosel Von Rosenhof (1753 - 1758) là người đầu tiên mô tả quá trình phát triển của nhiều loài lưỡng cư từ giai đoạn ấu trùng cho đến khi trưởng thành.
Nghiên cứu về đĩa miệng nòng nọc, sự phát triển của chi trước và chi sau, cùng với sự phân bố của các răng sừng đã được đề cập lần đầu bởi Swammerdam (1737 - 1738), Saint-Ange (1831) và Duges Những mô tả này cung cấp cái nhìn sâu sắc về quá trình phát triển của nòng nọc qua các giai đoạn khác nhau.
Năm 1916, Smith M A đã mô tả nòng nọc của 5 loài thuộc các giống Microhyla, Rana và Bufo tại Thái Lan và Singapore Năm 1917, ông tiếp tục mô tả nòng nọc của 16 loài thuộc các giống Rana, Rhacophorus, Microhyla, Megophrys và Bufo ở Thái Lan Đến năm 1924, Smith M A đã công bố danh lục mô tả các loài nòng nọc lưỡng cư ở Ấn Độ và Đông Dương.
Năm 1929, Noble, K.G nghiên cứu tính thích ứng và sự phát triển phôi nòng nọc của 2 giống Hoplophry ở khu vực châu Á [39]
Năm 1960, Gosner K L đã tiến hành một nghiên cứu hệ thống và toàn diện về các giai đoạn phát triển của nòng nọc lưỡng cư Tác giả đã phân chia quá trình phát triển này thành 46 giai đoạn, từ lúc thụ tinh cho đến khi hoàn thiện biến thái.
Heyer R W (1971) đã mô tả hình thái và cấu trúc răng nòng nọc của 19 loài thuộc các họ Bufonidae, Microhylidae, Ranidae và Rhacophoridae tại Thái Lan Năm 1973, ông tiếp tục nghiên cứu các đặc điểm sinh thái của nòng nọc trong mối liên hệ với chu kỳ mùa của rừng nhiệt đới Thái Lan Đến năm 1974, Heyer phân tích đặc điểm lỗ thở, sự khác biệt giữa các loài và sự thích ứng của lỗ thở theo sinh cảnh Năm 1975, Altig R đã nghiên cứu mật độ quần thể và cấu trúc tuổi của nòng nọc ở 3 loài lưỡng cư thuộc họ Hylidae.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu sự thích nghi về hình thái nòng nọc và đặc điểm sinh học của chúng với môi trường sống ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới Ví dụ, Wassersug R J., Frogner K J., và Inger R F (1981) đã khảo sát sự thích nghi trong đời sống của hai loài ếch cây đẻ trứng trong các hốc cây, phân tích sự phát triển của chúng và mối liên hệ giữa hình thái nòng nọc của hai loài này với sinh cảnh sống của chúng.
Nghiên cứu đầu tiên về nòng nọc Lƣỡng cƣ ở Đông Nam Á được thực hiện bởi Inger R F vào năm 1983 và 1985, trong đó tác giả đã xây dựng khóa định loại và phân tích đặc điểm sinh thái của các loài nòng nọc Ngoài ra, vào năm 1985, Relak I cũng đã tiến hành nghiên cứu mô tả trứng, nòng nọc, con non và con trưởng thành của loài Paramesotriton deloustali trong điều kiện nuôi 12 cá thể trong 6 năm.
Sau năm 1990, các nghiên cứu về nòng nọc lƣỡng cƣ ở khu vực này bắt đầu phát triển cả về nghiên cứu hình thái, sinh học và sinh thái
Năm 1997, Wen-hao Chou và Jun-yi Lin đã tiến hành nghiên cứu về nòng nọc tại Đài Loan, trong đó họ xây dựng khóa định loại và mô tả đặc điểm hình thái cũng như cấu tạo giải phẫu miệng của 29 loài thuộc 10 giống trong các họ Bufonidae, Hylidae, Microhylidae, Ranidae và Rhacophoridae Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi các tác giả Grosjean S., Vences M., và Dubois A.
(2004) có phân tích về hình thái, giải phẫu đĩa miệng của các loài trong giống
Hoplobatrachus [22] Năm 2008, Haas A và Das I có nghiên cứu về đặc điểm hình thái và giải phẫu miệng, cấu tạo, cách sắp xếp răng sừng của Ansonia hanitschi và
Nghiên cứu của Kam Y C., Chuang I S., và Yen C F vào các năm 1996 và 1999 đã phân tích đặc điểm sinh sản và sự lựa chọn sinh cảnh đẻ trứng của các loài ếch cây trên các ngọn tre cắt ngang tại Đài Loan.
Tác giả Leong T M và Chou L M (1998 - 2000) đã tiến hành nghiên cứu về nòng nọc của lưỡng cư tại Singapore, trong đó mô tả và xây dựng khóa định loại cho 25 loài thuộc 14 giống và 5 họ Nghiên cứu cũng phân tích sự phát triển qua các giai đoạn, hướng sinh sản của các loài, cũng như sự phân bố của chúng theo sinh cảnh.
Năm 2004, Leong T M có mô tả nòng nọc của 6 loài lƣỡng cƣ thuộc các giống
Microhyla, Limnonectes và Rhacophorus ở bán đảo Malaysia [36]
Bên cạnh các nghiên cứu về hình thái, các tác giả đồng thời cũng đƣa ra những nghiên cứu về giải phẫu phần miệng của các loài
Năm 2005, Delorme M và các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu về nòng nọc của các loài thuộc hai họ Ranidae và Rhacophoridae, đồng thời xây dựng cây phân loại cho các loài trong giống Aquixalus.
Inthara C và cộng sự (2005), đã mô tả về cấu trúc đĩa miệng và phân bố về nòng nọc của 44 loài lƣỡng cƣ ở Thái Lan [31]
Nghiên cứu của Grosjeans S (2005) phân tích sự biến dị hình thái ở nòng nọc lưỡng cư Rana nigrovitata trong các giai đoạn phát triển từ 26 đến 38.
Nghiên cứu về nòng nọc đã dẫn đến việc công bố nhiều loài mới cho khoa học, trong đó có loài Limnonectes megastomias thuộc họ Dicroglossidae, được mô tả bởi McLeod D S vào năm 2008 tại Thái Lan.
Nghiên cứu về nòng nọc của các loài lưỡng cư trên thế giới đã được thực hiện một cách kỹ lưỡng, bao gồm các khía cạnh hình thái, giải phẫu, sinh học, sinh thái và phát triển Một tài liệu tiêu biểu trong lĩnh vực này là chuyên khảo về nòng nọc lưỡng cư của McDiamid R W và Altig R (1999).
1.1.2 Lược sử nghiên cứu nòng nọc lưỡng cư ở Việt Nam
Khái quát về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
1.2.1 Địa hình, địa chất Địa hình: Khu vực Tây Nghệ An có địa hình tương đối đa dạng và phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc bao gồm các đỉnh núi cao, vùng đồi núi thấp và một phần núi đá vôi Độ cao của địa hình nhìn chung thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam Bậc địa hình cao nhất phân bố dọc theo biên giới Việt – Lào thành một dải dài theo phương Tây Bắc – Đông Nam với các sống núi bị chia cắt phức tạp Trong vùng có nhiều đỉnh núi cao trên 1.000m nhƣ Pù Lon (1.447m) Pù Mát (2357m) nằm ở phần cuối phía Tây Bắc của dãy núi, đỉnh Pù Huống (1.200m) và nhiều đỉnh cao từ 1.311 - 1.148m Dải núi chính Pù Lon - Pù Huống và Phuxalaileg - Pù mát cũng chính là dải núi phân cách các huyện Con Cuông, Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp.Trong vùng cũng thường gặp một số dãy núi đá vôi nằm rải rác thuộc các huyện Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Tân Kỳ là khu vực chuyển tiếp giữa vùng núi cao với các vùng đồi có độ cao 200 - 300m Khu vực đồi núi thấp kéo dài từ các huyện miền núi Anh Sơn, Quỳ Hợp, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn xuống các huyện đồng bằng với độ cao trên dưới 200m Địa chất: Đất đai trong khu vực thuộc các nhóm đất sau
Đất đỏ vàng hình thành trên đá phiến thạch sét, phân bố rộng rãi tại các huyện và xuất hiện trên nhiều loại địa hình, nhưng chủ yếu tập trung ở vùng núi thấp với độ dốc lớn.
Đất vàng nhạt, phát triển trên sa thạch, phân bố rải rác theo dải hẹp giữa các dải đất phiến thạch, kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam Với thành phần cơ giới nhẹ, loại đất này dễ bị xói mòn mạnh.
Đất vàng đỏ, phát triển trên nền đá axit, thường phân bố rải rác tại các huyện như Con Cuông và Quỳ Châu Loại đất này có thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị rữa trôi, nghèo dinh dưỡng và có độ pH thấp.
Đất đỏ nâu trên đá vôi phân bố rải rác ở các huyện Tân Kỳ, Anh Sơn và Quỳ Hợp, thường xuất hiện ở những vùng thấp do quá trình phong hóa của các núi đá vôi.
Đất Feralit đỏ vàng và đất mùn trên núi cao là hai loại đất chính trong khu vực đồi núi Đất Feralit ở vùng đồi và núi thấp thường xuất hiện tại các khu vực đồi trọc hoặc nơi có cây bụi do rừng bị tàn phá, dẫn đến tình trạng đất ít mùn, có tính axit cao và hiện tượng đá ong hóa mạnh Ngược lại, đất Feralit ở độ cao trên 1800m có đặc điểm xốp và giàu chất dinh dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thực vật.
- Đất phù sa: phân bố rải rác ở ven các sông
Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng mạnh từ gió mùa Đông Bắc và Tây Nam, tạo ra sự khác biệt trong phân hóa khí hậu Gió Tây khô nóng thường gây hạn hán trong giai đoạn đầu và giữa mùa hè, với nhiệt độ có thể vượt quá 40°C và độ ẩm giảm xuống dưới 30% Mặc dù khu vực này ít bị ảnh hưởng bởi bão, nhưng có lượng mưa lớn và thường xuyên xảy ra lũ lụt Sự yếu dần của gió mùa Đông Bắc ở sườn Bắc và sự mạnh lên của gió mùa Tây Nam ở sườn Nam Pù Huống đã tạo ra những đặc điểm riêng biệt Ở hai triền núi cao trên 1.000m thường xuyên có mây mù và độ ẩm cao hơn tại vùng chân núi Tại Pù Hoạt, chế độ mưa và nhiệt độ tương đối đồng nhất ở vùng thấp dưới 400m, nhưng khi tăng độ cao về phía Tây, lượng mưa tăng và nhiệt độ giảm, hình thành các đai khí hậu khác nhau.
Mạng lưới sông ngòi tại khu vực này chủ yếu chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, phù hợp với độ dốc và sự chia cắt của địa hình Địa hình chia cắt mạnh mẽ đã hình thành nên các sông suối ngắn, dốc, lòng hẹp và chảy xiết, tạo nên một hệ thống sông suối dày đặc Hệ thống này chính là nguồn gốc của sông Cả và sông Hiếu, trong đó sông Hiếu là phụ lưu lớn nhất của sông Cả.
Cả, bắt nguồn từ vùng núi Pù Hoạt ở biên giới Việt - Lào, với các suối Nậm Việc, Nậm Giải và Nậm Quang, chảy từ Tây Bắc xuống Đông.
Dòng chảy mạnh của các suối ở khu vực Quỳ Châu, Nghệ An, cách nhau từ 10 – 25 km, luôn duy trì nước trong mùa khô với mật độ suối nhánh từ 2 – 4 km/suối Địa hình chia cắt sâu và hiện tượng đứt gãy mạnh đã tạo ra nhiều thác nước cao, hướng dòng chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, sau đó hợp lưu vào sông Cả ở phía nam tỉnh Nghệ An, hình thành nên lưu vực chính của sông Cả.
1.2.3.Tài nguyên rừng a Hiện trạng tài nguyên rừng
Khu vực nghiên cứu có các kiểu rừng sau:
Rừng nguyên sinh chủ yếu phân bố ở đỉnh cao dãy Phù Huống và Phù Hoạt, với thành phần thực vật đa dạng Ở tầng cao, các loài cây chủ yếu bao gồm Sến, Táu, Chò chỉ và Dẻ, trong khi tầng thấp có sự hiện diện của Cọ phèn (Protium serratum), Giang, Song và Mây.
Rừng lùn là kiểu rừng đặc trưng chỉ có ở khu vực tam giác Pù Huống, nơi có độ cao trên 1500m và diện tích hẹp Các cây trong rừng lùn thường có thân cằn cỗi, với nhiều rêu và phong lan bám trên đó Những loài cây điển hình bao gồm Đỗ quyên (Rhododendron arboreum), Sơn liễu (Clethra sp), và Sặt gai nam chúc (Lioma ovaolifinia) Tầng rừng này có chiều cao không quá 5m và đường kính thân gỗ dưới 30cm, với lớp thảm mục chưa phân hóa dày từ 40 đến 60 cm, trong điều kiện khí hậu ẩm ướt và lạnh.
Rừng thứ sinh chủ yếu phân bố tại các huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong và Con Cuông, với địa hình dốc và hiểm trở Kiểu rừng này có thảm thực vật đa dạng với nhiều tầng tán, chứa nhiều loài cây gỗ lớn và vừa như Sến, Táu mật, Táu muối, Dổi, và có diện tích che phủ lớn, thường xuất hiện ở độ cao trên 300m Tác động của con người lên khu vực này chủ yếu đến từ các hoạt động khai thác gỗ và sản phẩm phi gỗ như Song, Mây, cùng với việc săn bắt động vật rừng.
Rừng tre nứa: Kiểu rừng này có ở nhiều nơi, rải rác khắp hai bên sườn núi, nằm xen lẫn với các loại rừng khác
Rừng trồng đang chiếm một diện tích lớn trong khu vực, đặc biệt là tại những nơi có chính sách giao rừng cho người dân Ngoài ra, các diện tích đất đồi núi trọc hiện đang được chuyển đổi sang trồng các loại cây công nghiệp có giá trị như Tràm, Bạch đàn và Keo.
Rừng phục hồi sau nương rẫy là những khu vực bị bỏ hoang do người dân ngừng canh tác, thường không còn giá trị sản xuất Thành phần thực vật chủ yếu bao gồm các loại cây như Ràng ràng, Bời lời, Côm, Bộp Một số khu vực đã bỏ hoang từ 5-6 năm, cho phép hệ thực vật phát triển phong phú với nhiều loài như Bộp, Tre, Nứa, Dẻ bạc, Cà ổi, Ngát, Tro Hiện trạng thảm thực vật rừng ở những khu vực này cho thấy sự phục hồi đáng kể.
ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm, thời gian
Nghiên cứu đƣợc tiến hành từ tháng 07 năm 2010 đến tháng 8/2011 ở Tây Nghệ
An, gồm 4 đợt thực địa điều tra thu mẫu:
Các điểm thu mẫu trên thực địa (bảng 2.1, hình 2.1):
Bảng 2.1 Các điểm thu mẫu nòng nọc ở Tây NGhệ An
TT Địa điểm Toạ độ Độ cao
1 Khe Kèm – VQG Pù Mát 0505362 2097049 288 m
2 Bản Tông – xã Bình Chuẩn – huyện Con Cuông 0515398 2126912 213 m
Khu vực nương rẫy - bản
Mường Loong – xã Tri lễ - huyện Quế Phong
Suối Nậm Bành – bản Hồi
Muông – xã Đồng Văn – huyện Quế Phong 1987479 10504626 370 m -730 m
Khe Húi tiêu – bản hồi
Muông – xã Đồng Văn – huyện Quế Phong 1981776 10510789 341 m -688 m
Tƣ liệu
- Gồm 247 mẫu vật thu trên thực địa trong 2 năm 2010, 2011
- Nhật kí ghi chép trên thực địa trong các đợt thu mẫu
- Các tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn.
Phương pháp nghiên cứu
- Mẫu đƣợc thu bằng vợt, bắt bằng tay, bằng bẫy hoặc bằng chài vào các thời gian khác nhau trong năm
- Thu thập các dẫn liệu liên quan đến môi trường, sinh cảnh sống:
+ Loại hình thuỷ vực: khe suối, các vũng nước đọng
Khe suối có đặc điểm nước chảy từ yếu đến mạnh, tạo ra những vùng nước quẩn Diện tích và độ sâu của vực nước là những yếu tố quan trọng, đặc biệt là độ sâu tại nơi thu mẫu nòng nọc.
+ Đặc điểm nền đáy thuỷ vực: nền cát, đá cuội, lá mục
+ Thành phần thực vật thuỷ sinh
+ Vị trí nơi thu mẫu: ven khe suối, giữa suối
+ Nhiệt độ, độ ẩm môi trường; nhiệt độ nước; pH nước
Hình 2.1 Bản đồ các địa điểm thu mẫu ở Tây Nghệ An
1 Khe Kèm – VQG Pù Mát
2 Bản Tông - Xã Bình Chuẩn – Huyện Con Cuông
3 Bản Mường Loong – Xã Tri Lễ - Huyện Quế Phong
4 Bản Hồi Muông – Xã Đồng Văn – Huyện Quế PhongHuyện Con Cuông
2.3.2 Phương pháp xử lí và bảo quản mẫu vật
- Mẫu thu đƣợc cố định trong cồn 90 0 trong 1 giờ, sau đó chuyển sang bảo quản trong dung dịch hỗn hợp gồm cồn 70 0 + formalin 10% với tỉ lệ 50 : 50
- Đối với các mẫu còn nghi ngờ về vị trí phân loại đƣợc bảo quản trong cồn 75 0
- Mẫu thu ở mỗi vị trí đƣợc đánh số và bảo quản trong hộp nhựa riêng
- Vợt: đƣợc lằm bằng vải màn mềm để tránh mẫu bị cọ xát dẫn đến hƣ hỏng
- Dụng cụ đo nhiệt độ, độ ẩm môi trường, nhiệt độ nước, pH nước, GPS, Kính lúp soi nổi
2.3.4 Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
2.3.4.1 Phân tích đặc điểm hình thái nòng nọc
- Hình dạng cơ thể: thân hình tròn, oval hoặc elíp tuỳ từng loài và nhóm loài
Thân cao nếu chiều cao thân lớn hơn chiều rộng thân (H > W), thân trung bình (H W), thân dẹp (H < W)
- Mắt: lớn, nhỏ hay trung bình so với kích thước cơ thể; vị trí mắt ở mặt bên hay mặt trên (hình 2.2) a b
Hình 2.2 Vị trí mắt của nòng nọc (theo McDiarmid R W., Altig R., 1999) [37] a Phía bên; b Phía trên
- Mũi: vị trí ở phía bên, phía trên hoặc trước
- Đĩa miệng: hình dạng đĩa miệng: tròn hay elíp, bầu dục ; đĩa miệng có dạng thuỳ bám, dạng phễu hút, dạng ăn mặt nước, dạng bám đáy (hình 2.3) a b c d
Hình 2.3 Các dạng đĩa miệng ở nòng nọc [10]
(a Dạng thuỳ bám - Quasipaa; b Dạng phễu - Leptolalax; c Dạng ăn mặt nước -
Megophrys; d Dạng bám đáy - Amolops)
- Vị trí đĩa miệng: ở trên (180 0 ), dưới (0 0 ), trước (90 0 ) hoặc trước dưới (hình 2.4) a c b d
Hình 2.4 Vị trí của đĩa miệng ở nòng nọc lưỡng cư [10] a Miệng trên (Megophrys longipes); b Miệng dưới (Amolops rickettii); c Miệng trước (Microhyla fissipes); d Miệng trước dưới (Leptobrachium sp.)
- Răng sừng: công thức răng (LTRF): số lƣợng răng sừng nguyên, chia ở môi trên, môi dưới; hướng của răng sừng, hình dạng (hình 2.5)
Hình 2.5 Cấu tạo đĩa miệng của nòng nọc [10]
AL là môi trên; A-1 và A-2 đại diện cho hàng răng sừng đầu tiên và thứ hai; A-2 GAP là khoảng trống giữa hàng răng thứ hai của môi trên; LJ là bao hàm dưới; LP là khía bên của bao hàm trên; M chỉ miệng; MP là gai thịt ở phía bên; OD là đĩa miệng; PL là môi dưới; và P-1 là một phần khác trong cấu trúc này.
P-2, và P-3: hàng răng đầu tiên, thứ hai và thứ ba của môi dưới; SM: gai thịt gần mép; UJ: bao hàm trên
+ Hoàn toàn (bao quanh đĩa miệng); đứt đoạn (có ở phía bên, có ở trên, có ở phía dưới, có ở phía bên và phía dưới ); hoặc không có (hình 2.6)
Hình 2.6 Các dạng gai thịt ở nòng nọc
Gai thịt hoàn toàn (a); gai thịt viền hai bên và phía dưới (b), viền hai bên
(c), không có gai thịt (d) + Hình dạng gai thịt, mật độ, khoảng cách giữa các gai thịt; hướng của các gai thịt, số hàng gai thịt
- Bao hàm: hình dạng, độ lớn của bao hàm trên, bao hàm dưới (hình 2.7)
Hình 2.7 Các dạng bao hàm ở nòng nọc [37]
B Meristogenys arphnocnemis (Ranidae); C Hyla femoralis (Hylodae); D Rana sphenocephala (Ranidae); E Ceratophrys cornuta (Leptodactylidae); F Plectrohyla ixil (Hylidae); G Mantidactylus lugubris (Rhacohporidae); H Hyla pictipes (Hylidae); I Ansonia longidigita (Bufonidae); J Heleophrynae
- Lỗ thở: có dạng đơn (ở phía bên hoặc phía bụng) hoặc kép (trước - giữa - sau bụng) (hình 2.8)
- Đuôi: hình dạng vây đuôi (thấp/ cao), nếp trên vây đuôi, nếp dưới vây đuôi; cơ đuôi tròn/ dẹp/ dạng sợi , dày hay mỏng
- Màu sắc: khi sống, màu sắc bảo quản
Hình 2.8 Các kiểu lỗ thở và vị trí lỗ thở ở nòng nọc lưỡng cư [37]
A Lỗ thở đơn, bên trái (Dendrobates tinctorius); B Lỗ thở đơn, bên trái với ống dài (Otophryne pyburni); C Lỗ thở kép, phía bên (Lepidobatrachus llanensis); D Lỗ thở kép, phía bên - bụng (Rhinophrynus dorsalis); E Lỗ thở đơn, phía bụng sau (Kaloula pulchra); F Lỗ thở đơn, giữa bụng (Ascaphus truei)
2.3.4.2 Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái nòng nọc Đặc điểm hình thái nòng nọc đƣợc phân tích theo Grosjean S (2001) và đƣợc mô tả ở hình 2.9
Hình 2.9 Phương pháp đo nòng nọc (theo Grosjean S., 2001 có bổ sung) [21]
Kí hiệu các thông số cơ bản trong đo đạc cá gồm: bl (Dài thân) đo chiều dài từ mút mõm đến gốc đuôi; bh (Cao thân) đo tại vị trí cao nhất của thân; bw (Rộng thân) đo tại vị trí rộng nhất của thân; ed (Đường kính mắt) đo chiều dài lớn nhất của mắt; ht (Cao đuôi) đo tại vị trí cao nhất của đuôi; lf (Chiều cao lớn nhất nếp dưới vây đuôi) đo tại vị trí cao nhất nếp dưới vây đuôi từ mép dưới của cơ vây đuôi; nn (Khoảng cách 2 mũi) đo khoảng cách giữa hai lỗ mũi; np (Khoảng cách mắt - mũi) đo khoảng cách từ mũi đến giữa mắt; và odw (Rộng miệng).
Để đo kích thước của cá, cần thực hiện các phép đo sau: Đo chiều rộng lớn nhất của đĩa miệng, bao gồm cả viền miệng; khoảng cách giữa hai bờ mắt; khoảng cách từ mũi đến mõm; khoảng cách từ mút mõm đến mép trong lỗ thở; khoảng cách từ mút mõm đến nếp trên vây đuôi; chiều dài từ mút mõm đến mút đuôi; chiều dài đuôi từ gốc vây lưng đến mút đuôi; chiều cao lớn nhất của nếp trên vây đuôi từ mép trên của cơ vây đuôi; và chiều dài bụng.
Mút đuôi được đo từ lỗ hậu môn đến mút đuôi, trong khi chiều cao cơ đuôi (tmh) được xác định ở vị trí cao nhất của cơ đuôi Độ dày đuôi (tmw) được đo tại vị trí rộng nhất ở gốc đuôi Chiều dài chi trước (fl) được tính từ gốc chi trước đến mút ngón tay dài nhất, và chiều dài chi sau (hl) được đo từ gốc đùi đến mút ngón chân dài nhất Chiều dài mõm - bụng (svl) được xác định từ mút mõm đến lỗ mở của ống hậu môn Tất cả các kích thước đều được đo bằng đơn vị mm, và công thức răng được ký hiệu là LTRF.
Các chỉ tiêu hình thái được đo bằng thước kẹp hiện số có độ chính xác đến 0,01mm dưới kính lúp điện tử soi nổi
- Xác định các loài nòng nọc dựa vào tài liệu của Bourret R (1942) [17] và các tài liệu nghiên cứu về nòng nọc lƣỡng cƣ [27, 31, 34, 43]
- Tên khoa học các loài theo Nguyen Van Sang et al (2009) [40]
- Có 1 loài thu đƣợc mẫu của con non tại vị trí thu mẫu nòng nọc
2.3.4.4 Xác định các giai đoạn phát triển của nòng nọc
Các giai đoạn phát triển của nòng nọc (hình 2.10) đƣợc xác định theo Gosner
(1960) Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học
Hình 2.10 Các giai đoạn phát triển của ấu trùng và biến thái của nòng nọc (26 -
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm hình thái và các giai đoạn phát triển nòng nọc các loài lƣỡng cƣ
Trên cơ sở các phân tích các mẫu vật thu được, bước đầu xây dựng bảng định loại cho nòng nọc các loài lƣỡng cƣ ở Tây Nghệ An (bảng 3.2)
Bảng 3.2 Bảng định loại nòng nọc các loài lưỡng cư ở Tây Nghệ An
1 a Lỗ thở ở phía bụng, gần lỗ mở của ống hậu môn… Microhyla butleri b Lỗ thở đơn, ở bên trái……… 2
2 a Miệng có dạng phễu…… 3 b Miệng không có dạng phễu…… 5
3 a Miệng hướng lên phía trên, viền quanh miệng không có gai thịt……… Xenophrys major b Miệng hướng xuống phía dưới, viền quanh miệng có 4 gai thịt………
4 a Vây đuôi và cơ đuôi có nhiều chấm đen, giai đoạn 37
Leptolalax pelodytoides b Vây đuôi và cơ đuôi không có chấm, giai đoạn 37
(bl/bh= 2,77; tail/ht = 4,32) Leptolalax sp
5 a Gai thịt 1 hàng……… 6 b Gai thịt 2 hàng……… 11
6 a Gai thịt viền hoàn toàn, có một khoảng trống nhỏ ở giữa viền môi trên……… 7 b Gai thịt viền không hoàn toàn……… 12
7 a Đuôi màu trắng đục, không có chấm đen……… Leptobrachium sp b Đuôi nâu, có nhiều chấm đen……… 8
Môi dưới không có phần lồi ở giữa LTRF:
I(7+7)(8+8)/(6+6)(7+7)I, giai đoạn 36 (tail/bl: 1,8; tail/ht: 3,32; uf/lf: 1,11)
9 b Môi dưới có phần lồi ở giữa……… 10
(tail/bl: 1,5; tail/ht: 2,80; uf/lf: 1,28)
Leptobrachium chapaense b LTRF: I(5+5)(6+6)/(4+4),(5+5)I, giai đoạn 36 (tail/bl:
11 a Gai thịt viền môi dưới không có khoảng trống, môi trên có 2 hàng răng sừng………
Hylarana cf guentheri b Gai thịt viền môi dưới có một khoảng trống nhỏ ở giữa, môi trên có 5 hàng răng sừng………
12 a Gai thịt viền hai bên đĩa miệng, lỗ mở ống hậu môn ở giữa………
Ingerophrynus gleatus b Gai thịt viền hai bên và phía dưới đĩa miệng, lỗ mở ống hậu môn ở bên phải……… 13
13 a Môi dưới có 3 hàng răng sừng……… 14 b Môi dưới có 5 hàng răng sừng……… 15
14 a Đuôi có các chấm đen nhạt, nhỏ……… Limnonectes dabanus b Đuôi có các viền màu xám đen ngang đuôi xen lẫn các viền màu sáng………
15 a Đuôi dài(tail/bl: 2,60) , không có hoa văn……… Rana johnsi b Đuôi trung bình(tail/bl: 2,04) , có hoa văn………… Rana sp
3.2.2 Đặc điểm hình thái phân loại nòng nọc các loài lưỡng cư
( Ảnh các loài nòng nọc lƣỡng cƣ VNC ở phụ lục 1; Ảnh đĩa miệng các loài nòng nọc lƣỡng cƣ ở VNC ở phụ lục 2)
3.2.2.1 Cóc rừng Ingerophrynus galeatus (Gunther, 1864)
Bufo galeatus A C L G Gunther, 1864, Rept Brit India, London: 421 [40]
Tên phổ thông : Cóc rừng (Việt)
Tên tiếng Anh : Gamboja toad
Mẫu vật gồm 9 mẫu ở các giai đoạn 35, 36 và 37, được thu thập tại Khe bản Tông (Con Cuông) Đặc điểm chẩn loại cho thấy đầu và thân có hình oval khi nhìn từ trên, với thân rộng và hơi dẹp theo chiều dọc Mắt có kích thước trung bình, vị trí nằm trên mặt Miệng cũng trung bình, nằm ở phía trước dưới Gai thịt được xếp thành một hàng viền hai bên, dạng tròn và nhỏ; bao hàm có khía răng cưa nhỏ Công thức răng LTRF là I(1+1)/III Lỗ mũi hình oval nằm giữa mút mõm và mắt, trong khi lỗ thở đơn bên trái nằm giữa mút mõm và lỗ mở ống hậu môn, mà lỗ mở này nằm ở giữa Cơ đuôi có kích thước trung bình, vây đuôi thấp và mút đuôi nhọn Màu sắc của đầu và thân chủ yếu là đen, bụng nhạt hơn, cơ đuôi màu sẫm, và vây đuôi có màu trắng đục.
Đầu và thân của sinh vật có hình oval khi nhìn từ trên xuống, với thân rộng và hơi dẹp theo chiều dọc Tỷ lệ chiều rộng thân so với chiều cao là 1,27 lần (bw/bh: 1,22 – 1,30) và so với chiều dài là 0,64 lần (bw/bl: 0,60 - 0,68) Mắt có kích thước trung bình, nằm ở vị trí trên, với đường kính bằng 0,16 lần chiều dài thân (ed/bl: 0,16 - 0,17) Mõm có hình tròn, lỗ mũi hình oval nằm giữa mút mõm và mắt, khoảng cách giữa mũi và mõm là 0,78 lần khoảng cách giữa mũi và mắt (rn/np: 0,61 - 0,88) Khoảng cách giữa hai lỗ mũi hẹp bằng 0,50 lần khoảng cách giữa hai mắt (nn/pp: 0,48 - 0,53).
Lỗ thở bên trái nằm gần mút mõm, hướng ra sau và lên trên, với khoảng cách từ mút mõm đến lỗ thở bằng 0,63 lần chiều dài từ mút mõm đến lỗ mở ống hậu môn (ss/svl: 0,61 - 0,640) và bằng 0,65 lần chiều dài thân (ss/bl: 0,60 – 0,72).
Cơ đuôi có chiều cao trung bình, với chiều cao lớn nhất của cơ đuôi bằng 0,39 lần chiều cao lớn nhất của thân (tmh/bh: 0,38 - 0,43) và bằng 0,44 lần chiều cao đuôi (tmh/ht: 0,42 - 0,46) Vây đuôi thấp, chiều cao lớn nhất của vây đuôi bằng 0,89 lần chiều cao thân (ht/bh: 0,86 – 0,92) Chiều cao nếp trên vây đuôi tương đương 0,35 lần chiều cao đuôi (uf/ht: 0,34 - 0,37) và chiều cao nếp dưới vây đuôi là 0,36 lần chiều cao đuôi (lf/ht: 0,33 - 0,38), với nếp trên và nếp dưới vây đuôi có chiều cao gần bằng nhau (uf/lf: 0,90 – 1,04) Mút đuôi có hình dáng nhọn.
Lỗ mở ống hậu môn nằm ở giữa và hướng về phía sau Đĩa miệng có kích thước trung bình, hướng xuống, với chiều rộng bằng 0,42 lần chiều rộng thân (odw/bw: 0,40 - 0,43) và 0,27 lần chiều dài thân (odw/bl: 0,25 - 0,27) Gai thịt viền hai bên có dạng tròn, nhỏ, tập trung thành một hàng viền ngoài, trong khi ở bên trong thì ít và rải rác Bao hàm có kích thước nhỏ, mảnh và hoàn toàn màu đen; bao hàm trên cong hình cung và lớn hơn một chút so với bao hàm dưới, trong khi bao hàm dưới có hình chữ V nông.
Công thức răng LTRF : I(1+1)/III
Môi trên có hai hàng răng sừng, trong đó hàng đầu tiên dài nhất và cong theo viền môi, nhô ra một chút so với viền môi Hàng răng thứ hai ngắn hơn và được phân cách bởi bao hàm trên Môi dưới có ba hàng răng, tất cả đều dài gần bằng nhau và nguyên vẹn.
Hình 3.1 Đĩa miệng nòng nọc Cóc rừng Ingerophrynus galeatus [10]
Màu sắc bảo quản : Đầu và thân có màu đen, bụng nhạt hơn, cơ đuôi có màu sẫm, vây đuôi có màu trắng đục
Các chỉ tiêu hình thái nòng nọc của nòng nọc Cóc rừng Ingerophrynus galeatus đƣợc trình bày ở bảng 3.3
Bảng 3.3 Các chỉ tiêu hình thái nòng nọc của Ingerophrynus galeatus (n = 9)
TT 35 36 37 TB mx bl 10.48 12.32 12.34 11.71 1.06 ss 6.72 8.15 7.87 7.58 0.75 bh 5.12 6.52 6.06 5.90 0.57 su 8.27 9.7 9.52 9.16 0.77 bw 6.23 8.36 7.87 7.49 1.11 tl 23.94 28.97 29.88 27.6 3.19 ed 1.82 1.94 2.04 1.93 0.11 tail 16.36 19.23 21.26 18.95 2.46 ht 4.71 5.60 5.54 5.28 0.49 uf 1.60 1.91 2.07 1.86 0.23 lf 1.78 1.84 2.09 1.9 0.16 vt 14.16 17.05 17.91 16.37 1.96 nn 1.64 1.76 1.96 1.79 0.16 tmh 2.19 2.47 2.32 2.33 0.14 np 1.72 1.94 1.85 1.84 0.11 tmw 1.74 2.23 2.09 2.02 0.25 odw 2.67 3.32 3.34 3.11 0.38 fl - - - - - pp 3.27 3.69 3.72 3.56 0.25 hl 2.41 5.35 8.14 5.30 2.86 rn 1.05 1.61 1.63 1.43 0.32 svl 10.69 12.75 12.87 12.1 1.22
3.2.2.2 Cóc mày Leptobrachium cf banae Lathrop, Murphy, Orlov & Ho, 1998
Leptobrachium banae A Lathrop, R.W.Murphy, N.L.Orlov & C.T.Ho, 1998
Tên phổ thông : Cóc mày ba na
Tên tiếng Anh : Bana spadefoot toad
Mẫu vật : 50 ở các giai đoạn 26, 27, 28, 35, 36, 37, 38, 39, 41, 42, 43, 44 và 45 Địa điểm thu mẫu : Khe Nậm Bành (Quế Phong) Đặc điểm chẩn loại :
Miệng của loài cá này có dạng bám, hướng về phía trước dưới, với gai thịt viền hoàn toàn và một đoạn khuyết nhỏ ở giữa viền trên Bao hàm lớn, dày, trong đó bao hàm dưới lớn hơn bao hàm trên, và công thức răng là LTRF: I(7+7)(8+8)/(6+6)(7+7)I Cơ thể có hình dạng trụ, mắt trung bình, lỗ mũi tròn nhỏ hướng về phía trước, nằm giữa mõm và mắt, trong khi lỗ thở đơn nằm bên trái Vây lưng cao, cơ đuôi dày và khỏe, với mút đuôi nhọn Mặt trên của đầu và thân có màu nâu, trong khi mặt bụng sáng Cơ đuôi màu nâu sáng, vây đuôi có màu trắng đục và có nhiều chấm đen trên cơ đuôi và vây đuôi.
Thân của sinh vật có hình elip khi nhìn từ trên xuống, với cấu trúc dài và dạng hình trụ Tỷ lệ chiều rộng thân so với chiều cao thân dao động từ 1,00 đến 1,33, trung bình là 1,15 lần, và chiều rộng thân bằng 0,51 lần chiều dài thân.
Mõm tròn và rộng, với mắt có kích thước trung bình nằm ở vị trí bên, đường kính mắt chiếm 0,14 lần chiều dài thân Lỗ mũi nhỏ, tròn và hướng về phía trước, nằm giữa mút mõm và mắt, khoảng cách giữa mũi và mõm bằng 0,92 lần khoảng cách giữa mũi và mắt Gian mũi hẹp, chiều rộng gian mũi chiếm 0,48 lần chiều rộng của ổ mắt.
Lỗ thở đơn nằm ở bên trái, hướng về phía sau và lên trên, cách mút mõm khoảng 0,63 lần chiều dài thân, với khoảng cách từ mút mõm đến lỗ mở của ống hậu môn là 0,62 lần chiều dài từ mút mõm đến lỗ mở của ống hậu môn.
Cơ đuôi dày và khỏe, với chiều cao lớn nhất bằng 0,67 lần chiều cao thân (tmh/bh: 0,41-0,90) và 0,66 lần chiều cao đuôi (tmh/ht: 0,52 – 0,98) Nếp trên vây đuôi cao, tương ứng bằng 0,33 lần chiều cao đuôi (uf/ht: 0,24 – 0,39), trong khi nếp dưới vây đuôi bằng 0,26 lần chiều cao đuôi (lf/ht: 0,12 -0,30), với nếp trên cao hơn nếp dưới (uf/lf: 1,30) Đuôi có chiều dài bằng 1,52 lần chiều dài thân (tail/bl: 0,4 – 1,90) và chiều cao đuôi lớn nhất bằng 1,06 lần chiều cao thân Mút đuôi nhọn và trên cơ đuôi cùng vây đuôi có nhiều chấm đen.
Miệng dạng bám, hướng phía trước dưới, đĩa miệng rộng, chiều rộng đĩa miệng bằng 0,60 lần chiều rộng thân (odw/bw: 0,43 - 0,92) và bằng 0,31 lần chiều dài thân (odw/bl: 0,20 - 0,42)
Hình 3.2 Đĩa miệng nòng nọc của Leptobrachium cf banae
Gai thịt có hình dạng tròn, lớn và dài, viền hoàn toàn ngoại trừ một đoạn khuyết nhỏ ở giữa, có bề rộng bằng kích thước của một gai thịt bên cạnh Các gai thịt lớn hơn ở phía trên và nhỏ dần về hai bên và phía dưới Bao hàm lớn, màu đen hoàn toàn và dày, trong đó bao hàm dưới lớn hơn bao hàm trên Bao hàm trên có hình dạng chữ V nông, với viền dưới có khía răng cưa, bao hoàn toàn bao hàm dưới.
Môi trên có 8 - 9 hàng răng, với hàng trên cùng nguyên, ngắn và cong vào trong, dài hơn đoạn khuyết của viền gai thịt Các hàng răng tiếp theo chia, hàng chia thứ nhất gần chạm nhau, trong khi các hàng chia phía trong ngắn dần và được phân cách bởi bao hàm trên Môi dưới có 7 - 8 hàng răng, hàng dưới cùng nguyên và ngắn; hàng chia thứ hai từ ngoài vào dài nhất, các hàng chia tiếp theo ngắn dần và được phân cách bởi bao hàm dưới Mép giữa môi trên và môi dưới có một số gai thịt nằm rải rác, trên đó có đính các răng sừng.
Mặt trên của cơ thể có màu nâu, trong khi mặt bụng sáng Cơ đuôi có màu nâu sáng và vây đuôi mang màu trắng đục, trên đó có nhiều chấm đen.
Các chỉ tiêu hình thái nòng nọc của nòng nọc Leptobrachium cf banae đƣợc trình bày ở bảng 3.4
Bảng 3.4 Các chỉ tiêu hình thái nòng nọc của Leptobrachium cf banae (n = 50)
TT 26 27 28 35 36 37 38 39 41 42 43 44 45 TB mx bl 20.26 21.41 23.41 25.49 26.22 26.61 27.25 28.44 26.87 25.56 25.57 27.26 26.45 25.45 2.28 bh 9.82 10.46 10.48 12.57 12.99 13.59 12.73 12.8 12.56 9.54 10.57 9.81 9.72 11.36 1.45 bw 10.98 11.92 11.11 13.67 15.51 15.33 14.76 15.14 12.52 10.92 12.79 13.04 12.11 13.06 1.61 ed 2.48 2.72 2.43 3.40 3.60 3.57 3.80 4.28 3.98 4.06 4.27 4.78 4.78 3.70 0.75 ht 12.1 11.77 11.57 13.68 14.22 14.28 14.3 14.84 14.52 10.6 12.56 7.59 5.05 12.08 2.81 lf 3.36 3.48 3.15 3.83 4.38 3.96 3.93 4.36 4.05 1.94 3.07 0.91 - 3.37 1.35 nn 4.48 4.37 3.99 4.91 5.05 5.21 5.13 5.07 4.40 3.52 4.33 3.48 3.71 4.43 0.59 np 4.12 4.27 4.13 5.24 5.14 5.43 5.38 5.28 5.34 4.78 5.19 5.67 5.34 5.02 0.50 odw 7.28 6.89 7.21 7.91 8.77 8.41 8.76 8.48 8.35 5.21 5.53 9.38 11.19 7.95 1.51 pp 7.39 8.01 7.58 9.1 9.78 10.27 9.95 11.1 9.78 9.44 9.68 10.64 10.62 9.49 1.13 rn 4.07 4.77 4.66 5.19 5.41 5.54 5.97 5.46 4.98 3.71 2.99 3.38 3.29 4.47 0.94 ss 12.02 12.98 13.19 16.14 17.19 18.64 17.55 17.56 17.2 - - - - 15.83 2.29 su 18.76 20.18 19.84 23.96 25.9 22.83 25.84 26.88 26.31 26.05 28.23 31.25 28.88 24.99 3.58 tl 55.86 56.97 56.4 69.19 70.73 70.63 71.96 68.12 69.68 65.11 70.29 49.27 37.76 62.46 7.45 tail 38.43 38.17 38.3 45.09 47.15 46.4 48.14 43.56 45.19 35.5 43.54 19.36 10.59 38.42 6.34 uf 4.47 3.93 3.66 4.65 4.87 4.93 5.54 5.64 5.45 2.62 3.29 1.8 - 4.24 1.21 vt 41.53 35.62 36.1 43.68 44.99 43.47 45.72 37.44 43.46 39.51 42.51 17.11 8.49 36.89 6.87 tmh 7.81 7.37 7.05 8.99 8.7 8.65 8.75 7.73 8.36 8.63 7.61 5.78 4.97 7.72 1.65 tmw 3.09 6.09 5.64 6.97 7.43 7.48 7.4 7.83 7.45 7.31 7.16 5.9 4.87 6.51 1.3
TT 26 27 28 35 36 37 38 39 41 42 43 44 45 TB mx fl - - - - - - - - - 15.99 17.4 22.02 21.26 19.17 2.53 hl 0.31 2.34 1.24 4.76 9.83 11.41 14.27 23.38 23.48 29.78 31.69 38.49 37.34 17.56 13.34 svl 20.27 21.67 21.71 25.79 27.95 28.09 27.61 29.71 28.79 26.55 28.08 31.94 30.17 26.79 3.41
3.2.2.3: Cóc mày sa pa Leptobrachium chapeaense ( Bourret, 1937)
Megophrys hasseltii chapaense R Bourret, 1937, Bull Gén Instr Publ., Hanoi,
Tên phổ thông : Cóc mày sa pa, Cóc mày hatxen, cóc bùn (Việt), Tô Khiết (H’Mông) Tên tiếng Anh : Chapa Spadefoot Toad
Mẫu vật gồm 10 mẫu ở các giai đoạn 35, 36, 37 và 38, thu thập tại Khe Kèm (Con Cuông) Đặc điểm chẩn loại bao gồm đĩa miệng dạng bám với vị trí trước dưới, gai thịt một hàng dạng tròn và viền hoàn toàn, có khuyết nhỏ ở giữa môi trên Bao hàm lớn và dày, viền dưới bao hàm trên có khía răng cưa rõ ràng Công thức răng LTRF là I (6+6)-(8+8)/(5+5)-(7+7)I Cơ thể dài, hình trụ, với mắt trung bình và lỗ mũi dạng tròn, gần mắt hơn mút mõm một chút; lỗ thở đơn nằm bên trái Cơ đuôi dày và khỏe, mút đuôi nhọn Màu sắc của mẫu vật: mặt trên đầu và thân màu đen, bụng màu nâu nhạt, cơ đuôi màu vàng nhạt và vây đuôi màu trắng đục.
Đặc điểm môi trường sống và phân bố nòng nọc các loài lưỡng cư
Tại các tuyến nghiên cứu, mẫu được thu theo các điểm đặc trưng cho sinh cảnh của khu vực Nhiệt độ nước, độ ẩm môi trường được tính trung bình cho mỗi điểm thu mẫu Khe Kèm, thuộc vườn quốc gia Pù Mát, có độ cao khoảng 288m so với mực nước biển, với sinh cảnh chủ yếu là rừng nguyên sinh mưa mùa nhiệt đới Thảm thực vật đa dạng, bao gồm nhiều họ cây như Thầu dầu (Euphorbiaceae), Sim (Myrtaceae), và Xoan (Meliaceae) Khe có lòng rộng khoảng 8m, độ dốc thấp, và nước chảy bình thường, với nhiều đá cuội và cát Nhiệt độ nước trung bình là 24,05°C, nhiệt độ môi trường trung bình 30,34°C, và độ ẩm đạt 79,75% Tại đây, đã thu được mẫu nòng nọc của 6 loài khác nhau.
Leptobrachium chapaense là loài ếch được thu mẫu tại chân thác Kèm, nơi có vực nước sâu và dòng chảy mạnh Đáy vực chủ yếu là đá cuội lớn và cát sỏi, được bao quanh bởi nhiều phiến đá lớn Trong quá trình thu mẫu, nòng nọc của loài này thường bám trên các hòn đá cuội trong vực nước.
Leptobrachium sp được thu mẫu tại một vũng nước có độ sâu khoảng 20cm, rộng 3m và dài 6m, nằm cạnh một khe nước chảy Nền vũng nước chủ yếu là cát và đá sỏi vừa, và khi thu nòng nọc, chúng đang nấp dưới các viên đá.
- Leptolalax sp.: Nơi thu mẫu là vũng nước nằm lòng khe, nước chảy, nền cát, sỏi nhỏ, có nhiều mùn hữu cơ
- Xenophrys major: Nơi thu mẫu là vũng nước quẩn cạnh khe, nền cát, có nhiều lá mục, khi thu nòng nọc đang bám trên lá mục
- Hylarana cf guentheri: Nơi thu mẫu là vũng nước lớn ở lòng khe, rộng khoảng 20m 2 , sâu 30 cm, nền đáy có nhiều lá mục, sỏi nhỏ, cát
Rana johnsi là loài sống ở khu vực ven khe, nơi có nền cát sỏi và đá cuội nhỏ, đặc biệt là khi thu mẫu nòng nọc đang ẩn nấp dưới các viên đá Khu vực khe bản Tông, xã Bình Chuẩn, huyện Con Cuông, có độ cao khoảng 213 m so với mực nước biển, là vùng đất tương đối bằng phẳng, nơi cư trú của cộng đồng dân cư Sinh cảnh chủ yếu là đất trồng trọt với các loại cây trồng hàng năm như lúa nước và rau màu, cùng với cây lâm nghiệp như keo và bạch đàn Ngoài ra, còn có một số diện tích trảng cây bụi thứ sinh thường xanh và cây lá rộng Các loài thực vật ưu thế bao gồm sim, thành ngạnh, ba bét, bồ cu vẽ, mua, cỏ Lào và trinh nữ Khe có lòng rộng, nước sâu, là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho hoạt động chăn nuôi, trồng trọt và sinh hoạt của người dân Nhiệt độ nước trung bình là 34,11°C, với mức dao động từ 23,7 đến 44°C, trong khi nhiệt độ môi trường trung bình đạt 35,07°C và độ ẩm khoảng 69,01%.
Khu vực này thu đƣợc mẫu nòng nọc của 3 loài:
Ingerophrynus gleatus là mẫu nòng nọc được thu thập ở vũng nước tĩnh ven khe gần chân cầu bản Tông, với diện tích khoảng 9 - 10 m² và độ sâu 35cm Đáy vũng nước có nhiều cát, đá sỏi nhỏ hoặc bùn mỏng, cùng với sự hiện diện của thực vật như rau bợ, cỏ và rau dừa.
Leptobrachium sp là loài nòng nọc sống tại các khe nước sâu với nền cát và sỏi nhỏ, nơi có dòng chảy nhẹ Chúng có kích thước lớn và được người dân sử dụng làm thực phẩm Để thu mẫu, tác giả đã theo chân người dân đi quang chài vào ban đêm, thời điểm nòng nọc hoạt động nhiều nhất để kiếm ăn.
Ngoé Fejervarya limnocharis được thu thập tại ruộng lúa cách khe bản Tông khoảng 30m, với nền đáy bùn và độ sâu nước khoảng 45cm, nước được cung cấp từ khe bằng guồng nước Khu vực nương rẫy bản Mường Loong, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, nằm ở độ cao từ 1289 đến 1304m so với mực nước biển Đây là khu vực rừng nguyên sinh, cách bản Mường Loong khoảng 6 giờ đi bộ, nhưng đang bị ảnh hưởng mạnh bởi tập quán canh tác đốt nương làm rẫy Thảm thực vật chủ yếu là rừng kín thường xanh với các loài cây tầng cao như Trường (Amesiodendron chinense), Chò chỉ (Parashorea chinensis), Dẻ (Castanopsis sp.), và Trâm núi (Syzygium sp.), trong khi tầng dưới tán có sự xuất hiện của Bời lời ba vì (Litsea baviensis).
The article highlights various tree species found in the region, including Bop (Actinodaphne chinensis), Com (Elaeocarpus stipularis), and Mau Cho (Knema conferta) It also mentions Dẻ Bạc (Quercus glauca), Cà ổi (Castanopsis ferox), Ràng Ràng (Ormosia balansae), and Cọ Phèn (Protium serratum) Additionally, the piece references Giang (Dendrocalamus patellaris) and Song, showcasing the rich biodiversity of these plant species.
Calamus platyacanthus và Calamus tonkinensis đang đối mặt với nguy cơ bị tàn phá do hoạt động canh tác của con người Các mẫu nòng nọc được thu thập từ những vùng nước đọng, nơi có sự bao phủ của tre và nứa, hoặc từ các khe nhỏ có nước chảy yếu, được che phủ bởi cây Dương xĩ, Sim, Mua, cùng với các loại cỏ và cây gỗ lớn phía trên.
Nhiệt độ nước trung bình 16,8C (15,1 - 18,5 0 C), nhiệt độ môi trường 20,05 0 C (17,87- 22,23 0 C), độ ẩm 89,9% (80,3 - 99,5%)
Khu vực này thu đƣợc mẫu nòng nọc của 5 loài:
Leptobrachium cf echinatum được tìm thấy trong một mẫu thu khe nhỏ chảy ngang đường mòn dân sinh, với lòng khe hẹp khoảng 1,5m Khu vực này có nhiều tảng đá lớn và cây đổ, tạo thành các vũng nước sâu khoảng 50cm Nền khe được cấu tạo từ cát, sỏi nhỏ và sỏi to, cùng với nhiều mùn bã hữu cơ do lá cây mục Hai bên khe là các phiến đá lớn, ẩm ướt, và gần khe có nhiều cây gỗ lớn cùng cây bụi phát triển.
Leptolalax pelodytoides là một loài ếch sống trong môi trường khe nhỏ, thường chảy qua các con đường mòn dân sinh Chúng thường xuất hiện ở những khu vực có lòng khe hẹp, nền cát và sỏi nhỏ, với mực nước thấp khoảng 7cm và dòng chảy chậm Môi trường sống của chúng cũng có nhiều mùn hữu cơ do lá mục phân hủy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển.
Limnonectes kuhlii được thu mẫu tại hai vũng nước gần nhau, được ngăn cách bởi một bờ đất nhỏ có đặt tấm ván Tuy nhiên, không tìm thấy mẫu nòng nọc của mẫu 9 ở cả hai vũng Vũng nước có diện tích 10m², sâu 5cm, với nền bùn sâu và nhiều lá cây đang phân hủy, xung quanh được bao phủ bởi tre, nứa, và rêu, ánh sáng chiếu xuống yếu Ngoài ra, Limnonectes kuhlii cũng được thu tại một khe nước nhỏ chảy qua đường dân sinh, cách nơi đóng lán khoảng 2 giờ đi bộ, với nền khe là cát và sỏi nhỏ, nước chảy chậm, mực nước sâu 5cm và rộng 1,5m.
Mẫu thu Rana sp được thực hiện tại một khe nhỏ chảy ngang đường mòn dân sinh, với lòng khe rộng khoảng 1,3m, nền cát và đá sỏi nhỏ, cùng nhiều lá mục rụng đang phân hủy Mực nước trong khe thấp, sâu khoảng 10cm, chảy chậm và có độ dốc thấp Khe mẫu cách nơi đóng lán khoảng 2 giờ đi bộ, hai bên khe có các phiến đá lớn phủ rêu và nhiều loại thực vật như Sim, Mua, Dương xĩ, cỏ, cùng các cây gỗ như Giỗi, Táu cách khe khoảng 10m.
Rhacophorus cf maximus được thu mẫu ở một vũng nước cách nơi đóng lán 30m Vũng nước này từng là dòng chảy của một khe nhỏ nhưng vào mùa khô đã trở thành vũng nước tù với diện tích khoảng 7m², mực nước sâu 10cm, có màu vàng và mùi hôi Nền vũng nước là bùn sâu, chứa nhiều cành cây và lá cây phân hủy Vũng nước được che phủ bởi tre, nứa, khiến ánh sáng chiếu xuống yếu Xung quanh khu vực còn có sim, mua và dương sĩ.
Đồn biên phòng 519 nằm ở độ cao khoảng 1062m so với mực nước biển, thuộc bản Mường Loong Phía trước đồn là ruộng lúa nước của người dân, trong khi phía sau là đồi cây bụi và các loại cây gỗ nhỏ.
Nhiệt độ nước trung bình là 16,7 0 C (15,2 - 17,2 0 C), nhiệt độ môi trường 21,35 0 C (19,6 - 25,39 0 C), độ ẩm 78,44% (68,2 - 99,5%)
Khu vực này thu đƣợc mẫu nòng nọc của 1 loài: Ngoé Fejervarya limnocharis: Nơi thu mẫu là ruộng lúa phía trước đồn biên phòng 519 e Khe Nậm Bành
Đặc điểm hình thái nòng nọc thích nghi với môi trường sống
3.4.1 Hình thái nòng nọc thích nghi với thuỷ vực nước chảy - nước đứng a Những loài thích nghi với thuỷ vực nước chảy:
Qua phân tích đặc điểm hình thái nòng nọc cho thấy có 7 loài thích nghi với môi trường nước chảy gồm: Leptobrachium cf banae, Leptobrachium chapaense,
Leptobrachium cf echinatum, Leptobrachium sp., Leptolalax pelodytodes,
Leptolalax sp và Hylarana cf guentheri Đặc điểm hình thái các loài thích nghi với thuỷ vực nước chảy:
Cơ thể của loài cá này có hình trụ hoặc hơi dẹp, với đuôi dài và cơ cùng vây đuôi dày, khỏe mạnh Vây đuôi thấp và đĩa miệng lớn, hướng xuống hoặc về phía trước, giúp chúng thích nghi tốt với môi trường nước đứng.
Có 9 loài: Ingerophrynus galeatus, Xenophrys major, Microhyla butleri, Fejervarya limnocharis, Limnonectes dabanus, Limnonectes kuhlii, Rana johnsi, Rana sp., Rhacophorus cf maximus Đặc điểm hình thái các loài thích nghi với thuỷ vực nước đứng: cơ thể hơi dẹp hoặc dẹp, đuôi trung bình hoặc cao, vây đuôi mỏng; đĩa miệng trung bình hoặc nhỏ, hướng lên trên, trước hoặc trước dưới
3.4.2 Hình thái nòng nọc thích nghi với các tầng nước
Phân tích hình thái và quan sát hoạt động của nòng nọc có thể phân chia các dạng nòng nọc thích nghi với các tầng nước như sau:
Xenophryx major là loài duy nhất thuộc dạng ăn mặt nước, có cơ thể hơi dẹt bên với cơ và vây đuôi yếu Đặc điểm nổi bật của loài này là đĩa miệng hình phễu hướng lên trên mặt nước, không có răng sừng và bao hàm yếu.
Hình 3.17 Đĩa miệng các loài thích nghi với ăn mặt nước
- Dạng ăn tầng giữa: gồm các loài Ingerophrynus galeatus, Fejervarya limnocharis, Limnonectes dabanus, Limnonectes kuhlii, Hylarana cf guentheri,
Rhacophorus cf maximus , Rana johnsi, Rana sp (hình 3.18)
Nhóm này sở hữu cơ thể hình trụ hoặc hơi dẹp, với cơ và vây đuôi phát triển bình thường Đĩa miệng của chúng hướng về phía trước dưới hoặc dưới, không hình thành phễu Chúng có kích thước trung bình, với răng sừng ít và thưa.
Ingerophrynus galeatus[10] Fejervarya limnocharis[10] Limnonectes dabanus
Limnonectes kuhlii[43] Rhacophorus cf maximus[45] Hylarana cf guentheri
Hình 3.18 Đĩa miệng các loài thích nghi với ăn tầng giữa
- Dạng ăn đáy: gồm các loài Leptolalax pelodytoides, Leptobrachium cf banae,
Leptobrachium chapaense, Leptobrachium cf echinatum, và Leptobrachium sp có đặc điểm cơ thể dẹp từ trên xuống dưới, với cơ và vây đuôi mạnh mẽ Miệng của chúng hướng xuống (Leptolalax) hoặc về phía trước dưới (Leptobrachium), với cấu trúc hàm khỏe và nhiều răng sừng dày.
Leptolalax pelodytoides[10] Leptobrachium cf banae Leptobrachium sp
Hình 3.19 Đĩa miệng các loài thích nghi với ăn đáy
3.5 Phân bố nòng nọc các loài lƣỡng cƣ theo độ cao trong vùng nghiên cứu
Kết quả thống kê phân bố nòng nọc các loài lưỡng cư theo độ cao tại Việt Nam đã được so sánh với các nghiên cứu trước đây tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Hoạt và Vườn Quốc gia Bạch Mã, như thể hiện trong bảng 3.30.
Bảng 3.30 Phân bố của nòng nọc theo độ cao
Mẫu VNC Pù Huống, Pù
Từ kết quả bảng thống kê phân bố của nòng nọc các loài lƣỡng cƣ theo độ cao trong VNC cho thấy:
- Ở độ cao dưới 1000 m thu được mẫu nòng nọc của 10 loài (chiếm 62,5%)
- Ở độ cao trên 1000m thu đƣợc mẫu 6 loài (chiếm 37,5%)
- Trong số các loài ghi nhận được, có 8 loài gặp ở độ cao dưới 1000m gồm:
Ingerophrynus galeatus; Leptobrachium cf banae; Leptobrachium chapaense;
Leptobrachium sp; Leptolalax sp; Xenophrys major; Microhyla butleri; Limnonectes dabanus; Hylarana guentheri; Rana johnsi
- Có 4 loài gặp ở độ cao trên 1000m gồm: Leptobrachium cf echinatum;
Limnonectes kuhlii; Rana sp; Rhacophorus cf maximus
- Các loài phân bố ở cả hai độ cao gồm: Leptolalax pelodytodes; Fejervarya limnocharis
Loài Limnonectes kuhlii được ghi nhận có phân bố ở độ cao dưới 1000m, theo nghiên cứu của Lê Thị Thu Ngoài ra, Lê Thị Qúy cũng đã bổ sung thông tin về sự phân bố của loài này ở độ cao trên 1000m.
Leptobrachium chapaense và Microhyla butleri
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1 Đã xác định đƣợc nòng nọc của 16 loài lƣỡng cƣ ở Tây Nghệ An, bổ sung cho danh lục nòng nọc các loài lƣỡng cƣ Tây Nghệ An 10 loài, cho VQG Pù Mát 1 loài và KĐX Pù Hoạt 3 loài
2 Tỉ lệ các phần cơ thể có mối quan hệ trong quá trình phát triển biến thái, trong đó tỉ lệ giữa chiều dài thân và chiều dài chi sau có mối quan hệ chặt qua các giai đoạn (R từ 0,97 - 0,99)
3 Ở cùng các giai đoạn phát triển, nòng nọc của các loài trong cùng giống có những sai khác ở một số tỉ lệ đặc trƣng: dài thân/dài chi sau, dài thân/rộng thân, dài thân/cao thân, dài đuôi/cao đuôi, gian ổ mắt/gian mũi, rộng đĩa miệng/rộng thân
4 Ở cùng các giai đoạn phát triển, nòng nọc của cùng một loài ở các khu vực khác nhau có sự sai khác về một số đặc điểm hình thái
5 Các loài sống ở thuỷ vực nước chảy có thân hơi dẹp hoặc hình trụ, cơ đuôi khoẻ, vây đuôi thấp, miệng hướng dưới, trước dưới Các loài ở thuỷ vực nước đứng có thân dạng hơi dẹp hoặc dẹp, đuôi trung bình/cao, miệng hướng trên, trước hoặc trước dưới
6 Nhóm nòng nọc ăn tầng mặt có thân dẹt bên, miệng dạng phễu hướng trên, không có răng sừng, bao hàm yếu, cơ và vây đuôi yếu Nhóm ăn tầng giữa có thân hình trụ, miệng hướng trước dưới/dưới, bao hàm, răng sừng trung bình, cơ và vây đuôi bình thường Nhóm ăn đáy có thân dẹp, cơ và vây đuôi dày, khoẻ, răng sừng dày, bao hàm khoẻ
7 Ở VNC có 2 loài gặp ở cả 2 độ cao trên và dưới 1000m, có 10 loài gặp ở độ cao dưới 1.000m và 4 loài gặp ở độ cao trên 1.000m Đề nghị:
1 Tiếp tục nghiên cứu nòng nọc các loài lƣỡng cƣ ở Tây Nghệ An nhằm đánh giá đƣợc tính đa dạng lƣỡng cƣ trong vùng, bổ sung dẫn liệu về hình thái và các giai đoạn phát triển phục vụ cho định loại nòng nọc các loài lƣỡng cƣ
2 Thu thập mẫu và nuôi đến khi hoàn thiện biến thái đối với các loài chƣa đƣợc định danh nhằm xác định vị trí của loài.
Phân bố các loài nòng nọc theo độ cao
1 Hồ Thu Cúc, Smirnov S V., 1983 Đặc điểm nhận biết 7 loài nòng nọc ếch nhái không đuôi Việt Nam, trong cuốn ''Khu hệ và sinh thái động vật Việt Nam'' NXB khoa học, Matxcơva: 62 - 67
2 Lê Vũ Khôi, Đặng Tất Thế, Hà Thị Tuyết Nga, 2009 Những dẫn liệu về sự sinh trưởng và phát triển của Chẫu chàng xanh đốm Polypedates dennysi (Blanford,
1881) trong điều kiện nuôi nhốt Báo cáo khoa học Hội thảo Quốc gia về Lƣỡng cƣ và Bò sát ở Việt Nam (lần thứ nhất) NXB Đại học Huế: 276 - 283
3 Trần Kiên, Hoàng Xuân Quang, 1992 Về phân khu động vật - địa lý học bò sát, ếch nhái Việt Nam Tạp chí Sinh học Số 14 (3): 8 - 13
4 Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, 1981 Kết quả điều tra cơ bản Ếch nhái, Bò sát niềm Bắc Việt Nam Kết quả điều tra cơ bản động vật miền bắc việt nam NXB khoa học và kỹ thuật: 365 -472
5 Hoàng Xuân Quang, 1993 Góp phần điều tra nghiên cứu ếch nhái, bò sát các tỉnh Bắc Trung Bộ ( Trừ bò sát biển), luận án PTS khoa học sinh học, 207 tr
6 Hoàng Xuân Quang, 1998 Khu hệ ếch nhái Bắc Trường Sơn Quá trình khảo sát bổ sung thành phần loài Kỷ yếu hội thảo đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn
7 Hoàng Xuân Quang, Nguyễn Văn Sáng, Lê Nguyên Ngật 1997 Thành phần loài ếch nhái, bò sát Tây Nam Nghệ An Thông báo khoa học số 1 trường Đại học Sƣ phạm – Đại học Quốc Gia Hà Nội: 68 – 73
8 Hoàng xuân Quang và cộng sự, 2006 Bảo vệ đa dạng sinh học động vật có xương sống ( Cá, Lưỡng Cư, Bò Sát) hệ sinh thái rừng Tây Bắc Nghệ An Đề tài cấp Bộ mã số B 2005 – 42 – 84: 65 tr
9 Hoàng Xuân Quang và cộng sự, 2008 Ếch nhái, Bò sát ở khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống NXB Nông nghiệp 128 tr
10 Lê Thị Qúy, 2010 Đặc điểm sinh học nòng nọc một số loài lưỡng cư ở vườn quốc gia Bạch Mã Luận văn thạc sĩ Sinh học 105 tr
11 Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Quảng Trường, 2005: Danh lục ếch nhái và bò sát Việt Nam, 180 trang Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.