1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tác động của nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính – phi tài chính và sự ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh dưới cách tiếp cận tổng thể

294 26 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Nhân Tố Bất Định Đến Mức Độ Vận Dụng Tích Hợp Thước Đo Tài Chính – Phi Tài Chính Và Sự Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Dưới Cách Tiếp Cận Tổng Thể
Tác giả Lê Hoàng Oanh
Người hướng dẫn TS. Lê Đình Trực, TS. Trần Anh Hoa
Trường học Đại học Kinh tế Tp.HCM
Chuyên ngành Kế toán
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp.HCM
Định dạng
Số trang 294
Dung lượng 5,71 MB

Cấu trúc

  • 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU (19)
  • 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU (20)
  • 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (22)
  • 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (23)
  • 5. Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU (24)
  • 6. CẤU TRÚC CỦA NGHIÊN CỨU (25)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC (26)
    • 1.1 TÓM LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH – PHÁT TRIỂN VÀ CÁC DÒNG NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH (26)
      • 1.1.1 Tóm lược các giai đoạn hình thành - phát triển của hệ thống đo lường HQHĐKD 8 (26)
      • 1.1.2 Tổng quan các dòng (giai đoạn) nghiên cứu về hệ thống đo lường HQHĐKD16 (34)
      • 1.1.3 Kết luận (35)
    • 1.2 KHÁI QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ BẤT ĐỊNH ĐẾN MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH - PHI TÀI CHÍNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA NHÂN TỐ BẤT ĐỊNH VÀ MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH – PHI TÀI CHÍNH TRÊN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH (36)
      • 1.2.1 Dưới cách tiếp cận sự chọn lọc (37)
      • 1.2.2 Dưới cách tiếp cận sự tương tác (43)
      • 1.2.3 Dưới cách tiếp cận tổng thể (49)
      • 1.2.4 Kết luận (50)
    • 1.3 KHÁI QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HQHĐKD NÓI CHUNG VÀ MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH – PHI TÀI CHÍNH NÓI RIÊNG (53)
    • 1.4 XÁC ĐỊNH KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU (56)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (59)
    • 2.1. HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HQHĐKD (59)
      • 2.1.1 Định nghĩa HQHĐKD và đo lường HQHĐKD (59)
      • 2.1.2 Định nghĩa hệ thống đo lường HQHĐKD (59)
      • 2.1.3 Định nghĩa mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính (60)
    • 2.2. LÝ THUYẾT BẤT ĐỊNH ĐỐI VỚI HỆ THỐNG KIỂM SOÁT QUẢN LÝ, HỆ THỐNG KTQT & HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HQHĐKD (61)
      • 2.2.1 Nội dung lý thuyết (61)
      • 2.2.2 Phân loại biến bất định (62)
    • 2.3. SỰ PHÙ HỢP (63)
    • 2.4. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU (65)
      • 2.4.1 Mô hình lý thuyết tổng quát cho việc nghiên cứu lý thuyết bất định đối với hệ thống đo lường HQHĐKD (65)
      • 2.4.2 Lựa chọn cách tiếp cận khái niệm sự phù hợp cho mô hình nghiên cứu (65)
      • 2.4.3 Mô hình nghiên cứu ban đầu (66)
    • 2.5. CÁC BIẾN BẤT ĐỊNH TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (68)
      • 2.5.1 Nhận thức không chắc chắn về môi trường (68)
      • 2.5.2 Cơ cấu tổ chức (68)
      • 2.5.3 Chiến lược kinh doanh và phân loại chiến lược kinh doanh (69)
      • 2.5.4 Mức độ cạnh tranh (70)
      • 2.5.5 Văn hoá doanh nghiệp - mô hình văn hóa doanh nghiệp (70)
      • 2.5.6 Định hướng thị trường (71)
      • 2.5.7 Công nghệ sản xuất hiện đại và công nghệ quản trị hiện đại (72)
  • CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU (73)
    • 3.1 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (73)
    • 3.2 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN (74)
    • 3.3 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH (76)
      • 3.3.1 Mục tiêu (76)
      • 3.3.2 Phương pháp thực hiện (76)
    • 3.4 MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU CHÍNH THỨC (78)
    • 3.5 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU (80)
      • 3.5.1 Nhận thức không chắc chắn về môi trường và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (80)
      • 3.5.2 Cơ cấu tổ chức và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (82)
      • 3.5.3 CLKD và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (83)
      • 3.5.4 Quy mô DN và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (86)
      • 3.5.5 Mức độ cạnh tranh và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (87)
      • 3.5.6 Văn hoá DN và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (88)
      • 3.5.7 Định hướng thị trường và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC . 73 (91)
      • 3.5.8 Sự tham gia của kế toán trong quy trình ra quyết định chiến lược và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (92)
    • 3.6 XÂY DỰNG THANG ĐO (101)
      • 3.6.1 Thang đo nhận thức không chắc chắn về môi trường (102)
      • 3.6.2 Thang đo cơ cấu tổ chức phân quyền (102)
      • 3.6.3 Thang đo chiến lược kinh doanh (103)
      • 3.6.4 Thang đo mức độ cạnh tranh (103)
      • 3.6.5 Thang đo quy mô DN (103)
      • 3.6.6 Thang đo văn hoá DN (103)
      • 3.6.7 Thang đo định hướng thị trường (104)
      • 3.6.8 Thang đo sự tham gia của kế toán trong quy trình ra quyết định chiến lược (104)
      • 3.6.9 Thang đo mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC (105)
      • 3.6.10 Thang đo HQHĐKD (105)
    • 3.7 ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG, QUẢN LÝ CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT (106)
      • 3.7.1 Định nghĩa DN sản xuất và đặc điểm hoạt động, quản lý của DN sản xuất (106)
      • 3.7.2 Đặc điểm hoạt động, quản lý ở DN sản xuất vừa và lớn (106)
      • 3.7.3 Sự chuyển đổi phương thức sản xuất ở DN sản xuất hiện nay (107)
    • 3.8 QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG (108)
    • 3.9 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG TRONG NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG SƠ BỘ VÀ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG CHÍNH THỨC (110)
      • 3.9.1 Công cụ thu thập dữ liệu (110)
      • 3.9.2 Tổng thể nghiên cứu (111)
      • 3.9.3 Mẫu nghiên cứu và kỹ thuật chọn mẫu (111)
    • 3.10 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU SƠ BỘ (111)
      • 3.10.1 Kích thước mẫu (111)
      • 3.10.2 Công cụ, kỹ thuật và quy trình phân tích dữ liệu (111)
    • 3.11 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU CHÍNH THỨC (114)
      • 3.11.1 Công cụ phân tích dữ liệu (114)
      • 3.11.2 Kích thước mẫu (115)
      • 3.11.3 Quy trình phân tích dữ liệu (115)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN (75)
    • 4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH (120)
      • 4.1.1 Kết quả thảo luận về xác lập các nhân tố tác động đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC – phi TC tại các DN sản xuất Phía Nam Việt Nam (120)
      • 4.1.2 Kết quả thảo luận về ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC – phi TC đến HQHĐKD tại các DN sản xuất Phía Nam Việt Nam (122)
    • 4.2 BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH (123)
    • 4.3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG SƠ BỘ (124)
      • 4.3.1 Thực hiện nghiên cứu sơ bộ và kết quả thống kê mô tả (124)
      • 4.3.2 Kết quả kiểm định thang đo (125)
      • 4.3.3 Bàn luận kết quả nghiên cứu sơ bộ (0)
    • 4.4 THANG ĐO KHÁI NIỆM NGHIÊN CỨU CHÍNH THỨC (0)
    • 4.5 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG CHÍNH THỨC (130)
      • 4.5.1 Thực hiện nghiên cứu chính thức (130)
      • 4.5.2 Thực trạng về công tác đo lường HQHĐKD và mức độ vận dụng các loại thước đo HQHĐKD cho từng mục tiêu quản trị (thông qua thống kê mô tả từng loại thước đo (132)
      • 4.5.3 Kết quả thống kê mô tả các khái niệm nghiên cứu (139)
      • 4.5.4 Kết quả kiểm định mô hình đo lường (141)
      • 4.5.5 Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc (146)
    • 4.6 TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG (151)
    • 4.7 BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG (153)
      • 4.7.1 Bàn luận kết quả thống kê mô tả thực trạng thiết kế hệ thống đo lường HQHĐKD tại các DN sản xuất Phía Nam Việt Nam (153)
      • 4.7.2 Bàn luận về kết quả kiểm định thang đo thông qua nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức (155)
      • 4.7.3 Bàn luận về kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu (0)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý (167)
    • 5.1 KẾT LUẬN (167)
    • 5.2 HÀM Ý QUẢN TRỊ ĐỐI VỚI CÁC NHÀ QUẢN LÝ KHI THIẾT KẾ VÀ VẬN DỤNG HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HQHĐKD (170)
    • 5.3 Ý NGHĨA VỀ MẶT HỌC THUẬT CỦA NGHIÊN CỨU (173)
      • 5.3.1 Về việc lấp đầy khoảng trống nghiên cứu (173)
      • 5.3.2 Về việc đo lường nhân tố bất định (174)
      • 5.3.3 Về việc đo lường thực trạng vận hành hệ thống đo lường HQHĐKD (175)
      • 5.3.4 Về cách tiếp cận vận dụng đối với khái niệm sự phù hợp (176)
    • 5.4 HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO (176)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (180)
  • PHỤ LỤC (197)

Nội dung

SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU

Để nâng cao khả năng thích ứng với biến động môi trường kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam cần nhận diện vị thế và xác định mục tiêu chiến lược rõ ràng, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế Việc áp dụng hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) kết hợp giữa các thước đo tài chính và phi tài chính sẽ giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu này Nghiên cứu cho thấy, việc tích hợp cả hai loại thước đo này không chỉ cung cấp thông tin đáng tin cậy cho nhà quản trị mà còn hỗ trợ họ trong việc thiết lập mục tiêu chiến lược phù hợp và ra quyết định chính xác Hệ thống này cho phép doanh nghiệp thiết lập các thước đo dựa trên mối quan hệ nguyên nhân – kết quả, từ đó xác định các yếu tố cần cải thiện để nâng cao hiệu quả tài chính và phi tài chính.

Mặc dù việc tích hợp các thước đo tài chính (TC) và phi tài chính (phi TC) mang lại nhiều lợi ích, nhưng sự thiếu nhất quán trong các nghiên cứu vẫn tồn tại Banker et al (2000) cho rằng việc áp dụng các thước đo phi TC liên quan đến sự hài lòng của khách hàng trong chính sách khen thưởng có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) của doanh nghiệp Ngược lại, Neely et al (2004) không tìm thấy bằng chứng rõ ràng về ảnh hưởng của việc tích hợp các thước đo TC và phi TC đến HQHĐKD trong các doanh nghiệp bán buôn thiết bị điện Hơn nữa, Ittner et al (2003b) cho biết chỉ có 23% doanh nghiệp khảo sát có xây dựng các thước đo phi TC liên kết với hiệu quả tài chính cần đạt, và chỉ 2,95% trong số đó đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư cao hơn các doanh nghiệp khác.

Sự thiếu nhất quán trong lợi ích của việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính có thể được lý giải qua lý thuyết bất định, cho rằng không có hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh nào phù hợp cho tất cả doanh nghiệp trong mọi tình huống Điều này có nghĩa là không tồn tại một hệ thống đo lường hoàn hảo, mà mỗi doanh nghiệp cần thiết kế hệ thống phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình Kể từ cuối những năm 2000, các nghiên cứu đã tập trung vào việc xác minh lý thuyết này, điều tra điều kiện nào là phù hợp để áp dụng hệ thống đo lường hiệu quả với mức độ tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính, đồng thời xem xét liệu việc ứng dụng này có thực sự giúp cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh hay không.

Dựa trên tổng quan các nghiên cứu hiện có, vấn đề nghiên cứu này đã chỉ ra một số khoảng trống cần được khai thác thêm.

(1) Tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào khảo sát mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC

- phi TC trong hệ thống đo lường HQHĐKD ở các DN sản xuất tại Việt Nam

Hiện nay, tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào kiểm định tác động của các nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính trong hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh Đặc biệt, các nghiên cứu quốc tế cũng cho thấy kết quả không đồng nhất.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh dưới góc độ tổng thể còn rất hạn chế trên thế giới.

Việc nghiên cứu hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) cần tích hợp các thước đo phi tài chính bên cạnh thước đo tài chính để giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả này Những lập luận này đã thúc đẩy tác giả quyết định thực hiện nghiên cứu.

Tác động của các yếu tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thuộc đo lường tài chính phi tài chính và ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các yếu tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp này là rất quan trọng Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động mà còn định hình chiến lược quản lý và quyết định đầu tư Việc hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

TC - phi TC) đế n HQH Đ KD d ướ i cách ti ế p c ậ n t ổ ng th ể

Nghiên cứu này tập trung vào việc xác minh lý thuyết liên quan đến các điều kiện ngữ cảnh và nhân tố bất định, nhằm tìm hiểu động cơ khiến doanh nghiệp áp dụng mức độ tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính Đồng thời, nghiên cứu cũng điều tra thực nghiệm để xem liệu việc duy trì sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ tích hợp này có góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay không.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh truyền thống gặp nhiều hạn chế, trong khi áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng đã khiến các doanh nghiệp chú trọng hơn đến việc áp dụng các thước đo phi tài chính bên cạnh thước đo tài chính Dựa trên lý thuyết bất định, việc thiết kế hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh cần được điều chỉnh theo ngữ cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp.

Ngoài ra, mối quan hệ giữa nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi

TC ảnh hưởng đến HQHĐKD có thể được kiểm định qua hai phương pháp: sự tương tác và tổng thể Phương pháp tương tác chỉ chú trọng vào việc xác định tác động riêng lẻ của biến bất định (biến ngữ cảnh) đối với mức độ áp dụng tích hợp các thước đo.

TC - phi TC và ảnh hưởng của sự tác động giữa cặp biến này đến HQHĐKD là một vấn đề quan trọng Cách tiếp cận này giúp xác định sự phù hợp giữa hai biến thay vì nhiều biến Tuy nhiên, trong thực tế, DN thường phải đối mặt với nhiều biến ngữ cảnh khác nhau, và cần có một mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC cho từng biến ngữ cảnh Do đó, cần áp dụng một phương pháp tổng thể để nghiên cứu tác động của mối quan hệ giữa đa biến ngữ cảnh và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC đến HQHĐKD Phương pháp này cung cấp thông tin đáng tin cậy cho nhà quản trị, giúp xác định biến ngữ cảnh nào là quyết định trong việc gia tăng sự phù hợp giữa tổng thể ngữ cảnh mà DN đối mặt và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC.

TC để có thể nâng cao HQHĐKD tại DN? Do vậy, nghiên cứu này có mục tiêu tổng quát là:

Nghiên cứu này tập trung vào tác động của các yếu tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thuộc địa TC - phi TC và ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các yếu tố này đối với mức độ vận dụng tích hợp trong hệ thống quản lý doanh nghiệp (HQH Đ KD) Nghiên cứu được thực hiện tại các doanh nghiệp sản xuất hoạt động tại phía Nam Việt Nam, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách tiếp cận tổng thể trong quản lý và ứng dụng các yếu tố bất định trong môi trường kinh doanh hiện nay.

Nam Để đạt được mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể của nghiên cứu hướng đến là:

Nhận diện các nhân tố bất định ảnh hưởng đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính tại các doanh nghiệp sản xuất ở phía Nam là rất quan trọng Việc hiểu rõ những yếu tố này giúp các doanh nghiệp tối ưu hóa quy trình quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động Các yếu tố bất định có thể bao gồm biến động thị trường, chính sách kinh tế và sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng.

2 Khảo sát thực trạng thiết kế hệ thống đo lường HQHĐKD tại các DN sản xuất Phía Nam

Đo lường ảnh hưởng của các nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính là cần thiết tại các doanh nghiệp sản xuất phía Nam, nhằm lấp đầy khoảng trống trong nghiên cứu Việc này giúp đánh giá hiệu quả hoạt động và tối ưu hóa quy trình quản lý.

Đo lường ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các yếu tố bất định và mức độ áp dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp sản xuất phía Nam là một nghiên cứu quan trọng Nghiên cứu này nhằm lấp đầy khoảng trống trong lĩnh vực này và sẽ đưa ra các hàm ý quản trị chi tiết trong chương 5 của luận án.

T ươ ng ứ ng v ớ i 4 m ụ c tiêu nêu trên, 4 câu h ỏ i nghiên c ứ u đượ c đặ t ra là:

1 Các nhân tố chính nào có thể có ảnh hưởng đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC

Nghiên cứu tác động của các nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính tại các doanh nghiệp sản xuất phía Nam là rất cần thiết Để thực hiện điều này, cần xác định mô hình nghiên cứu phù hợp nhằm kiểm định mối liên hệ giữa sự phù hợp của các nhân tố bất định và mức độ áp dụng tích hợp các thước đo tài chính - phi tài chính, từ đó đánh giá ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp này.

2 Thực trạng hệ thống đo lường HQHĐKD tại các DN sản xuất Phía Nam đang được thiết kế như thế nào?

3 Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC

- phi TC tại các DN sản xuất Phía Nam như thế nào?

4 Sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi

TC ảnh hưởng đến HQHĐKD tại các DN sản xuất phía Nam thông qua việc áp dụng một cách tổng thể, nhằm xác định hệ thống đo lường HQHĐKD Hệ thống này cần được thiết kế tích hợp giữa các thước đo tài chính và phi tài chính, phù hợp với đặc thù riêng của từng DN Việc này sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để trả lời 4 câu hỏi nghiên cứu trên, phương pháp nghiên cứu được sử dụng như sau:

Tác giả tổng kết lý thuyết và các nghiên cứu liên quan đến tác động của các nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính, cũng như ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh Dựa trên nghiên cứu định tính, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu và thang đo khái niệm nghiên cứu (thang đo nháp), giải thích lý do lựa chọn các nhân tố cần thiết trong môi trường phía Nam Việt Nam Điều này giúp giải quyết câu hỏi nghiên cứu một cách hiệu quả.

Tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua thống kê mô tả để phản ánh thứ tự ưu tiên trong việc sử dụng các loại thước đo (thước đo định tính và phi định tính) cho các mục đích khác nhau, bao gồm: thiết lập mục tiêu chiến lược, đánh giá các dự án đầu tư lớn, đánh giá kết quả quản lý của nhà quản trị, và nhận diện vấn đề cũng như cơ hội cải tiến để phát triển kế hoạch hành động Phương pháp này sẽ hỗ trợ giải quyết câu hỏi nghiên cứu thứ hai.

- Phương pháp nghiên cứu định lượng dựa trên quy trình suy diễn (Nguyễn Đình Thọ,

Nghiên cứu được thực hiện qua hai giai đoạn: nghiên cứu sơ bộ để kiểm định thang đo và nghiên cứu chính thức nhằm xác nhận độ tin cậy, giá trị thang đo và kiểm định giả thuyết, theo đề xuất của Churchill (1979) Do mô hình nghiên cứu phức tạp với nhiều cấu trúc và biến quan sát, cùng với giới hạn về mẫu nghiên cứu, phân tích dữ liệu được thực hiện bằng kỹ thuật mô hình phương trình cấu trúc PLS-SEM, sử dụng phần mềm SmartPLS 3.1 và SPSS 24.0.

Để giải quyết câu hỏi nghiên cứu 4 về ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, tác giả sẽ thiết lập một biến gọi là sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC, theo đề xuất của Venkatraman (1989) Biến này là khái niệm tiềm ẩn bậc hai, không thể đo lường trực tiếp từ các biến quan sát mà được xây dựng từ việc mô hình hoá các khái niệm bậc một Trong cách tiếp cận tổng thể, sự phù hợp được thể hiện qua mô hình với sự biến thiên cùng nhau hoặc sự nhất quán nội bộ giữa các biến tiềm ẩn.

Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những giá trị lý thuyết quan trọng cho các nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh, giảng viên và sinh viên trong lĩnh vực kế toán và quản trị kinh doanh Đồng thời, nghiên cứu cũng mang lại những hàm ý thực tiễn cho các nhà quản lý tại các doanh nghiệp, giúp họ thiết kế hệ thống đo lường hiệu quả và kết quả trong hoạt động kinh doanh.

Luận án sẽ đóng góp một số ý nghĩa ở phương diện lý thuyết như sau đây:

- Luận án sẽ bổ sung bằng chứng thực nghiệm về việc áp dụng lý thuyết bất định vào việc xây dựng hệ thống đo lường HQHĐKD

Bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, sẽ giúp tổng quát hóa mô hình lý thuyết về tác động của nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính Nghiên cứu này cũng xem xét ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ áp dụng tích hợp thước đo đến hiệu quả hoạt động kinh doanh Điều này đặc biệt quan trọng vì hầu hết các nghiên cứu trước đây về vấn đề này đều được thực hiện tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển.

Nghiên cứu này là một trong số ít cung cấp bằng chứng về tác động của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, dưới cách tiếp cận tổng thể.

Nghiên cứu này là lần đầu tiên cung cấp bằng chứng về ảnh hưởng của sự tham gia của kế toán trong quy trình ra quyết định đối với việc áp dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính.

Bài viết tổng kết lý thuyết về ảnh hưởng của nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính tại các doanh nghiệp Tài liệu này sẽ là nguồn tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh, giảng viên và sinh viên trong lĩnh vực kế toán và quản trị kinh doanh trên toàn thế giới.

Những đóng góp ở phương diện thực tiễn cho các nhà quản lý DN từ kết quả nghiên cứu:

Hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh truyền thống đang bộc lộ những hạn chế trong bối cảnh môi trường kinh doanh đầy biến động hiện nay Điều này đặt ra thách thức cho các nhà quản trị doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy xu hướng áp dụng hệ thống đo lường hiệu quả tích hợp, kết hợp giữa các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính.

Hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) được xây dựng hoặc cải tiến phù hợp với ngữ cảnh riêng của doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị Thông qua đó, nhà quản trị có thể lên kế hoạch, thực hiện mục tiêu, kiểm soát và ra quyết định một cách hiệu quả, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Hỗ trợ các nhà quản trị doanh nghiệp sản xuất tại phía Nam trong việc khám phá thực trạng hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh, bao gồm cách thiết kế và vận hành hệ thống này tại các doanh nghiệp trong khu vực.

CẤU TRÚC CỦA NGHIÊN CỨU

Cấu trúc của nghiên cứu được phát họa theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 1: Cấu trúc của nghiên cứu

Nguồn: Tác giả tự thiết kế

Chương 1 -Tổng quan các nghiên cứu trước à Khoảng trống nghiên cứu Chương 2 - Cơ sở lý thuyết

Chương 3 - Thiết kế nghiên cứu

Chương 4 – Kết quả nghiên cứu và bàn luận Chương 5 – Kết luận và hàm ý Phần giới thiệu chung (gồm Mục tiêu nghiên cứu)

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC

TÓM LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH – PHÁT TRIỂN VÀ CÁC DÒNG NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH

Hệ thống đo lường HQHĐKD, ra đời vào những năm 1960, ban đầu tập trung vào các kỹ thuật kế toán quản trị truyền thống như tính giá thành và phân tích chi phí Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh doanh ngày càng phức tạp và cạnh tranh gia tăng do toàn cầu hóa, hệ thống này đã bộc lộ những hạn chế Sự chuyển hướng từ tập trung vào đối thủ cạnh tranh sang khách hàng và chất lượng sản phẩm đã đặt ra yêu cầu cần thiết cho việc phát triển hệ thống đo lường HQHĐKD qua bốn giai đoạn.

Bảng 1 1: Các giai đ o ạ n hình thành và phát tri ể n c ủ a h ệ th ố ng đ o l ườ ng HQH Đ KD

Giai đoạn Nội dung trọng tâm của hệ thống đo lường HQHĐKD

Kỹ thuật/hệ thống/mô hình/khuôn mẫu đo lường Được xây dựng và phát triển bởi

Trước năm 1980, các thước đo tài chính như tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, cùng với hiện giá thuần, đã được áp dụng trong hệ thống kế toán chi phí truyền thống.

Thước đo phi TC bắt đầu được quan tâm nhằm tìm kiếm phương thức mới để quy trình ra quyết định được hiệu quả

- Giá trị kinh tế tăng thêm

- Hệ thống kế toán chi phí trên cơ sở hoạt động

- Hệ thống quản trị trên cơ sở trên hoạt động

Một số hệ thống/mô hình/khuôn mẫu đo lường

HQHĐKD được xây dựng và thiết kế

- Hệ thống phân tích đo lường chiến lược và kỹ thuật báo cáo (Strategic Measurement Analysis and Reporting Technique)

Lynch & Cross (1991); McNair et al (1990)

- Bảng câu hỏi đo lường HQHĐKD (Performance measurement Questionnaire) Dixon et al (1990)

- Ma trận kết quả & quyết định (Results and Determinants Matrix)

Fitzgerald et al (1991); Fitzgerald & Moon (1996)

- Bảng điểm cân bằng (The Balanced Scorecard) Kaplan & Norton (1992,

- Hệ thống đo lường HQHĐKD tích hợp (Integrated Performance Measurement Systems) Bititci et al (1997, 1998a, b) Những năm

Hệ thống/mô hình/khuôn mẫu đo lường HQHĐKD được cải tiến

- Quy trình đo lường HQHĐKD Cambridge (Cambridge Performance Measurement Process)

Neely et al (2000); Bourne et al (2000)

- Hệ thống đo lường HQHĐKD năng động (Dynamic Performance Measurement System) Bititci et al (2000)

- Bảng điểm kinh doanh so sánh (Comparative Business Scorecard) Kanji & Mours e Sá (2002)

- Lăng kính HQHĐKD (The Performance Prism) Neely et al (2002)

- Hệ thống điểm chuẩn HQHĐKD, phát triển và tăng trưởng (The performance, development and growth benchmarking system)

Nguồn: Tổng hợp từ các nghiên cứu trước (như Pun & White, 2005; Taticchi, Balachandran

& Tonelli, 2012; Lisiecka & Czyż-Gwiazda, 2013; Hasan & Chyi TM, 2017)

Từ những năm 1990 đến nay, hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) đã có xu hướng tích hợp các thước đo phi tài chính bên cạnh các thước đo tài chính Xu hướng này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.

Hạn chế của thước đo TC (Neely, 1999; Tung, Baird & Schoch, 2011):

Thước đo hiệu quả công việc của nhân viên cần phải tập trung vào chiến lược của doanh nghiệp, nhằm đánh giá chính xác mức độ đóng góp của họ trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Kết quả là thước đo phản ánh thành công nhưng không chỉ ra nguyên nhân dẫn đến kết quả đó Điều này khiến nhà quản trị khó xác định các hành động cần thực hiện để đạt được mục tiêu.

- Không hướng sự tập trung ra khỏi phạm vi DN, có thể mâu thuẫn với chiến lược DN

Khuyến khích các nhà quản trị thực hiện các hành vi tối đa hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh ngắn hạn, mặc dù điều này có thể làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh dài hạn Ví dụ, thay vì tập trung vào việc cải tiến liên tục, họ có thể chọn cách giảm thiểu sự chênh lệch giữa chi phí thực tế và chi phí mục tiêu.

Thuận lợi của thước đo phi TC:

- Chính xác hơn và kịp thời hơn thước đo TC (Medori & Steeple, 2000)

- Thích hợp với mục tiêu dài hạn và chiến lược của tổ chức (Massalla, 1994)

- Có thể thay đổi để phù hợp với nhu cầu mới của thị trường, chẳng hạn tăng cường cải tiến thay vì giám sát (Medori & Steeple, 2000)

- Hữu ích đối với nhân viên vì hỗ trợ cho họ thực hiện cải tiến liên tục (Banker, Potter & Srinivisan, 2000)

Các hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) tích hợp sử dụng cả thước đo phi tài chính (TC) và thước đo tài chính (TC), mặc dù mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định.

1/ Hệ thống phân tích đo lường chiến lược và kỹ thuật báo cáo

Là hệ thống đo lường được xây dựng và phát triển bởi Lynch & Cross (1991) và McNair et al

Hệ thống đo lường 4 cấp độ được phát triển vào năm 1990 nhằm chuyển giao chiến lược từ lãnh đạo cấp cao xuống toàn bộ nhân viên, với cấu trúc kim tự tháp bao gồm: (1) Tầm nhìn doanh nghiệp và các mục tiêu cụ thể; (2) Thước đo thị trường và tài chính để giám sát chiến lược; (3) Thước đo ưu tiên của doanh nghiệp như sự hài lòng của khách hàng, linh hoạt và năng suất lao động; (4) Thước đo hiệu quả hoạt động của các bộ phận, bao gồm chất lượng, chu kỳ sản xuất, thời gian giao hàng và thiệt hại sản phẩm hỏng Hệ thống này giúp doanh nghiệp giám sát hiệu quả hoạt động ở tất cả các cấp, đảm bảo đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra.

Hệ thống phân tích đo lường chiến lược và kỹ thuật báo cáo (Lynch & Cross, 1991) đánh giá mối quan tâm của cả bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, bao gồm sự thỏa mãn khách hàng, chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, và chu trình sản xuất Tuy nhiên, hệ thống này có nhược điểm là không xác định rõ các thước đo hiệu quả hoạt động chính như chất lượng sản phẩm, thời gian chu kỳ, và thời gian giao hàng, đồng thời cũng không tích hợp khái niệm cải tiến liên tục (Ghalayini & Noble, 1996; Bourne et al., 2000).

2/ Bảng câu hỏi đo lường HQHĐKD

Bảng câu hỏi đo lường do Dixon et al (1990) phát triển là công cụ cấu trúc nhằm đánh giá sự tương thích của thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) với mục tiêu cải tiến của doanh nghiệp Công cụ này hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng hệ thống đo lường HQHĐKD phù hợp với các yếu tố quan trọng cho sự thành công của họ.

Sơ đồ 1 2: Bảng câu hỏi đo lường kết quả (Dixon et al., 1990)

Bảng câu hỏi này rất hữu ích trong việc phản hồi những khu vực nào cần cải tiến (Ghalayini

Mặc dù hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động doanh nghiệp (HQHĐKD) giúp duy trì sự nhất quán giữa chiến lược, hành động cải tiến và các thước đo cải tiến, nhưng nó lại không cung cấp khuôn mẫu cụ thể cho việc thiết kế và xây dựng hệ thống đo lường đúng nghĩa Thay vào đó, nó chỉ là công cụ đánh giá sự phù hợp của hệ thống Hơn nữa, bảng câu hỏi thiếu sự tham gia của ban lãnh đạo trong quá trình đánh giá và không chú trọng đến khái niệm cải tiến liên tục, do đó không được coi là hệ thống đo lường HQHĐKD tích hợp toàn diện.

3/ Ma trận kết quả & quyết định

Hệ thống đo lường HQHĐKD, được phát triển bởi Fitzgerald et al (1991) và Fitzgerald & Moon (1996), dành riêng cho ngành dịch vụ, bao gồm 6 loại thước đo chia thành hai nhóm Nhóm kết quả bao gồm hai thước đo chính, phản ánh sự thành công của chiến lược: thước đo hiệu quả cạnh tranh và thước đo hiệu quả tài chính.

2/ Nhóm quyết định: gồm 4 loại thước đo phản ảnh nhân tố quyết định kết quả cạnh tranh và

TC là thước đo chất lượng dịch vụ, linh hoạt, kết quả sử dụng nguồn lực và sự đổi mới Ma trận kết quả và ra quyết định nêu rõ 6 loại thước đo cần thiết để xây dựng hệ thống đo lường hiệu quả (Ted and Carol, 2012) Mô hình này phản ánh năng lực cạnh tranh dựa trên thời gian, bao gồm các thước đo liên quan đến sứ mệnh cạnh tranh theo thời gian (Neetu, Sushil, & Mahim, 2013) Tuy nhiên, mô hình này chưa kết hợp các thước đo phi TC và các khía cạnh hành vi cũng như các bên hữu quan (Neetu, Sushil, & Mahim, 2013).

4/ Bảng điểm cân bằng (BSC)

Hệ thống đo lường HQHĐKD, được phát triển bởi Kaplan & Norton từ năm 1992 đến 2000, bao gồm các thước đo tài chính và phi tài chính, tập trung vào bốn khía cạnh chính: tài chính, quy trình kinh doanh nội bộ, khách hàng, và học hỏi phát triển.

Sơ đồ 1 3: Bảng điểm cân bằng (Kaplan & Norton, 1992)

Tư tưởng chủ đạo của BSC nhấn mạnh rằng các thước đo cần được phát triển từ tầm nhìn, sứ mệnh và chiến lược của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự cân bằng giữa các khía cạnh như mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, nguồn lực đầu vào và sản lượng đầu ra, cũng như giữa các thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh bên trong và bên ngoài Hơn nữa, các thước đo trong BSC có tính linh hoạt cao, cho phép thiết kế phù hợp với đặc thù của từng doanh nghiệp và thích ứng với sự thay đổi trong môi trường kinh doanh.

KHÁI QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN TỐ BẤT ĐỊNH ĐẾN MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH - PHI TÀI CHÍNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA NHÂN TỐ BẤT ĐỊNH VÀ MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH – PHI TÀI CHÍNH TRÊN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

TỐ BẤT ĐỊNH ĐẾN MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH - PHI TÀI CHÍNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ PHÙ HỢP GIỮA NHÂN TỐ BẤT ĐỊNH

VÀ MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH – PHI TÀI CHÍNH ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

Lý thuyết bất định trong thiết kế hệ thống kế toán quản trị (KTQT) và hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) nhấn mạnh rằng không tồn tại một hệ thống KTQT hay HQHĐKD nào phù hợp cho tất cả doanh nghiệp trong mọi hoàn cảnh Mỗi doanh nghiệp cần điều chỉnh hệ thống của mình dựa trên các tình huống cụ thể để đạt hiệu quả tối ưu.

Mô hình nghiên cứu của Hoque et al (2001) chỉ ra rằng sự tương thích cao giữa hệ thống kế toán quản trị (KTQT) và các yếu tố ngữ cảnh sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) của doanh nghiệp Nghiên cứu này tập trung vào mối quan hệ giữa nhân tố bất định và hệ thống KTQT/hệ thống đo lường HQHĐKD, từ góc nhìn của lý thuyết bất định, nhằm tìm hiểu cách mà sự phù hợp giữa nhân tố bất định và thiết kế hệ thống ảnh hưởng đến HQHĐKD Để phân tích mối quan hệ này, các nhà nghiên cứu đã áp dụng ba cách tiếp cận về sự phù hợp theo đề xuất của Van de Ven & Drazin (1984), bao gồm cách tiếp cận sự chọn lọc, sự tương tác và tổng thể.

Bài viết này tổng quan các nghiên cứu về tác động của nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính, đồng thời phân tích ảnh hưởng của sự phù hợp giữa nhân tố bất định và mức độ áp dụng tích hợp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh Nghiên cứu này được thực hiện thông qua ba cách tiếp cận khác nhau.

Sơ đồ 1 6: 3 cách tiếp cận khái niệm sự phù hợp – Nguồn: tác giả tổng hợp từ nghiên cứu trước

1.2.1 Dưới cách tiếp cận sự chọn lọc (Selection approach)

Theo Van de Ven & Drazin (1984), hệ thống KTQT và hệ thống đo lường HQHĐKD cần phải được thiết kế linh hoạt, phù hợp với ngữ cảnh cụ thể của chúng để có thể tồn tại và đạt hiệu quả tối ưu trong hoạt động.

Nghiên cứu của Hoque et al (2001) sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với kỹ thuật phân tích hồi quy bội để khám phá tác động của công nghệ sản xuất hiện đại và mức độ cạnh tranh đến việc áp dụng các thước đo thành quả của BSC Nghiên cứu thu thập dữ liệu từ 71 doanh nghiệp sản xuất tại New Zealand, nhằm đánh giá mức độ tích hợp giữa các thước đo tài chính và phi tài chính.

Công nghệ sản xuất hiện đại

Mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC – phi TC để đánh giá HQHĐKD

Mức độ vận dụng từng khía cạnh:

+ Tài chính + Quy trình kinh doanh nội bộ + Học hỏi và phát triển + Khách hàng để đánh giá HQHĐKD

Mối quan hệ giữa nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC Được kiểm định phù hợp dưới 3 cách tiếp cận

Cách tiếp cận sự chọn lọc Cách tiếp cận sự tương tác

Cách tiếp cận tổng thể

Nghiên cứu cho thấy bốn khía cạnh quan trọng đối với môi trường cạnh tranh và sản xuất điều khiển bằng máy tính Vì vậy, việc áp dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh cần xem xét toàn diện mọi khía cạnh thành quả, không được xem nhẹ bất kỳ khía cạnh nào.

Nghiên cứu này mặc dù mang lại nhiều khám phá, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế Thứ nhất, các nhà nghiên cứu cần cẩn trọng khi tổng quát hóa kết quả cho các doanh nghiệp ngoài lĩnh vực sản xuất, vì nghiên cứu chỉ tập trung vào doanh nghiệp sản xuất Thứ hai, cần có thêm nghiên cứu để khám phá tác động của các mối quan hệ đến kết quả quản lý và hiệu quả hoạt động kinh doanh Cuối cùng, thang đo mức độ vận dụng tích hợp giữa các thước đo tài chính và phi tài chính chỉ được xây dựng nhằm mục đích đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Demers et al (2006) và Henri (2006) đã mở rộng nghiên cứu của Hoque et al (2001) bằng cách bổ sung ba yếu tố mới, bao gồm yếu tố cơ cấu tổ chức, lợi thế cạnh tranh (một khía cạnh của chiến lược kinh doanh) theo Demers et al (2006), và yếu tố văn hóa doanh nghiệp theo Henri (2006), với mô hình nghiên cứu được trình bày như sau.

Sơ đồ 1 8: Mô hình nghiên cứu của Demers et al (2006)

Sơ đồ 1 9 : Mô hình nghiên cứu củaHenri (2006)

Demers et al (2006) đã áp dụng kỹ thuật phân tích hồi quy bội tương tự như Hoque et al (2001) trên dữ liệu khảo sát từ 53 doanh nghiệp công nghệ cao, và nhận định rằng cơ cấu tổ chức, thể hiện qua mức độ phân quyền và mức độ thưởng thành tích, cùng với các khía cạnh của chiến lược kinh doanh (CLKD) là động lực chính thúc đẩy doanh nghiệp tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính để đánh giá kết quả hoạt động.

Mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC – phi TC ở các khía cạnh :

+ Tài chính + Khách hàng + Nhân viên + Sản phẩm mới để đánh giá kết quả quản lý của cấp dưới

+ Đặc điểm sản phẩm và thời gian cung cấp

+ Tên và danh tiếng nhãn hàng

+ Dịch vụ và kiến thức nhân viên

+ Mức độ thưởng thành tích

+ Văn hóa chú trọng giá trị linh hoạt (+)

+ Văn hóa chú trọng giá trị kiểm soát (-)

Loại văn hóa thống trị

Mục đích vận dụng hệ thống đo lường HQHĐKD

Giám sát Tập trung chú ý

Nâng cao trính chính thống hóa

Mức độ vận dụng tích hợp thước đo

Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm sản phẩm và thời gian cung cấp, đồng thời có mối quan hệ tích cực với việc áp dụng các thước đo phát triển sản phẩm mới Ngược lại, lợi thế cạnh tranh dựa trên dịch vụ và kiến thức của nhân viên lại liên quan đến việc áp dụng các thước đo về nhân viên, khách hàng và tài chính Điều này cho thấy rằng sự đa dạng trong hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh là yếu tố quan trọng mà các nghiên cứu tương lai cần xem xét, vì các yếu tố bất định khác nhau sẽ tác động đến các loại thước đo tài chính và phi tài chính khác nhau.

Theo nghiên cứu của Henri (2006) dựa trên dữ liệu khảo sát từ 383 doanh nghiệp sản xuất, nếu nhà quản trị cấp cao duy trì văn hóa doanh nghiệp chú trọng vào giá trị linh hoạt, họ có xu hướng áp dụng tích hợp nhiều thước đo tài chính và phi tài chính Điều này giúp họ tập trung vào hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh, hỗ trợ ra quyết định chiến lược và tạo động lực cho việc tích hợp các thước đo này, khác với các doanh nghiệp có văn hóa tập trung vào giá trị kiểm soát.

Henri (2006) đã cải tiến nghiên cứu của Hoque et al (2001) và Demers et al (2006) bằng cách xem xét nhiều khía cạnh của việc áp dụng hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD), bao gồm giám sát, tập trung chú ý, ra quyết định và nâng cao tính chính thống hóa Trong khi đó, Demers et al (2006) đã mở rộng nghiên cứu để xem xét mức độ áp dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính cho doanh nghiệp dịch vụ, khác với giới hạn chỉ ở doanh nghiệp sản xuất như trong các nghiên cứu trước đó Hơn nữa, Demers et al (2006) đã kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính, bổ sung cho phương pháp định lượng, nhằm hiểu rõ hơn về mẫu trong nghiên cứu định lượng và nâng cao độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.

Kế đến, Perera & Baker (2007) và Jusoh (2010) đã mở rộng các nghiên cứu của Hoque et al

Nghiên cứu của Henri (2006) và Demers et al (2006) đã mở rộng mô hình nghiên cứu bằng cách thêm ba yếu tố mới: CLKD, quy mô doanh nghiệp và nhận thức về sự không chắc chắn trong môi trường.

Sơ đồ 1 10 : Mô hình nghiên cứu củaPerera & Baker (2007)

Mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC – phi TC Quy mô DN

Người quản lý không phải là chủ DN

Mức độ vận dụng thước đo kết quả nhân viên

+ Sản lượng + Lợi nhuận đơn vị + Sản phẩm hỏng + Chất lượng + Vắng mặt + Làm việc nhóm + Đào tạo nhân viên + Sự thỏa mãn của nhân viên

Sơ đồ 1 11: Mô hình nghiên cứu của Jusoh (2010)

Nghiên cứu của Perera & Baker (2007) dựa trên phương pháp định lượng với 86 doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ cho thấy rằng các doanh nghiệp này vẫn phụ thuộc nhiều vào các thước đo tài chính, trong khi các doanh nghiệp lớn hơn có xu hướng tích hợp nhiều thước đo tài chính và phi tài chính hơn Hơn nữa, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi người quản lý là chủ doanh nghiệp, có xu hướng áp dụng nhiều thước đo tài chính và phi tài chính để đáp ứng nhu cầu quản trị tổng thể.

Perera & Baker (2007) đã tiến hành nghiên cứu định tính với 8 nhà quản trị từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại khu đô thị Tây Sydney, Úc Nghiên cứu sử dụng phỏng vấn bán cấu trúc để tìm hiểu các khía cạnh thành quả được đo lường trong các doanh nghiệp này, cũng như phương pháp đo lường được áp dụng Bên cạnh đó, nghiên cứu còn khám phá sự khác biệt trong việc áp dụng các thước đo khác nhau.

KHÁI QUÁT CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HQHĐKD NÓI CHUNG VÀ MỨC ĐỘ VẬN DỤNG TÍCH HỢP THƯỚC ĐO TÀI CHÍNH – PHI TÀI CHÍNH NÓI RIÊNG

Trong những năm gần đây, hệ thống đo lường HQHĐKD đã được áp dụng rộng rãi tại các doanh nghiệp Việt Nam, dẫn đến sự gia tăng quan tâm từ các nhà nghiên cứu đối với các công trình khoa học liên quan đến hệ thống này.

Qua việc rà soát các nghiên cứu về hệ thống đo lường HQHĐKD tại Việt Nam, tác giả nhận thấy rằng số lượng nghiên cứu hàn lâm còn hạn chế, trong khi đó có nhiều đề tài thạc sĩ, đặc biệt tại Đại học Kinh Tế Tp.HCM, với hơn 250 nghiên cứu chủ yếu liên quan đến BSC Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này là ứng dụng hoặc lặp lại, không đủ tiêu chuẩn cho luận án tiến sĩ dạng khám phá Do đó, các đề tài thạc sĩ sẽ không được tổng quát hóa trong nội dung này, ngoại trừ các nghiên cứu khám phá.

Số lượng nghiên cứu hàn lâm về hệ thống KTQT và hệ thống đo lường HQHĐKD tại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào một số hướng nhất định.

Tác động của các yếu tố đến việc áp dụng kỹ thuật kế toán quản trị hiện đại, bao gồm kỹ thuật kế toán quản trị chiến lược, kỹ thuật kế toán quản trị phương Tây và kỹ thuật kế toán quản trị mới, đã được nghiên cứu bởi Đoàn Ngọc Phi Anh (2012a, b, 2016), Trịnh Hiệp Thiện (2019) và Bùi Thị Trúc Quy (2020).

Lê Thị Mỹ Nương (2020) đã chỉ ra rằng các nghiên cứu về kỹ thuật kế toán quản trị (KTQT) hiện đại, bao gồm BSC và các thước đo phi tài chính, đều tập trung vào việc kiểm định ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) Trong số đó, chỉ có hai nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phi Anh (2016) và Trịnh Hiệp Thiện (2019) áp dụng mô hình có biến trung gian Đoàn Ngọc Phi Anh (2012a,b) đã khảo sát 220 doanh nghiệp vừa và lớn tại Việt Nam, cho thấy rằng mức độ cạnh tranh và cơ cấu tổ chức phân quyền có tác động tích cực đến việc áp dụng kỹ thuật KTQT chiến lược và phương Tây, từ đó nâng cao HQHĐKD Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phi Anh (2016) cũng khẳng định rằng kỹ thuật KTQT mới có vai trò trung gian trong việc cải thiện HQHĐKD của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh Trịnh Hiệp Thiện (2019) đã sử dụng dữ liệu từ 174 công ty niêm yết và kết luận rằng vốn trí tuệ là động lực chính cho việc áp dụng hệ thống KTQT chiến lược, trong khi đó, KTQT chiến lược đóng vai trò trung gian giữa vốn trí tuệ và HQHĐKD, với bốn thành phần chính, trong đó có kế toán đối thủ cạnh tranh liên quan đến thước đo phi tài chính Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng cần xem xét các mối quan hệ này theo từng ngành nghề hoạt động.

Bùi Thị Trúc Quy và Lê Thị Mỹ Nương (2020) đã sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp để xác định rằng động cơ áp dụng kế toán quản trị chiến lược xuất phát từ mức độ cạnh tranh và quy mô.

DN, xây dựng CLKD, kế toán tham gia vào việc ra quyết định chiến lược (Bùi Thị Trúc Quy,

Nghiên cứu của Lê Thị Mỹ Nương (2020) chỉ ra rằng nhận thức không chắc chắn về môi trường, trình độ nhân viên, văn hóa doanh nghiệp, công nghệ và mức độ phân quyền ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) của các doanh nghiệp Việc áp dụng kinh tế quản trị chiến lược sẽ góp phần nâng cao hiệu quả này.

Th ứ hai, tác giả tìm thấy 7 nghiên cứu khoa học hàn lâm thực hiện nghiên cứu trên mô hình

Phan Thị Xuân Hương (2016) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể là nghiên cứu tình huống, để xây dựng BSC cho ngành chế biến thủy sản Trong khi đó, Vũ Thùy Dương (2017) sử dụng phương pháp hỗn hợp nhằm tìm hiểu việc vận dụng BSC trong lĩnh vực này.

Mô hình BSC (Balanced Scorecard) trong doanh nghiệp dệt may đã được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Trần Quốc Việt (2012), Hoang Van Tuong et al (2018), Nguyễn Trần Phương Giang (2017), Trương Thị Ngọc Xuyên (2018) và Tạ Lê Ngân Hà (2019) thông qua phương pháp định lượng để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ chấp nhận và vận dụng mô hình này Trần Quốc Việt (2012) cho rằng một số yếu tố như sự tham gia của quản lý cấp cao và truyền thông nội bộ có tác động tích cực, trong khi sự tập trung hóa quyền lực của bộ phận tài chính lại có tác động tiêu cực đến mức độ chấp nhận BSC Các động cơ vận dụng BSC được khám phá từ nhiều khía cạnh như quy mô doanh nghiệp, nhận thức về môi trường và chi phí vận dụng (Hoang Van Tuong et al, 2018; Tạ Lê Ngân Hà, 2019; Nguyễn Trần Phương Giang, 2017; Trương Thị Ngọc Xuyên, 2018), cho thấy sự phức tạp và đa dạng trong việc áp dụng mô hình này trong ngành dệt may.

Có ba nghiên cứu quan trọng liên quan đến chủ đề chính của luận án này, bao gồm việc kiểm định ảnh hưởng của nhân tố bất định đến mức độ áp dụng từng loại thước đo riêng lẻ của Ngô Thị Trà (2021) và mức độ áp dụng thước đo phi tài chính của Le Hoang Oanh cùng các cộng sự.

Ngô Thị Trà (2021) đã tiến hành khảo sát 153 doanh nghiệp sản xuất và xác định rằng có một số yếu tố quyết định động cơ cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn áp dụng các loại thước đo hiệu quả Những yếu tố này bao gồm mức độ cạnh tranh và cấu trúc của doanh nghiệp.

Sự hiểu biết của nhân viên kế toán và sự ủng hộ của nhà quản trị đóng vai trò quan trọng trong việc DN lựa chọn thước đo hiệu quả khách hàng Mức độ phân quyền và cấu trúc DN cũng ảnh hưởng đến quyết định này Đối với thước đo hiệu quả nhân viên, mức độ cạnh tranh, phân quyền và cấu trúc DN đều là những yếu tố quyết định Ngoài ra, mức độ cạnh tranh, phân quyền, cấu trúc DN, cùng với sự hiểu biết của nhân viên kế toán và sự ủng hộ của nhà quản trị, có tác động tích cực đến thước đo tài chính của DN.

Bằng việc khảo sát 100 DN sản xuất vừa và lớn tại Tp.HCM và một số tỉnh lân cận trong năm

Năm 2019, Le Hoang Oanh et al và Lê Hoàng Oanh đã áp dụng mô hình PLS-SEM để chứng minh rằng doanh nghiệp sẽ đạt hiệu quả hoạt động kinh doanh cao hơn khi chiến lược cạnh tranh phù hợp với mức độ áp dụng các thước đo phi tài chính Cụ thể, chiến lược tạo sự khác biệt có mối quan hệ tích cực, trong khi chiến lược dẫn đầu về giá thấp lại có mối quan hệ tiêu cực với việc áp dụng thước đo phi tài chính Hai nghiên cứu này cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của công nghệ thông tin trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Năm 2019, nghiên cứu chỉ ra rằng định hướng khách hàng (Lê Hoàng Oanh, 2020) không đóng vai trò điều tiết trong mối quan hệ giữa chiến lược kinh doanh và việc áp dụng các thước đo phi tài chính.

Hiện tại, có rất ít bằng chứng trực tiếp về việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính tại Việt Nam, đây là chủ đề chính của nghiên cứu này.

XÁC ĐỊNH KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU

Trong giai đoạn điều tra thực nghiệm, có nhiều ý kiến trái chiều về lợi ích của việc áp dụng hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) tích hợp giữa các thước đo tài chính và phi tài chính Những quan điểm này được thảo luận chi tiết trong mục 1.1.3.

17) đã dấy lên nhu cầu xác minh lý thuyết và tiếp tục điều tra thực nghiệm cho vấn đề này Nói cách khác, cần thực hiện nghiên cứu với điều kiện nào được xem là phù hợp để vận dụng tích hợp nhiều hay ít thước đo TC - phi TC và sau đó kiểm nghiệm xem liệu sự phù hợp (giữa điều kiện vận dụng và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC) có giúp cải thiện HQHĐKD không? Tất cả các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đều được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết bất định và được tác giả tổng kết từ mục 1.2 đến -1.3 (trang 18-35) Những nhận định được rút ra từ các mục này cho thấy chủ đề nghiên cứu chính của luận án “Tác động của nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC và ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC đến HQHĐKD dưới cách tiếp cận tổng thể” còn tồn tại 3 khoảng trống nghiên cứu gồm:

Nghiên cứu về mức độ ứng dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính trong hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam hiện đang thiếu hụt.

Các nghiên cứu hàn lâm về hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, với chỉ ba công trình nghiên cứu được thực hiện, bao gồm các tác giả Lê Hoàng Oanh (2020), Le Hoang Oanh và các cộng sự (2019), cùng với Ngô Thị Trà.

Năm 2021, có bốn nghiên cứu (Đoàn Ngọc Phi Anh, 2012a, b, 2016; Bùi Thị Trúc Quy, 2020; Lê Thị Mỹ Nương, 2020) đề cập đến mức độ vận dụng thước đo phi tài chính, liên quan gián tiếp đến BSC, một thành phần trong kỹ thuật kế toán quản trị hiện đại Ngoài ra, nghiên cứu của Trịnh Hiệp Thiện (2019) cũng xem xét việc áp dụng thước đo phi tài chính, nhưng chỉ liên quan gián tiếp đến kế toán đối thủ cạnh tranh Cuối cùng, nghiên cứu của Trần Quốc Việt (2012) tập trung vào mức độ chấp nhận vận dụng BSC trong quản lý.

Bài nghiên cứu này nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về mức độ tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính (TC - phi TC) trong hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD) của các doanh nghiệp sản xuất tại phía Nam Việt Nam Dù đã có bốn nghiên cứu trước đây (Hoang Van Tuong et al, 2020; Nguyễn Trần Phương Giang, 2017; Trương Thị Ngọc Xuyên, 2018; Tạ Lê Ngân Hà, 2019) liên quan đến mức độ vận dụng BSC, nhưng chưa có nghiên cứu nào tập trung vào việc tích hợp các thước đo này Kết quả nghiên cứu sẽ giúp làm rõ thực trạng và mức độ áp dụng của các doanh nghiệp trong khu vực.

Nghiên cứu về tác động của các nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính còn thiếu hụt, dẫn đến những kết quả không nhất quán Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến sự phù hợp giữa các nhân tố bất định và mức độ áp dụng thước đo tài chính - phi tài chính trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Các nghiên cứu về tác động của các nhân tố bất định đến việc vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính còn hạn chế, với chỉ 13 nghiên cứu chủ yếu từ các nước phát triển như Mỹ, Canada, Phần Lan, Úc, Anh và New Zealand, cùng với một số nước mới công nghiệp hóa như Đài Loan và Mã Lai Hiện tại, chưa có bằng chứng nào liên quan đến lĩnh vực này tại Việt Nam Đặc biệt, kết quả nghiên cứu ở các nước mới công nghiệp hóa thường mâu thuẫn với các nghiên cứu tại các nước phát triển; chẳng hạn, nghiên cứu của Jusoh (2010) tại Mã Lai cho thấy rằng nhân tố nhận thức không chắc chắn về môi trường không ảnh hưởng đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính, điều này trái ngược với các phát hiện ở các nước phát triển.

Nghiên cứu của Lee & Yang (2011) tại Đài Loan cho thấy mức độ cạnh tranh không ảnh hưởng đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính, trong khi các nghiên cứu của Hoque et al (2001) tại New Zealand và Zuriekat (2005) tại Anh lại khẳng định có tác động tích cực Bên cạnh đó, Mohamad et al (2013) tại Mã Lai chỉ ra rằng giá trị văn hóa kiểm soát có ảnh hưởng tích cực đến việc áp dụng tích hợp thước đo tài chính và phi tài chính, trái ngược với kết quả nghiên cứu của Henri.

Nghiên cứu của Eker & Eker (2009) tại Thổ Nhĩ Kỳ và Lee & Yang (2011) tại Đài Loan cho thấy không có tác động giữa mức độ cạnh tranh và mức độ vận dụng tích hợp thước đo TC - phi TC đến HQHĐKD, trái ngược với nhận định của Zuriekat (2005) tại Anh Điều này chỉ ra rằng cần có thêm nhiều nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam.

Thiếu hụt nghiên cứu về tác động của các nhân tố bất định đến việc áp dụng tích hợp các thước đo tài chính và phi tài chính, cũng như ảnh hưởng của sự phù hợp giữa những nhân tố này đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, là một vấn đề cần được xem xét dưới góc độ tổng thể.

Khái niệm sự phù hợp trong lý thuyết bất định có thể được tiếp cận qua ba cách: sự chọn lọc, sự tương tác và tổng thể Trong bối cảnh nghiên cứu, hai cách tiếp cận tương tác và tổng thể kiểm định tác động của sự phù hợp giữa nhân tố bất định và mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh (HQHĐKD), trong khi cách chọn lọc không thực hiện kiểm định này Nghiên cứu cho thấy nhiều công trình đã bỏ qua việc kiểm định sự phù hợp, điều này có thể dẫn đến việc hệ thống đo lường HQHĐKD không thực sự phù hợp với biến ngữ cảnh mà doanh nghiệp đối mặt Hơn nữa, một số nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân tố bất định và mức độ tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính đã cho kết quả không nhất quán, nhấn mạnh sự cần thiết của việc kiểm định tác động đến HQHĐKD Theo Van de Ven & Drazin (1984), cách tiếp cận tổng thể là cần thiết để cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị, trong khi cách tiếp cận tương tác lại gặp khó khăn trong việc thực hiện.

TC là một yếu tố riêng biệt đối với từng nhân tố bất định, do đó cần thực hiện mô hình phân tích đa biến để xác lập các mô hình tối ưu cho doanh nghiệp Tác giả chỉ tìm thấy nghiên cứu của Zuriekat (2005) áp dụng cách tiếp cận tổng thể trong lĩnh vực này.

Nghiên cứu này tập trung vào "Tác động của nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính và ảnh hưởng của sự phù hợp giữa các nhân tố này đến hiệu quả hoạt động kinh doanh" tại các doanh nghiệp sản xuất phía Nam Việt Nam Mục tiêu là kế thừa và phát triển các nghiên cứu trước đây để giúp doanh nghiệp xây dựng hệ thống đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh với mức độ tích hợp thước đo tài chính - phi tài chính phù hợp, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị trong việc lập kế hoạch, kiểm soát và ra quyết định hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Chương 1 trước hết trình bày tóm lược các giai đoạn hình thành – phát triển của hệ thống đo lường HQHĐKD và dòng nghiên cứu liên quan Tiếp nối là thực hiện khái quát các nghiên cứu nước ngoài về tác động của các nhân tố bất định đến mức độ vận dụng tích hợp thước đo

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Ngày đăng: 28/09/2021, 15:48

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w