1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020

66 99 8
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Kiến Thức, Thái Độ Và Thực Hành Của Sinh Viên Trường Đại Học Y Dược – ĐHQGHN Về Phòng Chống Dịch Bệnh COVID-19 Năm 2020
Tác giả Vũ Thị Ánh
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thành Trung, ThS. Mạc Đăng Tuấn
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Y Đa Khoa
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 632,49 KB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (12)
    • 1.1. Khái niệm – lịch sử COVID – 19 (12)
    • 1.2. Dịch tễ học COVID – 19 (14)
    • 1.3. Hậu quả, ảnh hưởng của dịch bệnh COVID – 19 (15)
    • 1.4. Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh COVID – 19 (18)
    • 1.5. Một số nghiên cứu liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành của (23)
      • 1.5.1. Nghiên cứu trên thế giới (23)
      • 1.5.2. Nghiên cứu trong nước (26)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (29)
    • 2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu (29)
      • 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu (29)
      • 2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu (29)
    • 2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu (29)
      • 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu (29)
      • 2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu (29)
      • 2.2.3. Công cụ thu thập số liệu (30)
      • 2.2.4. Các biến số nghiên cứu (30)
      • 2.2.5. Sơ đồ nghiên cứu (32)
    • 2.3. Xử lý số liệu (33)
    • 2.4. Đạo đức nghiên cứu (34)
  • Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (36)
    • 3.1. Thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (36)
      • 3.1.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (36)
      • 3.1.2. Kiến thức của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (37)
    • 3.2. Thực trạng thực hành của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (0)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (49)
    • 4.1. Thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (49)
      • 4.1.1. Kiến thức của sinh viên Trường ĐH Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (49)
      • 4.1.2. Thái độ của sinh viên Trường đại học Y Dược - ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (54)
    • 4.2. Thực trạng thực hành của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (56)
  • KẾT LUẬN (59)
    • 1. Kiến thức, thái độ của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (59)
      • 1.1. Kiến thức của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (59)
      • 1.2. Thái độ của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (59)
    • 2. Thực trạng thực hành của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (60)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (62)

Nội dung

TỔNG QUAN

Khái niệm – lịch sử COVID – 19

Ngày 8 tháng 12 năm 2019, thành phố Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc báo cáo về một số trường hợp viêm phổi không rõ nguyên nhân. Tương tự như những bệnh nhân SARS và MERS, những bệnh nhân này cho thấy các triệu chứng của viêm phổi do virus, bao gồm sốt, ho và khó thở [9] Ngày 31 tháng 12, Ủy ban Y tế thành phố Vũ Hán đã thông báo cho công chúng về một đợt bùng phát viêm phổi không xác định được nguyên nhân, đồng thời báo cáo cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về thông tin này Trong vòng 1 tháng, dịch bệnh đã lây lan ồ ạt đến khắp 34 tỉnh thành của Trung Quốc.

Hình 1.1 Các sự kiện chính của đợt bùng phát COVID – 19 [9]

Những cuộc khảo sát ban đầu đã cho kết quả vào ngày 09 tháng 01 năm

Vào năm 2020, một loại virus mới thuộc chi Betacoronavirus được phát hiện, mang tên coronavirus mới 2019 (2019-nCov) Virus này thuộc họ Coronaviridae, có kích thước từ 65 đến 125 nm và chứa một sợi RNA dài từ 26 đến 32 kb Trong họ coronavirus, có nhiều loại khác nhau, bao gồm alpha, beta, gamma, delta, SARS-CoV, H5N1 cúm A và H1N1.

2009, và MERS-CoV [10] Mức độ tương đồng về trình tự acid amin của SARS-CoV-2 là 76,7–77,0% với SARS-CoVs từ cầy hương và người, 75–

SARS-CoV-2 có sự tương đồng về gen lên tới 97,7% với coronavirus ở dơi và 90,7–92,6% với coronavirus ở tê tê Ngoài ra, tỷ lệ tương đồng về axit amin giữa SARS-CoV-2 và SARS-CoV là 73%, cho thấy dơi và tê tê là hai vật chủ có mối liên hệ chặt chẽ nhất với SARS-CoV-2.

Hình 1.2 Cây phát sinh loài của các trình tự gen có chiều dài đầy đủ của

SARS-CoV-2, SARSr-CoVs và các betacoronavirus khác [9]

Vào ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Quốc tế về Phân loại virus (ICTV) đã chính thức đặt tên cho virus SARS-CoV-2, và bệnh do virus này gây ra được gọi là COVID-19.

Kể từ khi SARS-CoV-2 xuất hiện, virus này đã nhanh chóng lây lan toàn cầu, dẫn đến việc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố đại dịch vào ngày 11 tháng 3 năm 2020 Tính đến ngày 1 tháng 5 năm 2021, WHO ghi nhận có 150.989.419 ca mắc COVID-19 trên toàn thế giới, trong đó 3.173.576 trường hợp đã tử vong.

[5] Tại Việt Nam, theo thông tin từ trang chính thức của Bộ Y Tế, số ca mắcCOVID – 19 tính đến ngày 01 tháng 05 năm 2021 là 2 942 ca và tử vong 35 ca[6].

Dịch tễ học COVID – 19

Ca bệnh đầu tiên của SARS-CoV-2 được ghi nhận vào ngày 8 tháng 12 năm 2019, có liên quan đến một chợ hải sản ở Vũ Hán, Trung Quốc, nơi buôn bán hải sản, động vật sống và gia cầm Nghiên cứu từ Pháp cho thấy virus có thể đã lây lan từ sớm hơn, khiến nhiều ý kiến cho rằng chợ này không phải là nguồn lây nhiễm ban đầu Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã cử đoàn chuyên gia đến Vũ Hán vào tháng 3 năm 2020 để điều tra, nhưng trưởng đoàn Peter Ben Embarek cho biết chưa có bằng chứng xác định về ca bệnh đầu tiên và địa điểm khởi phát dịch, cần kiểm tra thêm mẫu máu ở Trung Quốc, Ý và Pháp Báo cáo ban đầu không đủ để xác định nguồn gốc của SARS-CoV-2, yêu cầu nhiều nghiên cứu xác thực hơn.

Theo thống kê, tất cả các lứa tuổi đều có khả năng nhiễm COVID-19, với mức độ triệu chứng có thể từ nhẹ đến nặng Thêm vào đó, đã ghi nhận các trường hợp lây nhiễm COVID-19 trong cộng đồng.

19 qua nhau thai từ mẹ sang con [18].

Các triệu chứng phổ biến của COVID-19 bao gồm sốt, ho và khó thở, trong khi các triệu chứng ít phổ biến hơn có thể là đau đầu, tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đau ngực và ớn lạnh Tại Ý, đã ghi nhận trường hợp bệnh nhân gặp triệu chứng rối loạn khứu giác và vị giác Các triệu chứng này có thể xuất hiện từ 2 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh, và khi khởi phát, COVID-19 thường gây sốt và tổn thương đường hô hấp Ở những trường hợp nặng, bệnh có thể dẫn đến viêm phổi và tổn thương nhiều cơ quan khác, đặc biệt ở những người có bệnh nền, với báo cáo từ Trung Quốc cho thấy 81% ca mắc là nhẹ, 14% cần thở máy trong ICU và 5% ở tình trạng nguy kịch.

COVID-19 lây lan dễ dàng từ người sang người qua tiếp xúc với dịch cơ thể của người nhiễm Virus cũng có thể truyền từ việc chạm vào bề mặt mà người bệnh đã tiếp xúc, rồi đưa tay lên miệng, mũi hoặc mắt Những người chăm sóc bệnh nhân có nguy cơ cao bị phơi nhiễm khi xử lý chất thải của người bệnh.

Tùy thuộc vào mức độ lây lan của chủng virus, việc ho, hắt hơi hay bắt tay có thể khiến người xung quanh bị phơi nhiễm.

Hậu quả, ảnh hưởng của dịch bệnh COVID – 19

Đại dịch COVID-19 đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe con người trên toàn cầu, đồng thời đặt ra những thách thức lớn cho hệ thống y tế, an ninh lương thực, ổn định kinh tế và giáo dục.

Đại dịch COVID-19 đã gây ra những tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất doanh nghiệp và thu nhập cá nhân do mất việc làm và giảm năng suất lao động Chẳng hạn, chỉ số sản xuất tại Trung Quốc giảm hơn 54% trong tháng 2 năm 2020, trong khi gần một nửa lực lượng lao động toàn cầu phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp Hành vi chi tiêu của người tiêu dùng cũng thay đổi do thu nhập giảm, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ như du lịch và khách sạn Bên cạnh đó, COVID-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực toàn cầu, khi việc đóng cửa biên giới và hạn chế thương mại ngăn cản nông dân tiếp cận thị trường, dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm Hàng triệu người lao động mất việc, gây đe dọa đến cuộc sống của các gia đình và làm gia tăng tình trạng bạo lực gia đình, đặc biệt trong nhóm thu nhập thấp Ngoài ra, đại dịch còn ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần, với khoảng 20% bệnh nhân COVID-19 gặp rối loạn tâm thần, như lo âu và trầm cảm, sau ba tháng mắc bệnh.

COVID-19 đã làm trầm trọng thêm triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) ở những người đã được chẩn đoán, dẫn đến việc nhiều người tìm đến ma túy và rượu để giải tỏa căng thẳng Đại dịch này cũng đặt ra thách thức lớn cho ngành giáo dục, yêu cầu phải đảm bảo chất lượng giáo dục trong bối cảnh giãn cách xã hội và dừng hoạt động học tập trực tiếp tại trường.

Từ tháng 2 năm 2020 đến tháng 5 năm 2020, khoảng 21,2 triệu trẻ em ở Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi đại dịch Một cuộc khảo sát của Liên hợp Quốc cho thấy một nửa số phụ huynh cho biết con cái họ giảm thời gian học, không tập trung hoặc gần như không học trong thời gian nghỉ ở nhà Phương pháp dạy học trực tuyến gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là với trẻ em vùng dân tộc thiểu số và trẻ em khuyết tật, do hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ học tập mới.

Vấn đề sức khỏe toàn cầu và áp lực lên hệ thống y tế đang trở thành mối quan tâm lớn Tính đến ngày 01 tháng 05 năm 2021, dữ liệu từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chỉ ra rằng tình hình sức khỏe cần được chú trọng và giải quyết kịp thời.

150 989 419 ca mắc COVID – 19, trong đó 3 173 576 trường hợp đã tử vong

[5] Tại Việt Nam, theo thông tin từ trang web chính thức của Bộ Y Tế, số ca mắc COVID – 19 tính đến ngày 01 tháng 05 năm 2021 là 2 942 ca và tử vong

35 ca [5] Những thiệt hại về người là vô cùng to lớn và không thể bù đắp.

Trong bối cảnh dịch COVID-19, hệ thống y tế đã chịu ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là đối với những người mắc bệnh mãn tính cần theo dõi và điều trị định kỳ Nhiều chương trình sàng lọc bệnh tật như ung thư vú và ung thư đại trực tràng đã bị tạm dừng, dẫn đến gián đoạn dịch vụ điều trị trên toàn cầu Theo khảo sát, hơn một nửa các quốc gia đã ngừng một phần hoặc hoàn toàn các dịch vụ điều trị tăng huyết áp, trong khi 70% dịch vụ tiêm chủng định kỳ bị ảnh hưởng Tại Việt Nam, người cao tuổi và những người mắc bệnh không lây nhiễm như tim mạch, đái tháo đường cũng bị tác động nghiêm trọng Từ tháng 04 năm 2020, người dân đã bắt đầu hạn chế đến bệnh viện, với số lượng khám tại Bệnh viện Đa khoa Hải Phòng giảm 80% Điều này dẫn đến giảm 48% số trẻ em dưới 5 tuổi đến khám và 75% số trẻ em được tiêm chủng, gây nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng do thiếu theo dõi và điều trị kịp thời.

Vào ngày 18 tháng 04 năm 2021, Thái Lan ghi nhận số ca mắc COVID-19 mới cao nhất từ đầu dịch với 1.767 ca và 2 ca tử vong, nâng tổng số ca mắc lên đáng kể Theo dõi tình hình dịch bệnh tại các quốc gia trong khu vực là rất quan trọng để có biện pháp ứng phó kịp thời.

Tính đến ngày 24 tháng 03 năm 2021, Thái Lan ghi nhận 42,352 ca nhiễm COVID-19, trong đó có 101 ca không qua khỏi Quốc gia này đã quyết định đóng cửa các đường bay nội địa do tình hình dịch bệnh gia tăng, dẫn đến nguy cơ quá tải cho hệ thống y tế Nhiều người dân đã sử dụng mạng xã hội để kêu gọi tìm kiếm giường bệnh cho người thân, phản ánh lo ngại rằng hệ thống y tế đang bị đẩy đến giới hạn.

Trong vòng 24 giờ qua, Bộ Y Tế Ấn Độ đã ghi nhận 332.730 ca mắc COVID-19 mới và 2.263 ca tử vong, nâng tổng số ca mắc lên đến ngày 01 tháng.

Tính đến tháng 5 năm 2021, Ấn Độ ghi nhận 19.164.960 ca nhiễm COVID-19 và 211.853 ca tử vong Ramanan Laxminarayan, giám đốc Trung tâm nghiên cứu Dịch bệnh tại New Delhi, cảnh báo rằng tình hình đã vượt khỏi tầm kiểm soát với tình trạng thiếu oxy, khó khăn trong việc tìm giường bệnh, và thời gian chờ đợi xét nghiệm lên đến hơn một tuần Tại New Delhi, xác người chết vì COVID-19 xuất hiện khắp nơi, với trung bình 5 phút có một ca tử vong Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh toàn cầu, Việt Nam cần duy trì sự cảnh giác, không được chủ quan và thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch mà Chính phủ và Bộ Y tế đã ban hành.

Một số biện pháp phòng chống dịch bệnh COVID – 19

COVID-19 bắt nguồn từ động vật và có khả năng lây truyền từ người sang người thông qua tiếp xúc với dịch cơ thể Sự lây lan có thể xảy ra qua ho, hắt hơi hoặc bắt tay, tùy thuộc vào chủng virus Để đối phó với dịch bệnh, Đảng, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã triển khai các giải pháp phòng chống COVID-19 một cách quyết liệt và kịp thời, huy động sức mạnh toàn dân để ứng phó hiệu quả.

Bộ Y Tế đã đưa ra các biện pháp phòng chống sự lây lan của COVID –

Để phòng chống dịch bệnh COVID-19, người dân cần nghiêm túc thực hiện quy tắc 5K, bao gồm: đeo khẩu trang, khử khuẩn tay thường xuyên, giữ khoảng cách an toàn, không tụ tập đông người và thực hiện khai báo y tế.

1 Khẩu trang: Đeo khẩu trang thường xuyên tại nơi công cộng, nơi tập trung đông người; đeo khẩu trang y tế tại các cơ sở y tế, khu cách ly.

2 Khử khuẩn: Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn tay Vệ sinh các bề mặt/ vật dụng thường xuyên tiếp xúc (tay nắm cửa, điện thoại, máy tính bảng, mặt bàn, ghế…) Giữ vệ sinh, lau rửa và để nhà cửa thông thoáng.

3 Khoảng cách: Giữ khoảng cách khi tiếp xúc với người khác.

4 Không tụ tập đông người.

5 Khai báo y tế: thực hiện khai báo y tế trên App NCOVI; cài đặt ứng dụng BlueZone tại địa chỉ https://www.bluezone.gov.vn để được cảnh báo nguy cơ lây nhiễm COVID – 19.

Hình 1.3: Thông điệp 5K của Bộ Y Tế [6]

Để đạt được hiệu quả phòng chống dịch bệnh, việc phát huy vai trò của giáo dục và truyền thông là rất quan trọng Tại Việt Nam, với mục tiêu truyền thông “Kịp thời - Minh bạch - Chính xác và Tin cậy”, công tác thông tin và tuyên truyền về phòng chống COVID-19 đã được triển khai hiệu quả qua nhiều kênh như báo chí, tin nhắn điện thoại, mạng xã hội, các ứng dụng trực tuyến và truyền thông trực tiếp trong cộng đồng.

Bộ Y Tế đã triển khai lực lượng y tế phối hợp với các cơ quan địa phương để tuyên truyền nâng cao kiến thức và trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ bản thân và gia đình khỏi dịch bệnh Vai trò của truyền thông từ các tuyến y tế cơ sở, gần gũi với cộng đồng, rất quan trọng trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Các chuyên gia và bác sĩ liên tục cập nhật khuyến cáo qua các phương tiện truyền thông Từ ngày 1/2 đến 31/5/2020, báo chí đã đăng tải 560.048 tin bài về dịch COVID-19, trong đó tin tích cực chiếm 41,96% Khi Việt Nam chuyển sang trạng thái “bình thường mới”, tỷ lệ tin bài về COVID-19 vẫn duy trì ở mức 28-40%, tập trung vào phục hồi kinh tế và các chiến sĩ y tế, quân đội, công an đang làm nhiệm vụ Trong 5 tháng đầu năm 2020, mạng xã hội Việt Nam ghi nhận gần 17 triệu đề cập đến tình hình dịch bệnh Đảng, Chính phủ và Bộ Y tế đã thực hiện các biện pháp phòng chống dịch dựa trên nguyên tắc chiến lược, giao trách nhiệm cho địa phương theo tinh thần “4 tại chỗ” và yêu cầu các tỉnh/thành phố triển khai các biện pháp phù hợp với từng giai đoạn.

Giai đoạn đầu của dịch COVID-19 tại Việt Nam bắt đầu từ ca mắc đầu tiên được xác định vào ngày 23 tháng 01 năm 2020, với các ca bệnh liên quan đến người trở về từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, cũng như những người nhập cảnh từ các quốc gia có dịch ở Châu Âu và Châu Mỹ.

Vào ngày 6 tháng 02 năm 2020, nhiều địa phương tại Việt Nam đã cho học sinh nghỉ học nhằm phòng chống dịch bệnh Đến ngày 12 tháng 02 năm 2020, tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định cách ly toàn bộ xã Sơn Lôi để ngăn chặn sự lây lan của dịch Tiếp theo, vào ngày 17 tháng 03 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định tạm dừng cấp thị thực cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, đồng thời lực lượng quân đội được triển khai để kiểm soát biên giới và thực hiện cách ly tập trung.

Trong 14 ngày đối với mọi trường hợp nhập cảnh, nhiều biện pháp mạnh mẽ đã được triển khai trong giai đoạn 1 của dịch bệnh Chiến lược này bao gồm phát hiện sớm nguồn lây, cách ly kịp thời, khoanh vùng nhanh và dập dịch triệt để.

Giai đoạn 2 của dịch COVID-19 bắt đầu từ cuối tháng 07 năm 2020, với sự gia tăng các ca mắc mới tại Đà Nẵng và một số tỉnh thành khác Bộ Y tế đã thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương chống dịch tại Đà Nẵng, huy động đội ngũ chuyên gia hàng đầu và hơn 2000 cán bộ y tế từ trung ương và địa phương để hỗ trợ Đà Nẵng, Quảng Nam và các tỉnh miền Trung trong công tác phòng chống dịch bệnh.

Giai đoạn 3 của ổ dịch tại Hải Dương đã xuất hiện chủng virus biến thể mới lây lan nhanh chóng Để đối phó với tình hình này, Bộ Y Tế đã chỉ đạo thực hiện chiến lược truy vết thần tốc, khoanh vùng nhanh, và lấy mẫu xét nghiệm diện rộng Đồng thời, phong tỏa hẹp được áp dụng nhằm giảm thiểu tác động đến đời sống an sinh xã hội của người dân.

Nhà nước đang tích cực thúc đẩy trạng thái bình thường mới nhằm thực hiện mục tiêu kép, bao gồm duy trì hoạt động kinh tế và hỗ trợ người lao động mất việc làm cũng như doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh Dù có thực hiện giãn cách xã hội, các biện pháp đảm bảo sản xuất, kinh doanh và xuất nhập cảnh vẫn được triển khai liên tục.

Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể trong việc kiểm soát COVID-19, với tỷ lệ nhiễm và tử vong thuộc nhóm thấp nhất thế giới Chi phí cho công tác phòng chống dịch tại Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều quốc gia khác, điều này đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Chặng đường đẩy lùi dịch bệnh COVID-19 vẫn tiếp tục, vì vậy người dân cần duy trì cảnh giác và tuân thủ quy định của Nhà nước Ngành Y tế cần nâng cao công tác y tế công cộng, dự phòng và giáo dục chăm sóc sức khỏe để sẵn sàng đối phó với các thách thức tương lai Ngày 17 tháng 3 năm 2021, Bộ Y Tế tổ chức hội thảo nhằm tăng cường tính bền vững và khả năng chống chịu của hệ thống Y tế Việt Nam Hệ thống này đang nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động, hướng tới mục tiêu công bằng, chất lượng và bền vững, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân Tuy nhiên, hệ thống Y tế cũng đối mặt với thách thức từ gánh nặng bệnh tật kép và dân số già hóa, đòi hỏi sự củng cố để phát triển bền vững và ứng phó với khó khăn trong tương lai.

Một số nghiên cứu liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành của

sinh viên y khoa đối với COVID – 19

1.5.1 Nghiên cứu trên thế giới

- Về kiến thức của sinh viên y khoa với đại dịch COVID – 19:

Nghiên cứu của tác giả Ronald Olum và các cộng sự đã thu thập dữ liệu từ 741 sinh viên y khoa tại 9 trường Y khoa ở Uganda trong khoảng thời gian từ 13 đến 19 tháng 04 năm 2020 Kết quả cho thấy 671 sinh viên, chiếm 91%, có kiến thức tốt về COVID-19, với đa số sinh viên xác định sốt, ho và khó thở là các triệu chứng lâm sàng chính của bệnh (95%, 85% và 88% tương ứng) Đặc biệt, sinh viên năm cuối thể hiện kiến thức tốt hơn so với sinh viên năm nhất.

Nghiên cứu của tác giả Mohammad Hossein Taghrir và các cộng sự đã thu thập thông tin từ 240 sinh viên y khoa Iran (năm thứ 5-7) trong khoảng thời gian từ ngày 26 đến 28 tháng 2 năm 2020 Kết quả cho thấy tỉ lệ trả lời đúng các câu hỏi về kiến thức COVID-19 đạt trung bình 86,96%, với 79,6% sinh viên có mức độ hiểu biết tốt, 13,8% có mức độ hiểu biết trung bình và 6,7% có mức độ hiểu biết thấp.

Tác giả Harish Chandra Neupane đã thực hiện một khảo sát về kiến thức liên quan đến COVID-19 trên 181 đối tượng, bao gồm nhân viên y tế và sinh viên y khoa tại một bệnh viện ở Nepal, từ ngày 22 đến 28 tháng 04 năm 2020 Kết quả cho thấy chỉ có 35 người, chiếm 19,3%, có kiến thức được đánh giá là "Tốt".

Trong một khảo sát về kiến thức về COVID-19, 105 người (58%) cho biết có kiến thức "Khá", trong khi 41 người (22,7%) cho rằng kiến thức của họ là "Kém" Đáng chú ý, 166 người (91,7%) đã trả lời đúng rằng thời gian rửa tay tối thiểu theo khuyến nghị của CDC là 20 giây, và 91,7% người tham gia cũng nắm rõ tiêu chuẩn chẩn đoán xác định COVID-19.

Nghiên cứu của tác giả Pranav D Modi và các cộng sự về kiến thức của sinh viên y khoa và nhân viên y tế tại Mumbai đã khảo sát 1562 đối tượng từ ngày 12 đến 19 tháng 3 năm 2020 Kết quả cho thấy 71,2% người tham gia trả lời đúng về kiến thức liên quan đến virus, trong đó 62% biết rằng virus lây truyền chủ yếu qua đường giọt bắn Bên cạnh đó, 75% người được hỏi nhận thức được tầm quan trọng của việc đeo khẩu trang và giữ khoảng cách an toàn, và 83% hiểu rằng vệ sinh tay là phương pháp phòng chống lây nhiễm hiệu quả Tuy nhiên, chỉ có 52,5% số người biết cách vệ sinh tay đúng cách.

Ashraf I Khasawneh và các cộng sự thực hiện khảo sát 1404 sinh viên y khoa ở Jordan về kiến thức liên quan đến COVID – 19 từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 3 năm 2020, cho kết quả: một nửa số sinh viên cho rằng virus có thể lây truyền qua thực phẩm bị ô nhiễm (53,3%), chỉ 38,6% cho rằng đường phân - miệng không có khả năng là nguồn lây truyền Hầu hết sinh viên đều đồng ý rằng virus có khả năng lây truyền qua các tương tác vật lý trực tiếp như bắt tay (93,7%), hôn (94,7%) hoặc tiếp xúc với bề mặt bị ô nhiễm (97,4%), 91% sinh viên chắc chắn rằng virus lây qua đường giọt bắn [29] Trong khi một số ít học sinh (19,3%) tin rằng khẩu trang có tác dụng bảo vệ chống lại sự lây nhiễm COVID – 19, thì 60,6% trong số họ tin rằng chỉ những người bị nhiễm COVID – 19 mới nên đeo khẩu trang để giảm lây truyền.

Vào ngày 25 tháng 3 đến 05 tháng 4 năm 2020, tác giả M Saqlain đã thực hiện một khảo sát trên 377 bác sĩ, dược sĩ và y tá tại các cơ sở y tế ở Punjab, Pakistan Kết quả cho thấy 93,2% người tham gia có kiến thức tốt về lĩnh vực y tế, đặc biệt là dược sĩ.

(94,7%, N = 179) có kiến thức tốt hơn bác sĩ (93,3%, N = 112) nhưng sự khác biệt không đáng kể [30].

- Về thái độ của sinh viên y khoa với đại dịch COVID – 19:

Nghiên cứu của tác giả Ronald Olumcho kết quả 550 sinh viên các trường

Y ở Uganda (74%) có thái độ tích cực đối với việc phòng ngừa COVID

Nghiên cứu cho thấy sinh viên y khoa nữ có thái độ tiêu cực hơn đáng kể đối với việc phòng ngừa COVID-19 so với sinh viên nam (aOR 0,7, KTC 95% 0,5-1,0; P = 0,04) Tuy nhiên, hầu hết các tham gia viên đều đồng ý rằng họ sẽ đi kiểm tra tại cơ sở y tế nếu tiếp xúc với bệnh nhân nhiễm COVID-19, và có tới 80% (n = 592) sẵn sàng tham gia điều trị bệnh nhân COVID-19 khi được kêu gọi.

Ashraf I Khasawneh và các cộng sự thực hiện khảo sát 1404 sinh viên y khoa Jordan cho kết quả: 41,9% sinh viên được khảo sát cho biết họ sẽ không quá căng thẳng nếu bản thân bị nhiễm bệnh, điều thú vị là 59 sinh viên nói rằng nếu họ bị nhiễm bệnh, họ sẽ làm mọi cách để tránh bị cách ly (4,2%)

[29] 3,1% sinh viên không quan tâm đến COVID – 19, 13,1% sinh viên quan tâm ở mức độ thấp, 45,5% sinh viên quan tâm ở mức độ trung bình và 38,3% quan tâm ở mức độ nhiều [29].

- Về thực hành của sinh viên y khoa với đại dịch COVID – 19:

Nghiên cứu của tác giả Ronald Olum trên 741 sinh viên từ 9 trường Y khoa ở Uganda cho thấy chỉ có 57% (n = 426) thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa COVID-19 Cụ thể, 61% sinh viên giữ khoảng cách an toàn, trong đó 35% thực hiện thỉnh thoảng Về việc đeo khẩu trang khi ra ngoài, chỉ có 23% luôn luôn đeo, 38% thỉnh thoảng, và 39% không thực hiện Đối với việc rửa tay đúng cách, 48% sinh viên luôn luôn rửa tay, trong khi 48% thực hiện thỉnh thoảng.

[4] Sinh viên y khoa các năm cuối, sinh viên dược đều có kết quả thực hành tốt hơn đáng kể so với các sinh viên còn lại.

Tác giả Mohammad Hossein Taghrir và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu từ ngày 26 đến 28 tháng 2 năm 2020, với đối tượng tham gia là 240 sinh viên y khoa Iran ở năm thứ 5 đến 7 Kết quả cho thấy tỷ lệ thực hành các biện pháp phòng ngừa đạt trung bình 94,47%, trong đó 94,2% sinh viên được đánh giá là thực hiện tốt các biện pháp này.

Ashraf I Khasawneh và các cộng sự thực hiện khảo sát 1404 sinh viên y khoa ở Jordan về thực hành phòng chống COVID – 19 từ ngày 16 đến ngày

Vào ngày 19 tháng 3 năm 2020, một khảo sát cho thấy rằng rửa tay thường xuyên, chú ý đến vệ sinh cá nhân và hạn chế ra ngoài là ba biện pháp phổ biến nhất mà học sinh áp dụng để bảo vệ bản thân khỏi nhiễm bệnh, với tỷ lệ trên 80% Tuy nhiên, chỉ có 64,3% sinh viên năm thứ ba và 56,1% sinh viên năm cuối thực hiện việc đeo khẩu trang để phòng ngừa nhiễm bệnh.

Tác giả M Saqlain đã tiến hành khảo sát từ ngày 25 tháng 3 đến 05 tháng 04 năm 2020, với 377 đối tượng là bác sĩ, dược sĩ và y tá từ các cơ sở y tế ở Punjab, Pakistan Kết quả cho thấy 88,7% trong số họ thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa COVID-19.

– 19, dược sĩ có khả năng thực hành tốt so với các đối tượng nhân viên y tế khác khác [30].

- Về kiến thức của sinh viên y khoa với đại dịch COVID – 19:

Nghiên cứu của tác giả Lê Minh Đạt và Kiều Thị Hoa về "Kiến thức, thái độ của sinh viên Đại học Y Hà Nội đối với COVID-19" được thực hiện từ 25/3 đến 25/4/2020 với 354 sinh viên tham gia Kết quả cho thấy sinh viên có kiến thức cơ bản tốt về COVID-19, với tỷ lệ trả lời đúng đạt trên 70%, trong đó 99,72% biết về đường lây qua giọt bắn và 71,19% biết cách vệ sinh tay đúng cách Nghiên cứu cũng cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về kiến thức giữa sinh viên nam và nữ (86,87% và 86,21%) Đặc biệt, 79,66% sinh viên cảm thấy có khả năng mắc bệnh và 78,81% lo lắng về việc lây nhiễm trong gia đình.

Tác giả Đào Thị Ngọc Huyền và Phạm Kim Oanh đã tiến hành khảo sát 589 sinh viên y đa khoa năm thứ năm và năm thứ sáu tại Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này nhằm đánh giá nhận thức và thái độ của sinh viên đối với các vấn đề liên quan đến ngành y Kết quả khảo sát sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho việc cải thiện chương trình đào tạo và hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

Sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu, thuộc các chuyên ngành như y đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kĩ thuật hình ảnh và xét nghiệm y học, đang theo học tại Trường Đại học Y Dược thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các sinh viên đồng ý tham gia điền vào biểu mẫu trực tuyến sau khi được giới thiệu và giải thích về nghiên cứu.

Sinh viên không đồng ý tham gia nghiên cứu.

Sinh viên đã thôi học tại Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội.

2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu

 Địa điểm thực hiện nghiên cứu tại Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội.

 Thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2020 đến tháng 06/2021.

Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu

2.2.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu

Toàn bộ các sinh viên đang học tập tại học tập tại Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội đồng ý tham gia vào nghiên cứu.

Cỡ mẫu đã thu thập được là 653 sinh viên

Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu này bao gồm việc sử dụng mẫu thuận tiện và lựa chọn toàn bộ sinh viên đủ điều kiện tham gia Bộ câu hỏi đã được gửi đến tất cả các lớp sinh viên đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu.

2.2.3 Công cụ thu thập số liệu

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thu thập dữ liệu qua khảo sát trực tuyến, sử dụng phiếu điện tử được thiết kế bằng Google Form Thời gian thực hiện khảo sát diễn ra từ tháng 10/2020 đến hết tháng 12/2020.

2.2.4 Các biến số nghiên cứu

Bảng 2.1 Một số biến số nghiên cứu

Thông tin nhân khẩu học

1 Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên Trường ĐH Y Dược– ĐH Quốc Gia Hà Nội về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm2020 chứng của COVID - 19

5 Kiến thức về đường lây nhiễm COVID - 19

6 Kiến thức về các biện pháp phòng ngừa COVID - 19

7 Kiến thức về xác định chẩn đoán nhiễm COVID - 19

8 Tỉ lệ trả lời đúng quy tắc 5K

9 Tỉ lệ trả lời đúng 6 bước rửa tay

10 Mức độ thường xuyên cập nhật tin tức về COVID - 19

2 Mô tả thực trạng thực hành của sinh viên Trường ĐH Y Dược – ĐH Quốc Gia Hà Nội về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020

10 Mức độ thực hành rửa tay sát khuẩn

11 Mức độ thực hành đeo khẩu trang khi ra ngoài

12 Mức độ thực hành giữ khoảng cách an toàn 2m

Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên Trường ĐH Y Dược – ĐH Quốc Gia Hà Nội về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020

Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên Trường ĐH

Y Dược – ĐH Quốc Gia Hà Nội về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020

Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả thực trạng thực hành phòng chống dịch bệnh COVID-19 của sinh viên Trường Đại học Y Dược - Đại học Quốc gia Hà Nội trong năm 2020 Đối tượng nghiên cứu bao gồm sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu, thuộc tất cả các chuyên ngành như bác sĩ đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kỹ thuật hình ảnh và xét nghiệm y học.

Trường Đại học Y Dược, ĐH

Chúng tôi đã chọn mẫu thuận tiện và gửi bộ câu hỏi trực tuyến đến tất cả các lớp sinh viên đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu, với cỡ mẫu thu được là 653 đối tượng.

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thu thập số liệu online thông qua Google form (từ tháng 10/2020 đến hết tháng 12/2020).

Số liệu được thu thập, làm sạch, phân tích bằng phần mềm STATA

Báo cáo kết quả nghiên cứu

Xử lý số liệu

Dữ liệu được quản lý và phân tích bằng phần mềm STATA 11.0 nhằm đánh giá hiểu biết về COVID-19 Mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm, trong khi câu trả lời sai bị trừ 1 điểm, ngoại trừ các quy tắc 5K và quy trình rửa tay 6 bước của Bộ Y Tế, được tính 2 điểm Tổng điểm tối đa là 19; từ 15 điểm trở lên được xem là hiểu biết tốt, 10-14 điểm là khá, và 9 điểm trở xuống là trung bình Mục tiêu là đánh giá mức độ thực hành các biện pháp phòng chống COVID-19.

19, chúng tôi quy ước: mức độ thực hành các biện pháp > 90% thời gian được

Điểm số thực hành được phân chia như sau: 5 điểm cho mức độ thực hành từ 50% - 90%, 3 điểm cho mức độ thực hành dưới 50%, và tổng điểm cao nhất là 15 Cụ thể, nếu đạt từ 10 điểm trở lên, người thực hành được coi là có mức độ thực hành tốt; từ 4 đến 9 điểm là mức thực hành khá; và dưới 3 điểm được xem là mức độ thực hành trung bình.

Bảng 2.2: Bảng điểm quy ước đánh giá mức độ hiểu biết kiến thức về COVID – 19 và mức độ thực hành các biện pháp phòng chống dịch bệnh Kiến thức

Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu đã được sự chấp thuận của Ban Giám hiệu và Phòng Đào tạo, cùng với sự hỗ trợ từ công tác Học sinh sinh viên của Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội để tiến hành thực hiện.

Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả các đối tượng sẽ nhận được thông tin rõ ràng về mục tiêu và nội dung của nghiên cứu Quyết định tham gia hoàn toàn là tự nguyện, và mọi thông tin thu thập được sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu, đảm bảo được giữ bí mật hoàn toàn.

Số liệu đảm bảo tính khoa học, tin cậy và chính xác.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Thực trạng kiến thức, thái độ của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh COVID – 19 năm 2020

3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Thông tin nhân khẩu học

Trong số 653 sinh viên, có 435 sinh viên nữ chiếm tỉ lệ 66,62%; còn lại

218 sinh viên nam chiếm tỉ lệ 33,38%. Đối tượng tham gia khảo sát nhiều nhất là sinh viên năm thứ ba

(27,26%), các năm học khác có số sinh viên lần lượt năm thứ nhất, năm hai, năm bốn, năm năm, năm sáu là 18,07%, 21,75%, 14,23%, 13,02%, 5,67%

Sinh viên các chuyên ngành y đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kỹ thuật hình ảnh, kỹ thuật xét nghiệm y học lần lượt là: 44,10% 35,83%,

3.1.2 Kiến thức của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về dịch bệnh COVID – 19 năm 2020

Bảng 3.2 Mức độ hiểu biết các kiến thức cơ bản về COVID – 19 (ne3)

Câu hỏi Các triệu chứng của COVID – 19

5 Không có triệu chứng gì Đường lây nhiễm COVID – 19

3 Do tiếp xúc trực tiếp với người hoặc động vật bị bệnh

4 Do chạm vào vật dụng hoặc bề mặt mang mầm bệnh

6 Do ăn những thực phẩm mang mầm bệnh

Các biện pháp phòng ngừa COVID – 19

2 Đeo khẩu trang đúng cách

3 Giữ khoảng cách an toàn

4 Hạn chế đi ra ngoài

5 Đốt bồ kết trong nhà

Xác định chẩn đoán nhiễm COVID – 19 hiện nay dựa vào?

1 Lâm sàng có các triệu chứng nhiễm COVID – 19

2 Có tiền sử dịch tễ

3 Xét nghiệm chẩn đoán xác định COVID-

Gần 84% sinh viên hiểu biết về ba triệu chứng chính của COVID-19, bao gồm sốt, ho và khó thở Đồng thời, 24% sinh viên nhận thức rằng có thể có trường hợp không biểu hiện triệu chứng nào.

Hiểu biết về đường lây nhiễm COVID – 19: 630 sinh viên chiếm tỉ lệ

Theo khảo sát, 96,48% người tham gia nhận thức rằng đường giọt bắn là phương thức lây truyền chính của COVID-19 Bên cạnh đó, có 15,01% sinh viên cho rằng virus có thể lây nhiễm qua thực phẩm mang mầm bệnh, trong khi 11,03% sinh viên cho rằng lây qua đường máu.

Hiểu biết về các biện pháp phòng ngừa COVID-19 là rất quan trọng 99-100% sinh viên nhận thức được ba biện pháp chính gồm rửa tay sát khuẩn đúng cách, đeo khẩu trang đúng cách và giữ khoảng cách an toàn Đặc biệt, 90,96% sinh viên đồng ý rằng hạn chế ra ngoài có hiệu quả trong việc phòng tránh bệnh Ngoài ra, có 4,44% sinh viên cho rằng ăn tỏi và 3,22% cho rằng đốt bồ kết trong nhà cũng là những biện pháp hữu ích để phòng ngừa dịch bệnh.

Hiểu biết về cách chẩn đoán xác định COVID – 19: 606 sinh viên chiếm tỉ lệ 98,93% biết xét nghiệm chẩn đoán xác định COVID – 19 là RT-PCR.

Bảng 3.3 Tỉ lệ trả lời đúng quy tắc 5K và 6 bước rửa tay của Bộ Y Tế

Có 587 sinh viên (89,89%) nắm chắc quy tắc 5K; 66 sinh viên (10,11%) trả lời sai Có 346 sinh viên (52,99%) trả lời đúng 6 bước rửa tay.

307 sinh viên (47,01%) trả lời sai.

Biểu đồ 3.1 Mức độ hiểu biết chung các kiến thức về COVID – 19

Đánh giá mức độ hiểu biết chung về COVID-19 cho thấy 71,82% sinh viên có kiến thức tốt, 22,21% ở mức khá, và 5,97% đạt mức trung bình.

Bảng 3.4 Mối liên quan giữa mức độ hiểu biết chung các kiến thức về

Tỉ lệ hiểu biết ở mức tốt giữa sinh viên nam và sinh viên nữ là 74,31% và70,57%; mức khá là 19,27% và 23,68%; mức trung bình là 6,42% và 5,75%.

Trong nghiên cứu này, p=0,435 > 0,05 cho thấy sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.5 Mối liên quan giữa mức độ hiểu biết chung các kiến thức về Kiến thức

Sinh viên năm thứ sáu có tỉ lệ hiểu biết cao nhất đạt 89,19%, trong khi tỉ lệ này ở các năm thứ năm, thứ tư, thứ ba, thứ hai và thứ nhất lần lượt là 74,12%; 79,57%; 70,22%; 68,31%; và 65,25% Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt giữa các năm học có ý nghĩa thống kê với p = 0,018 < 0,05.

Bảng 3.6 Mối liên quan quan giữa mức độ hiểu biết chung các kiến thức về COVID – 19 với chuyên ngành

Sinh viên chuyên ngành y đa khoa đạt tỉ lệ hiểu biết tốt cao nhất với 79,16%, trong khi sinh viên các chuyên ngành răng hàm mặt, dược học, kỹ thuật hình ảnh và kỹ thuật xét nghiệm có tỉ lệ lần lượt là 68,18%; 74,96%; 61,76%; và 74,19% Kết quả nghiên cứu cho thấy p=0,002 0,05, điều này chỉ ra rằng sự khác biệt giữa hai nhóm sinh viên không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.10 Mối liên quan giữa mức độ thực hành chung các biện pháp phòng chống COVID – 19 của sinh viên với năm học Thực hành

Sinh viên năm thứ sáu có tỉ lệ thực hành ở mức tốt đạt cao nhất là

Trong nghiên cứu này, tỷ lệ sinh viên các năm học lần lượt là 80% cho năm thứ năm, 93,55% cho năm thứ tư, 86,52% cho năm thứ ba, 92,96% cho năm thứ hai và 91,53% cho năm nhất Kết quả thống kê với p=0,001

Ngày đăng: 19/09/2021, 15:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hongzhou Lu (2020), "Outbreak of pneumonia of unknown etiology in Wuhan, China: The mystery and the miracle", J Med Virol, 92(4), tr.401-402 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Outbreak of pneumonia of unknown etiology in Wuhan, China: The mystery and the miracle
Tác giả: Hongzhou Lu
Năm: 2020
2. P. Sun, X. Lu, C. Xu và các cộng sự. (2020), "Understanding of COVID-19 based on current evidence", J Med Virol, 92(6), tr. 548- 551 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Understanding of COVID-19 based on current evidence
Tác giả: P. Sun, X. Lu, C. Xu và các cộng sự
Năm: 2020
3. Lê Minh Đạt (2020), "Kiến thức, thái độ của sinh viên Đại học Y Hà Nội đối với COVID - 19 năm 2020", Tạp chí Y học dự phòng, 3(20), tr. 18-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến thức, thái độ của sinh viên Đại học Y HàNội đối với COVID - 19 năm 2020
Tác giả: Lê Minh Đạt
Năm: 2020
4. R. Olum, J. Kajjimu và các cộng sự. (2020), "Perspective of Medical Students on the COVID-19 Pandemic: Survey of Nine Medical Schools in Uganda", JMIR Public Health Surveill, 6(2), tr.187-194 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Perspective of Medical Students on the COVID-19 Pandemic: Survey of Nine Medical Schoolsin Uganda
Tác giả: R. Olum, J. Kajjimu và các cộng sự
Năm: 2020
5. WHO (2021), WHO Coronavirus (COVID-19) Dashboard, truy cập ngày 01 tháng 05 năm 2021, tại trang web https://covid19.who.int/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: WHO Coronavirus (COVID-19) Dashboard
Tác giả: WHO
Năm: 2021
6. Bộ Y Tế (2020), Trang thông tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID - 19, truy cập ngày 01 tháng 05 năm 2021, tại trang web https://ncov.moh.gov.vn/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trang thông tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấpCOVID - 19
Tác giả: Bộ Y Tế
Năm: 2020
7. Anna Harvey (2020), "Covid-19: medical schools given powers to graduate final year students early to help NHS", BMJ, 368, tr.1227 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Covid-19: medical schools given powers to graduate final year students early to help NHS
Tác giả: Anna Harvey
Năm: 2020
8. Michelle M Hughes (2020), "Update: Characteristics of Health Care Personnel with COVID-19 - United States, February 12-July 16, 2020", MMWR Morb Mortal Wkly Rep, 69(38), tr. 1364-1368 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Update: Characteristics of Health Care Personnel with COVID-19 - United States, February 12-July 16, 2020
Tác giả: Michelle M Hughes
Năm: 2020
9. Ben Guo Hu (2021), "Characteristics of SARS-CoV-2 and COVID- 19", Nat Rev Microbiol, 19(3), tr. 141-154 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Characteristics of SARS-CoV-2 and COVID-19
Tác giả: Ben Guo Hu
Năm: 2021
10. M. A. Shereen, S. Khan, A. Kazmi và các cộng sự. (2020), "COVID-19 infection: Origin, transmission, and characteristics of humancoronaviruses", J Adv Res, 24(4), tr. 91-98 Sách, tạp chí
Tiêu đề: COVID-19infection: Origin, transmission, and characteristics of human coronaviruses
Tác giả: M. A. Shereen, S. Khan, A. Kazmi và các cộng sự
Năm: 2020
11. P. Zhou, X. L. Yang, X. G. Wang và các cộng sự. (2020), "A pneumonia outbreak associated with a new coronavirus of probable bat origin", Nature, 579(7798), tr. 270-273 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A pneumonia outbreak associated with a new coronavirus of probable batorigin
Tác giả: P. Zhou, X. L. Yang, X. G. Wang và các cộng sự
Năm: 2020
12. Chih-Cheng Lai (2020), "Severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 (SARS-CoV-2) and coronavirus disease-2019 (COVID- 19): The epidemic and the challenges", Int J Antimicrob Agents, 55(3), tr. 105924 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Severe acute respiratory syndrome coronavirus 2 (SARS-CoV-2) and coronavirus disease-2019 (COVID-19): The epidemic and the challenges
Tác giả: Chih-Cheng Lai
Năm: 2020
13. Hong-Juan Peng DeSheng-Qun Deng (2020), "Characteristics of and Public Health Responses to the Coronavirus Disease 2019 Outbreak in China", J Clin Med, 9(2), tr. 65-68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Characteristics of and Public Health Responses to the Coronavirus Disease 2019 Outbreak inChina
Tác giả: Hong-Juan Peng DeSheng-Qun Deng
Năm: 2020
15. Z. Wu và J. M. McGoogan (2020), "Characteristics of and Important Lessons From the Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) Outbreak in China: Summary of a Report of 72314 Cases From the Chinese Center for Disease Control and Prevention", JAMA, 323(13), tr. 1239-1242 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Characteristics of and Important Lessons From the Coronavirus Disease 2019 (COVID-19) Outbreak inChina: Summary of a Report of 72314 Cases From the Chinese Centerfor Disease Control and Prevention
Tác giả: Z. Wu và J. M. McGoogan
Năm: 2020
16. Nanshan Chen (2020), "Epidemiological and clinical characteristics of 99 cases of 2019 novel coronavirus pneumonia in Wuhan, China: a descriptive study", Lancet, 395(10223), tr. 507-513 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Epidemiological and clinical characteristics of 99 cases of 2019 novel coronavirus pneumonia in Wuhan, China: a descriptive study
Tác giả: Nanshan Chen
Năm: 2020
17. Chaolin Huang (2020), "Clinical features of patients infected with 2019 novel coronavirus in Wuhan, China", Lancet, 395(10223), tr. 497-506 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Clinical features of patients infected with 2019novel coronavirus in Wuhan, China
Tác giả: Chaolin Huang
Năm: 2020
18. Chen H. (2020), "Clinical characteristics and intrauterine vertical transmission potential of COVID-19 infection in nine pregnant women:a retrospective review of medical records", Lancet, 395(10226), tr.809-815 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Clinical characteristics and intrauterine vertical transmission potential of COVID-19 infection in nine pregnant women:a retrospective review of medical records
Tác giả: Chen H
Năm: 2020
19. J. Wu, X. Y. Xia, H. L. Liu và các cộng sự. (2020), "Clinical characteristics and outcomes of discharged COVID-19 patients with reoccurrence of SARS-CoV-2 RNA", Future Virol, 15(10), tr. 663- 671 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Clinical characteristics and outcomes of discharged COVID-19 patients withreoccurrence of SARS-CoV-2 RNA
Tác giả: J. Wu, X. Y. Xia, H. L. Liu và các cộng sự
Năm: 2020
20. WHO (2020), Impact of COVID-19 on people's livelihoods, their health and our food systems, truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2021, tại trang web https://www.who.int/news/item/13-10-2020-impact-of-covid-19-on-people's-livelihoods-their-health-and-our-food-systems Sách, tạp chí
Tiêu đề: Impact of COVID-19 on people's livelihoods, their health and our food systems
Tác giả: WHO
Năm: 2020
21. WHO (2020), COVID-19 significantly impacts health services for noncommunicable diseases, truy cập ngày, tại trang Sách, tạp chí
Tiêu đề: COVID-19 significantly impacts health services for noncommunicable diseases
Tác giả: WHO
Năm: 2020

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1. Các sự kiện chính của đợt bùng phát COVID – 19 [9] - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Hình 1.1. Các sự kiện chính của đợt bùng phát COVID – 19 [9] (Trang 12)
Hình 1.2. Cây phát sinh loài của các trình tự gen có chiều dài đầy đủ của SARS-CoV-2, SARSr-CoVs và các betacoronavirus khác [9] - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Hình 1.2. Cây phát sinh loài của các trình tự gen có chiều dài đầy đủ của SARS-CoV-2, SARSr-CoVs và các betacoronavirus khác [9] (Trang 13)
Hình 1.3: Thông điệp 5K của Bộ Y Tế [6] - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Hình 1.3 Thông điệp 5K của Bộ Y Tế [6] (Trang 20)
Bảng 2.2: Bảng điểm quy ước đánh giá mức độ hiểu biết kiến thức về COVID – 19 và mức độ thực hành các biện pháp phòng chống dịch bệnh - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Bảng 2.2 Bảng điểm quy ước đánh giá mức độ hiểu biết kiến thức về COVID – 19 và mức độ thực hành các biện pháp phòng chống dịch bệnh (Trang 34)
Bảng 3.2. Mức độ hiểu biết các kiến thức cơ bản về COVID – 19 (n=653) Câu hỏi - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Bảng 3.2. Mức độ hiểu biết các kiến thức cơ bản về COVID – 19 (n=653) Câu hỏi (Trang 37)
3.1.2. Kiến thức của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
3.1.2. Kiến thức của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN về dịch bệnh COVID – 19 năm 2020 (Trang 37)
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa mức độ hiểu biết chung các kiến thức về - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa mức độ hiểu biết chung các kiến thức về (Trang 40)
Bảng kết quả cho thấy, 98.1 6% sinh viên Trường ĐH Y Dược – ĐHQGHN thường xuyên cập nhật tin tức về dịch bệnh - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Bảng k ết quả cho thấy, 98.1 6% sinh viên Trường ĐH Y Dược – ĐHQGHN thường xuyên cập nhật tin tức về dịch bệnh (Trang 43)
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa mức độ thực hành chung các biện pháp phòng chống dịch COVID – 19 của sinh viên với giới tính Kiến thức - Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của sinh viên trường đại học y dược – ĐHQGHN về phòng chống dịch bệnh covid 19 năm 2020
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa mức độ thực hành chung các biện pháp phòng chống dịch COVID – 19 của sinh viên với giới tính Kiến thức (Trang 45)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w