1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam

203 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Kiểm Toán Của Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam
Tác giả Lê Thị Tuyết Nhung
Người hướng dẫn GS.TS. Đoàn Xuân Tiên, TS. Đoàn Thanh Nga
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 203
Dung lượng 6,81 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU (10)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (10)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu (12)
      • 1.2.1. Theo quan điểm hành vi (12)
      • 1.2.2. Nghiên cứu dựa trên yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình kiểm toán (15)
      • 1.2.3. Khía cạnh tổ chức (16)
      • 1.2.4. Khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu (19)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (20)
    • 1.4. Câu hỏi nghiên cứu (21)
    • 1.5. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu (21)
      • 1.5.1. Đối tượng nghiên cứu (21)
      • 1.5.2. Phạm vi nghiên cứu (21)
    • 1.6. Đóng góp mới của nghiên cứu (21)
    • 1.7. Kết cấu của luận án (22)
  • Chương 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC (24)
    • 2.1. Một số vấn đề chung về kiểm toán và chất lượng kiểm toán (24)
      • 2.1.1. Khái quát về kiểm toán (24)
      • 2.1.2. Khái quát về chất lượng kiểm toán (26)
      • 2.1.3. Đặc trưng trong hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước (31)
      • 2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo chất lượng kiểm toán theo Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước (33)
    • 2.2. Các lý thuyết nền (34)
      • 2.2.1. Lý thuyết tháp nhu cầu của Abraham Maslow (34)
      • 2.2.2. Lý thuyết về thể chế của Douglas North (36)
      • 2.2.3. Lý thuyết quản trị quan liêu của Max Weber (37)
    • 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước 29 1. Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán viên nhà nước (38)
      • 2.3.2. Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán nhà nước (42)
      • 2.3.3. Nhóm các nhân tố thuộc về môi trường thể chế (43)
  • Chương 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (49)
    • 3.1. Quy trình nghiên cứu và dữ liệu sử dụng (49)
    • 3.2. Nghiên cứu định tính (51)
      • 3.2.1. Nghiên cứu tài liệu (52)
      • 3.2.2. Phỏng vấn sơ bộ (53)
      • 3.2.3. Phỏng vấn sâu chính thức (53)
      • 3.2.4. Kết quả nghiên cứu định tính (55)
    • 3.3. Nghiên cứu định lượng (68)
      • 3.3.1. Quy trình xây dựng bảng hỏi (68)
      • 3.3.2. Thu thập dữ liệu (69)
    • 3.4. Giả thuyết nghiên cứu (72)
    • 3.5. Thang đo các biến (75)
      • 3.5.1. Thang đo biến độc lập (75)
      • 3.5.2. Thang đo biến phụ thuộc (75)
  • Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (77)
    • 4.1. Khái quát về Kiểm toán nhà nước và chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (77)
      • 4.1.1. Khái quát về Kiểm toán nhà nước Việt Nam (77)
      • 4.1.2. Thực trạng chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (78)
    • 4.2. Kết quả nghiên cứu (92)
      • 4.2.1. Đo lường độ tin cậy của thang đo (92)
      • 4.2.2. Phân tích nhân tố khám phá (100)
      • 4.2.3. Kiểm định tương quan Pearson (107)
      • 4.2.4. Phân tích hồi quy tuyến tính bội (110)
  • Chương 5 THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ (117)
    • 5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu (117)
      • 5.1.1. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về kiểm toán viên nhà nước đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (118)
      • 5.1.2. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán nhà nước đến chất lượng kiểm toán (119)
      • 5.1.3. Ảnh hưởng của nhóm các nhân tố thuộc về môi trường thể chế đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước (121)
    • 5.2. Các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (122)
      • 5.2.1. Phương hướng nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt (122)
      • 5.2.2. Khuyến nghị các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Việt Nam (123)
      • 5.2.3. Một số yếu tố cần thiết để thực hiện giải pháp (135)
  • KẾT LUẬN (132)
  • PHỤ LỤC (149)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài Theo DeFond và Zhang, 2014, chất lượng kiểm toán là trọng tâm của phần lớn các nghiên cứu về kiểm toán trong hơn 20 năm qua. Bản tham vấn của Hội đồng Tiêu chuẩn Kiểm toán và Đảm bảo Quốc tế (IAASB) cũng khẳng định, CLKT là vấn đề quan trọng đòi hỏi nhiều sự chú ý hơn. Tuy nhiên, cho đến nay đa phần các nghiên cứu về CLKT trên thế giới đều tập trung vào CLKT của các công ty kiểm toán độc lập. Trong lĩnh vực kiểm toán tài chính công, tài sản công hiện nay có rất ít nghiên cứu được thực hiện (Dwyer và Wilson, 1989), do đó, trên cơ sở khung lý thuyết về CLKT của các nghiên cứu được công bố đối với khu vực tư nhân tác giả Donald và cộng sự (1992) đã tiến hành thử nghiệm để xác định những yếu tố ảnh hưởng đến CLKT khu vực công thực hiện bởi các công ty kiểm toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố liên quan đến danh tiếng và xung đột quyền lực là những yếu tố quyết định đáng kể đến CLKT. Ngoài ra, thời gian kiểm toán cũng là một đại diện chấp nhận được khi so sánh CLKT của các công ty có quy mô tương đồng. Không thể phủ nhận, nghiên cứu của Donald và cộng sự (1992) đã bước đầu đưa ra được một số yếu tố ảnh hưởng đến CLKT việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, song việc chỉ dựa trên nền tảng nghiên cứu về CLKT do những công ty kiểm toán độc lập tiến hành không thể thay thế được việc nghiên cứu về vấn đề CLKT của khu vực công do các cơ quan KTNN (hay còn gọi là cơ quan kiểm toán tối cao) thực hiện. Một số nghiên cứu do thành viên các cơ quan KTNN thực hiện như Mazur và cộng sự (2005), Haneef (2013) thông qua nghiên cứu định tính, tổng hợp phân tích tài liệu đề cập đến một số khía cạnh cụ thể trong đảm bảo CLKT của cơ quan KTNN, song cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN một cách toàn diện và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Tại Việt Nam đã có một vài công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở và cấp ngành của KTNN Việt Nam về CLKT trong các lĩnh vực như kiểm toán ngân sách bộ, ngành, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản, kiểm toán đối với các doanh nghiệp nhà nước v.v. song các nghiên cứu chủ yếu dựa trên việc phân tích dữ liệu thứ cấp, chỉ ra thực trạng về CLKT hiện nay của KTNN Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục, chưa có nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Một số nghiên cứu gần đây về CLKT của KTNN như nghiên cứu về KSCL kiểm toán của Hoàng Phú Thọ (2012), tác giả tiến hành phân tích định tính để 2 xác định thực trạng công tác KSCL kiểm toán của KTNN VN từ đó đưa ra khuyến nghị nâng cao chất lượng KSCL kiểm toán của KTNN; nghiên cứu về kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA do KTNN thực hiện của tác giả Nguyễn Mạnh Cường (2017) tập trung nghiên cứu trong lĩnh vực kiểm toán nguồn vốn ODA dành cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Theo tìm hiểu của tác giả, tại Việt Nam đến nay chưa có công trình nghiên cứu về CLKT của KTNN Việt Nam nhằm xác định và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, đồng thời, coi đó như mục tiêu nghiên cứu duy nhất. Như đã biết, hoạt động của các cơ quan kiểm toán KTNN không mang tính chất lợi nhuận, đồng thời, đối tượng kiểm toán của các cơ quan kiểm toán KTNN là những tổ chức sử dụng và quản lý tài sản công, tài chính công, hoạt động của những tổ chức này ngoài mang lại lợi ích kinh tế còn phục vụ mục đích chính trị khác. Do đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN là rất quan trọng để từng bước nâng cao CLKT, đặc biệt kết quả kiểm toán luôn nhận được sự quan tâm rất lớn từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và người dân. Thời gian gần đây có nhiều thông tin truyền thông quan tâm đến kết quả kiểm toán của KTNN VN, như kết quả kiểm toán chuyên đề quản lý, sử dụng trang thiết bị y tế, kiểm toán các dự án BOT, BT, các vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp, kiểm tra đối chiếu nghĩa vụ nộp thuế tại nhiều doanh nghiệp v.v. Có thể nói, các kết quả kiểm toán thu được đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công, tài sản công. Bên cạnh những mặt đã làm được, thực tế cho thấy còn nhiều kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN hiện nay còn chung chung, thiếu cơ sở pháp lý, chưa sát với thực tiễn là một trong rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN chưa cao. Theo Tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm của KTNN, năm 2016, tỷ lệ thực hiện kiến nghị là 75,6%; năm 2017 đạt 78,2% và năm 2018 đạt 73,2% trên tổng số kiến nghị đủ bằng chứng thực hiện. Bên cạnh đó, các phát hiện về hành vi gian lận, tham nhũng có tính chất nghiêm trọng đề nghị chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra còn hạn chế (ví dụ, năm 2018 chuyển 05 vụ việc, năm 2019 chuyển 04 vụ việc, năm 2020 chuyển 05 vụ việc). Bên cạnh đó, theo Trần Văn Vương (2012), công tác phối hợp với cơ quan Tài chính trong quá trình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán còn bộc lộ nhiều vướng mắc như: “nội dung tổng hợp đôi khi không phản ánh rõ bản chất kiến nghị kiểm toán… phương pháp tổng hợp trong các báo cáo kiểm toán chưa hợp lý”. Theo quy định tại khoản 13, khoản 14 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2019, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại và khởi kiện về đánh giá, kết luận, kiến nghị của KTNN cũng như hành vi của KTVNN lên cơ quan Tòa án, mặc dù cho đến nay chưa có kết luận, kiến nghị nào của KTNN thuộc 3 đối tượng bị khiếu nại và khởi kiên tới cấp có thẩm quyền song hàng năm KTNN tổ chức trả lời nhiều văn bản của tổ chức, cá nhân liên quan đến kết quả kiểm toán. Đáng lưu ý, từ khi thành lập đến nay đã có 01 vụ việc KTVNN bị khởi tố bởi hành vi vi phạm Luật KTNN, quy tắc đạo đức nghề nghiệp KTV của KTNN và quy định hiện hành. Với trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, KTNN VN luôn không ngừng vận động, phát huy mọi nguồn lực nhằm đem lại những báo cáo kiểm toán với nhiều phát hiện, kiến nghị kiểm toán có giá trị cao, khắc phục những mặt chưa làm được trong tổ chức bộ máy và hoạt động nhằm nâng cao CLKT. Để thực hiện được nhiệm vụ đó điều cần thiết phải tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế từ đó có phương án khắc phục phù hợp, từng bước nâng cao CLKT của KTNN, xứng đáng với kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và công chúng đối với cơ quan độc lập thực hiện trọng trách kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công vì một nền tài chính minh bạch, gắn với trách nhiệm giải trình. Có thể nói, nhu cầu lý thuyết và thực tiễn về việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN là không thể phủ nhận. Căn cứ vào việc phân tích và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố cơ quan có thẩm quyền có biện pháp đi từ bản chất vấn đề thực hiện các giải pháp từng bước nâng cao CLKT. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đề tài nghiên cứu Các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN Việt Nam với mục tiêu xem xét và phân tích những nhân tố chính ảnh hưởng đến CLKT trong lĩnh vực kiểm toán tài chính, tài sản công do KTNN Việt Nam thực hiện. Ngoài việc hệ thống các luận điểm khoa học về CLKT và nhân tố ảnh hưởng đến CLKT, kết quả nghiên cứu của luận án còn là tiền đề để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tham khảo trong quá trình hoạch định các chính sách chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, quản lý và giám sát CLKT. 1.2. Tổng quan nghiên cứu Để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT các nhà nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó, có thể phân thành các nhóm chính sau: (i)Theo quan điểm hành vi; (ii)Nghiên cứu dựa vào đầu vào, quá trình và đầu ra; (iii)Khía cạnh tổ chức. 1.2.1. Theo quan điểm hành vi Schroeder và cộng sự (1986) và một số nhà nghiên cứu trước đó đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT theo quan điểm coi CLKT được xác định bởi mức độ hài lòng của người sử dụng thông tin BCKT. Nghiên cứu tiến hành dựa trên nhận thức về 4 CLKT của những người trực tiếp lập BCTC và KTV. Kế thừa hướng đi này, Carcello và cộng sự (1992) đã xem xét vấn đề CLKT dựa trên cảm nhận của người lập BCTC, KTV và người dùng có liên quan đến CLKT. Việc xem xét cảm nhận của người sử dụng thông tin kiểm toán là một sự nỗ lực của tác giả nhằm tìm hiểu các nhân tố tác động đến CLKT một cách toàn diện hơn so với nghiên cứu trước đó. Tiếp nối mô hình nghiên cứu của Carcello và cộng sự (1992), nghiên cứu sau này của Behn và cộng sự (1997), Kym, B.và cộng sự (2008) đã thực hiện khảo sát để tìm hiểu xem thuộc tính nào của CLKT liên quan trực tiếp đến sự hài lòng của khách hành. Tuy nhiên, Kym, B. và cộng sự (2008) chỉ khảo sát dựa trên cảm nhận của kiểm soát viên công ty khách hàng hoặc chuyên gia tài chính, KTV nội bộ của hội đồng địa phương - người lập BCTC thay vì khảo sát đồng thời cả KTV phần nào hạn chế tính bao quát của kết quả so với các công trình nghiên cứu trước đó. Kilgore và cộng sự (2014) đã xem xét cảm nhận về CLKT của cả hai đối tượng là những người trực tiếp lập BCTC, KTV hay "người bên trong" và người sử dụng thông tin, kết quả kiểm toán tức "người bên ngoài". Theo tác giả, các nghiên cứu về hành vi ủng hộ quan điểm rằng: "CLKT có thể được coi là một tập hợp các thuộc tính được đánh giá bởi các nhóm quan tâm hoặc bị ảnh hưởng bởi quá trình kiểm toán, đồng thời, tầm quan trọng của các thuộc tính là khác nhau giữa các nhóm lợi ích khác nhau". Phát hiện của Kilgore và cộng sự (2014) đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT và tầm quan trọng của từng nhân tố dựa trên cảm nhận của các đối tượng khác nhau, nghiên cứu đã củng cố thêm các kết quả trước đó về CLKT theo quan điểm hành vi, song hạn chế về số lượng mẫu của phương pháp liên hiệp thích ứng phần nào hạn chế kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả. Tựu chung lại, các nghiên cứu hành vi đã phân loại các thuộc tính của CLKT thành 02 nhóm chính gồm các thuộc tính của nhóm kiểm toán và các thuộc tính của công ty kiểm toán. Các thuộc tính của nhóm kiểm toán là các đặc điểm của KTV (Schroeder và cộng sự, 1986; Carcello và cộng sự, 1992, Beattie và Fearnley, 1995, Zerni, 2008, Warming-Rasmussen và Jensen, 1998, Behn và cộng sự, 1997, Francis, 2004, Kym, B. và cộng sự, 2008, Bùi Thị Thuỷ, 2013, Nguyễn Mạnh Cường 2017 v.v.), các thuộc tính của công ty kiểm toán là đặc điểm của công ty kiểm toán. Trong đó, thuộc tính của nhóm kiểm toán đóng vai trò quan trọng hơn các thuộc tính của công ty kiểm toán trong đánh giá CLKT. Các thuộc tính của nhóm kiểm toán có ảnh hưởng đến CLKT như Đạo đức của kiểm toán viên (Krohmer và Lae, 2010, Kym, B. và cộng sự, 2008), Tính độc lập của kiểm toán viên (Baotham, 2009; Tepalagun và Lin ,2016, Kym, B. và cộng sự, 2008 5 v.v.), Kinh nghiệm (Behn và cộng sự, 1997, Kym, B. và cộng sự, 2008, Carcello và cộng sự, 1992, Bùi Thị Thuỷ, 2013 v.v), Quan hệ và các quan điểm hành vi (Mock và Samet, 1982), nguồn lực con người (human capital - trình độ học vấn, kinh nghiệm, chuyên môn ngành) của Cheng và cộng sự (2009) v.v. Theo Pankov và cộng sự (2011) và Pankov (2016), CLKT không phải lúc nào cũng xác định rõ ràng thông qua việc tuân thủ các yêu cầu của quy chế hoạt động kiểm toán mà luôn luôn tồn tại một số yếu tố bổ sung quan trọng như kỳ vọng của đối tượng sử dụng BCKT và động lực của chính KTV về đảm bảo chất lượng cần thiết của cuộc kiểm toán. Yếu tố bổ sung đó, theo Pankov (2016), đó chính là yếu tố thuộc về MTTC. Sự ảnh hưởng của MTTC không chỉ mang tính trực tiếp mà còn tác động gián tiếp thông qua việc thiết lập động lực đối với KTV và những cá nhân liên quan trong quá trình kiểm toán về việc đảm bảo CLKT. Pankov (2016) nhận định rằng, để có một cuộc kiểm toán chất lượng cao bên cạnh việc tuân thủ nghiêm các chuẩn mực, hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn, tuân thủ các quy định, chỉ đạo của Ban lãnh đạo còn cần sự tương tác tốt với MTTC bên ngoài. Tiếp nối nghiên cứu của Pankov và cộng sự (2011), tác giả Elizarieva (2012) đã phát triển mô hình cơ chế và hình thức tác động của thể chế đến CLKT của các công ty kiểm toán tại Liên bang Nga. Theo đó, thể chế tác động đến CLKT thông qua 04 yếu tố gồm: Chính trị, pháp luật, kinh tế và đạo đức. Sự tác động của thể chế bằng 02 hình thức: hành chính (chuẩn mực, quy định, quy tắc hoặc giấy phép hoạt động, quy định về nâng cao trình độ đội ngũ hàng năm v.v.) và tự điều chỉnh (tự điều chỉnh bên ngoài và tự điều chỉnh bên trong). Có thể nói, mô hình của Elizarieva (2012) đã thể hiện khá toàn diện các yếu tố tác động đến CLKT của các công ty kiểm toán độc lập. Ngoài các yếu tố tác động đến CLKT thường thấy như sự tuân thủ pháp luật về hoạt động kiểm toán, các chuẩn mực kiểm toán và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của KTV, Elizarieva (2012) còn đề cập đến yếu tố chính trị. Tác giả cho rằng, tồn tại yếu tố chính trị trong việc lựa chọn đơn vị kiểm toán đối với các gói thầu kiểm toán tại các doanh nghiệp khu vực công, việc bổ sung hay hạn chế một số điều kiện trong quá trình đấu thầu mang tính chất ngầm định. Tuy có nhiều phát hiện quan trọng về chủ đề CLKT song hạn chế của các nhóm tác giả kể trên chủ yếu do nghiên cứu mới thực hiện dựa trên phân tích tài liệu thứ cấp. Trong lĩnh vực kiểm toán của KTNN, việc thực hiện kiểm toán tại các đơn vị và doanh nghiệp nhà nước mang tính chất bắt buộc và không tính phí, liệu yếu tố thể chế nói chung và yếu tố chính trị nói riêng có tác động đến CLKT của KTNN và tác động theo hình thức nào? Tại KTNN Việt Nam cũng như nhiều SAI trên thế giới, BCKT của KTNN là căn cứ để Quốc hội xem xét, sử dụng trong các quyết định và giám sát nền 6 kinh tế; Chính phủ sử dụng kết quả kiểm toán của KTNN để thực hiện chức năng quản lý, điều hành và thực hiện nhiệm vụ của mình; BCKT của KTNN có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán và các cá nhân, tổ chức liên quan, đồng thời, là căn cứ để đơn vị được kiểm toán thực hiện quyền khiếu nại (nếu có) đối với kết luận, kiến nghị kiểm toán. Do đó, hoạt động kiểm toán của KTNN nhận được sự quan tâm, phối hợp rất thường xuyên, chặt chẽ của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan và đơn vị được kiểm toán, điều này phù hợp với nhận định của Pankov (2016), để có một cuộc kiểm toán chất lượng cao cần sự tương tác tốt với MTTC bên ngoài, nói cách khác, là sự phối hợp của KTNN với các cơ quan trực thuộc Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan dân cử và các đơn vị được kiểm toán. Suy ra từ quan điểm của Kirgore và cộng sự (2014) như đã nêu ở trên, đây cũng là nhóm quan tâm hoặc bị ảnh hưởng bởi quá trình kiểm toán của KTNN. Nguyễn Mạnh Cường (2017) với nghiên cứu: "Kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện" đưa ra hệ thống gồm 09 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán các dự án sử dụng nguồn vốn ODA do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện. Mô hình nghiên cứu của tác giả như sau: CHATLUONG = 0 + 1* PHAPLY + 2* DVKT + 3* CHUYENMON + 4* TINHTHONG + 5* THAIDO + 6* TUANTHU + 7* DIEUKIEN + 8* THOIGIAN +9* KIEMSOAT + i Kết quả phân tích dựa trên phiếu khảo sát hợp lệ thu được từ 168 lãnh đạo và KTVNN cho thấy, các nhân tố bên trong thuộc về KTVNN và KTNN như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán, thái độ nghề nghiệp và các nhân tố bên ngoài gồm môi trường pháp lý và đơn vị được kiểm toán có ảnh hưởng quan trọng đối với CLKT các dự án ODA. Có thể nói, tác giả đã gặt hái được nhiều thành công trong việc xác định và kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu mới dừng ở các dự án đầu tư xây dựng sử dụng nguồn vốn ODA, thêm nữa, đối tượng khảo sát là KTVNN chưa đánh giá cảm nhận về CLKT của KTNN của đơn vị được kiểm toán và người sử dụng thông tin như các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ, cơ quan dân cử. Tóm lại, các nhân tố thuộc về hành vi ảnh hưởng đến CLKT được đề cập qua các nghiên cứu điển hình đã chứng minh mối liên hệ giữa các nhân tố thuộc về nhóm kiểm toán/KTV, nhân tố thuộc về tổ chức thực hiện cuộc kiểm toán và nhân tố thuộc về MTTC có ảnh hưởng đến CLKT nói chung trong đó bao gồm CLKT của KTNN. 1.2.2. Nghiên cứu dựa trên yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình kiểm toán 7 Francis (2011) đã đưa ra sáu nhân tố tác động đến CLKT bao gồm: Nhân tố đầu vào; Nhân tố quá trình; DNKT; Thị trường kiểm toán; Thể chế và Hậu quả kinh tế của các cuộc kiểm toán. Kết quả nghiên cứu này được sự đồng tình của IFAC, IAASB và nhiều nhà nghiên cứu khác. Trên cơ sở đó, IAASB đã có những nghiên cứu bổ sung và đưa ra Khuôn khổ các nhân tố tác động đến CLKT.

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài

Chất lượng kiểm toán (CLKT) đã được nghiên cứu rộng rãi trong hơn 20 năm qua, với sự khẳng định từ Hội đồng Tiêu chuẩn Kiểm toán và Đảm bảo Quốc tế (IAASB) rằng đây là vấn đề quan trọng cần được chú ý nhiều hơn Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào CLKT của các công ty kiểm toán độc lập, trong khi lĩnh vực kiểm toán tài chính công vẫn còn hạn chế Dựa trên khung lý thuyết về CLKT từ nghiên cứu khu vực tư nhân, Donald và cộng sự (1992) đã tiến hành thử nghiệm để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT trong khu vực công Kết quả cho thấy danh tiếng và xung đột quyền lực là những yếu tố quyết định quan trọng, bên cạnh đó, thời gian kiểm toán cũng là một chỉ số chấp nhận được để so sánh CLKT giữa các công ty có quy mô tương đồng Nghiên cứu của Donald và cộng sự không thể bị xem nhẹ trong bối cảnh này.

Năm 1992, một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công đã được đề cập Tuy nhiên, việc dựa vào nghiên cứu CLKT từ các công ty kiểm toán độc lập không thể thay thế cho nghiên cứu của các cơ quan kiểm toán nhà nước (KTNN) Một số nghiên cứu như của Mazur và cộng sự (2005), Haneef (2013) đã thực hiện nghiên cứu định tính và tổng hợp tài liệu về các khía cạnh cụ thể trong đảm bảo CLKT của KTNN Dù vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nào xác định một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở và ngành của KTNN đã được thực hiện về chất lượng kiểm toán (CLKT) trong các lĩnh vực như kiểm toán ngân sách, đầu tư xây dựng và doanh nghiệp nhà nước Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu dựa vào phân tích dữ liệu thứ cấp, chỉ ra thực trạng CLKT hiện tại mà chưa khám phá các nhân tố ảnh hưởng và mức độ tác động của chúng Gần đây, nghiên cứu của Hoàng Phú Thọ (2012) đã thực hiện phân tích định tính để xác định thực trạng công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của KTNN Việt Nam và đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng này Ngoài ra, nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường cũng tập trung vào kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA do KTNN thực hiện.

Năm 2017, nghiên cứu tập trung vào kiểm toán nguồn vốn ODA cho các dự án đầu tư xây dựng cơ bản Tác giả nhận thấy rằng tại Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), nhằm xác định và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố, đồng thời coi đây là mục tiêu nghiên cứu chính.

Hoạt động của các cơ quan kiểm toán nhà nước (KTNN) không nhằm mục đích lợi nhuận, mà tập trung vào việc kiểm toán các tổ chức quản lý tài sản và tài chính công Những tổ chức này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn phục vụ các mục đích chính trị khác Do đó, việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN là rất quan trọng để nâng cao CLKT Kết quả kiểm toán luôn thu hút sự quan tâm lớn từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan chức năng và người dân.

Gần đây, nhiều thông tin truyền thông đã chú ý đến kết quả kiểm toán của KTNN VN, bao gồm quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế, kiểm toán các dự án BOT, BT, và cổ phần hóa doanh nghiệp Những kết quả này đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính công và tài sản công Tuy nhiên, nhiều kết luận và kiến nghị của KTNN vẫn còn chung chung, thiếu cơ sở pháp lý và chưa phù hợp với thực tiễn, dẫn đến tỷ lệ thực hiện kiến nghị chưa cao Theo số liệu từ KTNN, tỷ lệ thực hiện kiến nghị lần lượt là 75,6% năm 2016, 78,2% năm 2017 và 73,2% năm 2018 Ngoài ra, các phát hiện về gian lận và tham nhũng nghiêm trọng được đề nghị chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra còn hạn chế.

Từ năm 2018 đến 2020, có tổng cộng 14 vụ việc đã được chuyển giao, tuy nhiên, công tác phối hợp với cơ quan Tài chính trong thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán vẫn gặp nhiều vướng mắc Theo Trần Văn Vương (2012), nội dung tổng hợp đôi khi không phản ánh đúng bản chất kiến nghị, và phương pháp tổng hợp trong báo cáo kiểm toán cần cải tiến Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2019, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có quyền khiếu nại về đánh giá và kết luận của KTNN, mặc dù chưa có trường hợp nào bị khiếu nại đến cấp có thẩm quyền KTNN cũng đã tổ chức trả lời nhiều văn bản liên quan đến kết quả kiểm toán hàng năm Đáng chú ý, đã có một vụ việc KTVNN bị khởi tố do vi phạm Luật KTNN và quy tắc đạo đức nghề nghiệp Để nâng cao chất lượng kiểm toán, KTNN VN cần tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế, từ đó có phương án khắc phục phù hợp, xứng đáng với kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và công chúng trong việc giám sát quản lý tài chính công và tài sản công, hướng tới một nền tài chính minh bạch và có trách nhiệm giải trình.

Nhu cầu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán nhà nước (CLKT) là rất quan trọng Việc phân tích và kiểm định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao CLKT Đề tài nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố tác động đến CLKT của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện hiệu quả hoạt động kiểm toán.

Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán tài chính và tài sản công do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện Bên cạnh việc hệ thống hóa các luận điểm khoa học về chất lượng kiểm toán và các yếu tố tác động, kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở tham khảo cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc xây dựng chính sách chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, quản lý và giám sát chất lượng kiểm toán.

Tổng quan nghiên cứu

Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng kỹ thuật (CLKT), các nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, có thể được phân loại thành các nhóm chính.

(i) Theo quan điểm hành vi;

(ii) Nghiên cứu dựa vào đầu vào, quá trình và đầu ra;

(iii) Khía cạnh tổ chức.

Nghiên cứu của Schroeder và cộng sự (1986) cùng với một số nhà nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng chất lượng thông tin (CLKT) được xác định bởi mức độ hài lòng của người sử dụng thông tin báo cáo kinh tế (BCKT) Các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT đã được phân tích dựa trên nhận thức của người dùng về thông tin.

CLKT của những người lập BCTC và KTV đã được Carcello và cộng sự (1992) xem xét dựa trên cảm nhận của các bên liên quan Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT một cách toàn diện hơn so với các nghiên cứu trước đó Tiếp theo mô hình nghiên cứu của Carcello, Behn và cộng sự (1997) cùng với Kym cũng đã đóng góp vào lĩnh vực này.

B và cộng sự (2008) đã thực hiện khảo sát để tìm hiểu xem thuộc tính nào của CLKT liên quan trực tiếp đến sự hài lòng của khách hành Tuy nhiên, Kym, B và cộng sự

Năm 2008, nghiên cứu chỉ dựa vào cảm nhận của kiểm soát viên công ty khách hàng, chuyên gia tài chính và kiểm toán viên nội bộ tại các hội đồng địa phương, mà không khảo sát đồng thời cả kiểm toán viên, điều này hạn chế tính bao quát của kết quả so với các nghiên cứu trước đó.

Kilgore và cộng sự (2014) đã nghiên cứu cảm nhận về chất lượng kiểm toán (CLKT) từ hai góc độ: người lập báo cáo tài chính (BCTC) và người sử dụng thông tin kiểm toán Theo tác giả, CLKT được xem như một tập hợp các thuộc tính mà các bên liên quan đánh giá khác nhau, tùy thuộc vào lợi ích của họ Nghiên cứu đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CLKT và tầm quan trọng của từng yếu tố dựa trên cảm nhận của các nhóm đối tượng khác nhau, đồng thời củng cố các kết quả nghiên cứu trước đó về CLKT từ góc độ hành vi Tuy nhiên, hạn chế về số lượng mẫu trong phương pháp nghiên cứu đã ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết quả.

Các nghiên cứu hành vi đã phân loại các thuộc tính của kiểm toán viên thành hai nhóm chính: thuộc tính của nhóm kiểm toán và thuộc tính của công ty kiểm toán Nhóm thuộc tính của kiểm toán viên bao gồm các đặc điểm của kiểm toán viên (KTV) được nêu bởi các tác giả như Schroeder và cộng sự (1986), Carcello và cộng sự (1992), Beattie và Fearnley (1995), Zerni (2008), Warming-Rasmussen và Jensen (1998), cùng với Behn và cộng sự (1997), và Francis.

Các thuộc tính của công ty kiểm toán, như được nêu bởi Kym và cộng sự (2004), Bùi Thị Thuỷ (2008), và Nguyễn Mạnh Cường (2013, 2017), đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng kiểm toán Trong đó, thuộc tính của nhóm kiểm toán được xem là yếu tố có ảnh hưởng lớn hơn so với các thuộc tính của công ty kiểm toán.

Các thuộc tính của nhóm kiểm toán, bao gồm đạo đức của kiểm toán viên (Krohmer và Lae, 2010; Kym và cộng sự, 2008), tính độc lập (Baotham, 2009; Tepalagun và Lin, 2016; Kym và cộng sự, 2008), kinh nghiệm (Behn và cộng sự, 1997; Kym và cộng sự, 2008; Carcello và cộng sự, 1992; Bùi Thị Thủy, 2013) cùng với quan hệ và các quan điểm hành vi (Mock và Samet), đều có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán.

1982), nguồn lực con người (human capital - trình độ học vấn, kinh nghiệm, chuyên môn ngành) của Cheng và cộng sự (2009) v.v.

Theo Pankov và cộng sự (2011) cùng Pankov (2016), chất lượng kiểm toán (CLKT) không chỉ được xác định qua việc tuân thủ quy chế hoạt động kiểm toán mà còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bổ sung quan trọng Những yếu tố này bao gồm kỳ vọng của người sử dụng báo cáo tài chính (BCKT) và động lực của kiểm toán viên (KTV) trong việc đảm bảo chất lượng cần thiết cho cuộc kiểm toán.

MTTC có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng kiểm toán (CLKT) thông qua việc tạo động lực cho kiểm toán viên (KTV) và các bên liên quan Theo Pankov (2016), để đảm bảo một cuộc kiểm toán chất lượng, ngoài việc tuân thủ các chuẩn mực và quy định, cần có sự tương tác tốt với môi trường thể chế bên ngoài Elizarieva (2012) đã mở rộng nghiên cứu của Pankov, phát triển mô hình tác động của thể chế đến CLKT tại Nga, chỉ ra rằng thể chế ảnh hưởng đến CLKT qua bốn yếu tố: chính trị, pháp luật, kinh tế và đạo đức Sự tác động này diễn ra qua hai hình thức: hành chính (chuẩn mực, quy định, giấy phép hoạt động) và tự điều chỉnh (tự điều chỉnh bên ngoài và bên trong) Mô hình của Elizarieva khẳng định vai trò quan trọng của thể chế trong việc nâng cao chất lượng kiểm toán.

Năm 2012, Elizarieva đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của các công ty kiểm toán độc lập, không chỉ bao gồm sự tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán và quy tắc đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên (KTV), mà còn có yếu tố chính trị Tác giả nhấn mạnh rằng yếu tố chính trị ảnh hưởng đến việc lựa chọn đơn vị kiểm toán trong các gói thầu tại doanh nghiệp khu vực công, với những điều kiện đấu thầu có thể bị tác động ngầm Mặc dù có nhiều phát hiện quan trọng về CLKT, nhưng nghiên cứu này vẫn gặp hạn chế do chủ yếu dựa vào phân tích tài liệu thứ cấp.

Trong lĩnh vực kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN), việc thực hiện kiểm toán tại các đơn vị và doanh nghiệp nhà nước là bắt buộc và không tính phí Yếu tố thể chế và yếu tố chính trị có thể ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN Báo cáo kiểm toán (BCKT) của KTNN là căn cứ quan trọng cho Quốc hội trong việc giám sát nền kinh tế và giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý BCKT có giá trị pháp lý bắt buộc đối với đơn vị được kiểm toán và các bên liên quan, đồng thời cung cấp cơ sở cho quyền khiếu nại nếu cần Hoạt động kiểm toán của KTNN nhận được sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ từ Quốc hội, Chính phủ và các đơn vị liên quan, điều này phù hợp với quan điểm của Pankov (2016) về sự cần thiết của tương tác với môi trường bên ngoài để đảm bảo chất lượng kiểm toán Hơn nữa, theo Kirgore và cộng sự (2014), các cơ quan và tổ chức bị ảnh hưởng bởi quá trình kiểm toán cũng là nhóm có sự quan tâm lớn đến hoạt động này.

Nguyễn Mạnh Cường (2017) trong nghiên cứu "Kiểm toán các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA do Kiểm toán nhà nước Việt Nam thực hiện" đã xác định 09 nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán các dự án ODA Mô hình nghiên cứu của tác giả cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định trong quy trình kiểm toán, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam.

CHATLUONG = 0 + 1* PHAPLY + 2* DVKT + 3* CHUYENMON + 4* TINHTHONG + 5 * THAIDO + 6 * TUANTHU + 7 * DIEUKIEN + 8 * THOIGIAN

Kết quả phân tích từ 168 lãnh đạo và kiểm toán viên nhà nước cho thấy các yếu tố nội tại như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán và thái độ nghề nghiệp, cùng với các yếu tố bên ngoài như môi trường pháp lý và đơn vị được kiểm toán, đều có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) các dự án ODA Mặc dù tác giả đã thành công trong việc xác định và kiểm định các nhân tố này, nhưng nghiên cứu chỉ tập trung vào các dự án đầu tư xây dựng sử dụng nguồn vốn ODA Hơn nữa, khảo sát chưa bao gồm cảm nhận về CLKT từ các đơn vị được kiểm toán và người sử dụng thông tin như Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan dân cử.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của luận án là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam thông qua nghiên cứu lý thuyết và phỏng vấn sâu các chuyên gia Luận án sẽ kiểm định và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, từ đó đề xuất bộ giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán của KTNN trong thời gian tới.

Mục tiêu cụ thể: Từ mục tiêu chung luận án xác định 05 mục tiêu cụ thể sau đây:

Nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam bao gồm các yếu tố thuộc về kiểm toán viên Nhà nước, các yếu tố thuộc về Kiểm toán Nhà nước và các yếu tố thuộc về môi trường tài chính.

(2) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

(3) Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTNN với CLKT của KTNN Việt Nam và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố.

Kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc môi trường thể chế chính trị, như các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, cơ quan dân cử và hành lang pháp lý, với chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Đồng thời, đo lường mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố này đến hiệu quả hoạt động của Kiểm toán Nhà nước.

(5) Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu luận án xác định các câu hỏi nghiên cứu chính cần giải quyết gồm có:

(1) Các nhân tố nào có ảnh hưởng như thế nào đến CLKT của KTNN Việt Nam?

Mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN, các nhân tố thuộc về KTNN và các nhân tố thuộc về MTTC có ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của KTNN Việt Nam Cần phân tích mức độ tác động của từng nhân tố này để hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của chúng đến chất lượng kiểm toán trong bối cảnh KTNN Việt Nam.

(3) Những giải pháp nào phù hợp với bối cảnh hiện tại giúp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay?

Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

1.5.1 Đố i t ượ ng nghiên c ứ u Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa các nhân tố thuộc về KTVNN, các nhân tố thuộc về KTNN và các nhân tố thuộc về MTTC và CLKT của KTNN Việt Nam hiện nay.

Về không gian: Nghiên cứu tại KTNN Việt Nam.

Luận án nghiên cứu dữ liệu từ năm 2006, khi Luật Kiểm toán Nhà nước số 81/2005/QH13 có hiệu lực, đến nay Để đảm bảo tính thời sự, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào dữ liệu và thông tin kiểm toán từ năm 2010 đến năm 2019.

Luận án này nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ Mặc dù KTNN đang tăng cường áp dụng kiểm toán hoạt động qua nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề, nhưng nghiên cứu nhấn mạnh rằng kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ vẫn giữ vai trò chủ đạo trong giai đoạn trước khi nghiên cứu được thực hiện.

Đóng góp mới của nghiên cứu

* Những đóng góp mới của luận án về mặt lý luận gồm có:

Thứ nhất, Luận án bổ sung cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của

Luận án áp dụng đồng thời phương pháp nghiên cứu định tính qua phỏng vấn sâu và phương pháp nghiên cứu định lượng để xây dựng mô hình hồi quy, nhằm cung cấp bộ dữ liệu đáng tin cậy về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác của KTNN Việt Nam.

Luận án đã xác định ba nhóm nhân tố tổng quan và tám nhân tố cấu thành, tất cả đều có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Những phát hiện này sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này trong tương lai.

Thứ tư, Luận án rút ra các khuyến nghị nhằm nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam.

* Những đóng góp của luận án về mặt thực tiễn gồm có:

Nghiên cứu đã chỉ ra ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Thứ nhất, nhóm nhân tố thuộc về kiểm toán viên nhà nước, bao gồm kinh nghiệm, chuyên môn, trình độ đào tạo, tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán, và duy trì tính độc lập, chuyên nghiệp Thứ hai, nhóm nhân tố thuộc về Kiểm toán Nhà nước, liên quan đến kiểm soát chất lượng kiểm toán và sự tham gia của lãnh đạo, cũng như uy tín và vị thế của cơ quan này Cuối cùng, nhóm nhân tố thuộc môi trường làm việc, nhấn mạnh sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan dân cử.

Nghiên cứu và khuyến nghị giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) sẽ cung cấp cơ sở cho KTNN triển khai các biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến CLKT Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng sẽ hỗ trợ các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, các đơn vị dân cử và đơn vị được kiểm toán có thêm thông tin đáng tin cậy về các nhân tố tác động đến CLKT và vai trò, nhiệm vụ của từng cấp, từng đơn vị trong việc đảm bảo và cải thiện CLKT của KTNN.

Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận luận án được kết cấu thành 05 chương như sau: Chương 1 Giới thiệu chung về nghiên cứu

Chương 2 Cơ sở lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT của KTNN

Chương 3 Phương pháp nghiên cứu

Chương 4 Kết quả nghiên cứu

Chương 5 Khuyến nghị một số giải pháp nâng cao CLKT của KTNN Việt Nam

Chương 1 chủ yếu hệ thống hóa các nghiên cứu trong và ngoài nước về CLKT và các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT Có 02 trường phái chính về khái niệm CLKT: (i) CLKT là khả năng phát hiện và báo cáo những sai sót trọng yếu trong BCTC; (ii) CLKT được xem xét dựa trên mức độ hài lòng của đối tượng sử dụng BCKT đối với các kết quả, kết luận kiểm toán. Đi sâu vào nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT các nhà nghiên cứu dựa trên các quan điểm chính gồm: (i) Theo quan điểm hành vi; (ii) Nghiên cứu dựa vào đầu ra, quá trình và đầu vào; (iii) Khía cạnh tổ chức Từ kết quả tổng quan nghiên cứu luận án xác định khoảng trống nghiên cứu, mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, quy trình nghiên cứu làm cơ sở cho các bước nghiên cứu tiếp theo của luận án.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

Một số vấn đề chung về kiểm toán và chất lượng kiểm toán

Khái niệm kiểm toán sơ khai xuất hiện từ thế kỷ III trước Công nguyên, liên quan đến nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại, với từ "audit" trong tiếng Latin có nghĩa là "nghe" Kiểm toán cổ điển là quá trình kiểm tra tài sản, trong đó kế toán sẽ đọc to số liệu cho bên độc lập nghe và xác nhận Đến đầu thế kỷ XX, khái niệm kiểm toán độc lập và bày tỏ ý kiến mới phát triển tại Bắc Mỹ và Tây Âu, nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà quản lý và nhà đầu tư Những người góp vốn mong muốn được đảm bảo rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và chính xác thông tin tài chính của công ty.

Theo định nghĩa của tổ chức IFAC, kiểm toán được hiểu là quá trình mà các kiểm toán viên độc lập tiến hành kiểm tra và đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính.

Theo Arens và Loebbecker (1995), kiểm toán được định nghĩa là quá trình thu thập bằng chứng và thông tin liên quan từ các chuyên gia độc lập, nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ tuân thủ các chuẩn mực của tổ chức.

Kiểm toán ở Việt Nam xuất hiện hơn 30 năm qua, bắt đầu với sự thành lập các công ty tư vấn và kiểm toán thuộc Bộ Tài chính Theo Nguyễn Quang Quynh (1998, tr.30), hoạt động kiểm toán được hiểu là quá trình đánh giá và xác nhận tính chính xác của thông tin tài chính.

Kiểm toán là quá trình xác minh và đánh giá hoạt động của một tổ chức thông qua các phương pháp kỹ thuật, bao gồm kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ Hoạt động này được thực hiện bởi các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn phù hợp, dựa trên hệ thống pháp lý hiện hành.

Kiểm toán là quá trình mà kiểm toán viên có trình độ chuyên môn thực hiện độc lập việc kiểm tra sổ sách kế toán Mục tiêu của kiểm toán là đưa ra ý kiến về tính chính xác và trung thực của thông tin tài chính của tổ chức hoặc công ty.

Có 02 phương pháp chính để phân loại kiểm toán như sau:

- Theo chủ thể kiểm toán gồm: Kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.

Kiểm toán nhà nước, hay còn gọi là cơ quan kiểm toán tối cao ở một số quốc gia, là cơ quan được thành lập bởi Quốc hội hoặc Chính phủ, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Theo Điều 4 của Luật Kiểm toán nhà nước, đối tượng kiểm toán bao gồm việc quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, cũng như các hoạt động liên quan đến quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán.

Kiểm toán độc lập là các công ty được thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp cùng các quy định liên quan, chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán Những công ty này ký kết hợp đồng với khách hàng để thực hiện các dịch vụ kiểm toán có tính phí.

Kiểm toán nội bộ là hoạt động do ban lãnh đạo doanh nghiệp thiết lập nhằm kiểm tra và đánh giá việc tuân thủ các quy định, chuẩn mực tài chính – kế toán, cũng như hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức.

- Phân loại theo loại hình kiểm toán, có 03 loại hình kiểm toán: Kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.

Kiểm toán tài chính (KTTC) nhằm mục tiêu đánh giá tính chính xác và trung thực của báo cáo tài chính (BCTC) và các thông tin tài chính liên quan Qua việc kiểm tra, KTTC xác định xem BCTC có được lập và trình bày theo các quy định hiện hành hay không, từ đó đưa ra ý kiến xác nhận về độ tin cậy của các thông tin tài chính.

Kiểm toán tuân thủ là quá trình đánh giá việc tuân thủ các quy định liên quan đến tài chính, kế toán, cũng như các chế độ, chính sách mà tổ chức cần thực hiện.

Kiểm toán hoạt động, một hình thức kiểm toán mới tại Việt Nam, tập trung vào việc đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, thường được gọi là kiểm toán 3E Qua đó, kiểm toán hoạt động không chỉ giúp phát hiện những điểm yếu trong hoạt động mà còn đưa ra các kiến nghị cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Điều này phân biệt Kiểm toán Nhà nước với các chủ thể kiểm toán khác trong lĩnh vực kiểm toán.

Kiểm toán nhà nước (KTNN) là cơ quan do Quốc hội thành lập, có chức năng và nhiệm vụ được quy định tại Điều 118 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cùng với Luật KTNN và Luật KTNN sửa đổi Các chủ thể kiểm toán khác như kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ hoạt động theo Luật Kiểm toán độc lập và các quy định pháp luật liên quan Khác với các công ty kiểm toán độc lập chỉ cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính hoặc kiểm toán nội bộ, KTNN thực hiện cả ba loại hình kiểm toán: kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động Việc thực hiện kiểm toán có thể được tiến hành riêng lẻ hoặc kết hợp cả ba loại hình trong một cuộc kiểm toán, nhằm đạt được mục tiêu và phù hợp với đặc thù của kiểm toán tài chính công và tài sản công.

2.1.2 Khái quát v ề ch ấ t l ượ ng ki ể m toán

2.1.2.1 Khái niệm về chất lượng

Theo từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển thuộc Viện Ngôn ngữ học Việt Nam do Hoàng Phê biên soạn, chất lượng được định nghĩa là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc" Tương tự, cuốn Từ điển tiếng Nga của Ozhegova, tái bản và bổ sung năm 2020, cho rằng chất lượng là "sự tồn tại của những dấu hiệu, tính chất, đặc điểm tạo nên sự khác biệt giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác".

"Chất lượng" là một khái niệm lâu đời, đã được nghiên cứu trong triết học cổ điển Để có cái nhìn hệ thống và rõ ràng về định nghĩa chất lượng, chúng ta cần xem xét nó từ góc độ triết học và kinh tế.

(i) Theo quan điểm triết học

Các lý thuyết nền

2.2.1 Lý thuy ế t tháp nhu c ầ u c ủ a Abraham Maslow

Nhu cầu là yếu tố cơ bản hình thành bản chất con người, theo nghiên cứu của Maslow về "Hệ thống cấp bậc của nhu cầu" (1943) Maslow phân chia nhu cầu thành hai loại: nhu cầu bậc thấp (như sự nhận thức bản thân, được kính trọng, an toàn) và nhu cầu bậc cao (tự khẳng định bản thân, nhu cầu tự tôn bản ngã) Nhu cầu bậc thấp thường được thỏa mãn qua các yếu tố bên ngoài, trong khi nhu cầu bậc cao liên quan đến nội tại của mỗi cá nhân Khi các nhu cầu cơ bản được thỏa mãn, chúng sẽ tạo ra động lực cho hành vi con người Hệ thống năm cấp bậc nhu cầu của Maslow từ thấp đến cao bao gồm: nhu cầu sinh học, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự thể hiện bản thân Con người sẽ ưu tiên thỏa mãn những nhu cầu cấp thiết nhất trước khi hướng đến những nhu cầu cao hơn.

Trong nghiên cứu của Trương Minh Đức (2011) và Dinibutun (2012), tháp nhu cầu của Maslow được phát triển để tạo động lực cho người lao động trong môi trường tổ chức Các tác giả xác định rằng năm cấp bậc nhu cầu của con người là những biến độc lập, và họ đã cụ thể hóa các yếu tố trong tháp nhu cầu này để hiểu rõ hơn về động lực làm việc của nhân viên.

Nội dung tổng quát Phát triển của Trương Phát triển của Nhu cầu theo học thuyết của

Nhu cầu sinh hoạt cơ bản của con người bao gồm thức ăn, nước uống và giấc ngủ, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sức khỏe và năng suất lao động Thu nhập từ lương, đặc biệt là tiền lương học cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống và khả năng đáp ứng các nhu cầu thiết yếu Điều kiện sống và làm việc thoải mái, cùng với sự quan tâm từ cấp trên đối với nơi ăn uống, tạo ra môi trường làm việc tích cực, giúp nâng cao hiệu quả công việc và sự hài lòng của người lao động.

Nhu cầu an toàn An toàn, an ninh, sự ổn - Đảm bảo điều kiện an toàn - Điều kiện làm việc an định, sự bảo vệ khi làm việc toàn

- Áp lực trong công việc - Phúc lợi của công ty

- Cơ sở vật chất và các điều - Sự an toàn của công kiện cần thiết phục vụ công việc việc

Nhu cầu xã hội về tình yêu và cảm giác gắn kết trong các mối quan hệ đồng nghiệp là rất quan trọng Sự kết nối trong nhóm không chỉ mang lại cảm giác thân thiết mà còn tạo ra một môi trường làm việc tích cực Quan hệ tốt đẹp với cấp trên và sự quản lý thân thiện cũng góp phần nâng cao tinh thần làm việc và sự hài lòng của nhân viên.

- Quan hệ với đối tác - Sự hợp tác chuyên nghiệp

Nhu cầu về sự tự trọng và kính trọng trong môi trường làm việc rất quan trọng, bao gồm việc được công nhận bởi tập thể và có danh tiếng, địa vị Sự ghi nhận từ cấp trên và vị trí công việc cũng góp phần tạo nên sự thừa nhận cần thiết, cùng với sự khuyến khích từ lãnh đạo, giúp nâng cao địa vị cá nhân trong cơ quan.

- Sự phản hồi từ chính công việc

Nhu cầu tự thể hiện ngày càng tăng, thúc đẩy sự phát triển và thăng tiến trong công việc Người lao động có thể chủ động đối mặt với những thử thách, thể hiện sự sáng tạo trong công việc được giao Điều này không chỉ mang lại cơ hội để phát triển bản thân mà còn góp phần tạo ra những ý tưởng mới và giá trị cho tổ chức.

- Cơ hội được bồi dưỡng - Thành tích trong công việc nâng cao trình độ - Sự thăng tiến trong tổ chức

- Tạo điều kiện phát huy kiến thức chuyên môn

Nguồn: Tổng hợp từ Trương Minh Đức (2011), Dinibutun (2012)

Theo lý thuyết nhu cầu của Maslow, nhân viên sẽ làm việc hiệu quả khi họ nhận thấy kết quả công việc đáp ứng được nhu cầu của bản thân Trong lĩnh vực kiểm toán, kiểm toán viên (KTV) đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập bằng chứng để hình thành báo cáo kiểm toán (BCKT) Chất lượng kiểm toán (CLKT) phụ thuộc vào khả năng KTV trong việc thu thập đầy đủ và chính xác các bằng chứng, cũng như việc họ có bỏ sót sai sót trọng yếu hay không Động lực để KTV duy trì tính độc lập, khách quan và chuyên nghiệp trong công việc đến từ việc nhận thức rằng nỗ lực của họ sẽ thỏa mãn những nhu cầu cá nhân, đặc biệt là nhu cầu tự khẳng định bản thân thông qua sự phát triển và sáng tạo Do đó, nhu cầu của KTVNN ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi và quyết định chất lượng kiểm toán.

2.2.2 Lý thuy ế t v ề th ể ch ế c ủ a Douglas North

Douglas North, một trong những người tiên phong trong học thuyết kinh tế về thể chế, định nghĩa thể chế là "những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội" Thể chế là tập hợp các ràng buộc do con người tạo ra nhằm điều chỉnh và định hình các tương tác xã hội Vai trò của thể chế là cung cấp cấu trúc cho hoạt động, giúp giảm thiểu sự bất trắc trong các tương tác hàng ngày Ngoài ra, thể chế còn hướng dẫn sự tương tác giữa con người trong các hoạt động như mua bán, mở công ty hay kết hôn, với mỗi hoạt động phải tuân theo các quy định khác nhau ở từng nơi Do đó, thể chế xác định và giới hạn các lựa chọn của mỗi cá nhân.

Theo ông, hệ thống thể chế bao gồm hai thành phần chính: thể chế chính thức như luật pháp, quy định và chính sách, và thể chế phi chính thức như tục lệ, quy tắc xử thế, chuẩn mực và văn hóa Các thể chế này có thể được con người sáng tạo ra, như hiến pháp và pháp luật, hoặc tiến hóa theo thời gian qua các tục lệ văn hóa Thể chế đóng vai trò là khung quy định cho các hoạt động tương tác giữa con người, với các vi phạm sẽ bị xử lý bằng hình phạt tương ứng với mức độ nghiêm trọng.

Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một khuôn khổ ổn định, giảm thiểu sự bất định trong các tương tác giữa con người Một môi trường thể chế minh bạch không chỉ thúc đẩy đổi mới mà còn góp phần vào tăng trưởng kinh tế Đối với các tổ chức, thể chế chính thống mang lại sự ổn định cho các mối quan hệ kinh tế, trong khi thể chế không chính thống điều chỉnh hành vi của các cá nhân dựa trên các giá trị được xã hội chấp nhận.

Việt Nam hiện đang trải qua giai đoạn chuyển đổi với một môi trường thể chế phức tạp và hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập, điều này tác động trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.

Chất lượng kiểm toán (CLKT) không chỉ được xác định qua việc tuân thủ các yêu cầu chuyên môn mà còn chịu ảnh hưởng từ kỳ vọng của người sử dụng báo cáo và động lực của kiểm toán viên (KTV) trong việc đảm bảo chất lượng Một nhiệm vụ quan trọng của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là cung cấp số liệu kiểm toán cho Quốc hội nhằm đảm bảo tính minh bạch và bền vững của nền tài chính quốc gia Kỳ vọng của Quốc hội đối với CLKT của KTNN rất lớn, với thể chế chính thức là hành lang pháp lý và thể chế không chính thức là áp lực từ Đảng, Quốc hội và Chính phủ Điều này tạo động lực cho KTNN và KTVNN trong việc nâng cao giá trị báo cáo kiểm toán (BCKT) Lãnh đạo KTNN cần giám sát chặt chẽ hoạt động của bộ máy và hành vi của KTVNN, đồng thời KTVNN cũng cần tự giác đảm bảo tính độc lập, khách quan và liêm chính, giảm thiểu ảnh hưởng từ đơn vị được kiểm toán và tăng cường tự rà soát, kiểm tra kết quả để có BCKT đầy đủ và chính xác cho các đánh giá, kết luận và kiến nghị kiểm toán.

KTNN là cơ quan nhà nước hoạt động theo Luật KTNN, Luật NSNN, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công cùng các văn bản pháp luật liên quan, tạo thành thể chế chính thống Hành lang pháp lý đầy đủ giúp KTVNN thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, đồng thời giúp đơn vị được kiểm toán hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, từ đó phối hợp tốt với KTNN để nâng cao chất lượng kiểm toán Trong quá trình kiểm toán, KTVNN cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định ngành và pháp luật, chịu sự lãnh đạo từ Tổng KTNN, đồng thời chú ý đến chuẩn mực xã hội và văn hóa trong môi trường làm việc.

2.2.3 Lý thuy ế t qu ả n tr ị quan liêu c ủ a Max Weber

Theo Weber (1922), để đạt được mục tiêu, tổ chức cần hoạt động theo hệ thống phân cấp rõ ràng Mọi quyết định trong tổ chức phải hợp pháp và hợp lý, với trách nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên Người đứng đầu tổ chức là đại diện cao nhất, chịu trách nhiệm trước cấp dưới.

Mỗi quyết định trong tổ chức phải rõ ràng, dễ hiểu và hợp lý, tuân thủ chính sách và quy định pháp luật Trong hoạt động của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, tổ chức được cấu trúc từ Tổng KTNN đến từng Kiểm toán viên Nhà nước (KTVNN) KTVNN chịu trách nhiệm trước Tổng KTNN và pháp luật về các kết luận kiểm toán dựa trên bằng chứng thu thập được Mỗi đoàn kiểm toán bao gồm nhiều tổ, với ít nhất ba KTVNN trong mỗi tổ Tổ trưởng và Trưởng đoàn kiểm toán chịu trách nhiệm chung và tổng thể cho hoạt động của đoàn kiểm toán Kiểm toán trưởng KTNN giám sát và chỉ đạo các đoàn kiểm toán, đảm bảo các kiến nghị rõ ràng, khách quan và phù hợp với phát hiện kiểm toán, đồng thời tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước 29 1 Nhóm các nhân tố thuộc về Kiểm toán viên nhà nước

Luận án xác định ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam, dựa trên việc xem xét vấn đề này từ góc độ hành vi và cơ sở lý thuyết Các nhóm nhân tố bao gồm: (i) Nhóm các nhân tố liên quan đến kiểm toán viên nhà nước (KTVNN); (ii) Nhóm các nhân tố thuộc về KTNN; và (iii) Nhóm các nhân tố liên quan đến môi trường thể chế.

Tác giả xem xét vấn đề chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) Việt Nam dựa trên các nghiên cứu hành vi, bao gồm cả những nghiên cứu về CLKT trong khu vực tư Các nghiên cứu này, như của Mazur (2005), Haneef (2013), và Nguyễn Mạnh Cường (2017), cung cấp cái nhìn đa dạng về CLKT Đặc trưng hoạt động của KTNN và nguyên tắc đảm bảo CLKT cũng được xem xét Tác giả nhận thấy rằng các yếu tố liên quan đến kiểm toán viên (KTV), tổ chức thực hiện kiểm toán và các yếu tố bên ngoài, như hành lang pháp lý, đều ảnh hưởng đến CLKT Do đó, các nhân tố thuộc về KTVNN và KTNN được dự đoán sẽ tác động đến CLKT Ngoài ra, môi trường thể chế cũng có ảnh hưởng lớn đến CLKT của KTNN Cuối cùng, cả KTV của KTNN và khu vực tư đều phải tuân thủ quy định pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, và bất kỳ hành vi vi phạm nào dẫn đến bỏ sót gian lận và sai sót trọng yếu đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Tác giả sẽ kiểm định tính đầy đủ và phù hợp của ba nhóm nhân tố thông qua nghiên cứu định tính, cụ thể là phỏng vấn sâu các chuyên gia Sau đó, dữ liệu sẽ được thu thập qua khảo sát trên diện rộng để phục vụ cho phân tích định lượng.

2.3.1 Nhóm các nhân t ố thu ộ c v ề Ki ể m toán viên nhà n ướ c

Theo Rayburn (1996), tính cách có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng cá nhân Kỹ năng và phẩm chất của lãnh đạo cùng với sự đào tạo của nhân viên kiểm toán là những yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực kiểm toán.

Carcello và cộng sự (1992) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa chất lượng kiểm toán (CLKT) và sự hài lòng của khách hàng, khảo sát 264 kiểm soát viên và 120 nhà đầu tư để xác định các thuộc tính liên quan đến CLKT Tác giả đã rút ra 12 nhân tố CLKT, như kinh nghiệm, chuyên môn, và khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, nhưng chưa xác định rõ nhân tố nào ảnh hưởng đến sự hài lòng Tiếp nối nghiên cứu này, Behn và cộng sự (1997) phát hiện 6 trong số 12 nhân tố của Carcello có tác động trực tiếp đến sự hài lòng của khách hàng Kym, B và cộng sự (2008) đã tiến hành một nghiên cứu trên 235 chuyên gia tài chính và 35 kiểm toán viên để xác định các nhân tố CLKT ảnh hưởng đến sự hài lòng của người sử dụng thông tin trong bối cảnh đấu thầu dịch vụ kiểm toán Họ giả thuyết rằng các công ty kiểm toán lớn có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng cao hơn do phân cấp trách nhiệm cao hơn Kym và cộng sự cũng tách thuộc tính "sự tuân thủ CMKT" thành 3 nhân tố riêng biệt, gồm năng lực kỹ thuật, tính độc lập và sự chăm sóc khách hàng Kết quả phân tích đã chỉ ra 14 nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.

Bài viết nêu rõ 48 tiêu chí quan trọng trong đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm toán, bao gồm chuyên môn ngành, kinh nghiệm hội đồng, năng lực kỹ thuật, duy trì tính độc lập, tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức và sự quan tâm của lãnh đạo công ty kiểm toán Những thuộc tính ít quan trọng hơn như sự hoài nghi nghề nghiệp, quan điểm mới mẻ, quy mô công ty và dịch vụ phi kiểm toán cũng được đề cập Nghiên cứu của Kym và cộng sự (2008) khẳng định rằng các yếu tố liên quan đến kiểm toán viên như chuyên môn, kinh nghiệm, năng lực, tính độc lập và tuân thủ đạo đức có tác động tích cực đến chất lượng kiểm toán.

Dựa trên nghiên cứu của Carcello và cộng sự (1992) cùng một số công bố liên quan, tác giả Kilgore và cộng sự (2014) đã tiến hành kiểm tra nhận thức về kiểm soát nội bộ của hai nhóm: các thành viên trong nhóm kiểm toán và ban kiểm toán.

Nghiên cứu được thực hiện với sự tham gia của 39 chủ tịch và thành viên ủy ban kiểm toán cùng 42 nhà phân tích tài chính, thông qua bảng câu hỏi khảo sát để thu thập dữ liệu Dữ liệu sau đó được phân tích bằng phương pháp phân tích liên hợp thích ứng Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều nhận thức được tầm quan trọng của các yếu tố như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và hiểu biết của nhóm kiểm toán/KTV trong việc đánh giá chất lượng kiểm toán (CLKT) Tuy nhiên, mức độ quan trọng của một số thuộc tính cụ thể lại khác nhau giữa các đối tượng tham gia.

Nghiên cứu của Krohmer và Noël (2010) chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa các đặc tính thuộc về kiến thức, thái độ và hành vi (KTV) với chất lượng công việc (CLKT) Đạo đức nghề nghiệp được xác định là yếu tố quan trọng quyết định đến CLKT, do đó cần được đánh giá và xem xét trong các hoạt động nhân sự như tuyển dụng, đào tạo và phát triển sự nghiệp.

Để nâng cao chất lượng kiểm toán, các cơ quan kiểm toán cần tập trung vào việc cải thiện đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Nghiên cứu của Baotham (2009) chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa tính độc lập của kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán Bên cạnh đó, chất lượng kiểm toán cũng ảnh hưởng đáng kể đến thành công và uy tín của tổ chức Nghiên cứu của Cheng và cộng sự (2009) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa nguồn lực con người và chất lượng kiểm toán, với trình độ học vấn, kinh nghiệm và chuyên môn trong ngành đều có tác động đến chất lượng kiểm toán.

Bùi Thị Thủy (2013) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố tác động đến chất lượng kiểm toán tại các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, dựa trên khảo sát 546 kiểm toán viên từ 42 công ty kiểm toán độc lập, trong đó thu về 138 phiếu hợp lệ Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên công bố của Kym.

B và cộng sự (2008) có điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu Kết quả phân tích trên phần mềm SPSS cho thấy, nhóm nhân tố thuộc về KTV như kinh nghiệm, chuyên nghiệp, áp lực, độc lập, trình độ có ảnh hưởng cao nhất đến CLKT.

Trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước (KTNN), Luật KTNN và các quy định liên quan (CMKTNN số 30 và số 40) quy định rõ ràng về trình độ và chuyên môn của kiểm toán viên nhà nước (KTVNN), đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp và tính độc lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán Việc tuân thủ các quy định về đạo đức nghề nghiệp và kiểm soát chất lượng kiểm toán là điều kiện tiên quyết cho một cuộc kiểm toán hiệu quả Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường (2017) về chất lượng kiểm toán nhà nước đã chỉ ra rằng các yếu tố như sự tinh thông nghề nghiệp, thời gian kiểm toán và thái độ nghề nghiệp của KTVNN có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng kiểm toán tại Việt Nam.

Tóm lại, các nhân tố thuộc về KTVNN ảnh hưởng đến CLKT xác định đưa vào nghiên cứu của luận án gồm:

(5) Tuân thủ chuẩn mực nghề nghiệp và các hướng dẫn kỹ thuật chuyên môn;

(7) Sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.

Trên cơ sở kế thừa bộ thang đo của các nghiên cứu chủ đạo như Kym, B và cộng sự

Các nghiên cứu của Bùi Thị Thủy (2013), Nguyễn Mạnh Cường (2017) và một số tác giả khác đã điều chỉnh luận án để phù hợp với bối cảnh nghiên cứu về chất lượng kiểm toán (CLKT) của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, với những đặc thù và yêu cầu cụ thể Để đảm bảo độ chính xác, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sơ bộ và phỏng vấn sâu nhằm điều chỉnh bộ thang đo trước khi thực hiện khảo sát rộng rãi và phân tích mô hình hồi quy.

(Chi tiết mô hình nghiên cứu và thang đo sử dụng trong nghiên cứu của một số tác giả tham khảo tại Phụ lục 06/LATS.2020).

2.3.2 Nhóm các nhân t ố thu ộ c v ề Ki ể m toán nhà n ướ c Đối với lĩnh vực kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công do KTNN thực hiện, Hoàng Phú Thọ (2012), Haneef (2013) và Nguyễn Mạnh Cường

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ

Ngày đăng: 19/09/2021, 11:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Arens, A. và Loebbecker, J. (1995), Kiểm toán (bản dịch), Tái bản lần thứ 4, Nhà xuất bản Thống kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm toán (bản dịch)
Tác giả: Arens, A. và Loebbecker, J
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 1995
2. Baotham (2004), 'Audit independence, quality, and credibility: effects on reputation and sustainable success of CPAs in Thailand', International Journal of Business Research, số 9, tập 1, tr.1-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal ofBusiness Research
Tác giả: Baotham
Năm: 2004
4. Behn, B. K., Carcello, J. V., Hermanson, D. R. and Hermanson, R. H. (1997), 'The Determinants of Audit Client Satisfaction among Clients of Big 6 Firms', Accounting Horizons, Vol. 11, Iss. 1, (Mar 1997): 7-24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Accounting Horizons
Tác giả: Behn, B. K., Carcello, J. V., Hermanson, D. R. and Hermanson, R. H
Năm: 1997
7. Bùi Thị Thủy (2013), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểmtoán báo cáo tài chính các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoánViệt Nam
Tác giả: Bùi Thị Thủy
Năm: 2013
8. Carcello, J. V., Hermanson, R. H. and N. T. McGrath (1992), 'Audit Quality Attributes: The Perceptions of Audit Partners, Preparers, and Financial Statement Users, Auditing', A Journal of Practice and Theory, số 11, tập 1, tr. 1-15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Journal of Practice and Theory
Tác giả: Carcello, J. V., Hermanson, R. H. and N. T. McGrath
Năm: 1992
9. Christiansen, Ó. (2011), 'Rethinking ‘quality’ by classic grounded theory', International Journal of Quality and Service Sciences, số 3, tập 2, tr. 199-210 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Quality and Service Sciences
Tác giả: Christiansen, Ó
Năm: 2011
10. Costin, H. (1994), 'Readings in total quality management’, Dryden press, Orlando Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dryden press
Tác giả: Costin, H
Năm: 1994
11. Công an nhân dân, 4 cán bộ Kiểm toán nhà nước nhận hối lộ bị bắt, truy cập ngày 11 tháng 02 năm 2021 từ http://cand.com.vn/Kinh-te/4-can-bo-Kiem-toan-Nha-nuoc-nhan-hoi-lo-bi-bat-96846/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: 4 cán bộ Kiểm toán nhà nước nhận hối lộ bị bắt
12. Cronbach, L. J. (1951), 'Coefficient alpha and the internal structure of tests' Psychometrika, 16, 297-334 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Psychometrika
Tác giả: Cronbach, L. J
Năm: 1951
13. DeAngelo, L. E. (1981), 'Auditor Size and Audit Quality', Journal of Accounting and Economics, số 3, tr. 183-199 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accounting and Economics
Tác giả: DeAngelo, L. E
Năm: 1981
14. DeFond, M. and Zhang, Z. (2014), 'A review of archival auditing research', Journal of Accounting and Economics, số 58, tập 2, tr. 275-326 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accounting and Economics
Tác giả: DeFond, M. and Zhang, Z
Năm: 2014
15. Denibutun, S. R. (2012), 'Work Motivation: Theoretical Framework', Journal on GSTF Business Review, số 1, tập 4, tr. 133-139 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal on GSTF Business Review
Tác giả: Denibutun, S. R
Năm: 2012
16. Đoàn Xuân Tiên (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Kiểm toán nhà nước Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty kiểmtoán độc lập ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Đoàn Xuân Tiên
Năm: 2008
17. Donald, R., Deis, Jr. and Gary, A. G. (1992), 'Determinants of Audit Quality in the Public Sector', The accounting review, số 67, tập 3, tr. 462-479 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The accounting review
Tác giả: Donald, R., Deis, Jr. and Gary, A. G
Năm: 1992
18. Dwyer, P. D. and Wilson, E. R. (1989), 'An empirical investigation of factors affecting the timeliness of reporting by municipalities', Journal of Accounting and Public Policy, số 8, tr. 29-55 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Accountingand Public Policy
Tác giả: Dwyer, P. D. and Wilson, E. R
Năm: 1989
19. Francis, J.R. (2004), 'What do we know about audit quality?', The British Accounting Review, số 36, tr. 345-368 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The British Accounting Review
Tác giả: Francis, J.R
Năm: 2004
20. Francis, J. R. (2011), 'A Framework for Understanding and Researching Audit Quality', A Journal of Practice and Theory, tr. 125 – 152 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Journal of Practice and Theory
Tác giả: Francis, J. R
Năm: 2011
21. Gendron, Y. (2009), Discussion of ‘The audit committee oversight process’:Advocating openess in accounting research”, Contemporary accounting research, số 26, tập 1, tr. 123-134 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Contemporary accountingresearch
Tác giả: Gendron, Y
Năm: 2009
22. Gryna, F. M.; Chua, Richard, C.H.; Defeo, J. A. (2007), Juran’s Quality Planning and Analysis, truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2018 từhttps://secure.asq.org/perl/msg.pl?prvurl=http://asq.org/2007/01/leadership/jura ns-quality-planning-analysis-for-enterprise-quality-fifth-edition-chapter-1.pdf?ct=full Sách, tạp chí
Tiêu đề: Juran’s Quality Planningand Analysis
Tác giả: Gryna, F. M.; Chua, Richard, C.H.; Defeo, J. A
Năm: 2007
23. Hà Thị Ngọc Hà (2011), Các giải pháp hoàn thiện, tăng cường kiểm soát chất lượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính các đơn vị có lợi ích công chúng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các giải pháp hoàn thiện, tăng cường kiểm soát chấtlượng công tác kiểm toán báo cáo tài chính các đơn vị có lợi ích công chúng
Tác giả: Hà Thị Ngọc Hà
Năm: 2011

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w