NỘI DUNG
SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
1.1 Khái niệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
1.1.1 Khái niệm quyền sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2003 nhấn mạnh tầm quan trọng của đất đai như một tài nguyên quốc gia quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt và là yếu tố then chốt trong môi trường sống Đất đai cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố các khu dân cư và xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, cũng như đảm bảo an ninh quốc phòng.
Khoa học pháp lý tại Việt Nam xác định rằng đất đai là một đối tượng đặc biệt trong quyền sở hữu nhà nước Quan niệm này được hình thành dựa trên những lập luận cơ bản, nhấn mạnh vai trò và vị trí của đất đai trong hệ thống pháp luật và quản lý tài nguyên quốc gia.
Đất đai là một tài sản đặc biệt do thiên nhiên tạo ra, tồn tại trước khi con người xuất hiện Trong quá trình sử dụng, con người chỉ có thể tác động để tăng hoặc giảm độ màu mỡ của đất, mà không làm cho đất đai bị biến mất.
Đất đai là tài nguyên hạn chế của quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích cá nhân, cộng đồng xã hội và ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước.
Đất đai đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội, là điều kiện thiết yếu cho mọi quá trình sản xuất và hoạt động của con người Nó không chỉ là nguồn tài nguyên vật chất cần thiết cho sự tồn tại mà còn cho sự tái sản xuất các thế hệ của nhân loại Do đó, việc sử dụng đất đai một cách hiệu quả, đầy đủ và tiết kiệm là vô cùng cần thiết.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
Khái niệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
1.1.1 Khái niệm quyền sử dụng đất
Luật Đất đai năm 2003 nhấn mạnh rằng đất đai là tài nguyên quốc gia quý giá, đóng vai trò là tư liệu sản xuất đặc biệt và là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống Nó không chỉ là địa bàn phân bố các khu dân cư mà còn là nền tảng cho việc xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng.
Khoa học pháp lý ở Việt Nam xác định rằng đất đai là một đối tượng đặc biệt trong quyền sở hữu nhà nước Quan niệm này được hình thành dựa trên những lập luận cơ bản liên quan đến tính chất và vai trò của đất đai trong phát triển kinh tế và xã hội.
Đất đai là tài sản đặc biệt do thiên nhiên tạo ra, tồn tại trước khi con người xuất hiện Sự tác động của con người chỉ làm tăng hoặc giảm độ màu mỡ của đất, chứ không làm cho đất đai biến mất.
Đất đai là tài nguyên hạn chế của quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích cho cá nhân, cộng đồng xã hội và cả Nhà nước.
Đất đai đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội, là điều kiện thiết yếu cho mọi quá trình sản xuất và hoạt động của con người Nó không chỉ là nguồn tài nguyên cần thiết để tồn tại mà còn phục vụ cho việc tái sản xuất các thế hệ Do đó, việc sử dụng đất đai một cách hiệu quả và bền vững là rất quan trọng, cần kết hợp giữa cải tạo và chăm sóc hợp lý Theo số liệu tổng kiểm kê đất đai năm 2000, tổng diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 329.240 km², và theo luật đất đai năm 2003, đất đai được phân chia thành ba nhóm dựa trên mục đích sử dụng.
Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất phục vụ sản xuất nông nghiệp, như đất trồng cây hàng năm (gồm đất trồng lúa và đất đồng cỏ cho chăn nuôi), đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, và đất nuôi trồng thủy sản Các loại đất này được quy định bởi chính phủ nhằm đảm bảo hiệu quả trong hoạt động nông nghiệp.
Nhóm đất này chiếm diện tích là 20.920.775 ha
Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất phục vụ cho ngành lâm nghiệp và các mục đích chuyên dùng như đất giao thông, thủy lợi, công trình xây dựng công cộng, di tích lịch sử, và đất ở.
Nhóm đất này chiếm diện tích là 1.976.021 ha
- Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng như núi đá, đất bãi, đất mặt nước…
Nhóm đất này chiếm diện tích là 10.027.265 ha (chiếm khoảng gần 1/3 tổng diện tích đất tự nhiên)
Nhà nước cần xây dựng chính sách đất đai hợp lý thông qua việc xác định phương hướng quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất một cách đầy đủ, tiết kiệm và hiệu quả.
Luật Đất đai năm 1993, điều 1 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”
Còn Luật Đất đai năm 2003, điều 5 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”
Trong bài viết này, chúng ta sẽ phân tích sự khác biệt giữa hai khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai và sở hữu Nhà nước về đất đai Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng hai khái niệm này là đồng nhất, nhưng thực tế không nên đồng nhất chúng do những lý do quan trọng mà chúng ta sẽ trình bày.
Trong Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung), cùng với các Luật Đất đai năm 1987, 1993, 2003 và các văn bản pháp luật liên quan, không có bất kỳ đề cập nào đến khái niệm sở hữu Nhà nước về đất đai, mà chỉ xác định khái niệm sở hữu toàn dân về đất đai.
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là một hệ thống quy chế chung, trong đó toàn dân đóng vai trò là chủ thể chính trong quan hệ đất đai.
"Toàn dân không thể tự mình thực hiện các quyền sở hữu cụ thể như chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, mà cần cử người đại diện Trong trường hợp này, Nhà nước đóng vai trò đại diện hợp pháp nhất, vì được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc của dân, do dân và vì dân."
Theo quy định của pháp luật, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý, giao cho các tổ chức và cá nhân sử dụng lâu dài Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết để xác lập cơ chế thể hiện quyền sở hữu đất đai một cách phù hợp, nhằm tạo sự thống nhất giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sử dụng thực tế Hai quyền năng này được thể hiện qua các khía cạnh quản lý và kinh tế của đất đai.
Nội dung cơ bản quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai
* Quyền chiếm hữu đối với đất đai của Nhà nước: là quyền của Nhà nước nắm giữ toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả nước
Quyền chiếm hữu đất đai có vai trò quan trọng trong việc xác lập quyền sử dụng và quyền định đoạt đất Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu đất đai, nhưng không trực tiếp chiếm hữu mà trao quyền cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thông qua giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất Dù vậy, Nhà nước vẫn giữ quyền chiếm hữu đất đai một cách gián tiếp thông qua các hoạt động như đo đạc, khảo sát và đánh giá đất, nhằm nắm bắt tình hình sử dụng đất trên toàn quốc và từng địa phương Quyền này không bị giới hạn về không gian hay thời gian, yêu cầu Nhà nước phải theo dõi cả số lượng và chất lượng đất đai, cũng như biến động đất đai qua các thời kỳ.
Quyền sử dụng đất là khả năng khai thác các giá trị của đất đai nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia.
Những quy định pháp lý của việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
1.2.1 Thẩm quyền xét duyệt, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Xét duyệt là quyền quản lý đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, giúp đảm bảo các quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của cấp dưới được hợp lý, đồng bộ và phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chung.
Đối với UBND xã, phường, thị trấn:
Căn cứ theo điều 26, điều 52 Luật Đất đai năm 2003; điều 10 Luật Nhà ở năm 2005 SĐBS năm 2009 được hướng dẫn chi tiết tại NĐ số 69/2009/NĐ-
CP, NĐ số 88/2009/NĐ-CP quy định về thẩm quyền của cấp phường như sau:
Cán bộ địa chính tại các phường, xã và thị trấn hỗ trợ người dân trong việc kê khai hồ sơ và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Họ cũng thực hiện đo vẽ hiện trạng sử dụng đất và nhà ở của các đối tượng kê khai.
UBND phường, thị trấn có trách nhiệm kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của hồ sơ đăng ký đất, nhà ở Đồng thời, cơ quan này cũng cần xác nhận và đề xuất ý kiến cho từng hồ sơ liên quan đến các vấn đề cụ thể.
+ Hiện trạng: vị trí, diện tích, loại nhà đất
+ Nguồn gốc, thời điểm và những biến động phát sinh trong quá trình sử dụng nhà đất
+ Tình trạng tranh chấp hay không tranh chấp quyền sử dụng đất và nhà ở
Đề nghị giải quyết các trường hợp vi phạm chính sách đất đai và nhà ở, đồng thời phân loại hồ sơ theo thẩm quyền của từng cấp quận, huyện, thị xã và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để trình lên.
Đối với cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh:
Căn cứ theo điều 26, điều 52 Luật Đất đai năm 2003; điều 10 Luật Nhà ở năm 2005 SĐBS năm 2009 được hướng dẫn chi tiết tại NĐ số 69/2009/NĐ-
CP, NĐ số 88/2009/NĐ-CP quy định thẩm quyền của cấp này như sau:
Phòng địa chính cấp quận, huyện, thị xã sẽ tiến hành thẩm định lại hồ sơ mà các cấp phường đã gửi lên Sau khi kiểm tra, những trường hợp đủ điều kiện sẽ được trình lên Ủy ban nhân dân thị xã để xin ký duyệt.
- UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ký duyệt hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận do phòng địa chính chuyển lên
Căn cứ theo điều 26, điều 52 Luật Đất đai năm 2003; điều 10 Luật Nhà ở năm 2005 SĐBS năm 2009 được hướng dẫn chi tiết tại NĐ số 69/2009/NĐ-
Theo Nghị định số 88/2009/NĐ-CP, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương được ủy quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở cho UBND thị xã, nhằm phục vụ cho các đối tượng thuộc thẩm quyền.
+ Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
+ Cộng đồng dân cư sử dụng đất cho đình, đền, miếu, am, từ đường, bàn thờ tổ…
+ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
Đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW:
Căn cứ theo điều 26, điều 52 Luật Đất đai năm 2003; điều 10 Luật Nhà ở năm 2005 SĐBS năm 2009 được hướng dẫn chi tiết tại NĐ số 69/2009/NĐ-
CP, NĐ số 88/2009/NĐ-CP quy định thẩm quyền của cấp này như sau:
Sở địa chính nhà đất có trách nhiệm thẩm định hồ sơ từ quận, huyện, thị xã, xét duyệt các trường hợp đủ điều kiện cấp giấy Sau đó, hồ sơ sẽ được trình lên UBND tỉnh, thành phố để ký duyệt và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở cho những đối tượng đủ điều kiện.
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW ký duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở cho những đối tượng:
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam
+ Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất và các mục đích tại nội thành phố, nội thị xã và đất ở, đất chuyên dùng tại thị trấn
+ Các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào các mục đích
Căn cứ theo điều 26, điều 52 Luật Đất đai năm 2003; điều 10 Luật Nhà ở năm 2005 SĐBS năm 2009 được hướng dẫn chi tiết tại NĐ số 69/2009/NĐ-
CP, NĐ số 88/2009/NĐ-CP quy định thẩm quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW như sau:
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở cho các đối tượng sau:
- Tổ chức trong nước sử dụng đất
- Nhà chùa, nhà thờ, thánh thất, tôn giáo
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam
1.2.2 Đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở
Theo điều 49 của Luật Đất đai năm 2003, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất được hướng dẫn chi tiết tại điều 7 và điều 8 của Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ban hành ngày 19/10/2009.
Đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm:
- Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trừ trường hợp thuê đất nông nghiệp sử dung vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn
- Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm
1993 đến trước ngày Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành được chứng nhận quyền sử dụng đất
- Người đang sử dụng đất theo quy định tại điều 50, 51 Luật Đất đai năm 2003 mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Người được chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, hoặc nhận quyền sử dụng đất từ hợp đồng thế chấp, bảo lãnh để thu hồi nợ, cùng với tổ chức sử dụng đất là pháp nhân mới hình thành từ việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Người sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án, hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai từ cơ quan có thẩm quyền sẽ được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp.
- Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất
- Người sử dụng đất theo điều 90, 91, 92 của Luật Đất đai năm 2003
- Người mua nhà ở gắn liền với đất ở
- Người được Nhà nước thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất
Đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở bao gồm:
* Hộ gia đình, cá nhân trong nước phải có một trong các loại giấy tờ sau:
Giấy phép xây dựng nhà ở đối với trường hợp phải xin phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng
Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước được quy định tại Nghị định số 61/2004/NĐ-CP, ban hành ngày 05 tháng 7 năm 1994, liên quan đến việc mua bán và kinh doanh nhà ở Ngoài ra, các giấy tờ về thanh lý và hoá giá nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước trước ngày 05 tháng 7 năm 1994 cũng nằm trong phạm vi điều chỉnh của nghị định này.
Giấy tờ về giao hoặc tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết
Giấy tờ sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp phải được xác định rõ ràng trong các thời kỳ mà đất không thuộc diện sở hữu toàn dân theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa 11 Nghị quyết này quy định về nhà đất do Nhà nước quản lý và bố trí sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 Đồng thời, Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 cũng quy định việc giải quyết một số trường hợp cụ thể liên quan đến nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa trước thời điểm trên.
Giấy tờ liên quan đến việc mua bán, tặng cho, đổi hoặc nhận thừa kế nhà ở cần phải được chứng nhận bởi công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân theo quy định pháp luật.
Theo quy định của Luật Nhà ở, mọi giao dịch liên quan đến việc mua, tặng cho, đổi, nhận thừa kế hoặc các hình thức khác về nhà ở phải được lập thành văn bản kể từ ngày luật có hiệu lực.
Khi mua nhà ở từ doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán, người mua cần có hợp đồng mua bán nhà ở được ký kết giữa hai bên Đối với những giao dịch diễn ra từ ngày 01 tháng 7 năm 2006, ngoài hợp đồng này, người mua còn phải cung cấp một trong các giấy tờ liên quan đến dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán, bao gồm quyết định phê duyệt dự án, quyết định đầu tư, giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu tư.
Vai trò của công tác đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở
Đất đai là tài nguyên quý giá, là tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý Khi dân số gia tăng, nhu cầu sử dụng đất cho cư trú và sản xuất cũng tăng theo, khiến việc giao đất cho các doanh nghiệp trở nên cần thiết Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, quyết định tốc độ phát triển và cung cấp sản phẩm cho xã hội Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt, buộc họ phải nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, trong khi lợi nhuận kinh tế và lợi ích cá nhân luôn được ưu tiên.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay đang ưu tiên lợi nhuận mà không quan tâm đến các vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, thiếu đất, tranh chấp đất và xây dựng nhà trái phép Điều này đặt ra yêu cầu cần có sự can thiệp của Nhà nước đối với các doanh nghiệp cũng như tất cả các bên liên quan trong lĩnh vực đất đai và nhà ở.
Thị trường bất động sản Việt Nam đang phát triển nhưng còn thiếu tính định hướng và tự phát Sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết để nâng cao hiệu quả, đòi hỏi phải nắm bắt thông tin cụ thể về thị trường Các công cụ như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, và công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là rất quan trọng Một mục tiêu chính của Nhà nước là đảm bảo công bằng cho người có thu nhập thấp trong việc sở hữu đất ở và nhà ở Việc thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước về đất đai và nhà ở, đặc biệt là đăng ký cấp giấy chứng nhận, giúp Nhà nước nắm chắc quỹ đất và thiết lập mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và người sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân mà còn tạo điều kiện để họ đầu tư và khai thác tiềm năng đất đai một cách hiệu quả Đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở là cơ sở cho sự quản lý thống nhất của Nhà nước, đảm bảo sử dụng đất hợp lý và hiệu quả cao nhất.
Bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai không chỉ là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, mà còn là giám sát việc thực hiện nghĩa vụ sử dụng đất theo quy định pháp luật Điều này nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước và lợi ích chung của xã hội trong việc quản lý và sử dụng đất.
Việc lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở là cần thiết để đảm bảo tuân thủ pháp luật đất đai Hồ sơ địa chính cung cấp thông tin đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất trong các tranh chấp và xác định nghĩa vụ tài chính cũng như trách nhiệm bảo vệ đất đai Đăng ký và cấp giấy chứng nhận cũng giúp Nhà nước quản lý hiệu quả quỹ đất và nhà ở, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng trong trường hợp có tranh chấp Để quản lý chặt chẽ, Nhà nước cần nắm vững thông tin về tình hình đất đai và nhà ở trong phạm vi lãnh thổ.
Theo hệ thống chính sách đất đai và nhà ở hiện nay, thông tin cần thiết cho quản lý Nhà nước về đất đai và nhà ở bao gồm: Đối với đất đã giao quyền sử dụng, cần biết tên chủ sử dụng, vị trí, hình thể, kích thước, diện tích, hạng đất, mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng, các ràng buộc về quyền sử dụng, và những thay đổi trong quá trình sử dụng đất cùng cơ sở pháp lý Đối với đất chưa giao quyền sử dụng, thông tin cần thiết bao gồm vị trí, hình thể, diện tích và loại đất, như thảm thực vật hoặc trạng thái tự nhiên của bề mặt đất.
Tất cả thông tin phải được trình bày chi tiết cho từng thửa đất, vì đây là đơn vị nhỏ nhất chứa đựng các dữ liệu về tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội và pháp lý của đất, nhằm phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Để quản lý hiệu quả tình hình đất đai, cần thực hiện đăng ký đất đai và nhà ở, thiết lập hồ sơ địa chính chi tiết cho từng thửa đất Quá trình này bao gồm đo đạc, lập bản đồ địa chính, quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, phân hạng và định giá đất Khi có hệ thống hồ sơ đầy đủ, mọi biến động trong sử dụng và chuyển đổi đất đai sẽ được theo dõi chính xác thông qua đăng ký biến động Nhờ đó, các tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có thể được giải quyết dựa trên hồ sơ địa chính.
Công tác đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng quyền sở hữu nhà ở đóng vai trò quan trọng trong quản lý Nhà nước về đất đai Việc này không chỉ giúp dễ dàng trong việc nắm bắt và cập nhật thông tin về nhà đất mà còn thiết lập hệ thống hồ sơ địa chính đầy đủ, phản ánh thông tin tự nhiên và kinh tế xã hội của từng thửa đất Hệ thống thông tin này là kết quả từ việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý Nhà nước liên quan đến đất đai và nhà ở.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng đất là rất quan trọng Những văn bản này cung cấp cơ sở pháp lý cần thiết để đảm bảo việc đăng ký thực hiện đúng thủ tục, đối tượng cũng như quyền và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất.
Công tác điều tra và đo đạc đóng vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí, hình dạng, kích thước, diện tích, loại đất và tên chủ sở hữu thực tế Kết quả của quá trình này cung cấp cơ sở khoa học cần thiết để phục vụ cho việc kê khai và đăng ký đất đai.
Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo giao đất một cách ổn định, hợp lý và hiệu quả Kết quả của quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý quỹ đất, đồng thời tác động gián tiếp đến đăng ký đất đai và nhà ở Điều này góp phần thiết lập một hệ thống hồ sơ địa chính ban đầu đơn giản, ổn định và tiết kiệm.
Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đăng ký đất và nhà ở Thiếu quy hoạch sử dụng đất sẽ gây khó khăn trong việc giải quyết các trường hợp sử dụng đất không rõ nguồn gốc hoặc bất hợp pháp, dẫn đến việc hoàn thành nhiệm vụ đăng ký đất ban đầu không hiệu quả và chậm trễ.
Công tác giao đất và cho thuê đất là quyền của Chính phủ hoặc UBND các cấp, tạo cơ sở pháp lý cho người được giao đất thực hiện nghĩa vụ tài chính Sau khi đăng ký và nhận giấy chứng nhận, trách nhiệm pháp lý giữa người sử dụng đất và Nhà nước mới chính thức có hiệu lực Do đó, quyết định giao đất, cho thuê đất đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền hợp pháp của người sử dụng đất và sở hữu nhà ở khi đăng ký.
Công tác phân hạng và định giá đất đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm tài chính của người sử dụng đất trước và sau khi đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở Kết quả phân hạng và định giá đất không chỉ là cơ sở cho việc xác định nghĩa vụ tài chính mà còn giúp xác định trách nhiệm của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng.
Các điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội của thị xã Hồng Lĩnh
Thị xã Hồng Lĩnh, thuộc tỉnh Hà Tĩnh, được thành lập vào ngày 02/3/1992 theo Quyết định số 67/HĐBT của Chính phủ Hiện nay, Hồng Lĩnh bao gồm 6 phường và xã: Bắc Hồng, Nam Hồng, Trung Lương, Đức Thuận, Đậu Liêu và xã Thuận Lộc Tổng diện tích đất tự nhiên của thị xã là 5.855,23 ha, với dân số khoảng 40.805 người, mật độ dân số đạt 698 người/km² (theo thống kê năm 2009).
Những đặc điểm hình thành đã ảnh hưởng đến việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quản lý đất đai, đặc biệt là trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở tại thị xã.
Thị xã Hồng Lĩnh nằm ở toạ độ 105,45 kinh độ Đông–18,32 vĩ độ Bắc, là nơi giao nhau của quốc lộ 1A và 8A
Phía Bắc giáp huyện Hưng Nguyên-Nghệ An
Phía Đông giáp huyện Nghi Xuân
Phía Tây giáp huyện Đức Thọ
Phía Nam giáp huyện Can Lộc
Trung tâm thị xã nằm cách thành phố Vinh 15 km về phía Bắc, cách thành phố Hà Tĩnh 35 km về phía Nam và cách cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo 92 km về phía Tây.
Với vị trí này thị xã Hồng Lĩnh được xem là trung tâm kinh tế, văn hoá- xã hội phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh
Thị xã Hồng Lĩnh, nằm ở miền núi với địa hình đồi núi thấp phía Đông và đồng bằng hẹp phía Tây, có đặc điểm đất đai chủ yếu là phù sa pha cát, rất phù hợp cho việc trồng các loại cây ngắn ngày như lúa, ngô, lạc Hệ thống sông ngòi và ao hồ tại đây cung cấp nước tưới tiêu thuận lợi cho toàn thị xã.
Thị xã Hồng Lĩnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa nên trong năm có 2 mùa mưa và khô rõ rệt
Nhiệt độ trung bình cả năm là 23°C
Lượng mưa trung bình các tháng trong năm 1829 mm Độ ẩm trung bình trong năm là 81,2%
Thị xã Hồng Lĩnh sở hữu điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây trồng như lúa, cây công nghiệp, rau quả và hoa màu ngắn ngày, góp phần mang lại nguồn thu nhập lớn cho người dân.
Trong những năm gần đây, thị xã Hồng Lĩnh và toàn quốc đã phải đối mặt với những tác động tiêu cực từ thời tiết, bao gồm hạn hán và lũ lụt.
Thị xã giáp ranh với nhiều huyện trong thành phố, nhờ vào đặc điểm tự nhiên, đã tạo ra lợi thế mạnh mẽ trong quá trình đô thị hoá Tuy nhiên, chính những đặc điểm này cũng ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng đất trong khu vực.
Việc xác định ranh giới đất sau khi thị xã tách ra từ các huyện, xã khác gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là liên quan đến giấy tờ và nguồn gốc đất Điều này đã ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ xét duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở.
Việc tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất cho phát triển du lịch và dịch vụ nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân, kết hợp với sự buông lỏng quản lý của cán bộ địa chính phường trong quá khứ, đã dẫn đến tình trạng hồ sơ chuyển đổi này trở thành những vướng mắc cần giải quyết trước khi được phê duyệt Điều này đã gây cản trở đáng kể đến tiến độ xét duyệt hồ sơ.
Thị xã Hồng Lĩnh có diện tích đất tự nhiên là 5.855,23 ha Trong đó: Diện tích đất nông nghiệp: 3.921,97 ha, chiếm 66,98%
Diện tích đất phi nông nghiệp: 1.480,37 ha, chiếm 25,28% Đất chưa sử dụng: 452,89 ha, chiếm 7,74%
Theo thống kê, đất chưa sử dụng hiện chiếm 7,74% tổng diện tích tự nhiên, tăng nhẹ so với 7,7% vào năm 2006 Sự gia tăng này cho thấy nỗ lực của các cấp chính quyền và Đảng trong việc khai hoang phục hóa và phủ xanh đất trống, đồi núi trọc đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong những năm qua.
Theo kết quả điều tra, diện tích đất chưa sử dụng hiện có khả năng khai thác lên đến 218 ha Trong số này, nếu được đầu tư cải tạo, có thể trồng cây công nghiệp ngắn ngày trên 190 ha và cây lâm nghiệp trên 20 ha, trong khi 8 ha còn lại sẽ được sử dụng cho mục đích khác Đặc biệt, đất đồi chưa sử dụng chiếm 140,38 ha, chủ yếu nằm ở phường Đậu Liêu, với 90 ha có tiềm năng trồng cây lâm nghiệp và 50,38 ha có thể được khai thác đá.
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
2.1.2.1 Thực trạng phát triển kinh tế
Mặc dù là một thị xã mới thành lập với xuất phát điểm kinh tế thấp, nhưng nhờ sự quan tâm và hỗ trợ từ tỉnh, hoạt động kinh tế tại đây đã có sự tăng trưởng đáng kể trong những năm qua Các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ và nông nghiệp đang không ngừng phát triển Việc đẩy mạnh sản xuất và dịch vụ, cùng với việc chuyển đổi hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, đã mang lại những kết quả tích cực về mặt kinh tế xã hội.
Hơn 18 năm qua, với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo” đã góp phần đưa kinh tế thị xã tiếp tục tăng trưởng nhanh Đến nay đạt 14,8% Trong đó công nghiệp xây dựng chiếm 34,39%, nông lâm nghiệp chiếm 12,35%, các ngành thương mại dịch vụ chiếm 52,86%, thu nhập bình quân đầu người đạt 16,7 triệụ đồng/năm a Ngành nông nghiệp
Thị xã mới thành lập gồm 5 phường (Bắc Hồng, Nam Hồng, Trung Lương, Đức Thuận, Đậu Liêu) và xã Thuận Lộc, với sản xuất nông nghiệp là ngành chủ lực, thu hút hơn 50% lực lượng lao động Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp đang giảm mạnh do chuyển đổi sang đất chuyên dùng và đất ở.
Kinh tế các phường này rất đa dạng, với sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cây lúa Đặc biệt, đất hoa màu tập trung tại phường Trung Lương, phường Đức Thuận, phường Đậu Liêu và xã Thuận Lộc đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tình hình quản lý sử dụng đất và nhà ở trên địa bàn thị xã Hồng Lĩnh
2.2.1 Hiện trạng quản lý và sử dụng quỹ đất a Tình hình sử dụng đất của thị xã
Tổng diện tích đất tự nhiên của thị xã vào năm 2010 là 5855,23 ha, với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đa dạng phục vụ nhu cầu của toàn thị xã Mỗi phường, xã đều có sự phân chia loại đất rõ ràng, giúp xác định mục đích sử dụng đất một cách cụ thể Điều này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác xét duyệt hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận sử dụng đất mà còn hỗ trợ trong việc cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà ở tại thị xã.
Bảng thống kê, kiểm kê diện tích đất theo đơn vị hành chính trên địa bàn thị xã năm 2010 (phụ lục 1)
Theo thống kê hiện trạng sử dụng quỹ đất của thị xã (phụ lục 1), diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong tổng quỹ đất, cho thấy sự thiên hướng chủ yếu về ngành nông nghiệp.
Thị xã hiện còn khoảng 442,10 ha đất chưa sử dụng, chiếm 7,55% tổng diện tích tự nhiên Diện tích này chủ yếu là đất đồi núi và núi đá không có rừng cây, hình thành do điều kiện tự nhiên của khu vực.
Diện tích đất phi nông nghiệp là 1593,96 ha chiếm 27,22% diện tích đất tự nhiên Trong đó:
Diện tích đất chuyên dùng tại thị xã là 905,50 ha, chiếm 15,46% tổng diện tích đất tự nhiên Các loại đất này được sử dụng cho mục đích xây dựng, giao thông, thủy lợi, an ninh quốc phòng, di tích lịch sử và nghĩa trang, và được giao cho UBND xã cùng các tổ chức quản lý.
Diện tích đất ở đô thị 255,07 ha, chiếm 3,84% so với tổng diện tích đất tự nhiên toàn thị xã
Diện tích đất ở tại nông thôn là 32,15 ha, chiếm 0,55% tổng diện tích đất tự nhiên
Chứng tỏ tỷ lệ đất ở của thị xã vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ so với các loại đất sử dụng vào mục đích khác Cụ thể là 257,22 ha, chiếm 4,39%
Do quá trình đô thị hóa, thị xã đang tập trung phát triển ngành du lịch, thương mại và dịch vụ, dẫn đến nhu cầu sử dụng đất chuyển hướng chủ yếu sang đất chuyên dùng.
Diện tích đất theo đơn vị hành chính tại thị xã trong các năm 2008 và 2009 được thể hiện rõ trong phụ lục 2 và phụ lục 3 tương ứng.
Từ bảng số liệu về diện tích đất đai theo đơn vị hành chính ở (phụ lục
1), (phụ lục 2) và (phụ lục 3) ta thấy được sự thay đổi cụ thể về diện tích đất đai của thị xã các năm 2008, 2009, 2010 như sau:
Bảng so sánh biến động đất đai năm 2010 so với năm 2008 và năm
Theo số liệu thống kê tình hình sử dụng đất năm 2008, 2009 và năm
2010 tại (phụ lục 1), (phụ lục 2) và (phụ lục 3) ta thấy:
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn thị xã từ năm 2008 đến năm 2010 là không thay đổi, với diện tích là 5855,23 ha
Tính đến năm 2010, diện tích đất nông nghiệp của thị xã đạt 3819,17 ha, chiếm 65,22% tổng diện tích đất tự nhiên, nhưng đã giảm 102,8 ha so với năm 2008 và tiếp tục giảm 33,21 ha so với năm 2009 Xu hướng giảm này chủ yếu do quá trình đô thị hóa, khi một phần diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi thành đất chuyên dùng cho hệ thống giao thông, xây dựng và đất ở Sự gia tăng nhanh chóng của nhu cầu mở rộng hạ tầng giao thông, công trình dịch vụ và nhu cầu nhà ở đã buộc thị xã phải điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất để đáp ứng nhu cầu của người dân và phù hợp với quá trình đô thị hóa.
Diện tích đất trồng lúa đã giảm 27,14 ha từ năm 2008 đến 2010, chủ yếu do chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang phát triển trang trại chăn nuôi tổng hợp và khu công nghiệp cơ khí tại phường Trung Lương, cùng với việc mở rộng quốc lộ 8A.
+ Diện tích đất trồng cây hàng năm giảm từ 1731,08 ha xuống năm
2009 là 1700,21 ha và năm 2010 là 1672,16 ha, do chuyển sang đất có mục đích công cộng 28,21 ha: xây dựng cơ sở cho công an phường Đức Thuận, Trung Lương
+ Diện tích đất trồng cây lâu năm giảm xuống từ năm 2008 đến năm
2010 là -8,62 ha, do chuyển sang đất có mục đích công cộng xây dựng đường Suối Tiên - Thiên Tượng ở phường Bắc Hồng
Diện tích đất phi nông nghiệp có xu hương tăng nhanh, từ 1480,37 ha (năm 2008) lên 1593,96 ha (năm 2010), chiếm 27,22% tổng diện tích đất tự nhiên Trong đó:
Diện tích đất ở nông thôn đã giảm mạnh từ 173,48 ha vào năm 2008 xuống chỉ còn 32,15 ha vào năm 2010 Nguyên nhân chính là do chuyển mục đích sử dụng đất sang thành thị, khi 3 xã Trung Lương, Đức Thuận và Đậu Liêu được nâng cấp thành phường mới của thị xã.
+ Diện tích đất ở đô thị tăng mạnh từ 75,03 ha (năm 2008) lên 225,07 ha (năm 2010) Nghĩa là tăng đến 151,04 ha, do phần lớn là quá trình đô thị hoá
Đến năm 2010, diện tích đất chuyên dùng đạt 905,50 ha, tăng 154,72% so với các năm trước, với xu hướng tăng từ 810,85 ha năm 2008 và 875,40 ha năm 2009 Sự gia tăng này chủ yếu do chuyển đổi từ đất nông nghiệp và đất ở nhằm đáp ứng nhu cầu đô thị hóa và nhu cầu của cư dân đô thị Việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp và đất chuyên dùng phục vụ cho việc xây dựng, mở rộng hạ tầng giao thông và các công trình cần thiết Thị xã đã thực hiện giải phóng mặt bằng cho các khu nhà ở và đất nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội.
Tính đến năm 2010, thị xã có 442,10 ha đất chưa sử dụng, chiếm 7,55% tổng diện tích đất Diện tích này chủ yếu bao gồm đất bằng, đất đồi núi và núi đá không có rừng So với năm 2008, khi diện tích chỉ là 425,89 ha, năm 2009 ghi nhận sự gia tăng đáng kể 16,21 ha Nguyên nhân của sự tăng trưởng này chủ yếu do khai thác rừng bừa bãi và ý thức bảo vệ rừng của một số người dân còn hạn chế.
Vào năm 2010, thị xã đã ngừng tăng thêm diện tích đất do đã thực hiện quy hoạch sử dụng đất hợp lý, chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở và đất chuyên dùng để phục vụ quá trình đô thị hóa và mở rộng thị trường bất động sản Tình hình quản lý đất của thị xã cũng được chú trọng nhằm đảm bảo phát triển bền vững.
Từ khi thành lập, thị xã Hồng Lĩnh đã chú trọng công tác quản lý đô thị, dẫn đến sự cải thiện rõ rệt trong hạ tầng kỹ thuật và diện mạo đô thị Công tác kiểm tra và xử lý tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và xây dựng không phép đã được thực hiện hiệu quả, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân Kỷ cương luật pháp ngày càng được thiết lập, góp phần ổn định chính trị và trật tự xã hội, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đang được thực hiện với cường độ cao Năm 2007, thị xã Hồng Lĩnh thực hiện Thông tư 08/2007/TT-
BTNMT đã hướng dẫn UBND tỉnh Hà Tĩnh và Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện công tác thống kê, kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất Hiện tại, việc lập quy hoạch và kế hoạch chi tiết cho từng phường đang được triển khai hiệu quả, góp phần nâng cao công tác quản lý đất đai trên địa bàn thị xã.
Công tác thu hồi và giải phóng mặt bằng tại thị xã đang diễn ra mạnh mẽ, với nhiều hộ dân chấp hành di dời Tuy nhiên, vẫn còn một số hộ cố chấp, gây khó khăn cho công tác giải phóng Phòng địa chính nhà đất và đô thị đã cử cán bộ tham gia Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng thị xã để hỗ trợ từng dự án.
Thực trạng công tác kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trên địa bàn thị xã
2.3.1 Thực trạng công tác tổ chức kê khai, đăng ký hồ sơ tại cấp phường
Theo Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính Phủ, quy định về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được bổ sung nhằm đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quản lý đất đai.
Căn cứ vào nguồn gốc số liệu từ kiểm kê và thống kê đất đã được UBND tỉnh phê duyệt, số liệu này được xác nhận qua Quyết định số 2831/QĐ-UBND ngày 26/10/2007 Đây là cơ sở cho công tác thống kê đất đai, bao gồm thông tin về biến động diện tích đất đai và số liệu giao đất trong các năm.
Dựa trên số liệu dân số và số hộ từ các phường, xã do phòng thống kê thị xã cung cấp, cùng với kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội, chúng ta có thể đánh giá một cách chính xác tình hình dân cư và sự tham gia của người dân trong các hoạt động chính trị.
Nghị định quy định rõ ràng về việc quản lý đất đai tại các xã, phường, thị trấn và vùng quy hoạch đô thị, yêu cầu các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân phải đăng ký quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất tại UBND địa phương để xin cấp giấy chứng nhận Việc đăng ký này giúp cơ quan quản lý nắm bắt tình hình sử dụng đất và nhà ở, thiết lập hồ sơ pháp lý nhằm quản lý chặt chẽ, ngăn chặn lấn chiếm, giải quyết tranh chấp và theo dõi biến động về nhà ở, đất đai, đồng thời đảm bảo thu đúng nghĩa vụ tài chính từ người sử dụng đất và sở hữu nhà ở.
Trước khi hướng dẫn người dân kê khai đăng ký, cán bộ địa chính phường cần phối hợp với các đơn vị đo vẽ bản đồ để lập hồ sơ kỹ thuật thửa đất, từ đó hỗ trợ người dân hoàn thành hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận cho đất và nhà ở trong khu vực dân sự.
Kê khai đăng ký đất, nhà ở tại phường là nhiệm vụ của UBND phường, nơi phát mẫu kê khai và hướng dẫn người dân thực hiện Chủ sở hữu hoặc người sử dụng đất, nhà ở cần kê khai đầy đủ, rõ ràng theo mẫu quy định, đồng thời sao chụp các giấy tờ liên quan và nộp hồ sơ tại phường nơi có tài sản Hồ sơ kê khai cần được lập thành 3 bộ để lưu giữ.
3 cấp: phường; quận, huyện, thị xã; tỉnh
Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cần được kê khai riêng, theo hướng dẫn phù hợp với hình thức sở hữu Các công ty kinh doanh nhà và cơ quan tự quản phải ghi rõ tên, địa chỉ cơ quan quản lý, thông tin về thửa đất trên bản đồ hoặc hồ sơ cấp đất, hình thức sử dụng, cùng với địa chỉ ngôi nhà, diện tích sử dụng, và bản sao các giấy tờ liên quan Đối với nhà ở của cơ quan tự quản bị giải thể hoặc không xác định được cơ quan quản lý, UBND phường sẽ hướng dẫn kê khai tương tự như đối với nhà thuộc sở hữu tư nhân.
Theo báo cáo của phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Hồng Lĩnh, tính đến ngày 01 tháng 01 năm 2011, tổng số hồ sơ đã kê khai đăng ký trên toàn thị xã là 99.425 hồ sơ, trong đó hồ sơ tư nhân chiếm 18.548 hồ sơ, tương đương 83,59% tổng số hồ sơ Số hồ sơ đã phát ra là 82.899, dẫn đến tỷ lệ hồ sơ đã kê khai đăng ký chiếm 84,38% tổng số hồ sơ cần kê khai trên toàn thị xã.
Bảng số liệu thống kê hồ sơ kê khai đăng ký trên địa bàn thị xã tính đến hết ngày 01 tháng 01 năm 2011:
Số HS cần phải kê khai (HS)
Số HS đã kê khai (HS)
Số HS hộ gia đình, cá nhân (HS)
% HS đã kê khai so với HS cần kê khai (%)
Trung Lương 15132 15132 10132 100 Đức Thuận 10250 10250 9200 100 Đậu Liêu 20341 20341 12082 100
(Theo nguồn số liệu của phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Hồng Lĩnh)
Theo báo cáo của phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Hồng Lĩnh, đến đầu năm 2011, toàn thị xã đã hoàn thành việc kê khai đăng ký 99.425 hồ sơ, đạt 100% tổng số hồ sơ cần thiết Trong số này, có 82.899 hồ sơ thuộc về hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất và sở hữu nhà ở So với báo cáo năm 2007, khi chỉ có 78.932 hồ sơ được kê khai, số hồ sơ tăng lên chủ yếu do các hộ tách thửa và thừa kế trong gia đình, dẫn đến việc tạo ra nhiều hồ sơ đăng ký mới.
Tại phường, đội ngũ cán bộ địa chính đã nỗ lực hoàn thành công tác kê khai và đăng ký theo yêu cầu của thị xã, đảm bảo quy trình quản lý tại địa bàn được thực hiện hiệu quả.
Sau khi hoàn tất công tác kê khai, các phường sẽ thành lập ban thanh tra để kiểm tra toàn bộ hồ sơ đã được đăng ký Việc này diễn ra trước khi hồ sơ được trình lên để xét duyệt ở cấp phường.
Công tác kê khai và đăng ký tại các phường giúp cơ quan quản lý Nhà nước nắm bắt chính xác tình hình sử dụng đất và nhà trên địa bàn.
2.3.2 Tình hình phân loại hồ sơ ở cấp phường
Căn cứ công văn số 39/UBND/TN-MT ngày 26/1/2011 của UBND thị xã Hồng Lĩnh, việc xác định diện tích đất ở khi tách hộ và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định rõ ràng.
Công tác xét duyệt hồ sơ ở các phường thuộc thị xã như sau:
Sau khi chủ nhà đất hoàn tất việc kê khai và nộp hồ sơ đăng ký đến Ủy ban Nhân dân các phường, một Hội đồng đăng ký nhà ở và đất ở cần được thành lập tại cấp phường để thực hiện công tác kiểm tra.
Hội đồng này bao gồm các thành viên:
Chủ tịch UBND phường nơi có nhà đất: Chủ tịch hội đồng
Cán bộ địa chính phường: Uỷ viên thường trực
Đại diện mặt trận tổ quốc: Uỷ viên
Trưởng công an phường: Uỷ viên
Hội đồng kê khai đăng ký nhà ở và đất cấp phường có nhiệm vụ kiểm tra và xác nhận thông tin trong từng hồ sơ, bao gồm nguồn gốc, diện tích, thời điểm sử dụng đất, ranh giới, mốc sử dụng và tình trạng sử dụng đất.
Từng loại hồ sơ được Hội đồng kê khai cấp phường phân loại thành: