BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG (FMD)
Lịch sử và sự phân bố bệnh
Vào năm 1897, Loeffler và Frosch đã lần đầu tiên phân lập virus gây bệnh, theo Nguyễn Vĩnh Phước và cộng sự (1978) Năm 1920, Waldmann và Pape chứng minh chuột lang có khả năng cảm thụ virus Đến năm 1922, Valleé và Carré phát hiện sự đa dạng của huyết thanh miễn dịch chống virus với hai loại O và A Năm 1926, Waldmann và Trauwein tìm ra virus loại C Sau đó, Lawrence đã khám phá các loại SAT1, SAT2 và SAT3 từ mẫu bệnh phẩm ở Châu Phi gửi đến viện Pirbright, cùng với loại Asia1 từ Đông Nam Á, Hồng Kông, Ấn Độ và Miến Điện (theo Lại Văn Lý, 2015).
Từ đầu thế kỷ 20, bệnh LMLM đã bùng phát ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là tại Châu Mỹ Tại Mỹ, dịch bệnh này xuất hiện vào các năm 1902, 1908, 1914, 1924, 1929 và 1932, trong khi ở Mexico, dịch được ghi nhận vào năm 1946, Canada vào năm 1952 và nhiều nước Nam Mỹ như Argentina cũng chịu ảnh hưởng.
Bệnh LMLM xuất hiện lần đầu tại Venezuela vào năm 1950, sau đó lan sang Colombia trong giai đoạn 1950-1951 và Ecuador vào năm 1956 Tại Châu Phi, bệnh thường xảy ra ở Bắc và Nam Phi (Nguyễn Vĩnh Phước và cs., 1978) Tại Châu Âu, dịch bệnh khởi phát từ Tây Đức vào năm 1951 và lây lan sang Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp, Anh, Ý, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy và Ba Lan, kéo dài đến năm 1954 Ở Châu Á, bệnh xuất hiện tại Ấn Độ vào năm 1929 và 1952, Myanmar năm 1948, Thái Lan năm 1952, Trung Quốc năm 1951, và Campuchia vào các năm 1931, 1946, 1952 Dù bệnh LMLM ở Châu Á không nghiêm trọng như ở Tây Âu, nhưng vẫn ảnh hưởng đến kinh tế của các nước Cận Đông, Trung Đông, Nam Á và Viễn Đông (Trịnh Văn Thịnh và Phan Đình Đỗ, 1958).
Trong những năm gần đây, kỹ thuật chẩn đoán đã được cải tiến, giúp xác định bệnh nhanh chóng và hiệu quả Vaccine chất lượng cao cùng với chiến lược khống chế bệnh đã giúp nhiều quốc gia thành công trong việc kiểm soát hoặc thanh toán bệnh Hiện tại, có 59 quốc gia được Tổ chức Thú y thế giới (OIE) công nhận là an toàn với dịch bệnh LMLM.
Nguyên nhân gây bệnh
Virus gây bệnh LMLM thuộc họ
Virus LMLM là loại virus nhỏ nhất trong nhóm virus qua lọc, với đường kính dạng virus thành thục khoảng 23 nm Dưới kính hiển vi điện tử, virus này thường có hình cầu, kích thước từ 20 đến 28 nm, và cấu trúc bao gồm 20 mặt đối xứng, 30 cạnh và 12 đỉnh.
Cấu trúc virus bao gồm một phần trung tâm là axit nucleic chiếm 31%, được bao bọc bởi một capsid protein có 60 capsome, không có vỏ bọc Hạt virus, là phân tử ARN, đóng vai trò như một ARN thông tin và là đơn vị gây nhiễm Dưới tác động của các yếu tố môi trường như pH và nhiệt độ, hạt virus có thể phân ly thành các phần tử ARN nhỏ và tiểu phần protein capsomere (được gọi là tiểu phần 12S) có kích thước từ 7 đến 8 nm.
Virus có sức đề kháng mạnh mẽ với môi trường bên ngoài, điều này phụ thuộc vào thành phần của nó, đặc biệt khi virus bám vào các chất khô hoặc protein.
Nhiều tác giả đã tiến hành nuôi cấy virus LMLM trên da của thai lợn và thai bò sống, sử dụng phương pháp nhân tạo để giữ thai sống Ngoài ra, họ cũng tiêm virus LMLM vào phúc xoang của chuột nhắt con và nhận thấy tính kháng nguyên của virus không bị thay đổi.
Môi trường tế bào lý tưởng nhất được chiết xuất từ tuyến yên của bò hoặc lợn, thận của bê hoặc cừu non, hoặc từ các dòng tế bào có độ mẫn cảm cao (Samuel A R và Knowles N J., 2001).
Chế kháng nguyên bằng cách sử dụng chuột lang từ 2 - 7 ngày tuổi để gây bệnh, sau 24 giờ có thể quan sát thấy thủy thũng hoặc sự xuất hiện của mụn nước Dịch thu được từ thủy thũng hoặc mụn nước được cấy vào môi trường tế bào, và sau 24 giờ, bệnh tích cùng với tế bào chết sẽ xuất hiện.
Trong môi trường chứa virus giải phóng từ tế bào, virus được sử dụng làm kháng nguyên trong phản ứng ELISA Nếu tế bào không biến đổi hoặc chuột bị chết, cần thực hiện cấy truyền hai lần liên tiếp, cách nhau 48 giờ, với huyễn dịch virus - tế bào đông tan.
2.1.2.4 Đặc tính kháng nguyên và sinh miễn dịch
Trên thế giới, người ta xác định được 7 type virus LMLM là: A, O, C, SAT 1, SAT 2, SAT 3 và Asia 1 (Grubman M J và Baxt B., 2004)
Virus LMLM có tính không đồng nhất về kháng nguyên, với nhiều serotype khác nhau, mỗi serotype lại có thể có các subtype và biến chủng khác nhau về mặt huyết thanh học Sự khác biệt trong bộ gen, đặc biệt là thông qua sự đa dạng của phân tử VP1, là nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành các biến chủng.
Cấu trúc VP1 là nền tảng cho các công nghệ di truyền và công nghệ hóa hiện nay (Donalsson A I., 2000) Mặc dù các protein như L, 2AC và 3AD không thuộc cấu trúc capsid, nhưng chúng vẫn kích thích đáp ứng kháng thể ở động vật bị nhiễm bệnh (Brocchi E và cs., 1998).
Các phương pháp huyết thanh học đã đóng góp nhiều kết quả quan trọng trong nghiên cứu virus LMLM Tuy nhiên, các phản ứng huyết thanh học hiện tại chỉ phát hiện kháng thể chống lại protein cấu trúc và protein vỏ của virus, mà không phân biệt được kháng thể từ động vật tiêm vaccine hay do nhiễm virus.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã mang lại những tiến bộ vượt bậc trong kỹ thuật chẩn đoán, đặc biệt là công nghệ phân tích gen, được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học và sản xuất vaccine Phương pháp PCR, được phát minh bởi Millis và cộng sự vào năm 1985, đã cách mạng hóa di truyền học phân tử bằng khả năng tạo ra số lượng lớn bản sao của đoạn ADN mong muốn Công nghệ này đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu về vaccine ADN phòng bệnh LMLM, giúp xác định các đoạn axit amin kích thích đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ Khi tiêm các vaccine ADN này cho gia súc, sẽ hình thành các đáp ứng miễn dịch đặc hiệu chống lại cả protein cấu trúc và phi cấu trúc của virus (Reid S M và cs., 2003).
Sau khi virus LMLM xâm nhập vào cơ thể động vật, chúng nhân lên và phá huỷ tế bào vật chủ, gây sốt và tạo miễn dịch Bệnh lở mồm long móng liên quan đến cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch trung gian tế bào, trong đó miễn dịch trung gian tế bào đóng vai trò đặc biệt quan trọng Ở động vật lần đầu tiếp xúc với kháng nguyên, đáp ứng miễn dịch thường chậm và ở mức thấp, nhưng khi tiếp xúc lần thứ hai và những lần sau, đáp ứng miễn dịch diễn ra sớm hơn và mạnh mẽ hơn (miễn dịch thứ phát) Đặc điểm về thời gian và mức độ đáp ứng miễn dịch là cơ sở khoa học cho việc tiêm phòng nhắc lại, nhằm tạo ra miễn dịch chắc chắn và kéo dài.
Gia súc mắc bệnh thường phát triển đáp ứng miễn dịch mạnh mẽ và bền vững hơn so với miễn dịch từ vaccine Sau khi hồi phục, động vật có thể duy trì miễn dịch từ 6 tháng đến vài năm Đặc biệt, miễn dịch này có thể được truyền cho con thông qua sữa đầu và kéo dài khoảng 3 tháng.
Virus LMLM không có lipid, do đó chúng có khả năng kháng cao với các dung môi hữu cơ như cồn và ête, nhưng lại nhạy cảm với ánh sáng mặt trời, axít và formol Về pH, virus LMLM có thể tồn tại trong khoảng pH từ 6,7 đến 9,5, nhưng ổn định nhất ở pH 7,2-7,6; chúng sẽ bị vô hiệu hóa nhanh chóng ở pH dưới 5 và trên 11.
Virus LMLM dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao; cụ thể, ở 30-37 độ C, virus này có thể sống từ 4-9 ngày, trong khi ở 50 độ C, virus nhanh chóng bị bất hoạt Ở nhiệt độ 70 độ C, virus LMLM sẽ chết chỉ sau 5-10 phút Nhìn chung, virus này nhạy cảm với nhiệt độ nhưng không nhạy cảm với độ lạnh (TS Nguyễn Xuân Hòa, 2015)
Truyền nhiễm học
Bệnh LMLM chủ yếu ảnh hưởng đến loài nhai lại và lợn, trong khi loài ăn thịt ít bị mắc bệnh hơn Ngựa, loài một móng và con người không bị nhiễm bệnh này.
Theo Lê Minh Chí (1996), bò lai nuôi dưỡng tốt thường dễ mắc bệnh hơn so với các giống bò khác Bệnh thường lây từ trâu bò sang lợn, ngoại trừ các chủng virus chỉ nhiễm lợn, như virus LMLM chủng Cathay Trong khi đó, tiểu gia súc như cừu có tỷ lệ cảm nhiễm thấp và đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.
Bệnh lở mồm long móng ở heo là một vấn đề quan trọng trong việc lây lan virus Cừu có khả năng mang virus này trong thời gian dài, lên đến năm tháng, và có thể duy trì sự nhân lên của virus ở mức độ thấp Virus thường tồn tại ở vùng hầu của gia súc, tạo điều kiện cho sự lây lan.
* Lứa tuổi mắc bệnh Động vật ở các lứa tuổi đều có thể bị bệnh, súc vật non bị mắc bệnh nặng hơn súc vật trưởng thành
Virus gây bệnh có thể được phát tán qua nước dãi, nước mụn và các mảnh thượng bì từ mụn vỡ trên niêm mạc lưỡi và miệng Ở nhiệt độ 37°C, virus trong nước dãi có thể tồn tại lên đến 2 ngày, trong khi ở 20°C virus sống được 3 tuần và ở 4°C có thể kéo dài đến 5 tuần.
Mụn nước chứa virus với nồng độ cao nhất trong 5 ngày đầu, đặc biệt là trong nước mụn và thành mụn Sau khi hình thành mụn thứ phát, hàm lượng virus giảm đáng kể Cụ thể, 1 ml dịch mụn nước có thể chứa đến 10^8 TCID50 vào ngày thứ năm.
2 - 3 sau khi có triệu chứng và giảm rõ rệt sau 4 - 5 ngày.
Virus LMLM xuất hiện trong máu của động vật cảm thụ trong giai đoạn sốt, thường bắt đầu từ khoảng 18 giờ sau khi nhiễm virus và kéo dài từ 3 đến 5 ngày Lượng virus trong máu thấp hơn so với trong mụn nước, đạt khoảng 10^5 TCID50/ml tại thời điểm cao nhất (Nguyễn Văn Hưng, 2011).
Virus LMLM được thải ra ngoài môi trường qua các chất bài tiết như nước tiểu, phân, sữa, nước mũi, nước mắt và tinh dịch, tuy nhiên, lượng virus trong các chất này thường thấp hơn so với nước dãi Độc lực của virus trong các chất bài tiết đạt cao nhất vào ngày thứ 2 và thứ 3 sau khi thú nhiễm, và sẽ giảm dần vào ngày thứ 4 hoặc thứ 5, ngoại trừ nước tiểu.
Trong giai đoạn bệnh cấp tính, các mô như tim, da, tuyến tụy, tuyến giáp, mật và hạch lâm ba chứa một lượng lớn virus (Nguyễn Văn Hưng, 2011) Sản phẩm động vật và phụ phẩm như sữa, thịt, máu, xương, da, lông, móng và sừng đều mang virus độc Ngoài ra, rác thải từ nhà bếp và nước rửa chưa được đun kỹ cũng góp phần phát tán virus (Nguyễn Viết Không và cs.).
2006) Virus có thể giữ nguyên hoạt tính trên lông gia súc đến 4 tuần
Chất thải và các vật dụng trong chăn nuôi như tường, nền chuồng, máng ăn, chất lót chuồng, rơm cỏ, nước rửa chuồng cùng với các đồ vật và dụng cụ đều có khả năng chứa virus, trở thành nguồn lây truyền virus qua cơ giới.
Hình 2.5 Bệnh lở mồm long móng ở bò
Virus LMLM xâm nhập vào cơ thể gia súc chủ yếu qua hai đường: hô hấp và tiêu hóa Đường hô hấp là con đường xâm nhập chính, nơi virus vào vùng hầu và các tế bào màng nhầy họng, sau đó lan rộng đến các tế bào lân cận và hệ thống lưu thông, dẫn đến sự lây lan khắp cơ thể Đường tiêu hóa cũng là một phương thức lây nhiễm khi virus theo thức ăn và nước uống, xâm nhập vào cơ thể, nhân lên trong lớp thượng bì của ống tiêu hóa, tạo thành mụn nước sơ phát và tiếp tục phát tán qua hệ thống máu và bạch huyết.
Da nguyên lành có khả năng ngăn chặn virus, nhưng khi có vết xây xát, gia súc có thể bị nhiễm virus Tại những vết thương, đặc biệt ở vùng vú, thường xuất hiện mụn nước sơ phát trong bệnh tự nhiên, và đây cũng là nơi virus xâm nhập vào cơ thể.
Bảng 2.1 Sự tồn tại của virus ngoài môi trường
Môi trường xung quanh Số ngày tồn tại
Nơi rác rưởi khô 14 ngày
Nơi rác rưởi ẩm ướt 8 ngày
Nước tiểu 39 ngày Đống phân có bề dày 30cm 6 ngày
Mặt đất mùa thu mùa hè
Cỏ khô ở nhiệt độ 22 o C 140 ngày
Nước thải chuồng trại ở nhiệt độ:
12 ngày Ánh nắng trực tiếp 1 giờ
(Nguồn: Dịch bệnh LMLM - Hiệp hội Hạt cốc Hoa Kỳ 7/1997).
Virus LMLM lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và có thể sinh sôi tại vùng hầu Ngoài ra, virus cũng có thể xâm nhập qua da, vết thương và niêm mạc Khi virus thâm nhập vào cơ thể qua thực phẩm hoặc nước uống, nó sẽ nhân lên trong lớp thượng bì của ống tiêu hóa hoặc da, gây ra hiện tượng thủy thũng ở một số tế bào thượng bì, hình thành mụn nước sơ phát, tuy nhiên thường khó nhận biết vì vật nuôi vẫn có vẻ khỏe mạnh (Donalsson A I., 2000).
Bệnh LMLM lây truyền qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm lây trực tiếp giữa động vật mắc bệnh và khỏe mạnh khi chung sống hoặc chăn thả cùng nhau Virus có thể xâm nhập từ nước bọt, dịch mụn nước, và các chất bài tiết của động vật nhiễm bệnh vào con khỏe Ngoài ra, bệnh còn có thể lây gián tiếp qua thức ăn, nước uống, máng ăn, máng uống, nền chuồng, dụng cụ chăn nuôi, cũng như qua tay chân và quần áo của người chăn nuôi bị nhiễm virus.
Chó, mèo, gà, chim muông, hoang thú và côn trùng có thể không mắc bệnh nhưng vẫn có khả năng truyền bệnh theo con đường cơ học, mang virus trong móng chân, máu và nước tiểu, từ đó tạo ra các ổ dịch mới Ngoài ra, gió cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lây lan bệnh qua không khí.
Ngoài ra, virus có thể truyền từ mẹ sang bào thai Bê sinh ra mắc bệnh thường chết nhanh.
Triệu chứng
Con vật có biểu hiện triệu chứng như sau:
Khi bị sốt, miệng trở nên nóng, niêm mạc miệng, môi, lợi và chân răng có dấu hiệu đỏ ửng, khô và nóng Lưỡi dày lên, khó cử động, có thể không liếm mũi được Xuất hiện mụn nước ở mép, môi, lợi, lưỡi, bên trong má và chân răng, kích thước có thể bằng hạt kê hoặc hạt ngô, màu trắng hoặc hơi hồng Khi mụn nước vỡ, niêm mạc sẽ mất đi, để lại vết loét sâu, rộng, màu hồng trắng và phủ lớp chất màu vàng, sau vài ngày sẽ hình thành sẹo Trong trường hợp nặng, khi kiểm tra lưỡi, niêm mạc có thể bong ra từng mảng, tạo thành những vết loét lớn màu đỏ trên bề mặt lưỡi.
Nước bọt ban đầu chảy ra ít và trong, nhưng khi mụn vỡ, lượng nước bọt tăng lên đáng kể và có mùi hôi Đặc biệt, trong nước bọt có thể xuất hiện máu hoặc dịch lâm ba màu vàng, kèm theo tiếng chép miệng đặc trưng (Lại Văn Lý, 2015).
Sau khi mụn vỡ 1 - 2 ngày, nếu giữ gìn vệ sinh sạch sẽ thì sẽ sinh da non màu trắng, lưỡi liền lại.
Mụn nước có thể xuất hiện không chỉ ở miệng mà còn ở các khu vực xung quanh như mũi và mắt Khi mụn mọc trong niêm mạc mũi, nó có thể gây loét ra ngoài vành mũi Nếu mụn xuất hiện ở niêm mạc mắt, người bệnh có thể gặp triệu chứng chảy nước mắt, thường có đặc điểm như mủ, nhưng triệu chứng ở mắt thường ít thấy hơn.
Khi con vật có biểu hiện kém ăn, móng chân nóng, đau và vành móng sưng, da mỏng màu trắng hồng, có tụ máu phồng lên, chúng sẽ đứng không yên và di chuyển khó khăn Nếu tình trạng nặng, con vật có thể nằm một chỗ, vành móng mưng mủ, và sau 1-2 ngày, mụn nước sẽ xuất hiện ở kẽ chân, có thể gây rách da và loét Mụn nước vỡ sẽ chảy nước hôi thối và lộ lớp bì đỏ bên trong Tuy nhiên, nếu được giữ gìn vệ sinh tốt và không bị nhiễm trùng, sau 10-15 ngày, lớp bì sẽ biến thành da non và con vật sẽ phục hồi khả năng đi lại bình thường.
Bầu vú có thể bị sưng và xuất hiện mụn nước ở đầu núm vú, kích thước mụn có thể to bằng quả mận, với da xung quanh có màu đỏ và đau Sau 2-6 ngày, mụn sẽ vỡ, để lại vết xước phẳng dạng vảy Tổn thương này gây khó khăn trong việc vắt sữa, làm thay đổi tính chất sữa, khiến sữa lỏng, màu vàng, có mùi hôi và sản lượng giảm đáng kể Nếu không vắt sữa, mụn sẽ lâu vỡ nhưng khi đã vỡ thì sẽ mau lành Tuy nhiên, sau khi hồi phục, sản lượng sữa thường thấp hơn so với trước, thậm chí có trường hợp cạn sữa hoàn toàn.
Ngoài những triệu chứng đã nêu, một số trường hợp có thể xuất hiện triệu chứng tiêu chảy trong 2 - 3 ngày, phân có chất nhầy và có thể lẫn máu sau khi mụn nước ở miệng hoặc móng vỡ Mụn cũng có thể mọc ở những vùng da nhạy cảm như âm hộ, nách, ngực, bụng và trong đùi Đặc biệt, gia súc non hoặc những con sống trong môi trường ẩm thấp, kém vệ sinh có nguy cơ cao bị nhiễm bệnh vào hệ tuần hoàn, gây suy tim, hoặc nhiễm vào hệ tiêu hóa và hô hấp, dẫn đến viêm ruột và viêm phổi.
Bệnh lở mồm long móng ở lợn có thời gian ủ bệnh khoảng 2 - 12 ngày với các triệu chứng điển hình:
- Lợn bệnh bỏ ăn, ủ rũ, sốt khoảng 40,5ºC Lợn mắc bệnh có hiện tượng chảy nước dãi.
- Có hiện tượng lợn què, đi lại khó khăn đột ngột xuất hiện trên diện rộng.
Mụn nước có đường kính lên tới 30 mm thường xuất hiện rõ ràng trên da, đặc biệt ở các vùng như đầu móng, gót chân, mũi, lưỡi, môi và đầu vú của lợn nái mới đẻ Sau khoảng 24 giờ, mụn nước sẽ vỡ ra.
Mụn có thể gây ra vết lở loét nông ở môi và núm vú, đồng thời làm tăng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát trên vành móng Những vết thương hở này có thể dẫn đến sự hình thành các vết loét sần sùi, và trong một số trường hợp, móng có thể bị long và rụng hoàn toàn.
- Một vài trường hợp gây tử vong.
Bệnh tích
Bệnh LMLM chủ yếu biểu hiện qua các mụn nước ở da và niêm mạc, đặc biệt là tại xoang miệng, gờ vành móng, đầu vú và kẽ móng chân Những mụn nước này thường nông và không gây hư hại cho lớp mầm, có khả năng hồi phục nhanh chóng, trừ khi có nhiễm trùng kế phát.
Bệnh tích ở cơ quan khác liên quan đến viêm cơ tim thường biểu hiện qua tình trạng tim mềm, nhạt màu, dễ vỡ, và có những đám xám đỏ hoặc vàng do thoái hóa cơ Hiện tượng này, được mô tả là “tim vằn da hổ” bởi Trần Thanh Phong, thường chỉ xuất hiện ở gia súc non mắc bệnh cấp tính Mặc dù không phải là đặc trưng riêng của bệnh LMLM, nhưng tình trạng này lại là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong ở gia súc non (Cục thú y, 2003).
Bệnh tích có thể xuất hiện ở đường tiêu hóa và hô hấp, bao gồm viêm niêm mạc miệng, lợi, trong má, lưỡi, họng, thực quản, dạ dày và ruột non với các mụn loét Ngoài ra, viêm màng phổi cũng có thể xảy ra Nếu không có bội nhiễm hoặc biến chứng, gia súc sẽ dần hồi phục, tuy nhiên sẽ để lại di chứng là các vết sẹo.
Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng bệnh LMLM được thực hiện khi bệnh xuất hiện tại khu vực đã xác định có dịch, hoặc dựa vào các đặc điểm dịch tễ như: bệnh đại lưu hành, tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ mắc cao, tỷ lệ chết thấp, và sự xuất hiện của bệnh ở tất cả động vật móng guốc chẵn.
Triệu chứng của bệnh ở gia súc bao gồm sốt cao, chảy nước bọt nhiều, đi lại khó khăn, và xuất hiện mụn nước ở niêm mạc miệng, lợi, chân răng, lưỡi, kẽ móng, gờ móng và vú Những gia súc đã hồi phục thường có vết sẹo trên niêm mạc miệng và các vùng khác Tuy nhiên, triệu chứng này có thể bị nhầm lẫn với các bệnh khác có triệu chứng tương tự Ở trâu và bò, bệnh viêm mụn nước (Vesicular stomatitis) có triệu chứng giống với bệnh LMLM, trong khi ở lợn có bệnh mụn nước ở lợn (Swine vesicular disease) và bệnh mụn nước ban đỏ (Vesicular exanthema of swine), dù khác nguyên nhân nhưng lại có triệu chứng lâm sàng tương đồng.
Cần phân biệt bệnh LMLM với các bệnh khác như bệnh dịch tả trâu, bò, biểu hiện bằng triệu chứng đi tháo nhiều, và bệnh đậu bò, với đặc điểm là có mụn xung quanh có bờ Trong khi đó, bệnh LMLM không có bờ và không có bệnh tích ở miệng, chân.
2.1.6.3 Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Các phương pháp chẩn đoán phòng thí nghiệm thường cho kết quả đặc hiệu và chính xác trong vòng 24 giờ Chẩn đoán LMLM chủ yếu dựa vào kỹ thuật huyết thanh học như kết hợp bổ thể, trung hòa virus, ELISA và LPBE, cũng như các phân tích phát hiện ARN của virus RT.
- PCR, real time RT - PCR, giải trình tự gene (Amadori M và cs., 1992).
Phòng bệnh
Theo Thông tư số 07/2016/TT-BNN-PTNT ngày 31/5/2016, việc phòng chống dịch bệnh động vật trên cạn được quy định rõ ràng, trong đó Phụ lục 08 cung cấp hướng dẫn về vệ sinh khử trùng tiêu độc, đặc biệt là đối với các dịch bệnh gia súc.
- Nguyên tắc vệ sinh, khử trùng tiêu độc
Người thực hiện khử trùng tiêu độc cần sử dụng bảo hộ lao động phù hợp để đảm bảo an toàn Hóa chất sát trùng được lựa chọn phải ít độc hại cho con người, vật nuôi và môi trường, đồng thời phải phù hợp với đối tượng khử trùng Ngoài ra, hóa chất này cần có khả năng sát trùng nhanh, mạnh, kéo dài hiệu quả và có phổ rộng để tiêu diệt nhiều loại mầm bệnh khác nhau.
+ Trước khi phun hóa chất sát trùng phải làm sạch đối tượng khử trùng tiêu độc bằng biện pháp cơ học (quét dọn, cạo, cọ rửa).
Pha chế và sử dụng hóa chất sát trùng cần tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất, đảm bảo nồng độ pha chế chính xác và tỷ lệ phun phù hợp trên mỗi đơn vị diện tích.
- Loại hóa chất sát trùng
+ Hóa chất sát trùng nằm trong Danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam.
+ Vôi bột, vôi tôi, nước vôi, xà phòng, nước tẩy rửa.
+ Loại hóa chất sát trùng khác theo hướng dẫn của cơ quan quản lý chuyên ngành thú y địa phương.
- Tần suất thực hiện vệ sinh, tiêu độc khử trùng
Đối với các cơ sở chăn nuôi động vật tập trung, việc vệ sinh khu vực chăn nuôi cần được thực hiện định kỳ Ngoài ra, các cơ sở cũng phải tiến hành tiêu độc khử trùng theo lịch trình đã được quy định và theo các đợt phát động của địa phương.
Các hộ gia đình có chăn nuôi động vật cần thực hiện vệ sinh định kỳ khu vực chăn nuôi và tiến hành tiêu độc khử trùng theo các đợt phát động của địa phương để đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi và ngăn ngừa dịch bệnh.
+ Cơ sở giết mổ động vật: Định kỳ vệ sinh, tiêu độc khử trùng sau mỗi ca giết mổ động vật.
+ Cơ sở sơ chế, chế biến động vật, sản phẩm động vật: Định kỳ vệ sinh, tiêu độc khử trùng sau mỗi ca sản xuất.
Địa điểm thu gom và chợ buôn bán động vật sống cùng sản phẩm động vật cần được vệ sinh và tiêu độc khử trùng sau mỗi phiên chợ Đối với nơi cách ly kiểm dịch động vật, việc vệ sinh và tiêu độc khử trùng phải được thực hiện định kỳ ít nhất một lần mỗi tuần trong suốt thời gian nuôi cách ly.
+ Phương tiện vận chuyển động vật và sản phẩm động vật: Định kỳ vệ sinh, tiêu độc khử trùng sau mỗi lần vận chuyển.
Khu vực chôn lấp và xử lý động vật mắc bệnh, cũng như sản phẩm động vật mang mầm bệnh, cần được vệ sinh và tiêu độc khử trùng sau khi hoàn tất quy trình xử lý Đồng thời, việc thu gom và xử lý chất thải của động vật cũng phải tuân theo các đợt phát động của địa phương để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
+ Trạm, chốt kiểm dịch động vật: Vệ sinh, tiêu độc khử trùng đối với phương tiện vận chuyển động vật, sản phẩm động vật đi qua trạm kiểm dịch.
+ Chốt kiểm soát ổ dịch: Vệ sinh, tiêu độc khử trùng hàng ngày đối với phương tiện vận chuyển đi qua chốt trong thời gian có dịch.
Từ những năm 1920, nghiên cứu về chế virus vô hoạt đã bắt đầu, với các thí nghiệm như đun sôi sữa bò bị bệnh, làm mất độc lực virus ở 2 độ C trong vài tháng, và sấy khô virus bằng nhiệt để phát triển vaccine Năm 1926, Vallée và Carré đã nghiên cứu tác động của Formol lên virus từ biểu bì bò cảm nhiễm, từ đó tạo ra vaccine Formol được công nhận là hiệu quả.
Hiện nay, nhiều loại vaccine được sử dụng trên thế giới, chủ yếu từ các công ty Merial (Pháp), Intervet (Hà Lan) và Pfizer (Mỹ), dựa trên công nghệ nuôi virus LMLM trên tế bào BHK và làm vô hoạt virus bằng Binary Ethyleneimine (BEI) Các vaccine này được cô đặc và làm sạch kháng nguyên virus, kết hợp với chất bổ trợ miễn dịch như nhũ dầu kép hoặc keo phèn với saponin Ở những quốc gia có đàn gia súc được tiêm phòng đầy đủ, bệnh LMLM khó xảy ra và nhiều nước đã được OIE công nhận là an toàn dịch Tại Việt Nam, việc sử dụng vaccine là giải pháp tối ưu để phòng chống bệnh LMLM, nhằm bao vây ổ dịch và hạn chế lây lan, bảo vệ đàn gia súc ở vùng đệm.
Điều trị (nếu có) hoặc biện pháp xử lý khi dịch xảy ra
Mặc dù chưa có thuốc đặc trị virus LMLM, việc điều trị các mụn mủ và vết loét ở miệng, lưỡi, chân, núm vú là cần thiết để ngăn ngừa phụ nhiễm và sút móng Điều này giúp thú mau lành bệnh và giảm thiểu tình trạng mất sức Cần thực hiện điều trị đồng thời cả tại chỗ và toàn thân để đạt hiệu quả tốt nhất.
Để điều trị tại chỗ các vết loét ở miệng, lưỡi, chân, móng và bầu vú, có thể sử dụng các dung dịch như nước muối, acid citric 1%, thuốc tím 1% hoặc phèn chua 2% Ngoài ra, có thể dùng nước từ các loại trái cây chua như khế, chanh để rửa nhẹ lên vết loét hai lần mỗi ngày Sau khi làm sạch mụn mủ ở bầu vú và chân bằng nước muối, cần lau khô và xịt thuốc BIO-BLUE SPRAY vào vết thương Đặc biệt, các mụn loét ở chân nên được băng lại để ngăn ngừa ruồi.
- Sử dụng BIO-CEVIT hoặc BIO-ADE+B.COMPLEX để tăng cường sức đề kháng Điều trị nhiễm khuẩn thứ phát bằng một trong hai kháng sinh như
BIO-TYLOSIN-PC, hoặc BIO-D.O.C ® rất hiệu quả.
- Nếu thú bị suy nhược thì nên kết hợp truyền thêm BIO-GLUCOSE 5%
Nhốt thú trong chuồng sạch sẽ và khô ráo, sử dụng tấm lót để bảo vệ chân thú Cung cấp thức ăn mềm giúp thú dễ nhai và tiêu hóa Trong điều kiện khí hậu lạnh, cần giữ ấm cho thú Với việc điều trị và chăm sóc đúng cách, thú có thể hồi phục sau 10-15 ngày.
THỰC TRẠNG VỀ BỆNH BỆNH LỞ MỒM LONG MÓNG (FMD)
Trên thế giới
Năm 1973, viện Pirbright đã nuôi cấy 140 chủng virus LMLM, gần 120 chủng này đã sinh trưởng phù hợp trong môi trường BHK 21 (Nguyễn Văn Hưng, 2011)
Tiêm phòng giúp duy trì mức kháng thể đặc hiệu cao trong 4 - 6 tháng ở bò, trong khi ở lợn, thời gian miễn dịch ngắn hơn Sau thời gian này, mức kháng thể giảm dần, khiến vật nuôi trở nên mẫn cảm với bệnh Tác dụng bảo vệ chống virus LMLM chủ yếu phụ thuộc vào kháng thể trung hòa, nhưng không phải lúc nào kháng thể này cũng đủ để ngăn chặn sự lây nhiễm Một số động vật đã được tiêm vaccine có thể có rất ít hoặc không có kháng thể trung hòa nhưng vẫn duy trì sức đề kháng đối với bệnh (Reid S M và cs., 2003).
Bệnh LMLM là một bệnh thường gặp tại Pakistan và Afghanistan, với các serotype O, A và Asia 1 là những loại phổ biến nhất trong các ổ dịch ở hai quốc gia này (Jamal S M và cs., 2011).
Bellet C và cs (2012) cho biết, tỷ lệ mắc bệnh LMLM ở trâu và lợn tại 51 làng thuộc Svay Rieng, Campuchia năm 2009 là 18% và 11%
Năm 2012, Ayebazibwe C và cộng sự đã thu thập mẫu huyết thanh từ 218 trâu, 758 bò, 304 dê và 88 cừu tại Uganda để khảo sát sự lưu hành của virus LMLM, phát hiện 30% mẫu dương tính với serotype O.
Kandeil A và cs (2013) cho biết: trong tháng 2 - 3/2012, một ổ dịch LMLM xảy ra làm 4.600 trâu, bò bị tiêu hủy, đồng thời gây ảnh hưởng đến 40.000 trâu, bò ở Ai Cập.
Theo nghiên cứu của Weaver G V và cộng sự (2013), hơn 100 loài động vật, bao gồm động vật nuôi, động vật hoang dã và động vật trong phòng thí nghiệm, đã bị lây nhiễm tự nhiên hoặc thực nghiệm với virus LMLM Điều này cho thấy việc tiêu diệt hoàn toàn bệnh LMLM là một thách thức lớn.
Virus LMLM với 7 serotype khác nhau là tác nhân gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi toàn cầu Trong số đó, serotype SAT 2 đã gây ra nhiều dịch lớn ở Trung Đông và Bắc Phi trong nhiều thập kỷ qua, với 3 vụ dịch lớn riêng biệt xảy ra vào năm 2012 (Hall M D và cs., 2013).
Từ năm 2009 đến 2013, Sallu R S và cộng sự đã tiến hành thu thập mẫu biểu mô và dịch họng hầu từ 361 trâu, bò khỏe mạnh tại Tanzania nhằm kiểm tra sự lưu hành của virus LMLM Kết quả nghiên cứu cho thấy 176 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ 53,48%.
Nghiên cứu của Ferrari G và cộng sự (2014) đã đánh giá tác động của bệnh LMLM đến sản lượng sữa của trâu và bò tại 50 trang trại ở các tỉnh Sindh, Punjab và khu vực Capital Territory Islamabad, Pakistan Kết quả cho thấy sản lượng sữa trung bình giảm đáng kể trong 2 tháng sau khi gia súc nhiễm bệnh LMLM.
Tiêm phòng là phương pháp hiệu quả nhất để kiểm soát bệnh LMLM, nhưng chất lượng vaccine đóng vai trò quyết định trong khả năng phòng bệnh cho gia súc (Jamal S M và cs., 2014).
Theo nghiên cứu của Elhaig M M và Elsheery M N (2014), trong giai đoạn 2012 - 2013, một ổ dịch LMLM đã bùng phát ở đàn trâu, bò tại Gharbia, Ai Cập, với tác nhân gây bệnh được xác định là serotype SAT 2 qua phương pháp PCR Tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh đạt 75,6%, trong đó tỷ lệ tử vong là 21%, với tỷ lệ chết ở trâu cao hơn bò (23,3% so với 17%).
Theo nghiên cứu của Subramaniam S và cộng sự (2015), gần đây, hầu hết các đợt dịch bệnh lở mồm long móng (LMLM) tại Ấn Độ đều xuất phát từ các type huyết thanh.
Virus LMLM type O là nguyên nhân chủ yếu gây ra các đợt dịch LMLM tại Ấn Độ, với ba dòng virus thường được phát hiện trong các ổ dịch là Ind2001, PanAsia và PanAsia 2 (Theo Mahapatra M và cộng sự, 2015).
Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2011, đã có 76 mẫu bệnh phẩm nghi ngờ LMLM được xét nghiệm, trong đó có 58 mẫu dương tính Kết quả cho thấy 65,56% mẫu thuộc serotype O, 24,14% thuộc serotype A và 10,35% thuộc serotype Asia - 1 (Abubakar M và cs., 2015).
Theo Hibi J và cs (2015), năm 2010, dịch lở mồm long móng (LMLM) đã xảy ra ở Miyazaki, Nhật Bản làm 290.000 động vật bị tiêu hủy
Emami J và các cộng sự (2015) đã tiến hành thu thập 8.378 mẫu huyết thanh từ bê từ 6 đến 24 tháng tuổi tại 202 làng ở Tây Azerbaijan, Iran Kết quả cho thấy có 53,7% số mẫu dương tính với virus LMLM.
Namatovu A và cộng sự (2015) đã tiến hành nghiên cứu về tỷ lệ lưu hành virus LMLM trong đàn gia súc tại Uganda trong giai đoạn 2012 - 2013 Trong nghiên cứu, 79 mẫu huyết thanh được thu thập, trong đó có 61 mẫu (77%) dương tính với virus SAT 1 Cụ thể, 41 mẫu dương tính với serotype O, 45 mẫu dương tính với serotype SAT 1, 30 mẫu dương tính với serotype SAT 2, và 45 mẫu dương tính với serotype SAT 3.
Wekesa S N và cộng sự (2015) đã thực hiện nghiên cứu dịch tễ học bệnh LMLM ở trâu, bò tại Kenya trong giai đoạn 2008 – 2012, thu thập 102 mẫu huyết thanh và 47 mẫu biểu mô Kết quả cho thấy 65/102 mẫu huyết thanh dương tính với virus LMLM, trong khi đó, trong 47 mẫu biểu mô, có 1 mẫu dương tính với serotype O, 20 mẫu dương tính với serotype A, 7 mẫu dương tính với serotype SAT 1 và 19 mẫu dương tính với serotype SAT 2.
Trong nước
Theo nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Phước và cộng sự (1978), tổn thương do virus tại cửa vào thường không gây triệu chứng trong thời kỳ nung bệnh Thời gian này có thể dao động từ 2 - 3 ngày đến 10 - 14 ngày, tùy thuộc vào độc lực của virus, số lượng virus và đường xâm nhập Đặc biệt, trong các trường hợp liều gây nhiễm thấp, thời gian nung bệnh cho chu kỳ đầu tiên có thể kéo dài hơn.
Thời gian ủ bệnh của bệnh này dao động từ 2 đến 5 ngày, trung bình là 3 đến 5 ngày, nhưng có thể chỉ kéo dài 16 giờ Khi bệnh bắt đầu xuất hiện, động vật sẽ sốt cao từ 40 đến 41 độ C liên tục trong 2 đến 3 ngày, kèm theo các triệu chứng như ủ rũ, lông dựng đứng, đầu mũi khô, giảm sản lượng sữa, dáng điệu mệt mỏi, lừ đừ, kém ăn, thỉnh thoảng nằm gục đầu, tai và đuôi không còn hoạt bát, và việc nằm xuống hay đứng lên trở nên khó khăn, nặng nề, chậm chạp (Cục thú y, 2003).
Nguyễn Tuấn Anh (2010), đã tiến hành khảo sát một số đặc điểm dịch tễ bệnh LMLM ở trâu, bò tại tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2004 - 2009 và cho biết: từ
2004 - 2006, dịch liên tục xảy ra; tuy nhiên từ 2007 đến 2009 hầu như không có dịch trên địa bàn nghiên cứu.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tiến (2010), tỷ lệ lưu hành huyết thanh LMLM ở Thái Bình là 8,62% và ở Nam Định là 7,67% Huyết thanh dương tính đã được phát hiện ở tất cả 17 huyện và thành phố của tỉnh Nam Định và Thái Bình.
Theo Cục thú y (2011), bệnh đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam vào năm 1898 tại Nha Trang, và sau đó dịch bệnh đã lan rộng ra các tỉnh Trung và Nam Bộ Trong thời gian này, bệnh cũng được ghi nhận ở Lào, Campuchia và Thái Lan.
Theo thống kê của Cục thú y (2011), từ năm 1976 đến 1983, đã ghi nhận 98 ổ dịch tại các tỉnh phía Nam, gây ảnh hưởng đến 26.648 trâu, bò và 2.919 lợn Đặc biệt, trong năm 1983, dịch bệnh từ trâu, bò đã lây lan sang một trại lợn công nghiệp ở huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, làm hơn 2.200 con lợn mắc bệnh.
Theo thông tin từ Cục thú y (2011), vào năm 1999, dịch bệnh từ miền Trung và miền Nam vẫn chưa được kiểm soát, trong khi miền Bắc lại phải đối mặt với một đợt dịch mới từ Trung Quốc Cao Bằng là tỉnh đầu tiên ghi nhận dịch, sau đó dịch nhanh chóng lan rộng ra các tỉnh khác Đến ngày 10/3/2000, có 58/61 tỉnh, thành phố trên cả nước bị ảnh hưởng, với tổng số 297.808 trâu, bò và 36.530 lợn mắc bệnh.
Năm 2012, Phạm Anh Hùng đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm dịch tễ và xác định loại virus gây bệnh LMLM ở trâu, bò tại tỉnh Lai Châu, và cho biết rằng trong suốt 6 năm nghiên cứu, những thông tin thu thập được đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình dịch bệnh trong khu vực.
(2006 - 2011), dịch LMLM đã liên tục xảy ra tại tỉnh Lai Châu Bệnh xuất hiện ở tất cả các mùa trong năm nhưng tập trung hơn vào vụ Đông - Xuân.
Nguyễn Hải Sơn (2012) cho biết: bệnh LMLM tại Quảng Ninh xảy ra liên tục từ năm 2007 - 2012 với khoảng 1 - 8/14 địa phương có dịch.
Theo nghiên cứu của Phạm Chiến Thắng (2015), trong giai đoạn 2009 - 2014 tại tỉnh Thanh Hóa, tỷ lệ bệnh LMLM ở trâu, bò đạt cao nhất vào năm 2010 với 0,327% và thấp nhất vào năm 2012 với 0,008% Đối với lợn, tỷ lệ cao nhất được ghi nhận vào năm 2013 là 0,049%, trong khi năm 2009 ghi nhận tỷ lệ thấp nhất là 0,002%.
Nghiên cứu của Nông Quang Hải (2015) về bệnh LMLM ở trâu, bò tại tỉnh Bắc Kạn cho thấy dịch bệnh này xảy ra quanh năm, nhưng số lượng gia súc mắc bệnh cao nhất vào cuối mùa Đông đến đầu mùa Xuân, với tỷ lệ dao động từ 19,06% đến 80,94%.
Lại Văn Lý (2015) đã nghiên cứu về bệnh LMLM tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 - 2015 và cho biết, dịch LMLM xảy ra liên tục trong 3 năm (1010 -
Từ năm 2012, dịch LMLM đã diễn ra phức tạp tại 90 xã thuộc 8 huyện của tỉnh Quảng Ninh Tuy nhiên, nhờ vào công tác phòng chống dịch hiệu quả, tình hình đã được kiểm soát và không có trường hợp nào xảy ra từ năm 2013 đến 2015 Đàm Thị Phương Mai (2016) đã ghi nhận sự cải thiện này trong công tác phòng chống dịch tại địa phương.
Từ năm 2011 đến 2015, bệnh LMLM ở trâu, bò đã bùng phát liên tục tại 11 huyện và thành phố ở tỉnh Lạng Sơn, với tổng cộng 187 ổ dịch Trung bình, mỗi địa điểm khảo sát ghi nhận từ 3 đến 4 ổ dịch mỗi năm.
Cuối năm 2018, đầu năm 2019 vừa qua, dịch bệnh lở mồm long móng đã bùng phát mạnh mẽ tại
Việt Nam Theo số liệu báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông, tháng 1/2019 có tới 19 tỉnh, thành phố bị nhiễm dịch bệnh, đã tiêu hủy
2.640 con gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi tại
Trong bối cảnh dịch FMD diễn biến phức tạp tại Việt Nam năm 2018, người nuôi cần được tuyên truyền về biện pháp phòng chống dịch bệnh Họ không nên giấu dịch và bán tháo đàn lợn Đặc biệt, việc phối hợp với chính quyền địa phương trong công tác sát trùng, tẩy uế để tiêu diệt mầm bệnh và tiêm phòng vaccine ở các vùng nhiễm dịch là vô cùng quan trọng.
ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Sơ lược về tình hình chăn nuôi tại địa phương (heo, trâu, bò, dê): quy mô, phương thức chăn nuôi
Bảng 2.2 Sơ lược tình hình chăn nuôi tại tỉnh Quảng Ninh
Trang trại và hộ gia đình nhỏ lẻ
Trang trại và hộ gia đình nhỏ lẻ
Trang trại và hộ gia đình nhỏ lẻ
Trang trại và hộ gia đình nhỏ lẻ
(Chăn nuôi tình Quảng ninh được cập nhật ngày 02/10/2020)
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2019 gặp nhiều khó khăn trên cả
Trong lĩnh vực trồng trọt, sản xuất gặp nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt là rét đậm đầu vụ Đông Xuân và nắng nóng gay gắt vụ Hè Thu, dẫn đến diện tích gieo trồng giảm và năng suất thấp Ngành chăn nuôi cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ dịch tả lợn châu Phi Ngược lại, sản xuất lâm nghiệp phát triển mạnh với việc mở rộng diện tích rừng trồng để tận dụng lợi thế địa phương Sản xuất thủy sản có sự tăng trưởng cao, đặc biệt là đánh bắt xa bờ, nhờ vào chính sách hỗ trợ vốn hiệu quả từ Nhà nước, dẫn đến diện tích nuôi trồng thủy sản cũng được mở rộng Ước tính giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản (giá so sánh năm 2010) trong năm nay có sự cải thiện đáng kể.
Năm 2019, tổng giá trị sản xuất đạt 8.800,1 tỷ đồng, tăng 3,43% so với năm 2018 Cụ thể, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 5.523,2 tỷ đồng, giảm 0,13% so với năm trước, hoàn thành 97,87% kế hoạch Giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 741,2 tỷ đồng, tăng 9,07% so với năm trước, vượt 123,54% kế hoạch Trong khi đó, giá trị sản xuất thủy sản đạt 2.535,7 tỷ đồng, tăng 10,32% so với năm trước, đạt 100,02% kế hoạch.
(https://cucthongke.quangbinh.gov.vn/3cms/tinh-hinh-kinh-te -xa-hoi-nam-2019- tinh-quang-binh.htm)
Xu thế và tình hình bệnh bệnh Lỡ Mồm Long Móng tại tỉnh Quảng Ninh
Bảng 2.3 Tỷ lệ gia súc mắc bệnh, chết tiêu hủy do LMLM
Năm Số huyện, thành thị, có dịch
Số phường, xã thị trấn có dịch
Số gia súc mắc bệnh (con)
Số gia súc chết tiêu hủy (con)
Bảng thống kê cho thấy dịch LMLM tại tỉnh Quảng Ninh diễn ra từ năm 2016 đến 2020, với quy mô nhỏ lẻ tại một số xã, phường Năm 2019 ghi nhận dịch lớn nhất, ảnh hưởng đến 4 huyện, 6 phường, xã, với 375 gia súc mắc bệnh và 208 gia súc chết và tiêu hủy Công tác phòng chống dịch của người chăn nuôi chưa hiệu quả, dẫn đến tình trạng dịch bùng phát Tuy nhiên, năm 2016, người chăn nuôi đã chú trọng hơn đến biện pháp phòng bệnh, thực hiện đúng quy định, giúp nâng cao ý thức khai báo khi có dịch xảy ra.
Bảng 2.4 Tỷ lệ gia súc mắc bệnh, chết và tiêu hủy do LMLM theo mùa
Năm Số gia súc mắc bệnh
(con) Đông - Xuân Hè - Thu
Số con chết tiêu hủy
Số con chết tiêu hủy
Dịch LMLM ở đàn gia súc chủ yếu bùng phát vào vụ Đông-Xuân, với tỷ lệ mắc bệnh đạt 78,78% và tỷ lệ chết và tiêu hủy là 43,91% Sự thay đổi đột ngột của mùa khiến gia súc bị stress, làm giảm sức đề kháng, trong khi môi trường ẩm ướt tạo điều kiện cho virus phát triển Người chăn nuôi chưa chú trọng đến vệ sinh và nguồn thức ăn, nước uống cho gia súc Ngược lại, tỷ lệ mắc bệnh trong vụ Hè-Thu chỉ là 21,22% và tỷ lệ chết, tiêu hủy là 1,27% Dịch LMLM bùng phát vào vụ Đông-Xuân trong các năm 2017-2020, nhưng không xảy ra trong năm 2016 Trong vụ Hè-Thu, dịch chỉ xuất hiện vào năm 2016 và 2019 với số gia súc mắc bệnh thấp, không ghi nhận trong các năm 2017, 2018 và 2020.
Bảng 2.5 Tình hình mắc bệnh từng loài
Năm Tổng số gia súc mắc LMLM
Số con chết tiêu hủy
Số con chết tiêu hủy
(Đỗ Thị Giang Vân và cs, 2021).
Trong 5 năm điều tra tại tỉnh Quảng Ninh, bệnh LMLM chỉ xuất hiện trên đàn trâu, bò và lợn, với tỷ lệ mắc bệnh ở trâu, bò cao hơn lợn (54,86% so với 45,14%), cho thấy trâu, bò mẫn cảm hơn với mầm bệnh Tuy nhiên, tỷ lệ chết và tiêu hủy ở lợn lại rất cao (75,45%) so với trâu, bò (1,48%), do lợn không thuộc đối tượng tiêm phòng vắc-xin LMLM và con giống không đảm bảo an toàn dịch bệnh Công tác kiểm dịch và kiểm soát giết mổ chưa chặt chẽ, dẫn đến tình trạng gia súc chết phổ biến.
Vệ sinh phòng bệnh
Khi dịch bệnh chưa bùng phát, nguồn bệnh chủ yếu là động vật mang trùng, bao gồm cả động vật lành bệnh và động vật khỏe mạnh Tuy nhiên, khi dịch đã phát sinh trong khu vực ổ dịch, nguồn bệnh sẽ bao gồm thêm động vật bệnh và động vật nghi ngờ lây nhiễm.
Để phát hiện động vật mang trùng, nghi lây hoặc mắc bệnh, cần thực hiện xét nghiệm vi sinh vật học, huyết thanh học và phản ứng dị ứng Khi phát hiện những con vật này, cần cách ly chúng ngay lập tức để tránh lây nhiễm cho động vật khỏe mạnh.
Nếu số lượng động vật mang trùng ít, cần xử lý theo hướng dẫn của cơ quan thú y và pháp luật liên quan Trong trường hợp số lượng động vật mang trùng nhiều, nên nuôi nhốt chúng tập trung ở một khu vực riêng biệt.
Động vật bệnh là nguồn gốc của ổ dịch, báo hiệu sự hiện diện của các nguồn bệnh tiềm tàng khác Để dập tắt ổ dịch, cần tập trung vào động vật bệnh, phát hiện sớm và áp dụng biện pháp phòng ngừa ngay cả khi chưa xác định rõ nguyên nhân Động vật bị sốt không rõ nguyên nhân cần được nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm Những động vật bệnh phát hiện phải được cách ly kịp thời và triệt để Nếu điều trị khó khăn, tốn kém, hoặc động vật không có giá trị kinh tế, nên xử lý ngay để ngăn chặn sự lây lan của bệnh.
Hình 2.7 Sơ đồ phòng chống bệnh LMLM
Hiện nay, chủ trương chính là tiêu hủy các thú bệnh để ngăn chặn sự lây lan Việc điều trị động vật mắc bệnh, đặc biệt là bệnh truyền nhiễm, không chỉ giúp tiêu diệt mầm bệnh mà còn nâng cao sức đề kháng cho chúng Đối với bệnh LMLM, hiện chưa có thuốc đặc hiệu, vì vậy cần tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng, cung cấp thức ăn dễ tiêu hóa, bổ sung vitamin và duy trì môi trường sạch sẽ Để trị triệu chứng, có thể sử dụng các chất như chanh, khế, hay xanh methylen cho các vết loét, và dùng thuốc sát trùng cho vú Đồng thời, cần sử dụng kháng sinh và thuốc hạ sốt nếu thú bị sốt Bệnh này thường không gây chết ở thú lớn, nhưng có thể gây chết ở bê dưới 6 tháng tuổi.
2.3.3.2 Đối với yếu tố truyền lây
Mục tiêu chính là làm cho yếu tố truyền lây không mang mầm bệnh Đối với các yếu tố truyền lây cơ giới, cần thực hiện biện pháp tiêu độc thường xuyên hoặc định kỳ Việc tiêu diệt sinh vật và ngăn chặn chúng tiếp xúc với động vật thụ cảm là rất quan trọng Các biện pháp phòng ngừa sẽ khác nhau tùy thuộc vào phương thức truyền bệnh.
Bệnh truyền qua đường tiêu hóa có thể được phòng ngừa bằng cách giữ gìn vệ sinh thực phẩm, nước uống, đồng cỏ và khu vực chăn nuôi, đồng thời bảo quản thức ăn một cách tốt nhất Đối với bệnh truyền qua đường hô hấp, cần tránh ô nhiễm không khí, đảm bảo chuồng trại thoáng mát, sạch sẽ và có ánh sáng Ngoài ra, việc tiêu độc chuồng trại thường xuyên và vệ sinh dụng cụ chăn nuôi cũng rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe vật nuôi.
Để ngăn ngừa lây nhiễm, cần thực hiện thường xuyên các biện pháp vệ sinh cho thức ăn, nước uống, và vệ sinh cá nhân Bên cạnh đó, việc giữ gìn sạch sẽ chuồng trại và khu vực chăn nuôi là rất quan trọng Cần tiêu độc môi trường xung quanh động vật nuôi và tiêu diệt các loài gặm nhấm, côn trùng, tiết túc Cuối cùng, xử lý xác chết đúng cách cũng là một phần không thể thiếu trong quy trình này.
Vệ sinh tiêu độc và khử trùng là quá trình quan trọng để ngăn ngừa sự lây lan bệnh tật trong chăn nuôi Việc vệ sinh chuồng trại, phương tiện và dụng cụ chăn nuôi giúp giảm thiểu ô nhiễm cho sản phẩm động vật Các phương pháp tiêu độc bao gồm tiêu độc cơ giới như quét dọn và thu gom chất thải, tiêu độc hóa học sử dụng các hóa chất như Benkocid 2%, formol 2%, và tiêu độc vật lý bằng tia cực tím Những biện pháp này cần được thực hiện định kỳ để đảm bảo sức khỏe cho động vật và an toàn cho sản phẩm.
Xử lý xác chết động vật là cần thiết để ngăn chặn dịch bệnh lây lan Đối với xác động vật chết do bệnh truyền nhiễm, cần chôn hoặc đốt ở những địa điểm xa khu dân cư, nguồn nước và bãi chăn thả.
Không giết mỗ, bán chạy gia súc mắc bệnh và gia súc nhốt chung dẫn với gia súc mắc bệnh.
2.3.3.3 Đối với động vật thụ cảm
Để tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi, cần chú trọng đến việc vệ sinh môi trường chăn nuôi, đảm bảo thức ăn và nước uống đạt tiêu chuẩn vệ sinh Việc chăm sóc và nuôi dưỡng hợp lý cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe cho đàn vật nuôi.
Chọn giống động vật nuôi có năng suất cao và khả năng chống bệnh tốt là rất quan trọng Đảm bảo con giống khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng và đã được tiêm phòng LMLM Trước khi nhập đàn, cần thực hiện nuôi cách ly để bảo vệ sức khỏe đàn vật nuôi.
Công tác tiêm phòng cần được thực hiện theo kế hoạch dài hạn nhằm hạn chế và tiến tới thanh toán một số bệnh truyền nhiễm Kế hoạch tiêm phòng phải dựa vào tình hình dịch đã được điều tra qua nhiều năm và khả năng phát triển của đàn gia súc Các vùng cần tiêm phòng bao gồm ổ dịch cũ, vùng biên giới, nơi tập trung động vật nuôi, các khu vực bị dịch đe dọa và các trại chăn nuôi tập trung Lịch tiêm phòng cần căn cứ vào mùa phát bệnh, độ dài miễn dịch của vacxin, thời gian sử dụng gia súc và thời vụ có biến động nhiều nhất của đàn gia súc Các đợt tiêm phòng phải được thực hiện nhanh chóng, hoàn thành trong thời gian ngắn, đạt tỷ lệ tiêm phòng cao và đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Để phòng bệnh hiệu quả, việc tiêm vắc-xin là rất quan trọng Tại Việt Nam, hiện có các loại vắc-xin như đơn giá typ O, nhị giá typ O và A, cùng với tam giá typ O, A, Asia 1 Mỗi năm, cần tiêm vắc-xin ngừa bệnh hai lần, với lần đầu vào tháng 3-4 và lần hai cách sáu tháng vào tháng 9-10.
Phòng bệnh bằng vaccin
Tại Việt Nam hiện đang sử dụng 2 loại vaccine đơn giá và đa giá nhập từ các nước là Merial (Pháp), Intervet (Hà Lan), vaccine nhị giá (Trung Quốc).
Intervet has introduced two types of foot-and-mouth disease vaccines in Vietnam: DECIVAC-FMD-ALSA for ruminants and DECIVAC-FMD-DOE for both pigs and ruminants Additionally, Merial offers the Aftovax and Aftopor vaccines The Lanzhou Veterinary Research Institute in China produces a bivalent vaccine for Foot and Mouth Disease, targeting types O and Asia1 In Vietnam, multivalent vaccines are available that include types O, A, and Asia1.
Từ năm 1997, Chi cục Thú y vùng VI đã chủ động xây dựng kế hoạch nghiên cứu và chọn giống virus LMLM để sản xuất vaccine Đến tháng 11/2018, vaccine LMLM AVAC-V6FMD Emulsion đã được phép lưu hành Hiện tại, Chi cục đã nghiên cứu và chọn lọc virus LMLM type O và type A để sản xuất vaccine theo khuyến cáo của tổ chức Thú y thế giới OIE và tiêu chuẩn Việt Nam Điều này đảm bảo có đủ con giống để sản xuất vaccine LMLM đơn giá type O, type A và vaccine nhị giá (O và A), cùng với giống virus LMLM RAHO6/FMD/A-379 dòng ASIA/Sea-97 Mục tiêu của Cục Thú y là tự sản xuất và sử dụng vaccine nội địa, giảm phụ thuộc vào việc nhập khẩu vaccine LMLM để bảo vệ đàn gia súc tại các địa phương.
Tiêm phòng cho gia súc cần thực hiện 2 lần trong năm, với lần đầu vào tháng 3-4 và lần thứ hai vào tháng 9-10, cách nhau từ 5-6 tháng Đối với gia súc mới, bắt buộc phải tiêm 2 mũi, trong đó mũi thứ hai cách mũi thứ nhất 28 ngày.
- Liều lượng, đường tiêm, quy trình sử dụng vacxin theo hướng dẫn của Cục Thú y và nhà sản xuất.
Hình 2.8 Vaccine phòng bệnh FMD