Tính cấp thiết của đề tài Sự ra đời và phát triển của phương thức sản xuất nông nghiệp thâm canh đã tạo ra một khối lượng lương thực thực phẩm rất lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của hơn sáu tỷ người trên hành tinh này. Lợi thế năng suất cao của nông nghiệp thâm canh đã và đang đưa phương thức này phát triển lên đến đỉnh cao của nó. Trong đó, sự đóng góp của khoa học công nghệ được ghi nhận như là yếu tố quyết định cho nông nghiệp thâm canh tồn tại và phát triển. Thế nhưng, việc sử dụng nhiều loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp thâm canh (Pimentel và cộng sự, 2005; Carvalho, 2006), dẫn đến vô số thách thức như suy giảm sức khỏe con người, đặc biệt là sinh sản và hệ thống thần kinh trung ương (Von Duszeln, 1991; Singh, 2000; Bretveld và cộng sự, 2006). Sự phụ thuộc của nông nghiệp thâm canh về phân bón hóa học tổng hợp và thuốc trừ sâu đã nổi lên như một yếu tố chính, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và môi trường (Pimentel và cộng sự, 2005). Hơn nữa, trước đây, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng quá mức các hóa chất đã làm suy giảm sức khỏe của đất và các điều kiện môi trường (Taylor và cộng sự, 2003; Arias-Estévez và cộng sự, 2008; Fenner và cộng sự, 2013). Chính vì vậy, canh tác hữu cơ đã xuất hiện và được coi là hệ thống nông nghiệp thân thiện với môi trường khi tránh sử dụng hóa chất tổng hợp và phân bón (Venkataraman và Shanmugasundaram, 1992; Roitner Schobesberger và cộng sự, 2008; Mahdi và cộng sự, 2010; Suthar, 2010). Canh tác hữu cơ gắn chặt với hệ thống sản xuất nông nghiệp bền vững về môi trường, kinh tế và xã hội (Padel, 2001). Canh tác hữu cơ ít tác động bất lợi đến môi trường hơn so với canh tác thông thường, vốn dựa vào về các yếu tố đầu vào bên ngoài ở một mức độ lớn hơn (Gomiero và cộng sự, 2008). Canh tác hữu cơ còn giúp giảm thiệt hại chung cho môi trường (Pimentel và cộng sự, 2005; Carvalho, 2006) và cải thiện sức khỏe cộng đồng. Do đó, khi người nông dân có ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ, các vấn đề bất lợi cho môi trường do nông nghiệp thông thường gây ra có cơ hội được giải quyết. Thực tế cho thấy, nông nghiệp hữu cơ ra đời và càng ngày càng phát triển vì: thứ nhất, giải quyết được mâu thuẫn giữa sản xuất nông nghiệp thâm canh và vấn đề môi trường, vì nông nghiệp hữu cơ đã làm tăng việc sử dụng nguồn giống cây con tự nhiên, làm tăng tính đa dạng của xuất nông nghiệp, làm giảm ô nhiễm đất, nước và sản phẩm nông nghiệp do không sử dụng phân vô cơ dễ tan, thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng, thức ăn chứa nhiều chất kích thích sinh trưởng trong chăn nuôi...; thứ hai, nông 2 nghiệp hữu cơ đảm bảo, duy trì và gia tăng độ màu mỡ lâu dài cho đất, củng cố các chu kỳ sinh học trong nông trại, đặc biệt là các chu trình dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng dựa trên việc phòng ngừa thay cho cứu chữa, đa dạng các vụ mùa và các loại vật nuôi, phù hợp với điều kiện địa phương; thứ ba, giải quyết được nhu cầu của con người, đó là nhu cầu ăn sạch, ở sạch và môi trường sạch và đẹp, lương thực thực phẩm sạch là những sản phẩm đó chứa các chất dinh dưỡng với hàm lượng như trong tự nhiên vốn có của nó. Trong những năm gần đây, biến đổi môi trường và khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp đang trở thành chủ đề được xã hội quan tâm. Người tiêu dùng chuyển dần sang sử dụng thực phẩm an toàn, thực phẩm hữu cơ đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với các sản phẩm thực phẩm hữu cơ (Murphy, 2006; Schifferstein và Oude Ophuis, 1998). Sản xuất thực phẩm hữu cơ toàn cầu cũng cho thấy sự tăng trưởng đáng kể, do đó, thị trường toàn cầu cho các sản phẩm hữu cơ đã tăng trưởng đều đặn không chỉ ở châu Âu và Bắc Mỹ mà ở các nước châu Á cũng vậy (Baker, 2004, Gifford và Bernard, 2005; Setboonsarng và cộng sự, 2006). Vì vậy nông nghiệp hữu cơ ra đời và càng ngày càng phát triển là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Việt Nam có lịch sử sản xuất nông nghiệp và phương thức canh tác hữu cơ từ lâu đời. Trước năm 1980, nông dân chủ yếu sử dụng các giống cây trồng bản địa, giống cổ truyền với năng suất thấp, nhu cầu sử dụng phân bón thấp, chủ yếu hấp thu từ phân bón hữu cơ, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt nên rất ít phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đặc biệt là thuốc hoá học. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang từng bước phát triển, diện tích sản xuất hữu cơ tăng nhanh qua các năm, năm 2015 đạt hơn 76 nghìn ha, tăng trên 3,6 lần so với năm 2010, năm 2018 diện tích gieo trồng hữu cơ đã đạt 3,2 ngàn ha lúa, 2 ngàn ha rau, 2,8 ngàn ha chè, 4,7 ngàn ha cây ăn quả, 2,1 ngàn ha điều, 135 ngàn ha nuôi trồng thủy sản… tập trung tại 40 tỉnh, thành phố trên cả nước, sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến các thị trường Nhật, Đức, Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... (Tổng cục thống kê, 2019). Thành phố Hà Nội với diện tích là hơn 3.300 km2, với dân số khoảng gần 10 triệu người. Mặc dù là Thủ đô nhưng có hơn 50% là diện tích là nông nghiệp và khoảng 50% dân số sống ở khu vực nông thôn, gần 40% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Toàn thành phố, có 17 huyện, 1 thị xã, 6 quận còn sản xuất nông nghiệp. Trong phát triển kinh tế, nông nghiệp Hà Nội tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng có vị trí 3 quan trọng trong việc cung cấp nông sản đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú và ngày càng tăng của người dân Thủ đô. Với mục tiêu xây dựng ngành nông nghiệp Thành phố có cơ cấu hợp lý, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phát huy được lợi thế so sánh; phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ Thành phố đã tích cực triển khai và thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội thì diện tích sản xuất nông nghiệp hữu có mới chỉ đạt 0,3% diện tích canh tác, mặc dù có tăng qua các năm, những tỷ trọng này là rất thấp, một số mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn đã thành công những chưa được nhân rộng. Trong khi đó, Hà Nội là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm nông nghiêp hữu cơ với dân số nội thành hơn 4 triệu người, trong đó có tới gần 40% là tầng lớp trung lưu và hàng trăm nghìn người nước ngoài đang sinh sống, học tập và làm việc, cùng hàng triệu khách du lịch nước ngoài là thị trường lớn và rất tiềm năng để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Mặc dù Hà Nội là một trong những địa phương quan tâm phát triển nông nghiệp hữu cơ, với diện tích canh tác hữu cơ khoảng 80-100 ha tập trung chủ yếu ở các huyện Sóc Sơn, Đan Phượng, Thạch Thất... Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ tiêu thụ trên thị trường còn rất chế, ít về chủng loại, số lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Quy mô sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Hà Nội còn đơn lẻ, manh mún, quy mô nhỏ, chưa có vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn. Sản xuất nông nghiệp hữu cơ cũng đã được phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Có nhiều nguyên nhân làm cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Hà Nội chưa phát triển được trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân là người sản xuất trực tiếp sản xuất (người nông dân) chưa sẵn sàng để chấp nhận, chưa hào hứng để sản xuất nông nghiệp hữu cơ do lo ngại nhiều vấn đề từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ: quy trình, thời gian, sản xuất, tiêu thụ, giá cả… Chính vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn vấn đề “Các yếu tố ảnh hưởng tới ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân – nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Marketing. 4 1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu Mục tiêu tổng quát: Luận án nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân; từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân. Mục tiêu cụ thể -Nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng tới ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân -Xây dựng mô hình nghiên cứu để tìm hiểu mức độ ảnh hướng của các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân trên địa bàn Hà Nội. -Đề xuất, kiến nghị cho cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng nhằm thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân trên địa bàn Hà Nội 1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận án sẽ hướng đến tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: -Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: có những yếu tố nào ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân? Những yếu tố đó ảnh hưởng như thế nào đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân trên địa bàn Hà Nội -Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: những giải pháp và kiến nghị nào cần thực hiện để thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân? 1.3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân. Người nông dân ở đây là người đại diện hộ nông dân đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Trong hai lĩnh vực chính của nông nghiệp hữu cơ là trồng trọt và chăn nuôi thì tác giả tập trung vào đối tượng nghiên cứu là trồng trọt.
GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu các yếu tố tác động đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của nông dân Từ đó, luận án đưa ra những đề xuất và kiến nghị nhằm thúc đẩy ý định này, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
- Nghiên cứu xác định các yếu tố ảnh hưởng tới ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân
Mô hình nghiên cứu được xây dựng nhằm tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân tại Hà Nội Nghiên cứu này sẽ phân tích các yếu tố tác động và cung cấp cái nhìn sâu sắc về xu hướng chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong khu vực.
Để thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân tại Hà Nội, cần có những đề xuất và kiến nghị cụ thể cho cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng Cơ quan quản lý nhà nước nên tạo ra các chính sách hỗ trợ và khuyến khích nông dân chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ, trong khi doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác và đầu tư vào các mô hình nông nghiệp bền vững Người tiêu dùng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ sản phẩm hữu cơ thông qua việc lựa chọn mua sắm, từ đó tạo ra thị trường ổn định cho nông sản hữu cơ.
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận án sẽ hướng đến tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân tại Hà Nội Cụ thể, bài viết sẽ phân tích các yếu tố như nhận thức về lợi ích, kiến thức về nông nghiệp hữu cơ, và hỗ trợ từ chính quyền, từ đó làm rõ cách mà những yếu tố này tác động đến quyết định của nông dân trong việc chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Để thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân, cần triển khai các giải pháp và kiến nghị cụ thể Trước hết, cần tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về lợi ích của nông nghiệp hữu cơ Thứ hai, chính sách hỗ trợ tài chính và kỹ thuật từ chính phủ nên được áp dụng để giảm bớt rủi ro cho nông dân Cuối cùng, việc xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm hữu cơ cũng rất quan trọng để đảm bảo đầu ra cho nông sản, từ đó khuyến khích nông dân chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân Người nông dân ở đây là người đại diện hộ nông dân đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Trong hai lĩnh vực chính của nông nghiệp hữu cơ là trồng trọt và chăn nuôi thì tác giả tập trung vào đối tượng nghiên cứu là trồng trọt.
Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân bao gồm nhận thức về lợi ích sức khỏe, thị trường tiêu thụ và hỗ trợ từ chính quyền Để thúc đẩy người nông dân chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ, cần triển khai các chính sách khuyến khích, cung cấp thông tin và đào tạo kỹ thuật Qua đó, việc phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Hà Nội sẽ được đẩy mạnh, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
Nghiên cứu này tập trung vào việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của nông dân đang canh tác thông thường tại Hà Nội Do hạn chế về nguồn lực, tác giả chỉ tiến hành khảo sát ở một số khu vực như Sóc Sơn, Đan Phượng và Thạch Thất, nơi có diện tích sản xuất nông nghiệp hữu cơ đáng kể Thạch Thất nổi bật với trang trại Hoa Viên, chuyên sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên diện tích gần 10 ha, trong khi các khu vực khác cũng có sự phân bổ nông dân tham gia sản xuất hữu cơ Tác giả chú trọng đến sự đa dạng về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm làm nông nghiệp và thu nhập hàng năm để xác định mối quan hệ giữa các biến nhân khẩu học này với ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Trong nghiên cứu này, tác giả đã thu thập số liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trước đây liên quan đến sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội, trong giai đoạn 2015 - 2020 Đồng thời, tác giả cũng thực hiện phỏng vấn sâu với các chuyên gia và nông dân, cũng như khảo sát những nông dân đang canh tác thông thường tại một số khu vực ở Hà Nội vào năm 2019 Dựa trên những dữ liệu này, tác giả đưa ra các đề xuất và kiến nghị cho cơ quan quản lý nhà nước nhằm thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân.
Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp được áp dụng để xử lý số liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trong và ngoài nước, nhằm xây dựng khung lý thuyết, mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp định tính, đặc biệt là phỏng vấn sâu, giúp đánh giá mức độ phù hợp của từng yếu tố và các quan sát trong nghiên cứu Qua đó, phương pháp này cho phép rút ra các nhóm yếu tố phù hợp với điều kiện môi trường nghiên cứu, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của kết quả.
Phương pháp định lượng thông qua điều tra bảng hỏi được sử dụng để đo lường ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố quyết định và nâng cao nhận thức về lợi ích của nông nghiệp hữu cơ trong cộng đồng nông dân.
6 qua việc kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu bằng việc sử dụng các kỹ thuật của phần mềm SPSS và AMOS.
Cấu trúc của đề tài luận án
Luận án được cấu trúc thành 5 chương:
Chương 1 Giới thiệu nghiên cứu Chương này giới thiệu tổng quan về đề tài luận án. Chương 2 Tổng quan nghiên cứu Chương này trình bày kết quả của tổng quan nghiên cứu, từ cơ sở lý thuyết tới rà soát các công trình nghiên cứu có liên quan làm lựa chọn và điều chỉnh mô hình nghiên cứu phù hợp với bối cảnh và vấn đề nghiên cứu.
Chương 3 Bối cảnh và phương pháp nghiên cứu Chương này giới thiệu về bối cảnh nghiên cứu – liên quan tới thực trạng và định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ tại Hà Nội; phương pháp nghiên cứu sẽ được sử dụng để phát hiện vấn đề mới và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Chương 4 Kết quả nghiên cứu Chương này trình bày các kết quả nghiên cứu, kiểm định các giả thuyết nghiên cứu và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới ý định sản xuất nông nghiệp hữu cơ của nông dân Việt Nam.
Chương 5 Kết luận và kiến nghị Chương này tổng hợp lại kết quả nghiên cứu để đưa ra các kết luận về giả thuyết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của kết quả nghiên cứu; đề xuất kiến nghị
Những đóng góp mới của luận án
1.5.1 Đóng góp về mặt lý thuyết
Luận án áp dụng mô hình tích hợp với hai cách tiếp cận: hợp lý dựa trên lý thuyết hành vi (TPB, IDT, PMT) và đạo đức (NAM) để nghiên cứu ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của nông dân Việt Nam Kết quả cho thấy lợi thế hành vi so sánh có ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định này, trong khi các yếu tố như thái độ, chuẩn chủ quan, cảm nhận khả năng kiểm soát, chuẩn mực cá nhân và chính sách hỗ trợ của Chính phủ không có sự khác biệt đáng kể về mức độ ảnh hưởng.
Mô hình nghiên cứu trong luận án bao gồm 10 thang đo và 50 quan sát, nhằm khám phá các yếu tố tác động đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người dân.
7 nông dân phù hợp với điều kiện của Việt Nam, đặc biệt khi nghiên cứu ở địa bàn Hà Nội.
1.5.2 Đóng góp về mặt thực tiễn
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của nông dân Hà Nội có sự khác biệt rõ rệt Trong số đó, "lợi thế hành vi so sánh của người nông dân" là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất Khi lợi ích kinh tế được đảm bảo, nông dân sẵn sàng chuyển đổi từ canh tác thông thường sang phương thức canh tác hữu cơ.
Cơ quan quản lý nhà nước cần tác động để thay đổi nhận thức của người nông dân về sản xuất nông nghiệp hữu cơ Khi nông dân hiểu rõ sự khác biệt và có kiến thức về nông nghiệp hữu cơ, họ sẽ tự tin hơn trong việc thực hiện canh tác hữu cơ và kiểm soát năng suất Điều này sẽ thúc đẩy ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ trong cộng đồng nông dân.
Nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị về chính sách giá cả và kênh phân phối cho sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hữu cơ và đảm bảo ưu tiên hơn so với sản xuất nông nghiệp thông thường.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nông nghiệp hữu cơ và vai trò của sản xuất nông nghiệp hữu cơ
2.1.1 Nông nghiệp hữu cơ 2.1.1.1 Khái niệm
Nguyễn Thế Đặng và cộng sự (2012) định nghĩa nông nghiệp hữu cơ là phương thức sản xuất nông nghiệp dựa trên chu trình sinh học tự nhiên Phương pháp này tuân theo các quy luật sinh học vốn có, nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường.
Nông nghiệp hữu cơ được coi là một hình thức sản xuất đặc biệt và là nền tảng cho sản xuất nông nghiệp bền vững, đáp ứng tốt các nguyên tắc bảo vệ môi trường (Katić và cộng sự, 2010) Theo Kilcher (2006) và Henning cùng cộng sự (1991), nông nghiệp hữu cơ sử dụng hoàn toàn các yếu tố đầu vào hữu cơ, đồng nghĩa với nông nghiệp bền vững Lampkin (1994) định nghĩa nông nghiệp hữu cơ là hệ thống sản xuất tích hợp, nhân văn, bền vững về cả môi trường lẫn kinh tế.
Nông nghiệp hữu cơ, theo định nghĩa của Liên đoàn phong trào Nông nghiệp hữu cơ Quốc tế (IFOAM), là một hệ thống sản xuất bảo vệ sức khỏe đất, hệ sinh thái và con người Hệ thống này dựa vào các quá trình sinh thái, đa dạng sinh học và các chu kỳ tự nhiên phù hợp với điều kiện địa phương, thay vì phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào có tác dụng phụ Nông nghiệp hữu cơ loại bỏ việc sử dụng phân bón hóa học tổng hợp, thuốc trừ sâu, chất điều tiết tăng trưởng và phụ gia thức ăn gia súc, nhằm giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ sức khỏe con người và sản xuất nông sản sạch.
Canh tác hữu cơ được định nghĩa khác nhau nhưng chung quy lại, nó là một hệ thống sản xuất thân thiện với môi trường và là phương pháp nông nghiệp bền vững.
Parrott và cộng sự (2006) đã phân loại canh tác hữu cơ ở các quốc gia đang phát triển thành hai loại: canh tác hữu cơ được chứng nhận chính thức và canh tác hữu cơ không chính thức Canh tác hữu cơ được chứng nhận thường tập trung vào việc xuất khẩu sản phẩm hữu cơ, trong khi canh tác không chính thức chủ yếu liên quan đến các hoạt động quy mô nhỏ nhằm cải thiện đời sống.
Hệ thống chứng nhận đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nông dân tiếp cận thị trường quốc tế, nhưng phát triển thị trường nội địa cho các sản phẩm cây trồng từ canh tác hữu cơ không chính thức cũng rất cần thiết (Goldberger, 2008; Parrott và cộng sự).
Nghiên cứu trước đã chỉ ra rằng nông nghiệp hữu cơ có những đặc điểm riêng biệt sau (Haccius, 1996):
Hoạt động sản xuất nông nghiệp cần tuân theo nguyên tắc của hệ thống sinh thái, trong đó con người, đất đai, cây trồng và vật nuôi tạo thành một thể thống nhất, tương tác như một hệ sinh thái hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ chủ trương rằng hoạt động kinh tế cần phải hòa hợp với thiên nhiên Nếu các hoạt động này không tuân theo quy luật tự nhiên, sẽ dẫn đến những hệ quả tiêu cực và phát triển không bền vững.
Sản xuất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi tận dụng và cải thiện độ phì nhiêu tự nhiên của đất, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu của cây trồng và vật nuôi trước sâu bệnh.
- Chăn nuôi là một hợp phần thích ứng quan trọng của nông nghiệp hữu cơ.
Hệ thống canh tác này không chịu ảnh hưởng bởi việc sử dụng các nguyên liệu lạ từ bên ngoài nông trại, như phân vô cơ dễ tan và thuốc hóa học bảo vệ thực vật.
2.1.1.2 Cơ sở khoa học của sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ dựa trên cơ sở khoa học là tuân theo chu trình sinh học tự nhiên, tối ưu hóa việc sử dụng các yếu tố tự nhiên sẵn có Đồng thời, phương pháp này loại bỏ hoàn toàn các yếu tố nhân tạo như phân bón vô cơ, thuốc hóa học bảo vệ thực vật, chất kích thích sinh trưởng có nguồn gốc vô cơ và thức ăn chăn nuôi chứa nhiều chất kích thích.
Trong nông nghiệp hữu cơ, mối quan hệ giữa con người, đất đai, cây trồng và vật nuôi được tối ưu hóa để phát huy tiềm năng tự nhiên của từng yếu tố Mối quan hệ này mang tính chất hữu cơ và nhân quả, đảm bảo rằng mọi đối tượng đều được tôn trọng và khai thác một cách bền vững.
Nguyên tắc cơ bản của canh tác hữu cơ được liệt kê dưới đây (IFOAM, 1992):
- Sản xuất thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, đủ số lượng.
- Phối hợp một cách xây dựng và theo hướng củng cố cuộc sống giữa tất cả các chu kỳ và hệ thống tự nhiên.
Khuyến khích và thúc đẩy chu trình sinh học trong hệ thống canh tác là rất quan trọng, bao gồm việc tối ưu hóa sự tương tác giữa vi sinh vật, quần thể động thực vật trong đất, cây trồng và vật nuôi Điều này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe đất mà còn tăng cường năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
- Duy trì và tăng độ phì nhiêu của đất trồng về mặt dài hạn.
- Sử dụng càng nhiều càng tốt các nguồn tái sinh trong hệ thống nông nghiệp có tổ chức ở địa phương.
- Làm việc càng nhiều càng tốt trong một hệ thống khép kín đối với các yếu tố dinh dưỡng và chất hữu cơ.
- Làm việc càng nhiều càng tốt với các nguyên vật liệu, các chất có thể tái sử dụng hoặc tái sinh, hoặc ở trong trang trại hoặc là ở nơi khác.
- Cung cấp cho tất cả các con vật nuôi trong trang trại những điều kiện cho phép chúng thực hiện những bản năng bẩm sinh của chúng.
- Giảm đến mức tối thiểu các loại ô nhiễm do kết quả của sản xuất nông nghiệp gây ra.
Để bảo vệ sự đa dạng nguồn gen trong nông nghiệp hữu cơ, cần duy trì và bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên xung quanh, bao gồm cả môi trường sống của động thực vật hoang dã và các biện pháp bảo vệ thực vật.
Người sản xuất nông nghiệp cần được đảm bảo quyền sống theo Công ước Nhân quyền của Liên hiệp quốc, nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản, đạt được thu nhập công bằng và cảm thấy hài lòng với công việc của họ, đồng thời được làm việc trong một môi trường an toàn.
Tổng quan các nghiên cứu về ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ
2.2.1 Tổng quan nghiên cứu về ý định chấp nhận của người nông dân Ý định chấp nhận của người nông dân là chủ đề trong nhiều nghiên cứu ở trong và ngoài nước Các nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu ý định chấp nhận của người nông dân trong các lĩnh vực khác nhau Luận án sẽ tổng quan một số các công trình trong và ngoài nước về ý định chấp nhận của người nông dân liên quan đến lĩnh vực và khung lý thuyết mà những nghiên cứu này hướng đến.
2.2.1.1 Các lĩnh vực đã nghiên cứu
Các nghiên cứu của các học giả quốc tế cho thấy rằng ý định chấp nhận của người nông dân đã được khám phá qua nhiều lĩnh vực Cụ thể, các yếu tố kinh tế - xã hội và quá trình truyền thông về thích ứng với khí hậu có ảnh hưởng lớn đến quyết định của nông dân trong việc áp dụng các chiến lược thích ứng nhằm đối phó với hạn hán và lũ lụt.
Arunrat và cộng sự (2017) đã nghiên cứu một mô hình nhằm giải thích những thách thức mà người nông dân tại Canada gặp phải trong việc chấp nhận và áp dụng công nghệ nông nghiệp chính xác Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nghiên cứu của Aubert và cộng sự (2012) đã chỉ ra việc sử dụng sản phẩm và dịch vụ hỗ trợ công nghệ thông tin và truyền thông tại Trung Quốc, trong khi Amin và Li (2014) tập trung vào việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lĩnh vực này.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định và hành vi của nông dân trong việc áp dụng các công nghệ và thực hành nông nghiệp bền vững trên toàn cầu Tại Brazil, các yếu tố tâm lý và niềm tin ảnh hưởng đến việc sử dụng đồng cỏ tự nhiên đã được cải tạo (Borges và cộng sự, 2014) Ở New Zealand, sự thay đổi trong ý định và thái độ của nông dân đối với công nghệ gen đã được khám phá (Cook và Fairweather, 2003) Tại Trung Quốc, các chương trình dịch vụ hệ sinh thái đã ảnh hưởng đến ý định bảo tồn của nông dân (Deng và cộng sự, 2016) Nghiên cứu tại Indonesia cho thấy ý định sử dụng thẻ nông dân có vai trò quan trọng (Djamaludin, 2018) Tại Thụy Điển, các cấu trúc tâm lý đã ảnh hưởng đến quyết định mở rộng kinh doanh trang trại (Hansson và cộng sự, 2012) Ở Việt Nam, nông dân đã thể hiện ý định thích ứng với giá điện, nước và áp lực từ bên ngoài (Le Dang và cộng sự, 2014) Iran đã được nghiên cứu về việc áp dụng thực hành quản lý dịch hại tổng hợp (Rezaei và cộng sự, 2019) cũng như chấp nhận chiến lược kiểm soát sinh học (Sharifzadeh và cộng sự, 2017) Tại Malaysia, ý định thực hành nông nghiệp bền vững đã được xác định (Terano và cộng sự, 2015), trong khi ở Netherland, các biện pháp môi trường nông nghiệp không trợ cấp đã được điều tra (Van Dijk và cộng sự, 2016) Nghiên cứu tại Iran cũng chỉ ra sự khác biệt trong ý định bảo tồn nước giữa các phương pháp quản lý khác nhau (Yazdanpanah và cộng sự, 2014) Cuối cùng, tại Zimbabwe, nông dân sản xuất nhỏ đang thích ứng với biến đổi khí hậu (Zamasiya và cộng sự, 2017), và tại Trung Quốc, công nghệ tiết kiệm nước trong sản xuất lúa gạo đang được chấp nhận (Zhou và cộng sự, 2008).
Các nghiên cứu của học giả trong nước đã chỉ ra rằng ý định chấp nhận của người nông dân được khảo sát qua nhiều lĩnh vực khác nhau Cụ thể, nghiên cứu của Nguyễn Duy Chinh và cộng sự (2016) đã xác định các yếu tố tác động đến quyết định mua bảo hiểm trồng lúa tại huyện Cần Đước, tỉnh Long An Đồng thời, các nghiên cứu khác cũng giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu của người nông dân ven biển, qua đó xác định và định lượng các yếu tố có ảnh hưởng rõ ràng cũng như không rõ ràng đến quyết định của họ.
19 quyết định ứng xử của người nông dân xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Nghiên cứu của Đặng Thị Hoa và cộng sự (2013) đã chỉ ra hiện tượng “điệp khúc trồng chặt” diễn ra sôi động tại đồng bằng sông Cửu Long trong những thập kỷ qua Đồng thời, Ngô Thị Phương Lan (2017) cũng đã phân tích sự chuyển dịch của nông dân từ việc trồng lúa sang nuôi tôm như một hành vi chấp nhận rủi ro Ngoài ra, Hoàng Thu đã kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của nông dân tại tỉnh Phú Yên.
Thủy và Bùi Hoàng Minh Thư, 2018).
2.2.1.2 Khung lý thuyết đã sử dụng
Các nghiên cứu về ý định chấp nhận của người nông dân đã được các học giả phân tích dựa trên nhiều khung lý thuyết khác nhau, bao gồm sự kết hợp giữa lý thuyết chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM) và lý thuyết phổ biến đổi mới (Innovation Diffusion Theory - IDT) (Aubert và cộng sự, 2012) Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng chỉ sử dụng mô hình TAM (Amin và Li, 2014) hoặc lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior) để hiểu rõ hơn về hành vi chấp nhận công nghệ trong nông nghiệp.
Planned Behavior – TPB) (Arunrat và cộng sự, 2017; Borges và cộng sự, 2014; Cook và
Fairweather, 2003; Deng và cộng sự, 2016; Djamaludin, 2018; Hansson và cộng sự,
2012; Senger và cộng sự, 2017; Terano và cộng sự, 2015; Van Dijk và cộng sự, 2016;
Yazdanpanah và cộng sự, 2014); sử dụng lý thuyết động lực bảo vệ (Protection
The Motivation Theory (PMT) integrates the Theory of Planned Behavior (TPB) and the Norm Activation Model (NAM) as proposed by Le Dang et al (2014) and Rezaei et al (2019) Additionally, it combines the Technology Acceptance Model (TAM) with the Innovation Diffusion Theory (IDT), as demonstrated by Aubert et al (2012), utilizing an extended version of these models to enhance understanding of motivational factors.
TAM là TAM2 kết hợp lý thuyết IDT (Sharifzadeh và cộng sự, 2017).
2.2.2 Tổng quan các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân
Nghiên cứu về ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ chủ yếu được thực hiện bởi các học giả nước ngoài, tập trung vào việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của người nông dân Các yếu tố này được phân loại thành nhiều nhóm khác nhau, phản ánh sự đa dạng trong các yếu tố tác động đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Nhóm yếu tố ảnh hưởng đến người nông dân bao gồm nhân khẩu học, tính cách và quan điểm, trong đó có độ tuổi (Alexopoulos và cộng sự, 2010; Azam và Banumathi, 2015; Xie và cộng sự, 2015), giới tính (Azam và Banumathi, 2015) và trình độ học vấn (Azam và Banumathi, 2015).
Banumathi, 2015); tính sáng tạo (Alexopoulos và cộng sự, 2010); quyền sở hữu đất
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, bao gồm 20 đai (Azam và Banumathi, 2015), kinh nghiệm, giáo dục và kiến thức (Soltani và cộng sự, 2013; Azam và Shaheen, 2019), sở thích rủi ro (Xie và cộng sự, 2015), động lực, chuẩn chủ quan (Asadollahpour và cộng sự, 2016) và thái độ (Asadollahpour và cộng sự, 2016; Sharifuddin và cộng sự, 2016; Laepple, 2008).
Nhóm yếu tố nhận thức của người nông dân bao gồm nhận thức về thị trường và vai trò của canh tác hữu cơ trong bảo vệ môi trường, an toàn sức khỏe, và nhu cầu xã hội cùng thách thức kinh tế Sự thành công của các trang trại hữu cơ lân cận và cơ hội xuất khẩu cũng đóng góp vào quyết định của họ Thu nhập, lợi nhuận và các yếu tố tài chính như chi phí và chi phí lao động là những yếu tố quan trọng khác Khả năng tương thích, hiệu quả và năng suất trong sản xuất hữu cơ cũng ảnh hưởng đến quyết định canh tác của nông dân Cuối cùng, sự quen thuộc với hệ thống sản xuất hữu cơ và các mục tiêu cá nhân cũng là những yếu tố quyết định trong việc áp dụng canh tác hữu cơ.
Thứ ba, nhóm yếu tố thuộc về trang trại của người nông dân: quy mô trang trại
(Alexopoulos và cộng sự, 2010; Azam và Banumathi, 2015); việc sử dụng trang trại cho thuê (Azam và Shaheen, 2018).
Thứ tư, nhóm yếu tố thuộc về môi trường: kinh tế, thể chế, xã hội (Azam và
Nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp, bao gồm môi trường (Cranfield và cộng sự, 2010), đào tạo (Jierwiriyapant và cộng sự, 2012), và hỗ trợ từ mạng lưới nông nghiệp, kinh tế, vật lý, sinh học (Jierwiriyapant và cộng sự, 2012) Sự cạnh tranh và cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng (Koutsoukos và Iakovidou, 2013), cùng với sự hợp tác sản xuất (Soltani và cộng sự, 2013) Các nghiên cứu khác nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường (Aoki, 2014; Asadollahpour và cộng sự, 2014; Altieri và cộng sự, 2017; Sharifuddin và cộng sự, 2016; Xie và cộng sự, 2015) và việc tiếp cận tín dụng, thông tin (Ma và cộng sự, 2017) trong việc nâng cao hiệu quả nông nghiệp.
Nhóm yếu tố chính sách truyền thông và hỗ trợ bao gồm sự hỗ trợ và chính sách của chính phủ, mạng lưới tiếp thị, cùng với việc kiểm soát sản xuất và chất lượng Các nghiên cứu của Asadollahpour và cộng sự (2014), Azam và Shaheen (2018), Soltani và cộng sự (2013), cũng như Cranfield và cộng sự (2010) đã chỉ ra tầm quan trọng của những yếu tố này trong việc thúc đẩy hiệu quả hoạt động.
Bảng 2.1: Tổng hợp các yếu tố ảnh hưởng đến ý định chấp nhận sản xuất nông nghiệp hữu cơ của người nông dân
Stt Tác giả Yếu tố ảnh hưởng
Alexopoulos và cộng sự Tuổi tác, quy mô trang trại, tính sáng tạo của nông
1 dân, kế hoạch, nhận thức về thị trường và sự đóng
(2010) góp của canh tác hữu cơ để bảo vệ môi trường
2 Aoki (2014) Lợi nhuận tài chính, sức khỏe, môi trường.
Asadollahpour và cộng sự Sức khỏe/an toàn, môi trường, động lực về tư
3 tưởng và kinh tế, kiến thức, sự hỗ trợ của chính
(2014) phủ, lo sợ tương lai và sản xuất.
4 Asadollahpour và cộng sự Động lực, lợi nhuận, thách thức, chi phí, thái độ
5 Azam và Banumathi (2015) Trình độ học vấn, tuổi, giới tính, quy mô gia đình, quyền sở hữu đất đai.
Kinh tế, xã hội, tiếp thị, trồng trọt, chính sách của
6 Azam và Shaheen (2019) chính phủ, kinh nghiệm, việc sử dụng trang trại cho thuê.
Sức khỏe/an toàn, môi trường, nhu cầu xã hội, lợi nhuận và thách thức kinh tế, quy định của
Lý thuyết nghiên cứu về ý định của người nông dân
2.3.1 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of planned behavior – TPB)
Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior – TPB) được Ajzen
Lý thuyết hành động hợp lý (TRA) được phát triển vào năm 1985 nhưng gặp hạn chế trong việc dự đoán hành vi khi các tác nhân không hoàn toàn kiểm soát được hành động của mình, đặc biệt khi thái độ và chuẩn mực chủ quan không đủ để giải thích hành vi (Hansen và cộng sự, 2004) Để khắc phục điều này, Ajzen đã xây dựng lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) bằng cách bổ sung yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi, phản ánh mức độ dễ dàng hoặc khó khăn trong việc thực hiện hành động.
27 thực hiện hành vi, điều này phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành vi (Ajzen, 1991).
Theo TPB, hành vi của nông dân bị ảnh hưởng bởi ý định và nhận thức kiểm soát hành vi Ý định này lại chịu tác động từ thái độ, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi của họ.
Mô hình TPB đã được chấp nhận và ứng dụng phổ biến trong nghiên cứu nhằm dự đoán ý định và hành vi của cá nhân Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh tính hiệu quả của mô hình này trong việc phân tích hành vi của người nông dân (Borges và cộng sự, 2014; Deng và cộng sự, 2016; Djamaludin, 2018).
Laepple, 2008; Nguyen và Nguyen, 2020; Senger và cộng sự, 2017).
2.3.2 Mô hình kích hoạt tiêu chuẩn (Norm Activation Model – NAM) Được phát triển bởi Schwartz (1977), NAM là một mô hình để giải thích hành vi ý định vị tha và ủng hộ môi trường (Onwezen và cộng sự, 2013) Dựa trên NAM, các hành vi/ý định vị tha là một chức năng của các chuẩn mực cá nhân (personal norm – PN) được kích hoạt bởi hai yếu tố: quy cho trách nhiệm (ascription of responsibility - AR) và nhận thức về kết quả (awareness of consequences - AC) (Schwartz, 1977) PN là tiền đề gần nhất cho ý định/hành vi, là một khía cạnh cốt lõi của mô hình kích hoạt tiêu chuẩn (Harland và cộng sự, 1999).
Khi mọi người nhận thức được hậu quả tiêu cực của việc không hành động vì người khác và cảm thấy trách nhiệm cá nhân với những hậu quả đó, họ sẽ có nghĩa vụ đạo đức để thực hiện hành vi Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến ý định của cá nhân trong việc hành động vì lợi ích của người khác (Setiawan và cộng sự, 2014).
Nhận thức kiểm soát hành vi Ý định Hành vi
Theo nghiên cứu của Shin và cộng sự (2018), cảm giác tự hào hoặc tội lỗi của một người phụ thuộc vào mức độ phù hợp giữa hành vi cá nhân và chuẩn mực cá nhân của họ.
Hành vi ủng hộ môi trường là một yếu tố quan trọng trong hành vi ủng hộ xã hội (De Groot và Steg, 2009; Steg và De Groot, 2010) Mô hình NAM, xuất phát từ bối cảnh ủng hộ xã hội, đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu nhằm giải thích ý định và hành vi ủng hộ xã hội cũng như hành vi ủng hộ môi trường trong các tình huống khác nhau (Bamberg và cộng sự, 2007; Bamberg và Mửser, 2007; Chen và Tung, 2014; Han và cộng sự, 2010; Harland và cộng sự, 1999; Kim và Han, 2010; Klückner, 2013; Onwezen và cộng sự, 2013).
Hình 2.2 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB)
Lý thuyết TPB đã thu hút sự quan tâm ngày càng tăng từ các nhà nghiên cứu nông nghiệp, trở thành khung khái niệm chính cho mô hình quyết định áp dụng công nghệ mới của nông dân Nhiều nghiên cứu đã áp dụng TPB để hiểu các khía cạnh như thực hành bảo tồn đất (Wauters và cộng sự, 2010), cải tiến quản lý đồng cỏ tự nhiên (Borges và cộng sự, 2014), đa dạng hóa trang trại (Hansson và cộng sự, 2012), quyết định sử dụng đất ở đầu nguồn (Poppenborg và Koellner, 2013), chiến lược đối phó với biến đổi khí hậu và bảo tồn nước (Yazdanpanah và cộng sự, 2014), phát triển hành vi bảo tồn môi trường trong trang trại (Deng và cộng sự, 2016) và ý định đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp.
Nghiên cứu của Senger và cộng sự (2017) cùng với Djamaludin (2018) đã chỉ ra ý định sử dụng thẻ nông dân trong việc chuyển đổi sang canh tác hữu cơ Mô hình Thuyết Hành vi Dự kiến (TPB) đã được áp dụng làm khung lý thuyết chính trong nhiều nghiên cứu, bao gồm Hattam (2006) ở Mexico và Asadollahpour cùng các cộng sự.
Theo nghiên cứu của De Groot và Steg (2009), hành vi ủng hộ môi trường được xem là một dạng đặc biệt của hành vi ủng hộ xã hội, vì nó thể hiện sự quan tâm đến lợi ích của người khác mà không có lợi ích cá nhân trực tiếp Điều này cho thấy rằng hành vi ủng hộ xã hội bao gồm cả hành vi bảo vệ môi trường (De Groot và Steg, 2009; Steg và De Groot, 2010).
Nhận thức về kết quả
Chuẩn mực Ý định và cá nhân hành vi
Hình 2.3 Mô hình kích hoạt tiêu chuẩn (NAM)
NAM đã được áp dụng để dự đoán hành vi môi trường như bảo tồn năng lượng
(Black và cộng sự, 1985), lựa chọn chế độ du lịch (Hunecke, Blobaum, Matthies, và
Nghiên cứu của Hoger (2001) chỉ ra tầm quan trọng của tái chế (Bratt, 1999; Hopper và Nielsen, 1991; Park và Ha, 2014) và việc mua các sản phẩm bao bì thân thiện với môi trường (Thogersen, 1999) Bên cạnh đó, quyết định của khách tham quan bảo tàng liên quan đến môi trường cũng được đề cập (Han và Hyun, 2017), cùng với hành vi giao thông bền vững (Liu và cộng sự, 2017).
NAM kết hợp cùng TPB đã được áp dụng trong nghiên cứu của Rezaei và cộng sự
(2019) về ý định của nông dân sử dụng các thực hành quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) - một phương pháp kiểm soát dịch hại thân thiện với môi trường.
2.3.3 Lý thuyết phổ biến đổi mới (Innovation Diffusion Theory – IDT)
Các quá trình nông nghiệp phổ biến rất quan trọng khi nghiên cứu ở cấp địa phương, vì chúng dễ dàng quan sát bởi những người đi qua trang trại và các nông dân khác (Buttel và cộng sự, 1990; Burton, 2004; Schmit và Rounsevell, 2006).
Phổ biến được định nghĩa là quy trình truyền đạt sự đổi mới qua các kênh nhất định giữa các thành viên trong một hệ thống xã hội (Rogers, 2003) Theo Hall (2003), thuật ngữ này thường mô tả cách mà các cá nhân hoặc nhóm (công ty) trong xã hội/nền kinh tế áp dụng công nghệ mới hoặc thay thế công nghệ cũ Đổi mới được hiểu là một ý tưởng, thực hành hoặc đối tượng mới.
Hình 2.4 Lý thuyết phổ biến đổi mới (IDT)
Theo Rogers (2003), một nguồn thông tin được coi là mới khi nó được chấp nhận bởi một cá nhân hoặc tổ chức Kết quả cuối cùng của quá trình phổ biến này là sự áp dụng, thực hiện và thể chế hóa nguồn thông tin đó.
IDT đã chiếm ưu thế trong lý thuyết và thực hành khuyến nông toàn cầu hơn 50 năm qua, được công nhận là hiệu quả và ứng dụng trong mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ (Padel, 2001) Trong khi đổi mới thường được nghiên cứu qua lăng kính công nghệ, khía cạnh xã hội của nó cũng đã được xem xét trong các nghiên cứu về canh tác hữu cơ (Vartdal, 1993; Sutherland và Darnhofer, 2012) Canh tác hữu cơ, gần gũi với nguyên tắc sinh thái của nông nghiệp bền vững, được coi là một hình thức đổi mới so với nông nghiệp truyền thống (Beauchesne và Bryant).