1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Buổi thảo luận dân sự

49 274 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 384,55 KB

Cấu trúc

  • PHẦN TÓM TẮT CÁC QUYẾT ĐỊNH,BẢN ÁN.

    • Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM-GDT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

    • Tóm tắt quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

    • Tóm tắt quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

    • Tóm tắt quyết định 08/2013/DS-GĐT về ciệc “đòi tài sản bị chiếm giữ”

    • Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 01/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh

    • Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 619/2011/DS – GĐT ngày 18/8/2011 về việc “chia thừa kế theo di chúc”

    • Tóm tắt quyết định 767/DS-GĐT ngày 17/10/2011 về việc “tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”

    • Tóm tắt quyết định 194/DS-GĐT ngày 23/04/2012 về việc “Tranh chấp thừa kế tài sản”

    • Tóm tắt quyết định 363/DS-GĐT ngày 28/08/2013 về việc “tranh chấp thừa kế”

    • Khái quát nội dung án lệ 24/2018/AL

    • Khái quát nội dung của án lệ 05/2016/AL:

  • VẤN ĐỀ 1.

    • a,TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ.

      • 1.1. Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện.

      • 1.2. Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?

      • 1.3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không?

      • 1.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết phục không?)

      • 1.5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel không?

      • 1.6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.

      • 1.7. Nếu ông Mạnh là đại diện pháp luật của Hưng Yên và hợp đồng có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên (như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do người đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án.

    • b) TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ.

      • 1.8: Trong quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với ngân hàng không được Vinaconex uỷ quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập) ?

      • 1.9: Trong vụ việc trên, theo Toà giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với ngân hàng về hợp đồng trên hay không?

      • 1.10: Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm.

      • 1.11: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?

  • VẤN ĐỀ 2

    • a,HÌNH THỨC SỞ HỮU.

      • 2.1: Những điểm mới của BLDS2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản.

      • 2.2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là Quyết định 377) cho câu trả lời?

      • 2.3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?

      • 2.4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào Quyết định 377 cho câu trả lời?

      • 2.5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Toàn án nhân dân tối cao?

      • 2.6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.

    • b. DIỆN THỪA KẾ

      • 2.7: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao?

      • 2.8. Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao?

      • 2.9.Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?

      • 2.10: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.

      • 2.11. Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất đang tranh chấp? Vì sao?

    • c. THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC.

      • 2.12.Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?

      • 2.13 Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?

      • 2.14.Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?

      • 2.15.Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?

      • 2.16 Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?

      • 2.17 Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao ?

      • 2.18 Trong Bản án số 2493, đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?

      • 2.19 Ai được cụ Khánh viết di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?

      • 2.20 Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho thấy câu trả lời?

      • 2.21 Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?

      • 2.22 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?

      • 2.23 Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động? Vì sao?

      • 2.24. Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.

      • 2.25.Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà trước khi chết ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không ?

      • 2.26.Đối với hoàn cảnh như trên , pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào?

      • 2.27.Suy nghĩ của anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho.

    • d) NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

      • 2.28.Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán?

      • 2.29.Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành không?

      • 2.30.Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?

      • 2.31.Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không?

      • 2.32.Trên cơ sở các quy định chung về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.

  • VẤN ĐỀ 3

    • 3.1: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).

    • 3.2: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không? Vì sao?

    • 3.3: Trong thực tế xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ hay không? Vì sao?

    • 3.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng gải quyết của Tòa án trong 03 quyết định liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc?

    • 3.5: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc?

    • 3.6: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt Nam?

    • 3.7: Cho biết hệ quả pháp lí khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.

    • 3.8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?).

  • VẤN ĐỀ 4.

    • 4.1: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thõa thuận phân chia di sản?

    • 4.2: Trong án lệ 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được toàn án chấp nhận?

    • 4.3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên? Anh/ chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về nội dung đối với thõa thuận phân chia di sản.

    • 4.4: Sự khác nhâu cơ bản của tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.

    • 4.5: Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là tranh chấp về di sản hay về tài sản?

    • 4.6: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL?

  • VẤN ĐỀ 5

    • 5.1.Trong Án lệ 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?

    • 5.2: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chông ổng Trải, bà Tư có thuyết phục không? Vì sao?

    • 5.3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?

Nội dung

Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện

 Chủ thể của quan hệ đại diện

Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 và khoản 5 Điều 139 BLDS 2005 không công nhận khả năng đại diện của pháp nhân khi không có quy định cụ thể cho phép Tuy nhiên, điểm mới trong khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 cho thấy pháp nhân có thể đại diện cho cá nhân và pháp nhân khác.

BLDS 2005 quy định về đại diện chỉ áp dụng cho một người, không bao quát trường hợp nhiều người đại diện như cha mẹ cho con chưa thành niên hoặc nhiều đại diện pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp Tuy nhiên, BLDS 2015 đã khắc phục nhược điểm này bằng cách cho phép "Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau", thiết kế khái niệm đại diện theo hướng bao gồm một hoặc nhiều người đại diện.

+ Năng lực của người đại diện.

- Khoản 5 Điều 139 BLDS 2005 có nhược điểm là chỉ đề cập đến cá nhân trong khi BLDS 2015 quy định cả khả năng đại diện của pháp nhân.

+ Đại diện theo pháp luật của cá nhân.

BLDS 2015 đã cải tiến cách phân loại quyền, không chỉ dựa vào căn cứ xác lập quyền mà còn xem xét chủ thể đại diện Cụ thể, Điều 136 quy định rằng người giám hộ của người gặp khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi có thể trở thành người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

+ Đại diện theo pháp luật của pháp nhân

BLDS 2015 đã bổ sung trường hợp mới về "người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án", khác với BLDS 2005 Ngoài ra, BLDS 2015 cũng khẳng định rằng một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật.

+ Đại diện theo ủy quyền

Điều 138 BLDS 2015 đã có sự đổi mới quan trọng liên quan đến hộ gia đình và tổ hợp tác Theo quy định này, các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức không có tư cách pháp nhân có quyền thỏa thuận cử cá nhân hoặc pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền để thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung.

- Ngoài ra, khoản 1 cũng có sự thay đổi Chủ thể ủy quyền là pháp nhân chứ không phải là người đại diện của pháp nhân.

Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện

- Trong Quyết định số 08, đoạn cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng yên xác lập hợp đồng với Vinausteel là: “Bởi lẽ, ngày 20/11/2006, bà Lê Thị

Ngọc Lan đã ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh, Phó Tổng Giám đốc công ty kim khí Hưng Yên, đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch kinh tế liên quan đến lĩnh vực kinh doanh với Công ty Vinausteel.

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm phải đơn phương bồi thường các khoản nợ đối với Vinausteel

Theo Quyết định số 08, Hội đồng thẩm phán khẳng định rằng việc ông Mạnh nhận trách nhiệm về nợ của Công ty Vinausteel là vấn đề nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên Vì vậy, Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu trách nhiệm thanh toán nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel, chứ không phải cá nhân ông Mạnh hay ông Dũng.

Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết phục không?)

Tòa giám đốc thẩm đã xác định rằng ông Mạnh, với vai trò người đại diện, không phải chịu trách nhiệm về giao dịch dân sự hợp lệ, mặc dù không có quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự Đây là một hướng giải quyết hợp lý, giúp làm rõ trách nhiệm trong các giao dịch dân sự.

Tòa giám đốc thẩm xác định ông Mạnh không phải là người có quyền và nghĩa vụ liên quan, điều này được xem là hợp lý Dù ông Mạnh là người đại diện giao dịch với Vinausteel, ông tham gia dưới danh nghĩa công ty Hưng Yên, không phải cá nhân Hợp đồng trong bản án thực chất là hợp đồng giữa hai pháp nhân, không phải giữa người đại diện và pháp nhân còn lại.

Bộ nguyên tắc châu Âu đã quy định rõ tại Điều 3:302 rằng "người đại diện không bị ràng buộc đối với người thứ ba" Mặc dù Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định tương tự, nhưng hướng giải quyết này vẫn có cơ sở vững chắc.

Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với

Theo Hội đồng thẩm phán, công ty Hưng Yên có trách nhiệm phải bồi thường các khoản nợ đối với Vinausteel

Hội đồng thẩm phán trong Quyết định số 08 đã nhấn mạnh rằng cam kết của ông Mạnh về việc chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của Công ty liên danh sản xuất thép Vinausteel là vấn đề nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên Do đó, Công ty kim khí Hưng Yên phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ và bồi thường cho Công ty Vinausteel, không phải cá nhân ông Mạnh hay ông Dũng.

1.6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hợp lí vì:

Hướng giải quyết này đảm bảo tính hợp pháp, theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015, trong đó nêu rõ rằng giao dịch dân sự do người đại diện thực hiện với bên thứ ba sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện.

Luật hợp đồng Việt Nam, theo Đỗ Văn Đại trong tác phẩm "Bản án và bình luận bản án", nhấn mạnh rằng khi người đại diện hành động trong phạm vi đại diện, các giao dịch của họ sẽ ràng buộc trực tiếp người được đại diện và bên thứ ba Điều này cũng được phản ánh trong Bộ nguyên tắc châu Âu tại Điều 3:302, khẳng định tính hợp pháp của các giao dịch do người đại diện thực hiện.

Theo khoản 1 Điều 141 BLDS 2015, quá trình giao kết hợp đồng giữa ông Mạnh và Vinausteel hoàn toàn nằm trong phạm vi đại diện, không vượt quá quyền hạn được ủy quyền Giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh nhằm thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong lĩnh vực kinh doanh của Công ty Do đó, hợp đồng mua bán phôi thép giữa Công ty Vinausteel và Công ty kim khí Hưng Yên do ông Mạnh ký kết thuộc phạm vi đại diện, tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Công ty kim khí Hưng Yên.

Việc Công ty kim khí Hưng Yên và bà Lan từ chối nhận nghĩa vụ và trách nhiệm do không biết là hoàn toàn không có căn cứ Sau khi ký hợp đồng với Công ty Vinausteel, Công ty kim khí Hưng Yên đã gửi công văn đề nghị xin lùi thời gian giao hàng vào ngày 30/01/2007, cho thấy họ đã nhận thức rõ về nghĩa vụ của mình Hơn nữa, Công ty kim khí Hưng Yên cũng thừa nhận đã nhận số tiền từ Công ty Vinausteel, điều này chứng tỏ họ biết về nghĩa vụ chuyển tiền Do đó, không thể cho rằng Công ty kim khí Hưng Yên hay bà Lan không biết về việc ông Mạnh ký hợp đồng trong phạm vi đại diện.

Việc từ chối thực hiện nghĩa vụ từ hợp đồng đại diện là không phù hợp với quy định pháp luật, vì quan hệ này thuộc về các bên ký kết hợp đồng Trách nhiệm thuộc về hai pháp nhân, với các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã được ký.

Nếu ông Mạnh là đại diện pháp luật của Hưng Yên và hợp đồng có thỏa thuận trọng tài, thì thỏa thuận này có thể không ràng buộc Hưng Yên, do điều lệ của Hưng Yên quy định rằng mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên, bao gồm tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do người đại diện theo pháp luật xác lập, phải được giải quyết tại Tòa án.

- Trong trường hợp này, thỏa thuận trên vẫn ràng buộc công ty Hưng Yên. Bởi vì:

Điều lệ pháp nhân thể hiện ý chí đơn phương của tổ chức, trong khi hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và ý chí chung của các bên tham gia.

Luật hợp đồng Việt Nam, theo Đỗ Văn Đại trong tác phẩm của mình, chỉ ra rằng việc áp dụng điều lệ của công ty Hưng Yên cho các giao dịch dân sự và tranh chấp liên quan đến pháp nhân là không hợp lý, như được nêu trong bản án số 35-37.

Điều 77 BLDS 2015 quy định về điều lệ pháp nhân, bao gồm nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ Tranh chấp giữa công ty Hưng Yên và Vinausteel đã vượt ra ngoài phạm vi nội bộ của công ty Hưng Yên, với sự tham gia của một pháp nhân khác.

Ngay cả khi thỏa thuận tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài bị vô hiệu, điều này không ảnh hưởng đến phần còn lại của hợp đồng Theo Điều 130 BLDS 2015, giao dịch chỉ có thể bị vô hiệu một phần, và quyền, nghĩa vụ của công ty Hưng Yên vẫn sẽ phát sinh Trường hợp đại diện không hợp lệ cũng cần được xem xét trong bối cảnh này.

Trong quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với ngân hàng không được Vinaconex uỷ quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập) ?

Trích bản án: Công ty xây dựng số II Nghệ An có công văn số

Vào ngày 06/4/2001, Công ty xây dựng số II Nghệ An đã gửi văn bản 064CV/XDII.TCKT đến Ngân hàng Công thương Nghệ An, yêu cầu ngân hàng không cho các Xí nghiệp thuộc công ty vay vốn nếu chưa có bảo lãnh Bên cạnh đó, công ty cũng đề nghị bãi bỏ các văn bản liên quan đến việc vay vốn tại ngân hàng trước ngày 06/4/2011 Tuy nhiên, vào ngày 14/5/2001, Ngân hàng Công thương Nghệ An vẫn ký hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền.

Trong vụ việc trên, theo Toà giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với ngân hàng về hợp đồng trên hay không?

Theo quyết định của Toà giám đốc thẩm, Vinaconex có trách nhiệm đối với ngân hàng liên quan đến hợp đồng đã ký kết Cụ thể, điều này được thể hiện qua việc Xí nghiệp xây dựng 4 đã vay tiền từ ngân hàng.

Công ty xây dựng số II Nghệ An, hiện nay là Công ty cổ phần xây dựng 16 – Vinaconex, đã biết và không phản đối việc này, do đó, họ phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ đã phát sinh.

Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm

Hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm là hợp lí vì:

Thứ nhất, Công ty Vinaconex đã đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực thuộc

Công ty Vinaconex đã thông báo cho Ngân hàng về việc cho phép Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn trực tiếp qua văn bản số 23 CV/TCT Tuy nhiên, sau đó, Vinaconex đã ban hành công văn số 064CV/XDII.TCKT để bãi bỏ văn bản trước đó mà không cung cấp chứng cứ cho Ngân hàng Theo Điều 142 BLDS 2015, Vinaconex có lỗi trong việc không thông báo cho Ngân hàng về quyền đại diện của Xí nghiệp xây dựng 4, dẫn đến việc giao dịch dân sự không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Công ty.

Thứ hai, có căn cứ để cho rằng Vinaconex biết được việc Xí nghiệp xây dựng

Xí nghiệp xây dựng 4 đã vay vốn ngân hàng để mua máy móc, đồng thời thực hiện báo cáo tài chính định kỳ cho Công ty Vinaconex Công ty Vinaconex sử dụng những máy móc này để phục vụ cho công trình thi công Theo điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015, Vinaconex đã biết nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý, do đó, hợp đồng trong bản án vẫn phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với Vinaconex.

Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía ngân hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện) thì phải xử lý thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?

Theo khoản 3 Điều 142 BLDS 2015, Ngân hàng không có quyền đơn phương chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng nếu bên ký kết không có quyền đại diện.

Ngân hàng không có cơ sở để xác định rằng Xí nghiệp xây dựng 4 không có quyền đại diện Như đã nêu, Công ty Vinaconex chưa chứng minh được rằng ngân hàng đã nhận công văn số 064CV/XDII.TCKT, trong đó bãi bỏ các văn bản đồng ý cho các Xí nghiệp trực thuộc vay vốn được bảo lãnh.

Thứ hai, người được đại diện, Công ty Vinaconex đã biết và không phản đối hợp đồng như đã chứng minh ở trên nên thỏa mãn điểm a khoản 1 Điều 142.

VẤN ĐỀ 2 a,HÌNH THỨC SỞ HỮU.

Những điểm mới của BLDS2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản

1 Rút số lượng hình thức sở hữu:

Theo Bộ luật Dân sự 2005, Việt Nam quy định có 6 hình thức sở hữu, bao gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, và sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

BLDS 2015 đã cải tiến các quy định từ BLDS 2005 bằng cách giới hạn vào ba hình thức sở hữu: sở hữu riêng, sở hữu chung và sở hữu toàn dân Sở hữu riêng được xác định khi một cá nhân thực hiện quyền sở hữu, trong khi sở hữu chung áp dụng cho nhiều người cùng thực hiện quyền này Việc phân loại không dựa vào việc xác định chủ thể cụ thể như Nhà nước hay tổ chức, mà dựa trên số lượng người tham gia quyền sở hữu, điều này cũng tương đồng với quy định của nhiều quốc gia khác Đặc biệt, BLDS 2015 đã thay thế hình thức sở hữu nhà nước bằng sở hữu toàn dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Việc thay đổi tên hình thức sở hữu nhà nước thành sở hữu toàn dân do Điều

Hiến pháp Việt Nam quy định về sở hữu toàn dân, và Bộ luật Dân sự (BLDS) cần ghi nhận hình thức này để đảm bảo tính phù hợp Cụ thể, Điều 97 BLDS 2015 đã được điều chỉnh để tương thích với Điều 53 Hiến pháp 2013, xác định tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác, cùng với các tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý Bên cạnh đó, Điều 197 BLDS 2015 cũng khẳng định lại quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013.

Sở hữu toàn dân được đại diện bởi nhà nước, với quản lý thống nhất theo quy định tại Điều 200 BLDS 2015 Luật này bổ sung các quy định về quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, cùng với các quy định pháp luật liên quan khác, làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh tài sản thuộc sở hữu toàn dân khi được đầu tư vào doanh nghiệp.

BLDS 2015 đã cập nhật quy định về quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho các tổ chức xã hội và tổ chức xã hội – nghề nghiệp, được nêu rõ tại Điều 203.

Sở hữu riêng là hình thức mới được công nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, được quy định tại Điều 205 và Điều 206.

Theo Điều 205, sở hữu riêng thuộc về cá nhân hoặc pháp nhân Do đó, tổ chức không có tư cách pháp nhân không thể sở hữu tài sản riêng Thay vào đó, tài sản của tổ chức này được xem là sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức.

Hình thức sở hữu chung được quy định từ Điều 207 đến Điều 220 BLDS

BLDS 2015 kế thừa các quy định về hình thức sở hữu chung từ BLDS 2005 (Điều 214 đến Điều 226) với một số sửa đổi kỹ thuật không làm thay đổi nội dung luật Tuy nhiên, BLDS 2015 cũng bổ sung những điểm mới, ảnh hưởng đến cách áp dụng pháp luật Cụ thể, Điều 217 quy định về sở hữu chung hợp nhất, bao gồm cả sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia.

Khoản 3 Điều 218 Bộ luật Dân sự 2015 quy định rằng khi một chủ sở hữu chung bán quyền sở hữu của mình, họ phải thông báo bằng văn bản cho các chủ sở hữu chung khác Điều kiện bán cho các chủ sở hữu chung phải tương tự như điều kiện bán cho bên ngoài Quy định này đã khắc phục những bất cập trong Điều 224 Bộ luật Dân sự 2005.

Điều 218 BLDS 2015 quy định về việc chủ sở hữu tài sản chung có thể từ bỏ quyền sở hữu của mình Đồng thời, Điều 219 BLDS 2015 cũng bổ sung các trường hợp hạn chế yêu cầu phân chia tài sản chung theo quy định tại khoản 1 của điều này.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, được ông Lưu xây dựng trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm, theo quyết định của Hội đồng Giám đốc Thẩm Tòa Dân sự Tòa án Nhân dân Tối cao.

Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?

Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu và bà Đoạn 3 phần NHẬN THẤY: “Còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A Lý

Thường Kiệt trên diện tích 101m 2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê”.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào Quyết định 377 cho câu trả lời?

Theo Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuộc sở hữu riêng của ông Lưu Mặc dù căn nhà được hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975, ông Lưu đã chuyển vào miền Nam làm việc và căn nhà được tạo lập từ thu nhập cá nhân của ông Bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế hay công sức trong việc tạo lập căn nhà này, do đó ông Lưu có quyền quyết định về tài sản này.

3 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 , Nxb Hồng Đức – HộiLuật gia Việt Nam, tr 233 đến 238

Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Toàn án nhân dân tối cao?

Giải pháp trên của Tòa án là hợp lý

Theo Điều 33 khoản 1 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn thông qua giao dịch bằng tài sản riêng sẽ không được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, mặc dù được ông Lưu xây dựng trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm, nhưng được tạo lập từ nguồn thu nhập riêng của ông Lưu Bà Thẩm không có bất kỳ đóng góp nào vào việc hình thành tài sản này, vì vậy căn nhà này được xác định là tài sản riêng của ông Lưu.

Tòa án đã ghi nhận rằng bà Thẩm không có đóng góp kinh tế hay công sức trong việc tạo lập căn nhà, điều này phù hợp với khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 Ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác sau khi miền Nam được giải phóng, vào năm

Ông Lưu đã nhận chuyển nhượng căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt vào năm 1994, sau gần 20 năm từ năm 1975 Việc xác định rằng căn nhà này được hình thành từ nguồn thu nhập riêng của ông là hoàn toàn hợp lý.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt thuộc quyền sở hữu của ông Lưu, người có quyền định đoạt tài sản này Di chúc ông Lưu để lại cho bà Xê được công nhận hợp pháp, nhưng cần xem xét tình trạng của bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Bà Thẩm, ở độ tuổi già yếu và không còn khả năng lao động, đã nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định rằng bà Thẩm có quyền thừa kế từ ông Lưu, không phụ thuộc vào di chúc.

Nếu căn nhà là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm, ông Lưu không thể tự ý di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà Theo quy định của Bộ luật Dân sự, tài sản chung cần có sự đồng ý của cả hai bên trong việc phân chia hoặc định đoạt Do đó, ông Lưu cần có sự đồng ý của bà Thẩm để thực hiện di chúc liên quan đến tài sản chung này.

Trong trường hợp này, ông Lưu không thể định đoạt toàn bộ căn nhà:

Trước tiên, cần xác định sở hữu chung của vợ chồng là hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia

Ông Lưu chỉ có quyền định đoạt phần tài sản chung của vợ chồng mình theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLDS 2015, cho phép mỗi chủ sở hữu chung có quyền quyết định về phần sở hữu của mình Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 khẳng định rằng vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

Ông Lưu quyết định toàn bộ căn nhà, đồng nghĩa với việc xâm phạm quyền sở hữu của vợ ông, bà Lưu, vi phạm các nguyên tắc pháp luật liên quan đến thừa kế.

Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không? Vì sao?

Bà Thẩm (vợ) và chị Hương (con) là những người thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, trong đó quy định hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha mẹ, và con cái của người đã mất.

Bà Thẩm được công nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu do kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại UBND xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, và đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn theo Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2018.

Bà Xê và ông Lưu đã kết hôn trái pháp luật theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, vi phạm chế độ hôn nhân được pháp luật bảo vệ theo Điều 5 của luật này Ông Lưu chưa từng ly hôn với bà Thẩm sau khi kết hôn vào năm 1964, do đó, việc ông đăng ký kết hôn với bà Xê vào năm 1996 cho thấy bà Xê đã kết hôn với người đã có vợ, một hành vi bị cấm theo điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Hệ quả là bà Xê không được công nhận là vợ hợp pháp của ông Lưu và không thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015.

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời

Nếu ông Lưu và bà Xê kết hôn năm 1976 thì bà Xê sẽ được xem là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất như bà Thẩm

Căn cứ theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990, tại điểm a khoản 4 về những người thừa kế theo pháp luật thì:

Trường hợp một người có nhiều vợ trước ngày 13/01/1960 ở miền Bắc hoặc trước ngày 25/03/1977 ở miền Nam, tất cả các người vợ đều được coi là người thừa kế hàng thứ nhất của chồng Ngược lại, chồng cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các vợ.

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 tại Tiền Giang, trước ngày 25/03/1977, thì bà Xê sẽ được công nhận là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?

Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu vì:

Thứ nhất, ông Lưu chết có để lại di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà số 150/6A

Lý Thường Kiệt cho bà Xê Nói cách khác, chị Hương không được chia di sản theo di chúc.

Thừa kế theo pháp luật không áp dụng trong trường hợp này vì không thuộc quy định tại Điều 650 BLDS 2015 Di chúc của ông Lưu hợp pháp và di sản đã được xác định là tài sản riêng của ông, do đó, chị Hương không được chia di sản theo pháp luật.

Chị Hương không phải là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015, vì chị đã thành niên (sinh năm 1965) tính đến thời điểm bà Xê làm đơn khởi kiện.

Năm 2004, chị Hương 39 tuổi và có khả năng lao động bình thường, vì vậy chị không thuộc đối tượng được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời

sở hữu đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở khi trả lời.

Theo Điều 614 Bộ luật Dân sự 2015, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế Cụ thể, kể từ thời điểm này, những người thừa kế sẽ được hưởng các quyền và phải thực hiện nghĩa vụ liên quan đến tài sản do người đã khuất để lại.

Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất đang

Ông Hà qua đời vào ngày 12/05/2008, do đó bà Lý Thị Ơn, vợ ông, cùng các con của ông đã được thừa kế tài sản Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đã được chuyển giao cho bà Lý Thị Ơn, đánh dấu thời điểm mở thừa kế theo quy định pháp luật.

Theo Điều 614 BLDS 2015, từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có quyền sở hữu tài sản do người chết để lại Trong trường hợp của ông Hà, ông đã qua đời mà không để lại di chúc, do đó di sản của ông sẽ được thừa kế theo pháp luật, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015.

Vào ngày 12/5/2008, người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu đối với nhà đất đang tranh chấp Điều này cho thấy rằng quyền thừa kế không bị ràng buộc bởi nội dung của di chúc.

Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng

Quyết định cho thấy rằng văn bản “Di chúc” do ông Lưu lập vào ngày 27/7/2002 thể hiện rõ ý chí của ông trong việc để lại di sản cho bà Xê, điều này hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?

Bà Thẩm, với tư cách là vợ hợp pháp của ông Lưu, có quyền thừa kế di sản của ông mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc Điều này đặc biệt quan trọng vì bà đã già yếu và không còn khả năng lao động.

Chị Hương không được thừa kế di sản của ông Lưu theo di chúc, vì chị là con thành niên có khả năng lao động.

Bà xê không được thừa kế di sản của ông Lưu vì không phải là vợ hợp pháp của ông, do đó không nằm trong diện thừa kế theo di chúc.

Căn cứ pháp lý: Điểm a, b khoản 1, điều 644, BLDS 2015.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm, với tư cách là vợ hợp pháp của ông Lưu, có quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc, do bà đã già yếu và không còn khả năng lao động.

Bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, do tuổi cao và không còn khả năng lao động, sẽ được hưởng thừa kế tài sản của ông Lưu theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự, mà không phụ thuộc vào di chúc của ông.

Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?

Nếu bà Thẩm có sức khỏe tốt và khả năng lao động, bà vẫn có quyền thừa kế di sản của ông Lưu mà không bị ràng buộc bởi nội dung di chúc.

Điểm a khoản 1 Điều 644 quy định rằng vợ được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong trường hợp cụ thể Không có yêu cầu nào về khả năng lao động của vợ để được hưởng di sản Trong trường hợp của bà Thẩm, vì bà không được ông Lưu để lại di sản theo di chúc, nên chỉ cần là vợ hợp pháp của ông, bà đã đủ điều kiện để thừa kế mà không cần xem xét nội dung di chúc.

Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?

Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu thì bà Thẩm sẽ được hưởng 200 triệ đồng.

Bà Thẩm, vợ hợp pháp của ông Lưu, có quyền hưởng 2/3 suất thừa kế theo quy định pháp luật Hai người thừa kế hợp pháp của ông Lưu bao gồm bà Thẩm và chị Hương, do đó bà Thẩm sẽ nhận được phần thừa kế tương ứng.

Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao ?

bà Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao ?

Hiện nay, BLDS 2015 không quy định hướng giải quyết cụ thể cho trường hợp này

Bà Thẩm có quyền yêu cầu chia di sản bằng hiện vật theo khoản 2 Điều 660 BLDS 2015, quy định rằng những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản theo hình thức này Nếu không thể chia đều, các thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá và phân chia hiện vật Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hiện vật sẽ được bán để chia tài sản.

Tuy nhiên, suy cho cùng thì yêu cầu của bà Thẩm không nên được chấp nhận vì:

Theo Điều 609 BLDS 2015, cá nhân có quyền tự do định đoạt tài sản của mình qua di chúc Tuy nhiên, quy định tại Điều 644 BLDS 2015 cho phép một số đối tượng hưởng di sản mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc, điều này có thể ảnh hưởng đến quyền tự do định đoạt tài sản Trong di chúc, ông Lưu đã chỉ định rõ ràng việc để lại căn nhà cho bà Xê, vì vậy việc cho bà Thẩm nhận một phần hoặc toàn bộ nhà đất sẽ trái với ý chí của ông Lưu.

Trong trường hợp bà Thẩm nhận nhà đất và chia cho bà Xê phần tương ứng với di chúc của ông Lưu, điều này hoàn toàn trái với ý chí của người lập di chúc Nếu bà Thẩm chỉ nhận phần hiện vật theo di sản thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc, sẽ gây khó khăn trong việc thi hành án Diện tích nhà đất chỉ có 101m², trong khi bà Xê được hưởng 33.6m², làm giảm giá trị bất động sản Hơn nữa, việc xác định chính xác diện tích đất mà bà Thẩm nhận được và xử lý căn nhà trên đất sẽ rất phức tạp và không hợp lý.

Thứ ba, bà Thẩm hiện đã già yếu, không có khả năng lao động và sinh sống ở

Phú Thọ đã tồn tại từ rất lâu, và bà Xê đã sinh sống tại căn nhà do ông Lưu định đoạt ở Mỹ Tho từ khi kết hôn Việc chia cho bà Thẩm căn nhà của bà Xê là không hợp lý, vì khoảng cách địa lý quá xa và bà Thẩm không có điều kiện để chuyển đến sinh sống tại đó.

Việc chấp nhận yêu cầu của bà Thẩm về việc chia di sản bằng hiện vật, mặc dù không được quy định cụ thể, là không hợp lý và không nên được chấp nhận.

Trong Bản án số 2493, đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?

Cụ Nguyễn Thị Khánh có ba người con: bà Nguyễn Thị Khót (sinh năm 1929), ông An Văn Tâm (sinh năm 1932), và ông Nguyễn Tài Nhật (sinh năm 1930) Bà Khót và ông Tâm là con của cụ Khánh với cụ An Văn Lầm, người đã qua đời năm 1938, trong khi ông Nhật là con của cụ Khánh với cụ Nguyễn Tài Ngọt, người đã mất năm 1973.

Ai được cụ Khánh viết di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có

Ông Nguyễn Tài Nhật, con của cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ Nguyễn Tài Ngọt, là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp.

Vào ngày 30 tháng 5 năm 1992, tại Phòng công chứng nhà nước số 2 ở Thành phố Hồ Chí Minh, cụ Khánh đã lập di chúc, chỉ định ông Nhật là người duy nhất được thừa kế căn nhà số 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2.

Tại thời điểm cụ Khánh qua đời, bà Khót và ông Tâm đã là con đã thành niên của cụ Khánh Điều này được thể hiện rõ trong một đoạn của bản án.

Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm đã thành niên của cụ Khánh.

Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ An Văn Lầm, đã qua đời vào năm 1938, có hai người con là bà Nguyễn Thị Khót (sinh năm 1929) và ông An Văn Tâm (sinh năm 1932) Cụ Khánh mất vào năm 2000.

Như vậy, tính đến thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi.

Mà theo khoản 1 Điều 20 BLDS 2015 thì người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên.

Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận hưởng thừa kế hay không phụ thuộc vào nội dung của di chúc Đoạn nào trong Bản án cung cấp câu trả lời cho vấn đề này?

Bà Khót và ông Tâm không được Toà án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận yêu cầu của bà Khót và ông Tâm về việc hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, với mỗi người được nhận 400.000.000 đồng.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý

Bà Khót và ông Tâm không phải là đối tượng thừa kế theo di chúc của bà Khánh, trong đó bà Khánh đã lập di chúc vào ngày 30/5/1992 tại Phòng công chứng nhà nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ định ông Nhật là người duy nhất có quyền thừa kế căn nhà số 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2.

Bà Khót 71 tuổi và ông Tâm 68 tuổi cho rằng việc xác định không có khả năng lao động chỉ dựa vào độ tuổi là không hợp lý Bộ luật lao động quy định độ tuổi chỉ để xác định chế độ đãi ngộ, trong khi khả năng lao động thực sự phụ thuộc vào tình trạng thể lực, trí lực và tinh thần của từng cá nhân.

Thứ ba, tại thời điểm mở thừa kế, bà Khót và ông Tâm không có giấy tờ để chứng minh cho việc mất khả năng lao động của mình.

Tòa án đã xác định rằng bà Khót và ông Tâm không phải là những người được thừa hưởng di sản, điều này hoàn toàn hợp lý và không phụ thuộc vào nội dung di chúc, theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.

Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động? Vì sao?

Hướng giải quyết của Tòa án sẽ khác nếu như ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động.

Khi ông Tâm gặp tai nạn và mất 85% sức lao động, ông sẽ được xếp vào nhóm người trưởng thành mất sức lao động từ 81% trở lên theo nghị quyết số.

03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao Do đó, ông Tâm là đối tượng thuộc trường hợp Điểm b Khoản 1 Điều 644 BLDS

2015 nên sẽ được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản

Di chúc Tặng cho tài sản

Chủ sở hữu tài sản thể hiện ý chí tự do khi chuyển nhượng quyền sở hữu cho bên khác mà không yêu cầu bồi thường.

-Là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết Điều 624 BLDS

Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên tặng cho chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản của mình cho bên được tặng mà không yêu cầu bồi hoàn, và bên nhận tài sản đồng ý chấp nhận.

Chủ thể -Cá nhân -Cá nhân, pháp nhân Đặc điểm

-Thể hiện ý chí đơn phương của một người định đoạt tài sản của cá nhân của mình cho những người thừa kế;

-Người thừa kế thường là người thân của người lập di chúc;

-Những người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vẫn được hưởng 2/3 của 1 suất thừa kế theo pháp luật.

-Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí song phương giữa người cho và người được tặng và họ phải còn sống tại thời điểm cho- nhận tài sản;

-Người được tặng cho thường là một người không thân thích;

-Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không được phép đòi chia di sản đã được tặng cho. Đối tượng

-Tài sản hiện có hoặc tài sản được hình thành trong tương lai.

-Tài sản hiện có, đang tồn tại chứ không phải tài sản được hình thành trong tương lai.

-Người thừa kế chỉ -Nếu hợp đồng tặng cho

Thời điểm nhận di sản xảy ra ngay khi người lập di chúc qua đời Đối với động sản, quyền sở hữu có hiệu lực từ lúc bên được tặng cho nhận tài sản.

Nếu hợp đồng tặng cho liên quan đến bất động sản, cần phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực Hợp đồng này sẽ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký.

Quyền của người chuyển giao tài sản

-Người lập di chúc có thể tự mình sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào.

-Người lập di chúc không được tự ý sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng nếu không có sự đồng ý của người được tặng cho.

Thực hiện nghĩa vụ tài sản

-Người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Hợp đồng tặng cho tài sản là một loại hợp đồng không có đền bù, nghĩa là người nhận quà không cần phải hoàn trả bất kỳ lợi ích nào hay thực hiện nghĩa vụ tài sản nào.

Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng

Trong trường hợp này, bà Thẩm không được hưởng di sản của ông Lưu vì theo Điều 612 BLDS 2015, di sản chỉ bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản chung với người khác Di sản phụ thuộc vào khối tài sản tại thời điểm mở thừa kế Việc ông Lưu đã tặng tài sản cho bà Xê khi còn sống thông qua hợp đồng tặng cho khiến ông không để lại di sản khi qua đời.

Vì vậy, không có căn cứ để cho bà Thẩm được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Đối với hoàn cảnh như trên , pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào?

Pháp luật của Pháp yêu cầu hợp đồng tặng cho phải được ký kết bằng văn bản và lập trước mặt công chứng viên, theo Điều 931 BLDS Pháp; nếu không, hợp đồng sẽ vô hiệu Việc tặng cho chỉ có hiệu lực khi người được tặng cho chấp thuận rõ ràng (Điều 932 BLDS Pháp) và hoàn tất ngay khi hai bên đạt thỏa thuận, chuyển quyền sở hữu mà không cần thủ tục chuyển giao khác (Điều 938 BLDS Pháp) Do đó, hợp đồng tặng cho theo pháp luật Pháp là hợp đồng ưng thuận, có hiệu lực ngay tại thời điểm thỏa thuận Nếu ông Lưu không để lại di chúc, di sản của ông vẫn có thể được chuyển giao cho bà Xê thông qua hợp đồng tặng cho, nhưng phải tuân thủ quy định lập trước công chứng viên; nếu không, bà Thẩm có thể không được hưởng quyền lợi từ di sản của ông Lưu.

Suy nghĩ của anh chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho cả hợp đồng tặng cho

Hợp đồng dân sự là giao dịch giữa các bên nhằm thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ, được quy định bởi Điều 388 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 Hợp đồng này không chỉ xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà còn điều chỉnh các quan hệ xã hội trong việc chuyển giao lợi ích vật chất Cần làm rõ các điều khoản phát sinh trong quá trình chuyển nhượng, đảm bảo tính hợp lý và minh bạch Tuy nhiên, một số điều lệ trong hợp đồng tặng cho vẫn còn nhiều bất cập, không hoàn toàn đáp ứng nhu cầu của các bên tham gia.

Khả năng mở rộng chế định thừa kế không phụ thuộc vào khả năng của di chúc cho hợp đồng tặng cho vẫn còn nhiều hạn chế Theo quy định hiện hành, những người thừa kế không được chỉ định trong di chúc vẫn có quyền hưởng phần di sản tối thiểu bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật Tuy nhiên, trong trường hợp hợp đồng tặng cho, không có quy định tương tự để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế Hơn nữa, luật yêu cầu bên nhận tặng cho phải còn sống nếu là cá nhân, hoặc tổ chức phải tồn tại tại thời điểm tặng cho, điều này tạo ra rào cản lớn so với di chúc.

Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán?

Việc thanh toán nghĩa vụ tài sản và chi phí thừa kế phải tuân thủ quy định pháp luật, vì nó không chỉ ảnh hưởng đến người thừa kế mà còn đến quyền lợi của chủ nợ Theo Điều 658 BLDS, có quy định rõ ràng về thứ tự ưu tiên thanh toán, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

1 Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2 Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

3 Chi phí cho việc bảo quản di sản.

4 Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

6 Tiền bồi thường thiệt hại.

7 Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

8 Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

Các khoản thanh toán được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ 1 đến 10, với quy định rằng các khoản ưu tiên cao hơn sẽ được thanh toán trước Chỉ khi hoàn tất thanh toán cho một khoản, mới tiếp tục đến khoản tiếp theo Nếu di sản không đủ để thanh toán hết các nghĩa vụ và chi phí, những khoản còn lại sẽ không được thanh toán, và người có quyền sẽ phải chịu rủi ro không thể thu hồi được số tiền từ người đã mất.

Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến

Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.

Theo Khoản 2 Điều 69 của Luật Hôn nhân và Gia đình, cha mẹ có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của con cái, bao gồm cả con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân.

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái, bao gồm cả con chưa thành niên và con đã trưởng thành nhưng không có khả năng tự nuôi sống Ông Lưu và bà Thẩm, với tư cách là vợ chồng hợp pháp, đều có trách nhiệm nuôi dưỡng con chung là chị Hương từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành.

Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?

Trích từ phần Xét thấy của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành:

Trong suốt thời gian ông Lưu công tác tại miền Nam, bà Thẩm đã trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành Do đó, khi giải quyết tài sản, cần xem xét công sức nuôi con của bà Thẩm và có thể trích từ giá trị tài sản của ông Lưu để bù đắp cho bà Thẩm nếu bà có yêu cầu.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không?

có phải trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung không?

Theo quyết định của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm có yêu cầu, ông Lưu sẽ phải trích một khoản tiền từ di sản của mình để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung.

Trích từ phần Xét thấy của Quyết định cho thấy điều này:

Trong suốt thời gian ông Lưu công tác tại miền Nam, bà Thẩm đã trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành Do đó, khi giải quyết vấn đề tài sản, cần xem xét công sức nuôi con của bà Thẩm và có thể trích từ giá trị tài sản của ông Lưu để bù đắp cho bà Thẩm nếu bà có yêu cầu.

Trên cơ sở các quy định chung về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án

di sản, anh/chị hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý Bởi lẽ:

Nghĩa vụ nuôi con được quy định rõ ràng trong Bộ luật Dân sự 2015, đồng thời cũng phản ánh đúng đạo lý của người Việt Nam Quyết định của Tòa án yêu cầu ông Lưu bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 658 của Bộ luật Dân sự 2015.

Tuy nhiên, Tòa án chỉ yêu cầu thanh toán nghĩa vụ này trong trường hợp bà

BLDS 2015 không quy định rõ ràng về đối tượng nhận tiền cấp dưỡng từ người đã chết, do đó không có cơ sở khẳng định việc này Tuy nhiên, việc con cái phụ thuộc vào cha mẹ để được nuôi dưỡng là điều dễ hiểu Nếu bà Thẩm cho rằng thời gian nuôi con không có sự đóng góp của ông Lưu là khó khăn và cần bù đắp, thì việc thanh toán nghĩa vụ này là hợp lý Ngược lại, nếu bà không có yêu cầu, Tòa cũng không thể khẳng định chị Hương là người phụ thuộc vào ông Lưu và do đó không có cơ sở để yêu cầu thanh toán tiền cấp dưỡng còn thiếu.

Tòa án đã xem xét yêu cầu thanh toán tiền cấp dưỡng từ phía bà Thẩm và nhận thấy đây là một quyết định hợp tình, hợp lý.

Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ)

di chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).

Theo khoản 1 Điều 643 BLDS 2015, di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người có tài sản qua đời theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 Điều này có nghĩa là trước khi người lập di chúc chết, di chúc chưa có giá trị pháp lý và không ràng buộc Do đó, người lập di chúc có quyền hủy bỏ hoặc thay đổi di chúc bất cứ lúc nào theo khoản 1 Điều 640 BLDS 2015.

BLDS chỉ công nhận quyền của cá nhân trong việc hủy bỏ hoặc thay đổi di chúc, nhưng không quy định rõ về cách thức và hình thức thực hiện những thay đổi hoặc hủy bỏ này.

Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc có thể được hiểu ngầm mà không cần người lập di chúc phải tuyên bố rõ ràng Điều này xảy ra vì các hành động hoặc biểu hiện của người lập di chúc có thể đủ để chứng minh ý định của họ, cho thấy rằng họ đã quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc trước đó.

Trong thực tế xét xử, người lập di chúc có thể hủy bỏ di chúc một cách minh thị bằng cách tuyên bố rõ ràng rằng họ không còn giữ di chúc đó Tuy nhiên, việc hủy bỏ này thường không kèm theo thông tin về cách thức định đoạt tài sản trong di chúc Nếu người lập di chúc không có giao dịch nào khác để xác định lại tài sản, thì tài sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật khi người lập di chúc qua đời Điều này đã được thể hiện trong Quyết định số 619 liên quan đến sự việc của bà Lan.

Đơn xin hủy di chúc cần chứng minh đúng ý chí của bà Lan và làm rõ các tình tiết liên quan, từ đó xác định bà Lan đã hủy bỏ "Di chúc thừa kế nhà ở".

Trong thực tế xét xử, việc thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc cần tuân thủ hình thức của di chúc gốc Điều này đảm bảo tính hợp pháp và giá trị pháp lý của di chúc mới hoặc quyết định hủy bỏ Việc không tuân thủ hình thức có thể dẫn đến tranh chấp pháp lý và làm mất hiệu lực di chúc.

Trong thực tế xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc phải tuân thủ hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ Ví dụ:

Theo quyết định số 767, vào ngày 1-3-1997, cụ Trượng đã nhờ ông Nguyễn Văn Tam lập "Lời tờ ủy quyền để lại thay lời chúc ngôn", với chữ ký của cụ Trượng và điểm chỉ của cụ Thảo, được xác nhận bởi Ủy ban nhân dân xã Phụng Hiệp, đây là bản di chúc đầu tiên Tiếp đó, vào ngày 07-02-1999, cụ Trượng lại lập di chúc mới nhờ bà Dương Thị Tám, con gái của cụ, viết giúp với nội dung khác.

4 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam

2016 (xuất bản lần thứ ba), tr 552 bản di chúc trước, có chữ kí cụ Trượng, cụ Thảo gạch chữ x Đây là bản di chúc thứ hai.

Bản di chúc đầu tiên được chứng thực bởi UBND cấp xã, trong khi bản di chúc thứ hai là di chúc bằng văn bản có người làm chứng Bộ luật Dân sự 2015 không quy định rằng hình thức di chúc mới phải giống với hình thức di chúc cũ, do đó không có căn cứ khẳng định yêu cầu này Tuy nhiên, Tòa án trong Quyết định số 767 đã nhấn mạnh việc chứng minh di chúc mới phù hợp với ý chí của cụ Trượng, dẫn đến việc xác định di chúc lập ngày 1-3-1979 đã bị thay thế bởi di chúc ngày 7-3-1999.

Thực tiễn xét xử cho thấy rằng việc thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc không nhất thiết phải tuân theo hình thức của di chúc gốc.

quyết định liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc?

Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc?

là có điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc?

Trong quyết định số 363 có ghi:

Di chúc này là di chúc có điều kiện, do đó, việc công nhận hay không cần phải dựa vào việc xem xét liệu các điều kiện được nêu trong di chúc có thể được thực hiện hay không.

Cụ Nguyễn Văn Nhà đã giao quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Sáu và bà Nguyễn Thị Lên, đồng thời yêu cầu họ có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên Tuy nhiên, hai bà không được phép cầm cố hoặc chuyển nhượng đất, và phải chăm sóc ông Nguyễn Văn Cu trong trường hợp ông ốm đau hoặc già yếu.

Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở Việt Nam?

Trong hệ thống văn bản pháp luật hiện nay, khó có thể tìm được văn bản nào quy định về vấn đề "di chúc có điều kiện" Tuy nhiên:

Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về "Giao dịch dân sự có điều kiện" tại khoản 1 Điều 125, cho phép các bên thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự Khi điều kiện này xảy ra, giao dịch sẽ phát sinh hoặc bị hủy bỏ Quy định này được duy trì trong khoản 1 Điều 120 của Bộ luật dân sự năm 2015 Giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương và di chúc, trong đó di chúc cũng được xem là hành vi pháp lý đơn phương, do đó có thể áp dụng quy định về giao dịch dân sự có điều kiện.

Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2005, di chúc cần xác định rõ điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản Điều này cho thấy các nhà lập pháp đã ngầm chấp nhận sự tồn tại của di chúc có điều kiện.

Cho biết hệ quả pháp lí khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng

Theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2005, di chúc cần xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản Những điều kiện này là yêu cầu mà người thụ hưởng phải thực hiện để nhận di sản Nếu các điều kiện không được đáp ứng, người thụ hưởng sẽ không có quyền nhận di sản theo di chúc.

5 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam

6 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam

Nếu người thụ hưởng không đáp ứng điều kiện của di chúc có điều kiện, phần tài sản thừa kế sẽ được coi là “phần di sản liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng không có quyền hưởng di sản” Do đó, di sản sẽ không được phân chia theo di chúc mà sẽ được chia theo quy định của pháp luật như tài sản thừa kế không có di chúc.

Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt

Pháp luật Việt Nam hiện nay dường như chấp nhận di chúc có điều kiện, và thực tiễn xét xử của Tòa án cũng công nhận loại di chúc này Tuy nhiên, vẫn còn thiếu rõ ràng trong việc xử lý các trường hợp khi điều kiện không được đáp ứng.

Việc xử lý các di chúc có điều kiện hiện nay vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình xét xử Để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, cần thiết phải luật hóa loại di chúc này trong Bộ luật Dân sự Trước tiên, cần xác định tính hợp pháp của di chúc có điều kiện và quy định cụ thể về các điều kiện hợp pháp và không hợp pháp Đồng thời, cần làm rõ nghĩa vụ của người thụ hưởng và các hậu quả pháp lý nếu họ không đáp ứng hoặc chấm dứt việc đáp ứng các điều kiện được nêu trong di chúc.

Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thõa thuận phân chia di sản?

- Đoạn bản án cho thấy đã có thỏa thuận phân chia di sản là:

Ngay sau khi được chia, ông Đ đã bán phần đất để chuyển đến tỉnh Sông Bé (cũ), trong khi ông T và ông Q đã xây dựng nhà ở trên phần đất được chia Phần đất của các bà nằm liền kề với phần đất mà cụ V chia cho ông H3, có chiều ngang 4m giáp đường Mặc dù ông H3 đã có nhà đất ở nơi khác và chưa sử dụng phần đất được chia, nhưng ông vẫn trông nom cả phần đất của các bà và phần đất của mình, tổng diện tích lên tới 110m2 với chiều ngang 7m Nhiều năm sau, ông H3 vẫn thừa nhận rằng ông đang trông nom phần đất của các bà.

7 Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam

Trong án lệ 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân

di sản đã được toàn án chấp nhận?

- Đoạn cho thấy thỏa thuận phân chia di sản đã được toàn án chấp nhận là:

Việc phân chia đất đai đã được thực hiện và ghi chép đầy đủ trong sổ sách, đồng thời thỏa thuận này không xâm phạm quyền lợi của bất kỳ người thừa kế nào.

Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân

Di sản là tài sản cần được phân chia một cách hợp lý giữa các bên liên quan Để đảm bảo tính minh bạch và công bằng, thỏa thuận phân chia di sản cần tuân thủ các yêu cầu về hình thức và nội dung Việc xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của từng bên sẽ giúp tránh những tranh chấp không đáng có trong quá trình phân chia di sản.

*Xét về mặt hình thức:

Tôi không đồng ý với quyết định của Tòa án về việc chấp nhận phân chia di sản vì việc thỏa thuận phân chia phải diễn ra sau khi người để lại di sản qua đời Ngay sau khi cụ V tiến hành phân chia di sản, các con của cụ đã thỏa thuận miệng với nhau về việc quản lý di sản, nhưng không lập thành văn bản.

Cơ sở pháp lý: Khoản 1, điều 633, 636, điều 681 Bộ luật dân sự 2005

“Điều 633 Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

Thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người sở hữu tài sản qua đời Nếu Toà án tuyên bố một người đã chết, thời điểm mở thừa kế sẽ là ngày được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.

“Điều 636 Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.”

“Điều 681 Họp mặt những người thừa kế

1 Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây: a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền,nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; b) Cách thức phân chia di sản.

2 Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.”

Hay Khoản 1, điều 611, điều 614, điều 656 bộ luật dân sự 2015:

“Điều 611 Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

1 Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”

“Điều 614 Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.”

“Điều 656 Họp mặt những người thừa kế

1 Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; b) Cách thức phân chia di sản.

2 Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.”

Tôi đồng ý với quyết định của tòa án về việc chấp thuận phân chia di sản, vì quá trình này đáp ứng đầy đủ các điều kiện của thỏa thuận phân chia di sản, bao gồm việc xác định di sản, phân chia di sản và xác định người quản lý di sản.

- Cơ sở pháp lý: 681, 682, 684 bộ luật dân sự 2005

“Điều 681 Họp mặt những người thừa kế

1 Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây: a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; b) Cách thức phân chia di sản.

2 Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản. Điều 682 Người phân chia di sản

1 Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thoả thuận cử ra.

2 Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thoả thuận của những người thừa kế theo pháp luật.

3 Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thoả thuận.”

“Điều 684 Phân chia di sản theo di chúc

1 Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

2 Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

3 Trong trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.”

Hay điều 656, 657, 659 bộ luật dân sự 2015:

“Điều 656 Họp mặt những người thừa kế

1 Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây: a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; b) Cách thức phân chia di sản.

2 Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản. Điều 657 Người phân chia di sản

1 Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

2 Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.

3 Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.”

“Điều 659 Phân chia di sản theo di chúc

1 Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Sự khác nhâu cơ bản của tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản

Tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản đều được điều chỉnh bởi luật dân sự, nhưng chúng có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt.

Tranh chấp di sản không chỉ liên quan đến quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản mà còn bao gồm việc buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại Điều này có thể bao gồm việc thanh toán các khoản chi từ tài sản hoặc yêu cầu chia di sản thừa kế Do đó, tranh chấp di sản mang tính phức tạp hơn so với việc tranh chấp quyền định đoạt về các phần di sản.

Tranh chấp tài sản xảy ra giữa các bên liên quan về quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp đối với tài sản cụ thể Những tranh chấp này chỉ liên quan đến các bên trực tiếp có quyền lợi trong tài sản tranh chấp, không bao gồm người thứ ba hoặc những người đã qua đời.

Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia

- Theo Án lệ số 24, phần tài sản tranh chấp là tranh chấp về tài sản.

- Đoạn thể hiện nhận định của Tòa về quyết định trên là:

Việc phân chia tài sản đã được thực hiện và ghi nhận trong sổ sách đất đai, không vi phạm quyền lợi của bất kỳ thừa kế nào và không có tranh chấp, do đó nhà và đất không còn được coi là di sản thừa kế của cụ.

V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m 2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa.”

Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL?

Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý, vì sau khi công bố di chúc và các bên thỏa thuận phân chia di sản, phần di sản thừa kế của cụ V và cụ H đã chuyển thành tài sản cá nhân của những người liên quan Lời khai của nhân chứng và các bên nguyên đơn, bị đơn cho thấy rằng sau khi nhận tài sản thừa kế, các bên đã thực hiện chuyển nhượng và thỏa thuận phân chia mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bất kỳ thừa kế nào Do đó, có cơ sở để xác định rằng nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ.

Bà H và các thành viên H1, H2 chỉ có quyền khởi kiện để đòi lại 44m² đất mà họ được hưởng thừa kế hợp pháp từ năm 1991 Tài sản này đã trở thành tài sản cá nhân, do đó yêu cầu chia di sản thừa kế không có cơ sở chấp nhận.

Trong Án lệ 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?

kỷ phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?

- Tòa xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng là thuyết phục.

- Cụ Hưng mất năm 1978 và không để lại di chúc Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 650 thì di sản của cụ Hưng sẽ được chia theo pháp luật.

“Điều 650 Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

1 Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc;”

Ông Nguyễn Chí Trai đã được Tòa án tuyên bố là đã chết vào ngày 31/3/2008, sau thời điểm mở thừa kế di sản của cụ Hưng, do đó ông Trai vẫn có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật.

Vào thời điểm mở thừa kế, có 07 người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất, bao gồm cụ Ngự, Bà Xê, ông Trải, bà Xuân, bà Thưởng, bà Trinh và ông Trai Ông Nguyễn Trí Trải sẽ được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng, dựa trên quy định tại khoản 2 điều 651 Bộ luật Dân sự 2015.

“Điều 651 Người thừa kế theo pháp luật

2 Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”

5.2: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chông ổng Trải, bà Tư có thuyết phục không? Vì sao?

Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án đã đưa ra quyết định rằng phần tài sản mà ông Trải được hưởng từ cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải và bà Tư, tuy nhiên, lập luận này không thuyết phục.

Tòa án không có cơ sở để xác định rằng tài sản ông Trải thừa kế từ bố mẹ là tài sản chung của vợ chồng ông Tài sản thừa kế riêng thuộc về cá nhân, trong khi tài sản thừa kế để lại cho cả hai vợ chồng mới được xem là tài sản chung Hơn nữa, Tòa án cũng không chỉ ra bất kỳ thỏa thuận nào giữa vợ chồng ông Trải chứng minh rằng phần di sản của cụ Hưng thuộc về tài sản chung của họ.

Khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình quy định rằng tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người sở hữu trước khi kết hôn, cũng như tài sản được thừa kế hoặc được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.

Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, và lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, trừ những trường hợp đặc biệt theo khoản 1 Điều 40 Ngoài ra, tài sản thừa kế chung, tặng cho chung và tài sản được vợ chồng thỏa thuận cũng được xem là tài sản chung.

5.3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?

- Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức thừa kế là thuyết phục.

Trong Án lệ này, chị Phượng đã kháng cáo yêu cầu không chia tài sản thừa kế do hết thời hiệu chia thừa kế, nhằm bảo vệ tài sản là căn nhà và các giá trị, công sức quản lý, làm mới căn nhà Mục đích của chị Phượng trong việc không chia thừa kế bao gồm việc bảo vệ tài sản và duy trì những giá trị mà mình đã đầu tư.

1) Không giao tài sản cho nguyên đơn

2) Bảo vệ công sức tôn tạo, tân trang, quản lý căn nhà của bị đơn

Chị Phượng đã không phân tách yêu cầu thành hai phần độc lập, dẫn đến việc Tòa án bỏ sót yêu cầu thứ hai của bị đơn khi xét xử Hệ quả là Tòa án chưa giải quyết triệt để mọi yêu cầu của đương sự, gây thiệt thòi lớn cho bị đơn trong cả bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Chị Phượng là người quản lý di sản theo khoản 2 Điều 616, do đó việc thanh toán chi phí bảo quản di sản theo khoản 2 Điều 618 là hoàn toàn hợp lý.

Ngày đăng: 21/09/2021, 19:17

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w