Giới thiệu
Mục đích và đối tượng mục tiêu dự kiến
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giải quyết các thách thức về biến đổi khí hậu đối với trẻ em và thanh thiếu niên tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng UNICEF Việt Nam nhằm tăng cường sự chú ý và hành động trong bối cảnh bằng chứng còn hạn chế.
Nam đã tiến hành phân tích tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) và môi trường đối với trẻ em Mục tiêu của Báo cáo là thực hiện một phân tích toàn diện về tình hình trẻ em và BĐKH tại Việt Nam.
Nam Sự cần thiết về việc thực hiện phân tích được xác định thông qua đối thoại giữa Bộ
KH&ĐT và UNICEF sau cuộc đánh giá giữa kỳ quá trình triển khai Văn kiện dự án quốc gia giữa
Chính phủ Việt Nam và UNICEF giai đoạn 2017-
Vào năm 2021, Bộ KH&ĐT phối hợp với UNICEF Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu tình hình cơ sở về tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với trẻ em, nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2026 Mục tiêu là phát triển các chính sách lấy trẻ em làm trung tâm trong bối cảnh BĐKH Báo cáo phân tích cũng nhằm xác định các lĩnh vực cần nghiên cứu thêm để thúc đẩy các phương pháp tiếp cận này tại Việt Nam Đối tượng mục tiêu của báo cáo bao gồm Bộ KH&ĐT, các cơ quan chính phủ liên quan, UNICEF, các tổ chức phát triển khác trong lĩnh vực BĐKH và môi trường, cùng với khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự.
Cấu trúc của báo cáo
Phần 1 của báo cáo là trình bày mục đích và phương pháp luận của Báo cáo
Phần 2 đưa ra bức tranh tổng quan về các nguy cơ và tác động chính của BĐKH và rủi ro môi trường đối với trẻ em tại Việt Nam, với các dữ liệu cho thấy các xu hướng khí hậu gần đây cũng như dự báo trong tương lai, dựa trên mô hình kịch bản phát thải cao nhất (RCP8.5) Các tác động đến trẻ em được tóm tắt theo các lĩnh vực chính (An ninh lương thực, NS&VSMT, Y tế, Giáo dục và Bảo vệ Trẻ em).
Phần 3 xác định các chiến lược, kế hoạch, quy trình hiện có và trong tương lai của Chính phủ/ đối tác nhằm thu hút sự tham gia của các bên Dựa trên những khoảng trống trong các kế hoạch và chiến lược, Báo cáo đưa ra cách nhìn tổng thể về một số cơ hội để Bộ KH&ĐT, UNICEF và các bên liên quan khác có thể vận động nhằm thực hiện hành động về khí hậu phù hợp với trẻ em.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Phần 4 cung cấp thông tin chi tiết, chủ yếu được trình bày dưới dạng bảng biểu, về các cơ hội cụ thể đối với Bộ KH&ĐT, các đối tác phát triển bao gồm UNICEF, khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội dân sự và các bên liên quan khác, dựa trên dữ liệu thu thập được trong quá trình phân tích Các cơ hội này đòi hỏi sự phối hợp giữa các bên để thực hiện hành động về BĐKH.
Phần 5 kết luận và khuyến nghị.
Phần phụ lục trình bày các tài liệu tham khảo.
Phương pháp luận của Báo cáo
Báo cáo Phân tích được thực hiện bởi hai chuyên gia tư vấn, bao gồm một chuyên gia quốc tế và một chuyên gia trong nước, dưới sự chủ trì của Bộ KH&ĐT và sự hỗ trợ của UNICEF Phân tích này dựa trên tổng quan các tài liệu liên quan và phỏng vấn các bên liên quan chính ở cấp quốc gia cùng với các bên liên quan được lựa chọn ở cấp địa phương.
Nghiên cứu này tập trung vào các vấn đề liên quan đến trẻ em tại Việt Nam, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em ở vùng sâu vùng xa, trẻ em khuyết tật và trẻ em sống ở khu vực nghèo Phân tích cũng nhấn mạnh các khu vực cụ thể như Ninh Thuận, Đà Nẵng và vùng sông Cửu Long, nơi có nguy cơ cao về biến đổi khí hậu Các bên liên quan, bao gồm cán bộ UNICEF, cơ quan chính phủ, các tổ chức Liên hợp quốc, tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân, đã được phỏng vấn để thu thập thông tin Danh sách những người được phỏng vấn được trình bày trong Phụ lục.
2 Việc nghiên cứu tài liệu được thực hiện vào tháng 3, các cuộc tham vấn, tại Hà Nội, được thực hiện từ ngày 9 đến 14 tháng 3 năm 2020
Nghiên cứu này được thực hiện với sự hợp tác chặt chẽ của Bộ Khoa học và Đầu tư, UNICEF Việt Nam, và các bên liên quan chính Kết quả sơ bộ đã được trình bày trước UNICEF và Bộ Khoa học và Đầu tư, trong khi kế hoạch làm việc liên quan đến Báo cáo phân tích được nêu rõ trong Phụ lục 5.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Tổng quan về các hiểm họa, tác động chính của BĐKH và rủi ro môi trường đối với sự phát triển và lợi ích của trẻ em
Lượng mưa thay đổi: góp phần gây ra lũ lụt và hạn hán
Theo cổng thông tin dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đứng đầu về nguy cơ lũ lụt, cùng với Bangladesh.
Lũ lụt là rủi ro lớn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam, chiếm khoảng 97% thiệt hại hàng năm do thiên tai Vào quý cuối năm 2020, miền Trung đã chịu ảnh hưởng của nhiều cơn bão gây lũ lụt nghiêm trọng, tác động tới 7,7 triệu người, trong đó 1,5 triệu người bị ảnh hưởng trực tiếp tại 9 tỉnh và khoảng 380.000 ngôi nhà bị ngập hoặc hư hỏng Đặc biệt, trong số những người bị ảnh hưởng có khoảng 753.000 phụ nữ và trẻ em gái, 134.000 trẻ em dưới 5 tuổi, và 143.000 người trên 65 tuổi Khoảng 33% dân số Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt với chu kỳ 25 năm, và con số này có thể tăng lên 38-46% vào năm 2100, dẫn đến mức độ tổn thương tăng từ 13-27% so với hiện tại Dự báo, thiệt hại do lũ lụt có thể ảnh hưởng đến GDP khoảng 3,6 tỷ USD vào năm 2030.
Năm 2015-2016, Việt Nam đối mặt với đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong 90 năm, tác động đến hơn hai triệu người, trong đó có 520.000 trẻ em, tại 52 trong số 63 tỉnh thành Tình trạng khẩn cấp đã được ban bố ở 18 tỉnh trong giai đoạn đỉnh điểm của hạn hán, diễn ra từ tháng 2 đến tháng 5.
2016), ước tính có khoảng 2 triệu người không có nước sử dụng hoặc sinh hoạt, 1,1 triệu người không được đảm bảo an ninh lương thực và hơn
Hơn 2 triệu người đang phải đối mặt với thiệt hại hoặc mất sinh kế do hạn hán Từ tháng 10 năm 2016 đến năm 2020, tổng nhu cầu phục hồi cho các tỉnh bị ảnh hưởng ước tính lên tới 1,2 tỷ đô-la Mỹ Dự báo về tình trạng hạn hán trong thế kỷ tới cho thấy những thách thức nghiêm trọng đối với cuộc sống và sinh kế của người dân.
Theo kịch bản RCP 8.5, hạn hán có khả năng xảy ra thường xuyên và kéo dài hơn ở hầu hết các vùng khí hậu của Việt Nam Đặc biệt, tại khu vực sông Cửu Long, lượng mưa trong mùa khô dự báo sẽ giảm từ 10-20% vào năm 2050 và 20-40% vào năm 2100.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Các tác động khu vực xảy ra tại Việt Nam Khu vực sông Mê-kông được coi là một trong những
Khu vực "điểm nóng toàn cầu" đang đối mặt với nguy cơ cao về tính dễ bị tổn thương liên quan đến khí hậu, do dân số đông và vai trò quan trọng trong sản xuất lương thực Khoảng 1-1,3 triệu người tại 9 tỉnh sông Mê-kông bị ảnh hưởng bởi hạn hán, chiếm 13-17% tổng dân số Tỉnh Ninh Thuận đã trải qua tình trạng khẩn cấp do hạn hán từ năm 2015, trong khi Tây Nguyên ghi nhận thiệt hại 60% sản lượng cây trồng vào năm 2016 Tình trạng xâm nhập mặn cũng gia tăng tại tỉnh này Tại Đà Nẵng, các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ và hạn hán đã gây thiệt hại lớn về nhà ở, việc làm và cơ sở hạ tầng, đồng thời tạo áp lực lên hệ thống cấp nước và vệ sinh thực phẩm Những thách thức này dự kiến sẽ gia tăng cùng với sự phát triển, biến đổi khí hậu và gia tăng dân số.
Nhiệt độ tăng
Nhiệt độ tăng cao không chỉ làm ấm lên đại dương mà còn góp phần vào quá trình axit hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, sinh sản và di cư của các loài sinh vật biển Bên cạnh đó, tình trạng đánh bắt quá mức và ô nhiễm cũng tạo ra những căng thẳng bổ sung cho hệ sinh thái biển Ngoài ra, nhiệt độ cao có thể dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn ở các khu vực ven biển, đặc biệt trong thời kỳ hạn hán khi nước ngầm ngọt giảm, khiến nước mặn xâm nhập vào các tầng chứa nước Hiện tượng này thường xảy ra ở khu vực sông Cửu Long, khi độ mặn hỗn hợp có thể dịch chuyển vào đất liền do nguồn cung cấp nước ngọt giảm.
Trong giai đoạn 57 năm từ 1958 đến 2014, lượng mưa hàng năm ở Việt Nam cho thấy xu hướng giảm ở các khu vực phía Bắc và tăng ở phía Nam Đồng thời, hạn hán vào mùa khô diễn ra ngày càng thường xuyên hơn Ngoài ra, các hiện tượng mưa cực đoan cũng có xu hướng gia tăng trong giai đoạn 1961-2010.
Nam 4 Các dự báo trong tương lai về lượng mưa lớn cho thấy lượng mưa hàng năm sẽ tăng 57 mm vào năm 2050 (RCP 5 8.5,
Tổng lượng mưa từ đầu vụ hè thu hiện nay thấp hơn nhiều so với mức trung bình nhiều năm, khiến việc trữ nước ở các hồ thủy lợi và thủy điện chỉ đạt 20-60% năng lực thiết kế Nhiều hồ nhỏ gần như luôn cạn nước Dự báo lượng mưa trong mùa mưa sẽ tăng từ 10-20% vào năm 2050 và 10-30% vào năm 2100.
Kể từ đầu mùa hè-thu năm 2019, khí hậu đã có những biến đổi bất thường, với sự gia tăng tần suất và thời gian kéo dài của các đợt sóng nhiệt, đặc biệt là tại khu vực miền Trung.
Tây Nguyên Hơn thê nữa, những đợt sóng nhiệt này thường diễn ra từ 9-12 tháng 6 tới 20-23 tháng 6 năm 2019 với nhiệt độ cao nhất ở khoảng 37-40 độ C
4 mặc dù cổng dữ liệu của Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng các trận mưa lớn không thay đổi đáng kể kể từ năm
Năm đường nồng độ khí nhà kính đại diện (RCP) là các quỹ đạo nồng độ khí nhà kính được Ủy ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) thông qua Trong đó, bốn đường đại diện đã được áp dụng để lập mô hình và nghiên cứu khí hậu cho Báo cáo Đánh giá lần thứ năm của IPCC (AR5) vào năm 2014.
Cuối thế kỷ, có 6 thay đổi không có ý nghĩa thống kê trong bốn đường phát thải, cho thấy rằng ước tính về mưa lớn trong tương lai vẫn còn nhiều bất định.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Việt Nam tăng khoảng 0,50C đến 0,60C trong 50 năm qua (1958-2007) và dự kiến sẽ tăng
Dự báo vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ tại Việt Nam có thể tăng lên 3,36°C trong khoảng thời gian từ năm 2080 đến 2100 Số lượng các đợt sóng nhiệt kéo dài 3 ngày liên tiếp sẽ gia tăng ở hầu hết các khu vực trên cả nước.
Nam, đặc biệt là khu vực Nam Bộ và Nam
Tây Nguyên, có thể tăng thêm từ 6 đến 10 đợt sóng nhiệt
Mực nước trung bình vùng ven biển Việt
Mực nước biển tại Việt Nam đang tăng trung bình 3,5 ± 0,7 mm/năm, theo số liệu từ 17 trạm đo ven biển và hải đảo Nếu mực nước biển dâng lên 1m, khoảng 1/3 diện tích Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập Sự kết hợp giữa nhiệt độ cao và mực nước biển tăng có thể dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn ở các khu vực ven biển Đến cuối thế kỷ này, mực nước biển cao hơn tại Đồng bằng sông Cửu Long, nơi sản xuất gần một nửa sản lượng lúa của Việt Nam, có thể làm ngập khoảng 1,4 triệu ha đất nông nghiệp trong khu vực.
Dự báo đến năm 2050, tổng số ngày nóng hàng năm (nhiệt độ trên 35°C) sẽ tăng thêm 27 ngày so với giai đoạn 1980-1999, dẫn đến tình trạng căng thẳng nhiệt mãn tính ở một số khu vực, ngay cả trong kịch bản phát thải thấp Đến cuối thế kỷ 21, mức tăng này có thể đạt 60-70 ngày ở một số vùng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trong số các khu vực đô thị toàn cầu đang phải đối mặt với nguy cơ từ cái nóng "chết người".
Dự báo thời tiết cho thấy Việt Nam sẽ trải qua 3 ngày nắng nóng liên tiếp, đặc biệt tại khu vực Nam Bộ và Nam Tây Nguyên Nhiệt độ có thể gia tăng thêm từ 6 đến 10 đợt sóng nhiệt trong thời gian tới.
Mực nước biển dâng và xâm nhập mặn
Mực nước biển dâng, do giãn nở nhiệt của đại dương và tan chảy băng ở Greenland và Nam Cực, đang gia tăng do biến đổi khí hậu, dẫn đến nhiễm mặn, lũ lụt và xói mòn Tình trạng này ảnh hưởng đến hệ sinh thái, sức khỏe con người, nguồn nước ngọt, đa dạng sinh học và nông nghiệp Nhiệt độ tăng ở các tầng trên của đại dương cũng làm gia tăng cường độ và tần suất các cơn bão, gây tác động nghiêm trọng đến khu vực ven biển Ở một số vùng ven biển, nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền đến 90 km, khiến nước sông trở nên quá mặn cho con người và động vật, ảnh hưởng đến khả năng tưới tiêu cây trồng và nuôi cá Dự báo tỷ lệ người dân nông thôn bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn sẽ tăng từ 39,5% năm 2012 lên 47,6% vào năm 2050.
Kể từ tháng 1 năm 2016, hơn hai triệu người ở
Mười tám tỉnh miền Nam Việt Nam đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ hạn hán và xâm nhập mặn do hiện tượng El Niño và Dao động phương Nam gây ra Hiện tượng này ngày càng trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất nông nghiệp trong khu vực.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M trọng hơn do BĐKH 23
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, mực nước ngầm giảm do hạn hán đã dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn trên diện rộng nhất trong 90 năm
Xâm nhập mặn đã trở thành hiện tượng hàng năm tại Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là từ tháng 12 đến tháng 4, nhưng năm 2016, hiện tượng này xảy ra sớm hơn gần hai tháng và nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất liền tới 20-30 km Hậu quả là khoảng 400.000 ha đất nông nghiệp bị ảnh hưởng, trong đó 25.900 ha không thể trồng trọt Dự báo vào cuối thế kỷ này, mực nước biển dâng cao có thể làm ngập khoảng 1,4 triệu ha đất nông nghiệp tại khu vực này, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lúa gạo, thủy sản và trái cây Nếu mực nước biển dâng thêm một mét, thành phố Hồ Chí Minh, nơi sinh sống của hơn 6 triệu người, sẽ bị ngập, cùng với chín khu vực đa dạng sinh học quan trọng tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Nẵng đang phải đối mặt với tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn trên các sông, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc cấp nước và làm gia tăng áp lực lên các lĩnh vực kinh tế - xã hội như du lịch, vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng Vào tháng 8/2018, xâm nhập mặn vào sông Cầu Đỏ đã dẫn đến tình trạng thiếu nước nghiêm trọng cho nhiều khu vực trong thành phố Đà Nẵng được xác định là thành phố có nguy cơ cao chịu tác động từ biến đổi khí hậu.
Theo cập nhật năm 2012, mực nước biển tại thành phố sẽ tiếp tục gia tăng, dẫn đến việc khoảng 2,4 km2 khu vực sẽ dễ bị ngập lụt vào năm 2030.
Phụ lục 4 trình bày bằng đồ thị về một số xu hướng BĐKH nêu trên.
Các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai liên quan đến BĐKH
và thiên tai liên quan đến BĐKH
Thiên tai liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam bao gồm lốc xoáy, sạt lở đất, hạn hán và lũ lụt kéo dài Việt Nam có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng của lốc xoáy nhiệt đới, đặc biệt dọc theo bờ biển phía Bắc, miền Trung và khu vực sông Cửu Long Biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm tăng nguy cơ lốc xoáy một cách phức tạp, với các rủi ro như mực nước biển dâng và khả năng tăng tốc độ gió, cường độ mưa Từ 1961-2010, không có sự thay đổi rõ rệt về tần suất lốc xoáy, nhưng bão cường độ trung bình giảm và bão cường độ cao tăng Mùa bão hiện nay kết thúc muộn hơn và có nhiều trận đổ bộ vào các khu vực phía Nam Mực nước biển dâng cao dự đoán sẽ gây ra tác động kinh tế lớn, dẫn đến thiệt hại cho nông nghiệp và cơ sở hạ tầng Sự gia tăng dân số và cơ sở hạ tầng ở các khu vực tiếp xúc làm tăng khả năng thiệt hại do lốc xoáy.
Từ năm 1998 đến 2015, Đà Nẵng đã phải đối mặt với 26 cơn bão, 13 trận áp thấp nhiệt đới và 46 trận lũ lụt, gây thiệt hại nặng nề cho thành phố Các thiên tai này đã làm 219 người chết hoặc mất tích, 226 người bị thương, và 156 tàu bị mất Hơn 138.134 ngôi nhà bị phá hủy, cùng với tổng thiệt hại về cơ sở hạ tầng và nông nghiệp lên đến 9.401,6 tỷ đồng, tương đương 423 triệu USD.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Tác động của BĐKH đối với trẻ em: Các lĩnh vực chính
em: Các lĩnh vực chính
Biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra nhiều hiểm họa như thay đổi lượng mưa dẫn đến hạn hán và lũ lụt, nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, xâm nhập mặn, cùng với các hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trẻ em Những tác động này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn gián tiếp đến an ninh lương thực, dinh dưỡng, sức khỏe, bệnh tật, nước và vệ sinh, giáo dục, cũng như tình trạng di cư Thế giới hiện đang đối mặt với nguy cơ gia tăng tỷ lệ bệnh tật, mất an ninh lương thực và khan hiếm nước do BĐKH, có thể làm đảo lộn những thành tựu về sức khỏe và phát triển trẻ em trong suốt 30 năm qua.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hơn 88% các bệnh do biến đổi khí hậu xảy ra ở trẻ em dưới 5 tuổi, với bệnh tiêu chảy là nguyên nhân thứ hai gây tử vong, dẫn đến 361.000 ca tử vong hàng năm do thiếu tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường Chất lượng nước sạch, an ninh lương thực và y tế đều bị ảnh hưởng bởi suy thoái môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và mất đa dạng sinh học, cùng với các tác động của biến đổi khí hậu Các tác động này đặc biệt nghiêm trọng đối với trẻ em trong các lĩnh vực chính như sức khỏe, dinh dưỡng và môi trường.
2.5.1 An ninh lương thực và dinh dưỡng (Chỉ số SDG
Báo cáo đánh giá lần thứ 5 (AR5) của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã chỉ ra rằng biến đổi khí hậu sẽ gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến dinh dưỡng của trẻ em, điều này cần được chú ý và hành động kịp thời.
Ngành nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, bao gồm lượng mưa thay đổi, nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng và xâm nhập mặn Những yếu tố này không chỉ dẫn đến mất mùa và giảm năng suất mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của các hộ gia đình, đe dọa an ninh lương thực và dinh dưỡng Dự báo trong 50 năm tới, khoảng 50% diện tích canh tác ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng và xâm nhập mặn, gây thiệt hại cho hàng triệu cư dân Năm 2020, có khoảng 685.558 người, trong đó có 141.781 trẻ em, dự kiến sẽ bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn tại khu vực này Ngoài ra, nhiệt độ đại dương tăng và axit hóa cũng đang đe dọa hệ sinh thái biển, ảnh hưởng đến sinh kế của cộng đồng ven biển tại Việt Nam, nơi phụ thuộc vào nghề đánh bắt Sự giảm sút sản lượng đánh bắt không chỉ ảnh hưởng đến nguồn thực phẩm mà còn tác động đến thu nhập của các gia đình, đặc biệt là đối với trẻ em.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Trẻ em rất dễ bị ảnh hưởng bởi tình trạng mất an ninh lương thực, vì thiếu dinh dưỡng có thể làm chậm quá trình phát triển và giảm cơ hội học tập do thu nhập hộ gia đình thấp Tình trạng này cũng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm trong tương lai và đe dọa sức khỏe của bà mẹ, ảnh hưởng đến khả năng sống sót và phát triển của trẻ trong những năm đầu đời Mặc dù tỷ lệ thiếu dinh dưỡng ở châu Á đã giảm từ 17,4% vào năm 2005, nhưng vẫn cần có những biện pháp cải thiện tình hình này.
Năm 2018, tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với ngành nông nghiệp và thủy sản ngày càng nghiêm trọng, có thể làm thay đổi những xu hướng tích cực trong đảm bảo an ninh lương thực tại Việt Nam Mặc dù vẫn duy trì và tăng sản lượng gạo và thủy sản, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dân tộc thiểu số dưới 5 tuổi vẫn cao (32% so với 17,1% trung bình cả nước) Những khu vực dễ bị tổn thương, đặc biệt là nơi có nhiều dân tộc thiểu số và người nghèo như miền Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, chịu ảnh hưởng nặng nề từ BĐKH đối với an ninh lương thực.
Một nghiên cứu của Lê Thị Kim Oanh và Lê Minh
Theo Trương (2017), biến đổi khí hậu (BĐKH) làm gia tăng tình trạng di cư của nông dân, điều này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực cho trẻ em, vì khả năng tiếp cận thực phẩm của các gia đình sẽ giảm khi họ rời bỏ đồng ruộng.
Hạn hán, khan hiếm nước và lũ lụt làm gia tăng các bệnh lây truyền qua đường nước, véc-tơ và thực phẩm như tiêu chảy, sốt xuất huyết và sốt rét Lũ lụt gây thiệt hại nặng nề về tài sản và tính mạng, đặc biệt ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em do họ có ít cơ hội học bơi Trẻ em tại các khu vực thành thị ở nước kém phát triển có nguy cơ cao mắc bệnh do nguồn nước, tình hình này càng nghiêm trọng do mưa nhiều và lũ lụt cục bộ Tỷ lệ mắc bệnh sốt xuất huyết đang gia tăng ở Việt Nam và dự báo sẽ trở nên nghiêm trọng hơn Lũ lụt, được xem là thiên tai lớn liên quan đến khí hậu, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em tại Việt Nam, với sự gia tăng ca nhập viện ở Đồng bằng sông Cửu Long có liên quan đến lũ sông theo mùa, và tình trạng này sẽ càng nghiêm trọng khi lũ lụt làm gia tăng lượng mưa.
Nhiệt độ môi trường gia tăng cùng với các hiện tượng thời tiết cực đoan và thiên tai đang dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc một số bệnh ở trẻ em.
Nhiệt độ trung bình tăng 1°C có liên quan đến sự gia tăng nguy cơ mắc các bệnh như tiêu chảy (0,4%), bệnh lỵ trực khuẩn (2,5%), bệnh quai bị (0,9%), cúm (1,1%), sốt xuất huyết (5%), sốt rét (0,4%) và bệnh dại (2%) Trẻ em, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, rất dễ bị tổn thương khi tiếp xúc với nhiệt độ cao Sự gia tăng nhiệt độ do biến đổi khí hậu dự kiến sẽ dẫn đến tỷ lệ sinh non cao hơn, giảm trọng lượng khi sinh và tăng tỷ lệ thai chết lưu.
Vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ em cũng bị ảnh hưởng bởi biến đối khí hậu như được thảo luận trong phần 2.5.6
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành Y tế giai đoạn 2019-2030 và tầm nhìn đến năm 2050, do Cục Quản lý môi trường y tế đề xuất, nhấn mạnh rằng nhiệt độ gia tăng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như sốt xuất huyết, tiêu chảy, và tay chân miệng, đồng thời dẫn đến tỷ lệ nhập viện cao hơn, đặc biệt ở trẻ em và người cao tuổi Cụ thể, một sự tăng nhiệt độ 1 độ C có thể làm tăng tỷ lệ nhập viện ở trẻ em từ 3,4% đến 4,5%.
2.5.3 Nước sạch, Vệ sinh và Môi trường
Biến đổi khí hậu (BĐKH) ảnh hưởng đến lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT) qua nhiều cách, gây ra tác động tiêu cực đến nguồn nước và chất lượng nước uống Ngoài ra, BĐKH còn ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ vệ sinh và môi trường, cũng như tác động đến đầu tư, cơ sở hạ tầng và các cộng đồng liên quan.
Việt Nam đã vượt qua các chỉ tiêu Thiên niên kỷ về nước sạch và vệ sinh môi trường với 82% và 68% dân số được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh Hiện tại, 98% dân số (khoảng 97 triệu người) có nước sinh hoạt an toàn, nhưng chỉ 10% người dân nông thôn và 61% dân thành phố được sử dụng nước máy Biến đổi khí hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, đặc biệt là ở nông thôn, nơi 41% dân số tự cung cấp nước Chất lượng nước tự cung cấp thường kém do thiếu hiểu biết và lựa chọn xử lý hạn chế Các sự kiện khí hậu như lũ lụt làm hỏng cơ sở hạ tầng nước, dẫn đến ô nhiễm và khan hiếm nước sạch, gia tăng bệnh tật như tiêu chảy Phụ nữ nông thôn gánh vác trách nhiệm lấy nước cho gia đình, ảnh hưởng đến thời gian, an toàn và khả năng tiếp cận giáo dục Khoảng 65% hộ gia đình thiếu nước tại chỗ, và phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số, chịu gánh nặng lớn hơn trong việc này Mặc dù là người sử dụng nước chính, phụ nữ ít có cơ hội tham gia vào quyết định liên quan đến nguồn nước sinh hoạt.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M đồng và các kết quả liên quan đến phúc lợi 52
Thiếu nước sạch và cơ sở vệ sinh ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc học tập của các bé gái, đặc biệt trong giai đoạn dậy thì Việc không có các công trình vệ sinh phù hợp dẫn đến việc các em phải bỏ lỡ nhiều buổi học và tiềm ẩn nguy cơ bị bạo lực thể xác.
Sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT) không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn cải thiện kết quả hoạt động trong lĩnh vực này.
Suy thoái môi trường và các tác động đến trẻ em
Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề suy thoái môi trường, tương tự như nhiều quốc gia khác, đặc biệt là những nơi phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên Ba dấu hiệu chính của suy thoái môi trường bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và mất đa dạng sinh học Áp lực lên môi trường gia tăng do dân số tăng nhanh, đô thị hóa mạnh mẽ, và sự gia tăng hoạt động giao thông, công nghiệp, xây dựng, cũng như khai thác tài nguyên Ô nhiễm nước thường xảy ra do hóa chất từ các hoạt động của con người.
Các nguồn ô nhiễm môi trường chủ yếu bao gồm thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, khí thải và chất thải từ các hoạt động công nghiệp, nước thải, cũng như quy trình xử lý chất thải và nước.
Khai thác nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu
Long gây ra sụt lún đất, và việc xây dựng đập ở thượng nguồn làm thay đổi dòng chảy sông
Mê Kông và làm giảm sự phân bố của phù sa 74
Ngoài những vấn đề về nước do con người gây ra, làm giảm khả năng cung cấp và chất lượng nước, biến đổi khí hậu cũng tạo ra những thay đổi đáng kể, góp phần gia tăng áp lực lên nguồn nước.
Hiện nay, chỉ 13.5% nước thải đô thị được xử lý, dẫn đến tình trạng nước thải chưa qua xử lý và rác thải được xả ra biển Đà Nẵng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước biển Sự rò rỉ và mùi hôi từ bãi rác tác động xấu đến môi trường sống của hàng nghìn hộ gia đình, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, gây ra bệnh tật và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe Biến đổi khí hậu cũng gia tăng áp lực lên nguồn nước của Việt Nam trong quá trình phát triển.
Tình trạng ô nhiễm nước ở Việt Nam chủ yếu do các yếu tố như phát triển thủy văn không bền vững (xây dựng đập), khai thác quá mức nguồn nước ngầm, thay đổi mục đích sử dụng đất, đặc biệt trong nuôi trồng thủy sản, và sự phát triển đô thị nhanh chóng, thường thiếu quy hoạch hợp lý.
Việt Nam nổi bật với mức độ đa dạng sinh học cao nhất toàn cầu, nhưng sự phát triển kinh tế nhanh chóng thường đi kèm với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Tình trạng mất đa dạng sinh học tại Việt Nam vẫn tiếp diễn do sự phá hủy môi trường sống và chuyển đổi đất đai từ các hoạt động kinh doanh, nông nghiệp và khai thác không bền vững Các vấn đề như ô nhiễm, khai thác quá mức rừng và thủy sản, cùng với việc đánh bắt và buôn bán trái phép các loài có nguy cơ tuyệt chủng, đã làm tình hình trở nên nghiêm trọng hơn Hơn nữa, tác động của mất đa dạng sinh học còn gia tăng do biến đổi khí hậu, dẫn đến sự suy giảm các dịch vụ hệ sinh thái.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M Ô nhiễm chất thải nhựa
Theo một số nghiên cứu, Việt Nam xếp thứ tư trên thế giới về lượng rác thải nhựa với khoảng
730,000 tấn rác thải nhựa ra đổ ra biển hàng năm 77 Tác giả cũng ghi nhận công nghệ để tái chế rác thải nhựa ở các thành phố lớn của Việt
Nam đã trở nên lỗi thời, không còn hiệu quả và tốn kém Nếu không có biện pháp can thiệp, dự báo đến năm 2050, đại dương sẽ chứa nhiều rác hơn cá, điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến trẻ em, nhóm phụ thuộc vào việc đánh bắt hải sản để đảm bảo an ninh dinh dưỡng và sẽ mất đi kết nối với môi trường tự nhiên trong sạch.
Đa dạng sinh học có giá trị to lớn đối với đời sống hạnh phúc của người dân, bao gồm cả trẻ em, và đóng góp quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam Tuy nhiên, giá trị này chưa được ghi nhận đầy đủ trong tinh thần quốc gia và quy hoạch kinh tế Việc quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên đa dạng sinh học là cần thiết để bảo vệ và phát huy những lợi ích này cho tương lai.
Hệ thống quản lý nhà nước về đa dạng sinh học tại Việt Nam hiện đang còn thiếu hoàn thiện và yếu kém, với các luật và quy định bảo vệ chưa có tính hệ thống và không phù hợp với chính sách Sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo tồn vẫn chưa được phát huy đầy đủ, trong khi quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học ở cấp quốc gia, vùng và tỉnh chưa được thực hiện một cách đồng bộ Đầu tư cho bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học vẫn còn hạn chế.
Toàn bộ hệ sinh thái, cả đất liền và biển, của
Việt Nam đang đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng về môi trường, với nghiên cứu từ Viện Hải dương học Nha Trang cho thấy số lượng rạn san hô sống đã giảm gần 30% từ năm 1994 đến 2007 Hơn nữa, rừng ngập mặn tự nhiên gần như đã biến mất hoàn toàn, trong khi 56% tổng diện tích rừng ngập mặn hiện nay là rừng trồng, có tính đa dạng loài rất thấp.
Nghị quyết 120 yêu cầu kiểm soát chặt chẽ rừng tự nhiên, không chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, trừ những trường hợp liên quan đến an ninh, quốc phòng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt Cần có tuyên bố mạnh mẽ để bảo vệ các khu rừng ngập mặn tự nhiên còn lại Môi trường sống của động vật hoang dã đang suy giảm do thay đổi trong việc sử dụng đất Theo Sách Đỏ Việt Nam (2007), có 882 loài (418 loài động vật và 464 loài thực vật) bị đe dọa, tăng 161 loài so với lần đánh giá đầu tiên (1992-1996) Đáng chú ý, mười loài đã chuyển từ mức Nguy cấp sang tình trạng Tuyệt chủng trong tự nhiên.
Các lựa chọn chính sách về cơ sở hạ tầng, năng lượng, đô thị hóa, và mô hình sản xuất tiêu dùng sẽ quyết định sự chuyển đổi của Việt Nam sang phát triển xanh, ít phát thải và thích ứng với khí hậu Nếu tiếp tục ưu tiên khai thác nguồn lực, tiến bộ kinh tế xã hội và phát triển bền vững sẽ bị đe dọa Mặc dù Việt Nam cam kết giải quyết biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, nhưng mô hình kinh tế hiện tại đang dẫn đến phát thải khí nhà kính cao, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường, đồng thời gia tăng rủi ro về biến đổi khí hậu và thiên tai, làm mất đi cơ hội phát triển bền vững.
2.6.1 Ô nhiễm không khí và tác động tới trẻ em
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố nghiên cứu cho thấy ô nhiễm không khí có tác động nghiêm trọng đến trẻ em Trẻ em dễ bị ảnh hưởng hơn người lớn do nhịp thở cao và tiếp xúc lâu dài với ô nhiễm có thể gây ra sự phát triển không bình thường Hơn nữa, trẻ em thường dành nhiều thời gian ngoài trời, hít phải lượng ô nhiễm cao hơn Do kích thước nhỏ hơn, trẻ em gần mặt đất nơi nồng độ ô nhiễm cao nhất, đặc biệt trong giai đoạn phát triển não bộ và cơ thể Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm không khí trong nhà, đặc biệt ở những gia đình sử dụng nhiên liệu và công nghệ gây ô nhiễm cho các hoạt động nấu nướng, sưởi ấm và chiếu sáng.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Nguồn: Tổ chức Y tế Thế giới 2018 https://www.who.int/phe/infographics/air-pollution/en/
Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của trẻ em tại Việt Nam Ô nhiễm không khí, một trong những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe cho trẻ nhỏ, bao gồm bệnh hô hấp, dị ứng và các vấn đề về phát triển trí tuệ Trẻ em, với hệ miễn dịch còn non yếu, đặc biệt dễ bị tổn thương trước các yếu tố ô nhiễm Do đó, việc nâng cao nhận thức và triển khai các biện pháp bảo vệ môi trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo tương lai khỏe mạnh cho thế hệ trẻ.
• Ô nhiễm không khí là một trong những mối đe dọa hàng đầu đối với sức khỏe trẻ em, chiếm gần 1/10 trường hợp tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi;
Các vấn đề về năng lượng tại Việt Nam và các tác động tiềm tàng đối với trẻ em
Tỷ lệ dân số Việt Nam sống trong nghèo đói đã giảm mạnh từ 50% năm 1990 xuống còn 3% năm 2014 Đến năm 2015, hầu hết các hộ gia đình ở khu vực thành phố đã có điện, nước và công trình vệ sinh, đánh dấu một thành tựu lớn so với mức dưới 50% năm 1990 Chiến lược Phát triển Năng lượng Quốc gia đến năm 2020, với tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm tất cả các dạng năng lượng và đã được cập nhật vào năm 2017 Chiến lược này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo, và cần thiết phải đánh giá chính xác trữ lượng năng lượng sơ cấp như than, dầu khí, thủy điện và uranium, cũng như khảo sát và khai thác các nguồn năng lượng khác trong nước.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Biến đổi khí hậu (BĐKH) được tích hợp trong nhiều chiến lược và kế hoạch kinh tế xã hội, đặc biệt trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và lâm nghiệp, nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ người nghèo nông thôn trong việc cung cấp năng lượng, kết hợp việc sử dụng năng lượng mới và tái tạo vào các chương trình tiết kiệm năng lượng và mục tiêu quốc gia như điện khí hóa nông thôn, trồng rừng và xóa đói giảm nghèo Báo cáo này không tập trung vào chính sách năng lượng của Việt Nam để tìm kiếm cơ hội hành động, mà thay vào đó, nó đưa ra cái nhìn tổng quan về các mâu thuẫn tiềm ẩn trong chính sách và hành động hiện tại.
Giá điện thấp và thiếu lộ trình giá năng lượng dài hạn, cùng với Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả yếu kém, sẽ cản trở đầu tư và thực hiện các biện pháp tiết kiệm năng lượng Điều này tạo ra gánh nặng không cần thiết về phát điện và đầu tư Thiếu cam kết và đầu tư vào năng lượng tái tạo để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và dân số đang phát triển sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em, thông qua gia tăng phát thải khí nhà kính, góp phần vào biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, mất đa dạng sinh học, và giảm chất lượng không khí và nước.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À TÁ C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M
Việc sử dụng năng lượng không tái tạo ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em qua nhiều khía cạnh, bao gồm sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất, sự phụ thuộc vào các hành lang giao thông, và sự phát thải khí nhà kính Những yếu tố này góp phần vào biến đổi khí hậu, như đã được nêu trong báo cáo, và tạo ra những tác động nghiêm trọng đến sự phát triển và sức khỏe của trẻ em.
Tác động của thách thức kép của BĐKH và đại dịch COVID-19 đối với trẻ em
Đại dịch COVID-19 và biến đổi khí hậu (BĐKH) đã gây ra những tác động phức tạp và sâu rộng đến trẻ em, đặc biệt là những em có hoàn cảnh khó khăn Nhiều gia đình vốn đã chịu thiệt hại từ BĐKH nay lại phải đối mặt với những thách thức mới do COVID-19, làm gia tăng tình trạng bất lợi cho trẻ em.
Biến đổi khí hậu và đại dịch đã dẫn đến mất thu nhập, khiến các gia đình khó khăn trong việc chi trả cho nhu cầu thiết yếu như thực phẩm và nước uống Hệ thống chăm sóc sức khỏe bị quá tải, làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho trẻ em Giáo dục cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do trường học đóng cửa; trong khi một số trẻ em có cơ hội học trực tuyến, khoảng 3 triệu trẻ em Việt Nam, bao gồm trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ khuyết tật, lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nền tảng học tập, dẫn đến mất cơ hội học tập Việc học trực tuyến đặc biệt khó khăn đối với trẻ em thuộc các nhóm này.
Đại dịch COVID-19 đã làm gia tăng các vấn đề bảo vệ trẻ em, khiến trẻ em dễ bị bạo lực, bóc lột và xâm hại hơn Theo tóm tắt chính sách của UNICEF và ILO, khủng hoảng này có thể dẫn đến sự gia tăng lao động trẻ em lần đầu tiên sau 20 năm Khi các hộ gia đình phải đối mặt với mất thu nhập và đói nghèo gia tăng, họ có thể buộc phải sử dụng trẻ em lao động như một biện pháp sinh tồn.
Nghiên cứu chỉ ra rằng các biện pháp khóa cách ly và cung cấp nhà tạm lánh có thể làm tăng nguy cơ trẻ em phải chứng kiến hoặc trải qua các hành vi bạo lực và xâm hại.
Trẻ em và gia đình dễ bị tổn thương ở Đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với những tác động nghiêm trọng từ hạn hán, xâm nhập mặn và tình trạng biến đổi khí hậu, cùng với những thách thức do COVID-19 Hơn 35% trạm y tế xã ở các tỉnh như Điện Biên, Gia Lai, Kon Tum và Ninh Thuận báo cáo về tình trạng nước uống không đủ hoặc không an toàn, trong khi khoảng 30% trường học trên toàn quốc không có nước máy Điều này làm tăng nguy cơ lây nhiễm COVID-19 cho trẻ em và các nhóm dễ bị tổn thương khác.
Những thách thức do COVID-19 mang lại có những tác động sau:
COVID-19 đã tạo ra nhiều vấn đề phức tạp hơn do sự không chắc chắn ở các khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu trong quá trình chuyển đổi từ ứng phó sang phục hồi Điều này dẫn đến tình trạng tiến thoái lưỡng nan trong việc quản lý các cú sốc kéo dài, đồng thời cần chuẩn bị cho việc phục hồi và giải quyết các thách thức trước đó liên quan đến nghèo đói và bất bình đẳng.
Ngân sách Chính phủ có thể phải chi vượt mức để đối phó với cuộc khủng hoảng y tế do COVID-19, đồng thời phải giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, thiên tai, nghèo đói và bất bình đẳng Khu vực tư nhân có thể gặp khó khăn, dẫn đến giảm lợi nhuận và tăng trưởng, từ đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp cho các mục tiêu quốc gia.
Có sự chênh lệch về kiến thức và năng lực trong việc giải quyết khủng hoảng kép giữa cán bộ cơ quan trung ương và địa phương, cũng như giữa các cộng đồng và gia đình Điều này còn thể hiện ở việc thiếu kiến thức cơ bản trong việc chuẩn bị và quản lý các vấn đề liên quan đến khí hậu và thiên tai.
Các yêu cầu về giãn cách xã hội có thể cản trở hiệu quả công tác ứng phó tại chỗ, cũng như làm giảm khả năng đánh giá nhanh và giám sát các thảm họa thiên tai và khí hậu.
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH V À T Á C ĐỘNG CỦ A BIẾN ĐỔI KHÍ HẬ U ĐỐI V ỚI TRẺ EM T ẠI VIỆ T NA M