1. Trang chủ
  2. » Văn Hóa - Nghệ Thuật

Tổng quan về trang phục nam- Comple

83 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tổng Quan Về Trang Phục Nam - Comple
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 338 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (0)
    • 1.1 Khái niệm về trang phục Com-lê nam (8)
      • 1.1.1 Khái niệm định nghĩa (8)
      • 1.1.2 Các sản phẩm trong bộ Com-lê (0)
    • 1.2 Quá trình hình thành và phát triển Com-lê nam (0)
      • 1.2.1 Nguồn gốc trang phục Com-lê nam (17)
      • 1.2.2 Quá trình phát triển trang phục Com-lê nam (25)
  • Chương 2 QUÁ TRÌNH DU NHẬP TRANG PHỤC COM-LÊ VÀO VIỆT NAM (8)
    • 2.1. Sự giao thoa văn hóa Việt Nam (38)
      • 2.1.1 Văn hóa Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945........................................................................................ 37 2.1.2 Giao thoa và tiếp biến Văn hóa Việt Nam (38)
    • 2.2. Com-lê nam và mối quan hệ với trang phục bản địa (48)
      • 2.2.1 Trang phục nam bản địa (49)
      • 2.2.2 Trang phục nam cách tân (53)
      • 2.2.3 Sự du nhập trang phục com-lê nam (55)
    • 2.3. Quá trình phát triển trang phục com-lê ở Việt Nam (0)
      • 2.3.1 Giai đoạn 1858 – 1945 (0)
      • 2.3.2 Giai đoạn 1945 – 1954 (0)
      • 2.3.3 Giai đoạn 1954 – 1975 (0)

Nội dung

Tổng quan trang phục Comple Nam - Lịch sử, phát triển, đặc điểm.

QUÁ TRÌNH DU NHẬP TRANG PHỤC COM-LÊ VÀO VIỆT NAM

Sự giao thoa văn hóa Việt Nam

Vào đầu thế kỷ XXI, phong cách thời trang phương Tây đã trở thành phong cách quốc tế, bắt nguồn từ quá trình văn hóa diễn ra hàng trăm năm trước trong thời kỳ thực dân châu Âu Quá trình này đã giúp văn hóa phương Tây thâm nhập vào các thị trường toàn cầu, biến phong cách thời trang của phương Tây thành một hiện tượng toàn cầu Tại Việt Nam, sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây trong thời kỳ thực dân Pháp đã thúc đẩy sự tiếp biến văn hóa nhanh chóng, dẫn đến việc tiếp nhận và biến đổi trang phục phương Tây để phù hợp với văn hóa và thẩm mỹ của người Việt.

2.1.1.Văn hóa Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945

2.1.1.1 Bối cảnh lịch sử văn hóa

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và từ chối nhận quốc thư yêu cầu tự do buôn bán Từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm đóng Đến năm 1873, quân Pháp tiến vào Bắc bộ, và năm 1874, triều đình Nguyễn buộc phải ký hiệp ước Giáp Tuất, công nhận chủ quyền của Pháp ở Lục tỉnh và cho phép tự do buôn bán Năm 1882, thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội, tiếp theo là tấn công kinh thành Huế vào năm 1883.

Năm 1883, triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp định hòa bình với thực dân Pháp tại Huế, đánh dấu sự bắt đầu của ách thống trị Pháp đối với toàn bộ đất nước Việt Nam.

Truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha đã khơi dậy nhiều phong trào yêu nước chống Pháp trên khắp cả nước, với sự tham gia của các quan lại triều đình Huế như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết và các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực ở Nam Kỳ, cũng như Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cầm Bá Thước ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ Dù lòng yêu nước và tinh thần kiên cường của họ rất mạnh mẽ, tất cả các phong trào này đều không thành công trong việc bảo vệ độc lập dân tộc.

Công cuộc bình định Việt Nam của thực dân Pháp căn bản đã hoàn thành và chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa.

Dưới sự lãnh đạo của Toàn quyền Pôn Đume (Paul Doumer) từ năm 1897 đến 1902, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương đã diễn ra mạnh mẽ Ông đã tổ chức và củng cố cơ chế phủ toàn quyền, thúc đẩy khai thác thuộc địa trên nhiều lĩnh vực, gây ra tác động sâu sắc đến xã hội Việt Nam Đến thập niên 1920, thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, với sự đầu tư lớn vào nông nghiệp theo chiến lược của Anbe Xaro (A Sarraut).

Trong thời kỳ khai thác thuộc địa, thực dân Pháp không chỉ muốn duy trì các quan hệ kinh tế truyền thống mà còn kết hợp với quan hệ tư bản thực dân và quan hệ phong kiến, tạo nên một diện mạo xã hội Việt Nam đa dạng và phức tạp.

- Chính sách văn hóa của người Pháp ở Việt nam

Bộ máy thống trị thực dân đã thực thi một chính sách văn hóa nhằm củng cố địa vị thống trị của Pháp ở Đông Dương.

Chính sách chia để trị của thực dân Pháp đã tác động đến bề nổi của xã hội ở ba vùng Bắc, Trung, Nam, nhưng cơ cấu xã hội làng xã vẫn được duy trì Người Pháp đã sử dụng các tổ chức làng xã và bộ máy cường hào phong kiến để phục vụ cho chính quyền thuộc địa Viên Toàn quyền Pôn Đume từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì tổ chức cũ kỹ này, cho rằng mỗi làng như một nước cộng hòa nhỏ, độc lập trong phạm vi quyền lợi địa phương, với trách nhiệm cao đối với chính quyền cấp trên Sự duy trì này, mặc dù mang tính chất cai trị, lại tạo điều kiện cho văn hóa dân gian của người Việt được bảo tồn, nhờ vào việc không làm phá vỡ cơ cấu tổ chức làng xã.

Trong lĩnh vực giáo dục, người Pháp đã duy trì Nho học và chế độ khoa cử lỗi thời nhằm duy trì trật tự xã hội, kéo dài đến đầu thế kỷ XX Đến năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1918 ở Trung Kỳ, chế độ thi cử bằng chữ Hán mới được bãi bỏ Tuy nhiên, để đảm bảo có công chức cho chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp vẫn phải mở các cơ sở đào tạo.

Năm 1897, Pháp thành lập trường Hậu bổ tại Hà Nội và cải tổ trường Quốc Tử Giám ở Huế, đồng thời mở trường sư phạm sơ cấp tại Hà Nội để đối phó với các phong trào như Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du và Duy Tân Để kiểm soát giáo dục, người Pháp cùng triều đình Nam đã thành lập bộ Học và sửa đổi quy chế thi Hương và thi Hội Năm 1908, Toàn quyền Klôbuycốpxki ra lệnh đóng cửa trường đại học cho đến năm 1917, khi viên toàn quyền Anbe Xarô cho phép mở lại Tuy là trường đại học, nhưng văn bằng của trường này không tương đương với văn bằng chính quốc.

Ngoài các trường học, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như: Viện vi trùng học ở Sài Gòn (1891), Nha Trang (1896), Hà Nội

(1900), trường Viễn Đông Bác Cổ (1898)v.v

Mục đích giáo dục của chính quyền thuộc địa không chỉ là nâng cao dân trí cho người dân, mà chủ yếu nhằm đào tạo đội ngũ công chức phục vụ cho nhà nước bảo hộ Sự xuất hiện của một tầng lớp trí thức mới sẽ thay thế vị trí của lớp Nho sĩ cũ trong xã hội và trên văn đàn.

Chữ Quốc ngữ, ban đầu chỉ được sử dụng trong nội bộ Đạo Thiên Chúa trong hơn hai thế kỷ, đã trở thành công cụ quan trọng cho thực dân Pháp sau khi chiếm Nam Kỳ Họ nhận thấy rằng chữ Quốc ngữ thuận lợi cho việc cai trị và đồng hóa văn hóa, vì vậy đã khuyến khích việc học tập chữ này Tại Nam Kỳ, chữ Quốc ngữ được giảng dạy trong các trường học và xuất hiện trong nhiều văn bản bên cạnh chữ Nho Qua đó, chữ Quốc ngữ không chỉ được phổ cập mà còn được truyền bá bằng các phương pháp cưỡng chế Đồng thời, thực dân Pháp đã phát triển báo chí tại Nam Kỳ để thông báo chính sách và ca ngợi "công ơn khai hóa, truyền bá văn minh đại Pháp," mở rộng ảnh hưởng ra toàn quốc.

Chính sách văn hóa của Pháp không chỉ phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình tiếp biến văn hóa, góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam.

2.1.2 Giao thoa và tiếp biến văn hóa Việt Nam - Chủ thể văn hóa Việt Nam

Trong quá trình phát triển xã hội, sự giao thoa giữa các nền văn hóa là nhu cầu tất yếu, dẫn đến hiện tượng tiếp biến văn hóa Văn hóa Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này, đặc biệt trong những thập niên đầu thế kỷ XX, khi văn hóa Việt tiếp xúc mạnh mẽ với văn hóa phương Tây dưới sự đô hộ của thực dân Pháp Sự tiếp xúc này tạo ra nhiều phản ứng khác nhau, từ sự tiếp nhận dè dặt đến sự chống đối, nhưng cuối cùng, văn hóa Việt đã chọn lọc và cải biến những tinh hoa văn hóa nhân loại để phù hợp với tâm thức và mỹ cảm của người Việt Đây là quá trình hội nhập, bổ sung những yếu tố mới, hiện đại vào nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới.

Trước khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây, văn hóa Việt Nam đã hình thành trong nền văn minh Lúa nước, mang đặc trưng của văn hóa phương Đông với gia tộc làm gốc và coi trọng tính trường tồn Văn hóa này thể hiện tính “trọng tình”, giữ gìn tình cảm nồng ấm, đạo đức nhân nghĩa, và ưa chuộng hòa bình Cấu trúc văn hóa Việt Nam bao gồm “tứ dân”: sĩ, nông, công, cổ, trong đó sĩ phu và quan lại chiếm ưu thế về ruộng đất và đặc quyền, trong khi nông dân và công nhân thường nghèo khổ Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thiết lập chế độ cai trị ở Đông Dương, dẫn đến sự chuyển mình của xã hội Việt Nam từ phong kiến sang xã hội tư bản thuộc địa, làm phân hóa chủ thể văn hóa và xuất hiện những nhóm cư dân mới bên cạnh “tứ dân”.

Sự du nhập của kinh tế tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam, một lực lượng lao động mới trong dây chuyền sản xuất, sống và làm việc với các mối quan hệ vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã Giai cấp công nhân trở thành một bộ phận quan trọng trong văn hóa Việt Nam, bên cạnh sự xuất hiện của giai cấp tư sản với địa vị kinh tế và nhu cầu văn hóa riêng Đặc biệt, xã hội thuộc địa đã tạo ra tầng lớp tiểu tư sản, bao gồm công chức, trí thức và sinh viên, những người nhạy cảm và năng động trong việc tiếp thu các yếu tố văn hóa mới Sự ảnh hưởng của kinh tế tư bản cũng thúc đẩy quá trình đô thị hóa, biến cư dân nông nghiệp thành những cư dân đô thị tập trung tại các thành phố, nơi diễn ra cuộc sống sôi động và nhộn nhịp.

Com-lê nam và mối quan hệ với trang phục bản địa

Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc thể hiện qua các khía cạnh vật chất và tinh thần trong đời sống con người, với trang phục là một biểu hiện nổi bật Tuy nhiên, bản sắc văn hóa không phải là bất biến mà luôn biến đổi Sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây đã dẫn đến một cuộc cách mạng về trang phục tại Việt Nam.

2.2.1 Trang phục nam bản địa

Trang phục truyền thống Việt Nam phản ánh đặc trưng của cư dân vùng nhiệt đới, được thiết kế để thích ứng với khí hậu nóng ẩm và bảo vệ sức khỏe con người Nguyên liệu chính để dệt vải từ xa xưa là các loại sợi tự nhiên như tơ chuối, sợi đay, gai, tơ tằm và bông, mang lại tính nhẹ, khả năng hút ẩm tốt và thoát khí nhanh Quần áo truyền thống của người Việt có nét đặc trưng của nền nông nghiệp, không phân biệt rõ ràng giữa giới tính và nghề nghiệp, với kiểu dáng đơn giản và màu sắc giản dị, thường có áo xẻ ngực, không cổ và mặc rộng rãi.

- Trang phục thời Hùng Vương (Hình 2.1)

Từ thời kỳ các vua Hùng, nghề dệt vải tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể, được chứng minh qua các dấu tích trên trống đồng, đồ gốm và tượng Người Việt đã sản xuất được các loại vải mỏng và mịn, vượt trội hơn so với vải thô trước đó Trong giai đoạn này, các nguyên liệu tự nhiên như sợi đay, sợi gai, sợi tơ chuối, sợi tơ tằm và sợi bông đã được sử dụng phổ biến trong ngành dệt.

Trang phục điển hình của đàn ông thời Hùng Vương gồm áo chui đầu, áo choàng trang trí hoa văn và khố đa dạng như khố dây, đuôi khố thả, khố quấn nhiều vòng Khố không chỉ mát mẻ, phù hợp với khí hậu nóng bức mà còn thuận tiện trong lao động, duy trì lâu dài trong đời sống dân chúng Thời kỳ này cũng phổ biến tục săm mình với hình lượn sóng, móc câu và thủy quái Cả đàn ông và phụ nữ đều đeo trang sức như vòng, khuyên tai, chuỗi hạt và có kiểu tóc cắt ngắn đến ngang vai hoặc búi tròn sau gáy.

Trang phục nam giới thời Hùng Vương đã được hình thành với những đặc trưng riêng, phản ánh sự phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó Điều này không chỉ thể hiện sự phong phú và bản sắc của từng tộc người mà còn là nền tảng cho sự phát triển trang phục của người Việt trong tương lai.

- Trang phục thời Phong Kiến

Sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, Việt Nam giành được độc lập và trải qua thời kỳ dựng nước, giữ nước của các triều đại phong kiến kéo dài đến cuối thế kỷ XIX Trong bối cảnh đó, văn hóa Việt Nam đã thể hiện cốt cách và khí phách mạnh mẽ, khẳng định bản sắc dân tộc trước ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc Văn hóa dân tộc không chỉ bảo tồn được truyền thống mà còn phát triển phong phú và tiến bộ hơn theo thời gian.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, người Giao Chỉ không chỉ dệt vải từ sợi đay, sợi gai, sợi tơ chuối và sợi tơ tằm mà còn biết trồng bông, từ đó vải dệt từ sợi bông trở nên phổ biến và trở thành chất liệu chính trong may mặc ở các giai đoạn sau.

Trong các triều đại phong kiến tự chủ, nghề dệt vải đã phát triển mạnh mẽ, bắt đầu từ thời nhà Lý với các cơ sở ươm tơ và dệt lụa cung cấp cho triều đình Đến thời Trần, nghề dệt đã đa dạng hóa với hàng chục loại vải như bông, lụa, lĩnh, sa, và gấm Đến thế kỷ XVIII, nghề dệt truyền thống của Việt Nam chủ yếu sử dụng bốn loại nguyên liệu chính: tơ chuối, tơ đay gai, tơ tằm và sợi bông để sản xuất các loại vải phong phú.

Dệt vải và nhuộm màu đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt với việc sử dụng nguyên liệu thực vật như lá, rễ và vỏ cây, tạo ra màu sắc đa dạng và tinh tế Mỗi triều đại phong kiến Việt Nam đều quy định riêng về màu sắc của trang phục, với các màu chính như đỏ, vàng, xanh, trắng và đen, cùng với các màu pha như thanh thiên, hoa đào, cánh trả và lục cũng rất được ưa chuộng Trong khi đó, trang phục thường dân chủ yếu sử dụng màu chàm và nâu, với kỹ thuật nhuộm chàm và dãi nâu phổ biến trong cộng đồng.

Thời Lý - Trần, trang phục cơ bản như khố, váy, áo cánh ngắn vẫn giữ nguyên nét truyền thống từ thời Hùng Vương Mặc dù có quy định về trang phục cho vua quan, nhưng phong cách ăn mặc giữa vua quan và dân thường không có sự khác biệt lớn Theo sử Hán, vua Lê Hoàn đôi khi vẫn mặc khố và đi chân đất như dân thường Qua các triều đại Lý - Trần, quy định về triều phục bao gồm áo bào, mũ phác đầu, hia, và thắt đai da, được phân chia theo chức vụ với chất liệu và màu sắc khác nhau Đàn ông thường dân thường để trần hoặc mặc áo tứ thân màu đen cổ tròn bằng vải the, quần mỏng bằng lụa thâm, phần lớn đi chân đất hoặc giày da.

Thời Lê là giai đoạn phát triển cao của nhà nước phong kiến tập quyền Đại Việt, với trang phục đa dạng về kiểu dáng và màu sắc Nhà nước đã quy định chặt chẽ về cách ăn mặc của quân lính, quan lại và nhân dân, thể hiện qua câu nói của vua Lê Thái Tông: “triều đình là chỗ lễ nhạc, y phục để phô diễn vẻ đẹp, danh phận rõ rành không thể sai vượt được” Việc quy định trang phục không chỉ nhằm phân biệt với phương Bắc mà còn khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam Dưới triều vua Lê Thánh Tông, vua mặc áo hoàng bào, long cổn và đội mũ miện, trong khi quan lại mặc triều phục với màu sắc như hồng, lục, xanh, và đội mũ ô xa hai cánh chuồn.

Theo quy định tại thời điểm đó, thường dân bị cấm mặc áo màu vàng, đi hài, giày và sử dụng đồ trang trí hình rồng phượng Nam giới sư sãi không được cạo trọc đầu, và tay áo của thường dân phải hẹp hơn áo của quan lại Trong thời kỳ này, nam giới thường mặc áo dài màu thâm hoặc vải thô màu trắng, xanh đậm Khi lao động, họ thường cởi trần, đóng khố và để tóc dài tết thành búi, tạo thành hình thức phổ biến.

Trong lịch sử Việt Nam, từ thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, triều Tây Sơn đến nhà Nguyễn, trang phục các dân tộc đã phát triển đáng kể, đặc biệt là trang phục dân tộc Kinh Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phân biệt rõ ràng trong cách ăn mặc của các tầng lớp xã hội phong kiến, khi vua quan nhà Nguyễn sao chép nguyên xi phong cách và sinh hoạt của phong kiến nhà Thanh.

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, người dân Việt Nam, cả nam và nữ, thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, được gọi là áo cánh ở Bắc Bộ và áo bà ba ở Nam Bộ Áo cánh có thiết kế ngắn bốn thân hoặc năm thân, với cổ tròn đứng và viền lớn ở gấu tay, gấu áo Trong các dịp lễ hội, áo dài, đặc biệt là áo tứ thân, trở nên phổ biến Áo tứ thân được may từ bốn mảnh vải, với hai tà áo không có khuy, có thể buông hoặc thắt lại Áo năm thân tương tự nhưng với vạt trái rộng gấp đôi vạt phải, thể hiện triết lý coi trọng bên trái trong văn hóa Việt Tập quán cài cúc áo bên trái cũng phản ánh điều này, mặc dù sau này, nam giới đã chuyển sang cài khuy bên phải như phong cách Trung Hoa.

Khi quần gốc du mục xuất hiện, nam giới là những người đầu tiên tiếp nhận Điều này dễ hiểu vì nam giới thường hướng ngoại và dễ dàng hấp thụ văn hóa mới Có hai loại quần nam: quần lá tọa và quần ống sớ Quần lá tọa có ống rộng, thẳng, đũng sâu và cạp to bản, được thiết kế phù hợp với khí hậu nóng, mang lại cảm giác thoải mái như váy của phụ nữ Người mặc có thể điều chỉnh độ cao của ống quần dễ dàng bằng cách kéo cạp lên hoặc xuống Trong các dịp lễ hội, nam giới thường chọn quần ống sớ với ống hẹp, đũng cao và kết hợp với áo dài Trong khi dân thường sử dụng vải thô màu trắng hoặc ngà, người có chức sắc thường chọn vải quý như gấm, vóc, hoặc sa tanh, đi kèm với guốc gỗ hoặc giày và khăn lượt đen trên đầu.

Ngày đăng: 19/09/2021, 21:56

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w