Tăng trưởng kinh tế
Trong 6 tháng đầu năm 2015, GDP ước tính tăng 6,28% so với cùng kỳ năm 2014, với quý 1 tăng 6,08% và quý 2 tăng 6,44% Cụ thể, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,36% (đóng góp 0,42 điểm phần trăm), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,09% (đóng góp 2,98 điểm phần trăm), và khu vực dịch vụ tăng 5,90% (đóng góp 2,22 điểm phần trăm) Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 6 năm qua, nhưng không đồng đều giữa các khu vực Khu vực công nghiệp và xây dựng có sự đột phá, đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo với mức tăng 9,95% (đóng góp 1,57 điểm phần trăm), trong khi khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chỉ tăng trưởng 2,36%, thấp hơn mức 2,96% của cùng kỳ năm 2014.
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 2: Cơ cấu nền kinh tế 2015H1
Trong những tháng đầu năm, nguồn cầu không ổn định từ các thị trường tiêu thụ chính đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và thủy sản, khiến hoạt động chỉ ở mức cầm chừng Chính sách đầu tư và hỗ trợ hiện tại chưa đủ mạnh để giúp nông nghiệp, nông thôn và nông dân vượt qua những cú sốc thị trường Hơn nữa, sự chậm trễ trong tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp và ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ cũng là nguyên nhân khiến nhiều loại nông sản chưa phát huy được tiềm năng.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt và sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính Ngành thủy sản cũng đối mặt với thách thức tương tự, đặc biệt là sự sụt giá của đồng Euro ảnh hưởng đến tiêu thụ Mặc dù lâm nghiệp có mức tăng trưởng khá, nhưng chỉ chiếm dưới 3% giá trị toàn khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, không đủ để cải thiện tốc độ tăng trưởng chung Đồng thời, lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là du lịch, cũng ghi nhận sự giảm sút đáng kể trong nửa đầu năm.
2015 khách quốc tế đến Việt Nam đạt 3,8 triệu lượt người, giảm 11,3% so với cùng kỳ năm
Nông lâm nghiệp & thủy sản 2.36 % 2.96 %
Dịch vụ 5.9 % 6.01 % Đồ thị 3: Chỉ số sản xuất công nghiệp &
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 4: Chỉ số PMI Việt Nam
Các chỉ số sản xuất, tiêu dùng đều tăng tích cực, cụ thể:
Chỉ số PMI trong nửa đầu năm cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của ngành sản xuất trong nước, với mức cao liên tục Đặc biệt, tháng 5/2015 ghi nhận PMI đạt kỷ lục 54,8 điểm, là mức cao nhất từ trước đến nay Đến tháng 6, chỉ số này vẫn duy trì ở mức 52,2 điểm, thể hiện sự ổn định trong lĩnh vực sản xuất.
22 tháng mở rộng liên tục (trên 50 điểm) của chỉ số này kể từ tháng 08/2013
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trong 6 tháng đầu năm đã tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, với mức tăng 9,3% trong quý 1 và 10,2% trong quý 2, vượt trội hơn so với mức tăng của cùng kỳ trong 4 năm gần đây.
Chỉ số SXCN Tổng mức bán lẻ (điều chỉnh giá) 40
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 6 tháng ước đạt 1.572,1 nghìn tỷ đồng, ghi nhận mức tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước Khi loại trừ yếu tố giá, mức tăng thực tế đạt 8,3%, cao hơn so với mức tăng của nhiều năm gần đây.
Lạm phát
Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 0,55% so với cuối năm 2014, tương đương với mức tăng 1% so cùng kỳ năm trước Đây là mức lạm phát thấp nhất trong 14 năm qua.
Trong 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có sự biến động tương đối sát với giá dầu thô thế giới và giá xăng, dầu trong nước Trong hai tháng đầu năm, CPI giảm nhẹ do giá xăng, dầu trong nước hạ xuống mức thấp nhất Tuy nhiên, từ tháng 3 đến tháng 5, CPI bắt đầu tăng trở lại với mức trung bình 0,15% mỗi tháng khi giá dầu thế giới phục hồi lên 60 USD/thùng, dẫn đến việc điều chỉnh tăng giá xăng, dầu trong nước Tháng 6 ghi nhận sự tăng CPI mạnh nhất với mức tăng 0,35% do ảnh hưởng từ các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu Tính trung bình, CPI trong 6 tháng đầu năm tăng 0,1%, là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua.
Lạm phát thấp trong năm nay không phải do tổng cầu giảm, mà do giá xăng dầu giảm khoảng 5% so với cuối năm 2014, mặc dù có nhiều lần tăng/giảm giá trong 6 tháng đầu năm Các ngành chức năng cũng đã thực hiện hiệu quả công tác bình ổn giá, đảm bảo cung ứng đầy đủ nhu cầu thị trường, đặc biệt trong các dịp lễ tết như Tết Nguyên đán và Lễ 30/4 & 1/5.
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 6: Diễn biến CPI năm (2005 – 2015Q2)
CPI theo tháng (trái) CPI theo năm (phải)
5 Đồ thị 7: Mức tăng/giảm các nhóm hàng
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 8: Đóng góp của các nhóm hàng 2015H1
Diễn biến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Tình hình thu hút FDI trong 2015H1 xét trên tổng thể có những điểm nổi bật sau:
Trong quý 1 vừa qua, không có dự án FDI lớn nào tạo dấu ấn, dẫn đến việc giá trị FDI đăng ký giảm mạnh Mặc dù số lượng dự án đăng ký cấp mới và tăng vốn đã tăng hơn 200% so với cùng kỳ năm 2014, tổng vốn FDI đăng ký chỉ đạt 1,84 tỷ USD, giảm 45% so với năm trước.
Mặc dù FDI đăng ký trong quý 2/2015 đã cải thiện đáng kể so với quý trước, nhưng tốc độ thu hút vốn mới vẫn chậm hơn so với năm trước Cụ thể, Việt Nam đã thu hút 3,65 tỷ USD trong quý 2/2015, gấp đôi quý 1/2015 và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2014 Tính đến hết 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt khoảng 5,5 tỷ USD, tương đương hơn 80% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong quý 2/2015, FDI tại Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng tích cực với vốn giải ngân đạt 3,25 tỷ USD, tăng 6,6% so với quý 1/2015 và hơn 12% so với cùng kỳ năm 2014 Tính chung trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI giải ngân đạt 6,3 tỷ USD, tăng 9,6% so với năm trước.
Trong quý 1/2015, có 16 ngành và lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng 2 ngành so với cùng kỳ Ngành công nghiệp, chế biến, chế tạo dẫn đầu với 76% tổng số vốn đầu tư đăng ký Bất động sản và bán buôn, bán lẻ, sửa chữa lần lượt đứng thứ hai và ba, chiếm 8,5% và 5% tổng vốn đầu tư.
Một số dự án lớn được cấp phép trong quý 1/2015 là:
Dự án Worldon, 300 triệu USD, British Virgin Islands, HCM, may mặc cao cấp;
Hàng hoá và dịch vụ khác
May mặc mũ nón giầy dép
Văn hoá giải trí và du lịch Đồ uống và thuốc lá
Nhà ở và vật liệu xây dựng (*)
Thiết bị và đồ dùng gia đình
Thuốc và dịch vụ y tế
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống Giao thông May mặc Nhà ở, VLXD Đồ dùng GĐ
Thuốc và dịch vụ y tế
Văn hóa giải trí du lịch
Dự án KMW, 100 triệu USD, Hà Quốc, Hà Nam, thiết bị viễn thông sử dụng vô tuyến điện, thiết bị đèn LED chiếu sáng;
Dự án Regina Miracle International, tăng vốn 90 triệu USD, Hồng Kông, Hải Phòng, sản xuất quần áo lót nữ;
Dự án Vina Nam Phú, 60,9 triệu USD, Singapore, Hồ Chí Minh, kinh doanh bất động sản
Một số dự án lớn được cấp phép trong quý 2/2015 là:
Dự án Hyosung, 660 triệu USD, Thổ Nhĩ Kỳ, Đồng Nai, sản xuất và gia công các loại sợi;
Dự án nhà máy sợi vải màu Lu Thai, 160,8 triệu USD, Hồng Kông, Tây Ninh, sản xuất sợi, vải màu;
Dự án Điện gió Trà Vinh 1, 120 triệu USD, Hàn Quốc, Trà Vinh, sản xuất điện từ năng lượng gió cung cấp điện vào lưới điện quốc gia
Trong nửa đầu năm 2015, vốn FDI đăng ký mới giảm xuống mức thấp nhất trong 4 năm qua, với các năm trước đó thu hút lần lượt 6,4 tỷ USD, 10,5 tỷ USD và 6,8 tỷ USD Sự chững lại đột ngột của dòng vốn FDI diễn ra trong năm Việt Nam hội nhập, khi các nhà đầu tư nước ngoài đang chờ đợi kết quả cuối cùng về chính sách và cải thiện môi trường đầu tư Đồng thời, Việt Nam cũng trải qua những biến chuyển vĩ mô quan trọng, như Đại hội toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 2016, có tác động lớn đến viễn cảnh kinh tế và chính sách đối ngoại, cùng với việc ban hành nhiều bộ luật và nghị định mới ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, như Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Nửa đầu năm 2015, Việt Nam ghi nhận sự thiếu vắng các dự án đầu tư lớn, điều này tạo ra sự khác biệt đáng kể trong việc thu hút đầu tư nước ngoài so với cùng kỳ năm 2014 Mặc dù số lượng dự án mới và dự án tăng vốn có sự gia tăng, tổng vốn thu hút vẫn giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt 5,5 tỷ USD Con số này thấp hơn nhiều so với dự báo FDI 18 tỷ USD và mục tiêu 23 tỷ USD của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
7 Đồ thị 9: Vốn FDI (tỷ USD) (2014Q2 –2015Q2) Đồ thị 10: Cơ cấu lĩnh vực đầu tư FDI (lũy kế đến 20/03/2015)
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 11: Quy mô vốn FDI theo đối tác lũy kế đến 20/06/2015 (tỷ USD)
Trong quý 2 năm 2015, Việt Nam đã thu hút thêm 15 quốc gia đầu tư, nâng tổng số quốc gia đầu tư vào Việt Nam lên 48 Hàn Quốc dẫn đầu với số vốn đầu tư 1,5 tỷ USD, tiếp theo là quần đảo Virgin với gần 0,7 tỷ USD, và Thổ Nhĩ Kỳ.
(gần 0,7 tỷ USD) Đồ thị 12: Quy mô vốn FDI theo địa phương lũy kế đến 20/06/2015 (tỷ USD)
Thương mại xuất nhập khẩu
Tiêu điểm tình hình xuất nhập khẩu quý 2 và 6 tháng 2015 như sau:
Cán cân thương mại Việt Nam trong quý 2 ghi nhận thâm hụt 1,95 tỷ USD, đánh dấu quý thứ hai liên tiếp thâm hụt Tính chung 6 tháng đầu năm, thâm hụt cán cân thương mại đạt 3,75 tỷ USD, tương đương 4,8% kim ngạch xuất khẩu Sự sụt giảm này chủ yếu do giá trị nhập siêu trong nước ước khoảng 9,8 tỷ USD.
CN chế biến,chế tạo
Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa
SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa
Vốn đăng ký Vốn bổ sung Tổng vốn đăng ký và cấp bổ sung
Vốn đăng ký cấp mớiVốn đăng ký tăng thêmVốn đăng ký cấp mới và tăng thêm
Trong quý gần đây, Việt Nam ghi nhận tình trạng nhập siêu gia tăng, với giá trị nhập siêu đạt 3,9 tỷ USD, không thể bù đắp cho giá trị xuất siêu của khu vực FDI Điều này cho thấy xu hướng nhập siêu đang có chiều hướng tăng lên so với quý trước.
Trong quý 2/2015, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 42 tỷ USD, tăng 17,6% so với quý trước Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 77,7 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2014 Đặc biệt, khối doanh nghiệp FDI đóng góp gần 68% vào tổng kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu đạt 44 tỷ USD trong quý, tăng 17,3% so với quý 1/2015
Lũy kế 6 tháng, Việt Nam nhập khẩu 81,5 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm
2014 Khối FDI nhập khẩu phần nhiều hơn với giá trị 48,8 tỷ USD, tương đương gần
60% tổng kim ngạch nhập khẩu Đồ thị 13: Xuất nhập khẩu & Cán cân thương mại (tỷ USD) (2014M6 –2015M6)
Nguồn: GSO, BSC Đồ thị 14: Thị trường xuất khẩu (tỷ USD)
Khối doanh nghiệp FDI tiếp tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong quý
Trong tháng 2 và 6 tháng đầu năm 2015, nhóm hàng công nghiệp chế biến đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định tổng kim ngạch xuất khẩu Hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chế biến gia công, dựa vào nguồn lao động giá rẻ, trong khi số lượng mặt hàng có giá trị cao vẫn còn hạn chế.
Mặc dù khu vực xuất siêu là chủ đạo, nhưng các doanh nghiệp FDI chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu từ quốc gia của họ hoặc từ các công ty trong cùng hệ thống, dẫn đến việc lợi ích thực tế từ khối FDI đối với kinh tế Việt Nam không được phát huy tối đa.
Việt Nam đang đối mặt với hạn chế trong việc xuất khẩu, đặc biệt là nhóm hàng nông lâm thủy sản, nguyên nhiên liệu và khoáng sản, khi kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2014 Điều này phản ánh yếu điểm của nền kinh tế, khi các ngành công nghiệp chính còn yếu kém, trong khi các ngành công nghiệp phụ trợ, mặc dù có tiềm năng lớn để khai thác sức mạnh từ khu vực FDI, lại thiếu phát triển.
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Hoa Kỳ EU ASEAN Trung
Nhập khẩu tại Việt Nam đã tăng cao do nhu cầu mạnh mẽ về nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, gia công và tiêu dùng Các mặt hàng chủ yếu được nhập khẩu bao gồm máy móc và nguyên liệu cho sản xuất, gia công xuất khẩu Đồng thời, nhu cầu tiêu dùng gia tăng, đặc biệt là trong các mặt hàng ô tô, phụ kiện phương tiện vận tải và máy tính, đã có tác động đáng kể đến kim ngạch nhập khẩu trong quý 2.
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong quý 2 đã tăng so với quý 1 nhờ vào việc điều chỉnh tỷ giá lần thứ hai vào tháng 5 Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất phục vụ xuất khẩu cũng đã trở lại quỹ đạo bình thường sau thời gian lễ tết dày đặc trong quý 1.
Trong quý 2, hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như điện thoại, giày dép và thủy sản có diễn biến tích cực, trong khi tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng, khoáng sản và công nghiệp nhẹ giảm nhẹ xuống còn 81,5% so với 86% trong quý 1/2015 Một số mặt hàng công nghiệp ghi nhận mức giảm mạnh, như cao su (-21%), than đá (-52%), sắt thép (-9%) và dây cáp (-13%) Ngược lại, tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản cải thiện đáng kể, đặc biệt là các mặt hàng gạo, hạt điều và hạt tiêu.
Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu đang có những biến động rõ rệt, với tỷ trọng nhóm hàng tiêu dùng ngày càng gia tăng Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng tư liệu sản xuất và nguyên nhiên vật liệu giảm xuống còn 47% và 41% Mặc dù vậy, nhóm hàng tư liệu sản xuất vẫn chiếm ưu thế lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Trong nửa đầu năm 2015, xuất khẩu của Việt Nam sang EU và Hoa Kỳ đạt gần 30,5 tỷ USD, chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu, mặc dù tỷ lệ này đã giảm so với hơn 50% trong quý 1 Đồng thời, Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam với giá trị nhập siêu lên tới 24,4 tỷ USD, tương đương 30% tổng kim ngạch nhập khẩu trong cùng thời gian.
10 Đồ thị 15: Top 10 mặt hàng xuất khẩu
2015Q2 (tỷ USD) Đồ thị 16: Top 10 mặt hàng nhập khẩu 2015Q2 (tỷ USD)
Nguồn: GSO, BSC Đánh giá tình hình nhập siêu:
Việt Nam đang nhập siêu trở lại năm đầu tiên sau 3 năm qua Trong 3 năm 2011-2014, nhờ
Tốc độ xuất khẩu của khối FDI và nhóm hàng thế mạnh như nông lâm thủy sản, nhiên liệu khoáng sản đã tăng trưởng nhanh, giúp cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong ba năm liên tiếp, đồng thời bồi đắp tích cực cho dự trữ ngoại hối Tuy nhiên, vào năm 2015, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu giảm do giá trị USD tăng, làm cho VND kém cạnh tranh hơn so với các đồng tiền khác Xuất khẩu sang thị trường châu Âu cũng không đạt mức tăng trưởng tốt do EUR giảm mạnh, khiến hàng hóa Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn Bên cạnh đó, nhập khẩu nguyên liệu, máy móc phục vụ sản xuất xuất khẩu gia tăng, dẫn đến tình trạng nhập siêu trong nửa đầu năm 2015.
Dệt may Điện tử máy tính
Máy móc, thiết bị khác
PT vận tải & phụ tùng
Máy móc, thiết bị Điện tử, máy tính
Vải Điện thoại, linh kiện
Sắt thép Ô tô Xăng dầu
NPL dệt may giày dép
11 Đồ thị 17: Tương quan các cặp tỷ giá (2013Q1 – 2015Q2)
Hiện tại, tình trạng nhập siêu không quá nghiêm trọng so với giai đoạn 2007-2010, khi mức nhập siêu đạt hai con số Tuy nhiên, vấn đề này vẫn cần được chú ý, vì nhập siêu ở mức cao và kéo dài có thể gây ra những tác động phức tạp và tiêu cực đến nền kinh tế cũng như việc điều hành chính sách tiền tệ.
Nhập siêu kéo dài ở mức cao gây bất ổn cho cán cân thanh toán quốc gia, tạo áp lực dư cầu ngoại tệ và tiềm ẩn rủi ro về tỷ giá Điều này dẫn đến áp lực suy giảm ngoại hối khi Ngân hàng Nhà nước phải bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thị trường Hệ quả của nhập siêu còn làm tăng biến động chi tiêu ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, gây khó khăn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ dài hạn Các mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng trở nên khó khăn hơn do ảnh hưởng lớn từ giá hàng hóa nhập khẩu, trong khi lãi suất biến động phức tạp và thường ở mức cao, gây bất lợi cho nền kinh tế trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng.
Vietnam Dong Thailand Baht Philippines Peso Malaysia Ringgit
Indonesia Rupiah India Rupee Euro Japan Yen
Thị trường ngoại hối, tỷ giá
Diễn biến nổi bật về tỷ giá trong 2015Q2 theo trình tự thời gian:
Vào tháng 4 năm 2015, tỷ giá USD/VND duy trì ở mức gần trần, với tỷ giá tự do và liên ngân hàng lần lượt đạt 21.650 VND/USD và 21.593 VND/USD Biên độ tỷ giá trần/sàn cho phép thời điểm đó dao động trong khoảng 21.243 – 21.673 VND/USD.
Vào tháng 5/2015, tỷ giá USD/VND đã có sự biến động mạnh mẽ, đạt đỉnh vào ngày 7/5/2015 Trong cùng ngày, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã quyết định điều chỉnh tỷ giá, phá giá đồng VND 1%, đưa tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 21.673 VND/USD từ mức 21.458 VND/USD trước đó Biên độ giao dịch mới cho cặp USD/VND được thiết lập trong khoảng 21.456 – 21.890 VND/USD.
Tỷ giá USDVND liên ngân hàng giảm đột ngột rồi nhanh chóng tăng mạnh lên vùng 21.765 – 21825 VND/USD trong phần còn lại tháng 5
Vào tháng 6 năm 2015, tỷ giá hối đoái đã giữ ổn định, dao động trong khoảng hẹp gần với mức trần cho phép Cụ thể, tỷ giá bình quân liên ngân hàng nằm trong khoảng từ 21.805.
21.840 VND/USD trong khi tỷ giá tự do giao dịch trong biên độ 21.820 – 21.870 VND/USD
Vào nửa cuối quý 1, tỷ giá tăng lên do giá USD trên thị trường ngoại hối quốc tế tăng mạnh, chủ yếu do diễn biến tăng lãi suất.
USD của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) đã tăng giá mạnh mẽ trong bối cảnh kinh tế Hoa Kỳ có dấu hiệu phục hồi tích cực từ khi kết thúc gói nới lỏng định lượng QE vào tháng 10/2014 Sự kỳ vọng về việc FED sẽ nâng lãi suất sớm đã thu hút dòng tiền đầu tư vào đồng USD, tạo áp lực lên tỷ giá trên thị trường ngoại hối Việt Nam, với giá USD tự do đạt mức 21.810 VND/USD giữa tháng 3 vừa qua.
Trong quý 1/2015, xu hướng giá USD toàn cầu chủ yếu ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND Tuy nhiên, vào quý 2, hai yếu tố mới nổi lên: (i) tỷ giá USD/VND tự do tăng cao và (ii) lo ngại về thâm hụt thương mại năm 2015, đã tác động mạnh mẽ đến sự gia tăng giá trị của đồng USD Mặc dù chỉ số USD-Index thể hiện sức mạnh của đồng USD, nhưng những yếu tố nội tại này đã tạo ra biến động đáng kể trong thị trường ngoại hối Việt Nam.
Từ đầu tháng 4, USD trên thị trường ngoại hối toàn cầu đã giảm, trong khi giá USD nội địa lại tăng Sự lo ngại về việc dự trữ ngoại hối giảm do nhập siêu tái diễn từ quý 1/2015 đã khiến thị trường kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước sẽ sớm điều chỉnh thêm 1% dư địa còn lại trong năm.
2015 Giá USD tự do theo đó tăng cao, gây áp lực đối với tỷ giá liên ngân hàng
13 Đồ thị 18: Diễn biến tỷ giá (2014Q3 – 2015Q2)
Ngân hàng – Lãi suất
Nửa đầu năm 2015, hệ thống ngân hàng có nhiều diễn biến đáng chú ý, trong đó:
Trong 6 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng đạt 6,28% so với cuối năm 2014, gần gấp đôi so với mức tăng 3,72% của cùng kỳ năm trước, cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước đang khởi sắc và nhu cầu vốn gia tăng Bên cạnh đó, kênh cạnh tranh với tín dụng là trái phiếu trở nên kém hấp dẫn do lãi suất thấp và thời hạn trái phiếu dài (trên 5 năm) Trong khi đó, tăng trưởng huy động vốn chỉ đạt 4,58%, thấp hơn mức tăng 5,26% của cùng kỳ năm trước.
Thanh khoản hệ thống vẫn ổn định, với mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm nhẹ so với cuối năm 2014 ở hầu hết các kỳ hạn Cụ thể, lãi suất kỳ hạn qua đêm trong tháng 6 giảm 0,29% xuống 3,13%, trong khi kỳ hạn 1 tuần - 2 tuần giảm khoảng 0,2% xuống 3,41% – 3,79% Lãi suất kỳ hạn 1-3 tháng hầu như không đổi, giữ ở mức 4,09% - 4,44%, nhưng kỳ hạn 6 tháng – 1 năm lại tăng 0,17% lên 4,7% - 4,8%.
Dollar Index Tỷ giá tự do Tỷ giá ngân hàng
Tỷ giá SBV Tỷ giá trần/sàn SBV
Lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn (2014 – 2015M6)
Kỳ hạn Cuối 2014 2015M6 Chênh lệch
Tổng phương tiện thanh toán trong năm 2015 tăng 5,09%, thấp hơn mức tăng 6,37% của cùng kỳ năm 2014 Điều này cho thấy mức tăng trưởng cung tiền cả năm 2015 có thể chỉ đạt khoảng 18% - 20%, tương đương với mức tăng của năm trước.
Các mức lãi suất điều hành và trần lãi suất huy động bằng VND, cùng với lãi suất huy động USD và trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND cho các lĩnh vực ưu tiên, đều được giữ ổn định.
Các mức lãi suất điều hành
Lãi suất tái cấp vốn 6,5%
Lãi suất tái chiết khấu 4,5%
Trần LS huy động VND từ 1T – dưới 6T 5,5%
Trần LS huy động VND không kỳ hạn & dưới 1T 5,5%
Tổng phương tiện thanh toán Tăng trưởng %yoy
Trong 6 tháng đầu năm, mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm từ 0,2-0,5%/năm so với cuối năm trước Cụ thể, lãi suất huy động giảm từ 0,3-0,5%/năm tùy theo kỳ hạn, trong khi lãi suất cho vay chỉ giảm nhẹ khoảng 0,2-0,3%/năm Hiện tại, lãi suất cho vay ngắn hạn dao động từ 6-9%/năm và lãi suất cho vay trung và dài hạn nằm trong khoảng 9-11%/năm.
So sánh mức lãi suất huy động các kỳ hạn (2014 – 2015M6)
Kỳ hạn Cuối 2014 2015M6 Chênh lệch
VND không kỳ hạn và dưới 1 tháng 0,8 – 1,0 0,8 – 1,0 0
So sánh mức lãi suất cho vay các kỳ hạn (2014 – 2015M6)
Kỳ hạn Cuối 2014 T6/2015 Chênh lệch
Từ cuối tháng 5 đến tháng 6 năm 2023, lãi suất huy động đã có xu hướng tăng nhẹ từ 0,1 - 0,5%/năm tại một số ngân hàng Cụ thể, ngân hàng Quân đội điều chỉnh lãi suất tăng từ 0,1 - 0,2%/năm, trong khi ACB nâng lãi suất huy động ở các kỳ hạn dài lên 6,2%, 6,5% và 6,7% cho các kỳ hạn 12, 24 và 36 tháng Các ngân hàng như DongAbank và HDBank cũng tăng lãi suất cao hơn, từ 0,2 - 0,5%/năm Agribank và BIDV cũng điều chỉnh lãi suất huy động tăng từ 0,2 - 0,5%/năm cho các kỳ hạn 1 - 3 tháng và 12 tháng Nguyên nhân của sự tăng lãi suất này bao gồm: sự phục hồi kinh tế tạo ra nhiều cơ hội đầu tư, áp lực từ việc bán nợ xấu cho VAMC, nhu cầu điều chỉnh lãi suất để duy trì tính cạnh tranh, và sự mất cân đối giữa tăng trưởng huy động và tín dụng.
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) đã mua 143.800 tỷ đồng nợ xấu từ các tổ chức tín dụng, giúp giảm dư nợ xấu trong hệ thống Theo Nghị định 34, VAMC được tăng vốn điều lệ gấp 4 lần và thực hiện mua bán nợ theo giá trị thị trường Mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là giảm nợ xấu toàn hệ thống xuống dưới 3% vào cuối năm nay, đồng thời đẩy mạnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua việc mua bán sáp nhập và mua lại các ngân hàng yếu kém với giá 0 đồng Trong 6 tháng qua, nhiều thương vụ mua bán sáp nhập đã diễn ra, đặc biệt là trong tháng 4/2015, với các ví dụ điển hình như sáp nhập VietinBank với PGBank và BIDV với MHB.
NHNN đã thực hiện mua lại các ngân hàng yếu kém như Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) và Ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu (GPBank) do tình trạng âm vốn và sự không đồng thuận của cổ đông trong việc bổ sung vốn Để đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, NHNN đã tuyên bố mua lại toàn bộ cổ phần của các ngân hàng này với giá 0 đồng VNCB, sau khi nhận sự hỗ trợ quản lý từ Vietcombank, đã đổi tên thành Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng VN (CBBank) và hoạt động trở lại, trong khi OceanBank nhận hỗ trợ từ VietinBank và trở thành Ngân hàng TNHH MTV thuộc sở hữu 100% của Nhà nước.
Chính sách tài khóa
Tổng thu ngân sách Nhà nước trong 6 tháng đầu năm 2015 ước đạt 446,12 nghìn tỷ đồng, bằng 49% dự toán và tăng 6% so với cùng kỳ năm 2014 Trong đó, thu nội địa đạt 328,18 nghìn tỷ đồng, tương đương 51,4% dự toán, tăng 15,4% so với năm trước nhờ vào sự phục hồi tích cực của các doanh nghiệp và các biện pháp quản lý thu hiệu quả Thu từ xuất nhập khẩu đạt 125,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% so với cùng kỳ, phần nào bù đắp cho sự giảm thu từ dầu thô 34,5% so với năm 2014.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng chi ngân sách Nhà nước ước đạt 554,18 nghìn tỷ đồng, tương đương 47,5% dự toán và tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước Trong số đó, chi đầu tư phát triển đạt 86,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 44,4% dự toán, trong khi chi trả nợ và viện trợ là 75,95 nghìn tỷ đồng, bằng 50,6% dự toán.
17 toán; chi phát triển các sự nghiệp kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính
378 nghìn tỷ đồng, bằng 49,3% dự toán
Bội chi ngân sách nhà nước lũy kế trong 6 tháng đầu năm 2015 ước đạt 99 nghìn tỷ đồng, tương đương 43,8% dự toán năm Trong thời gian này, gần 100 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ đã được phát hành, chiếm khoảng 36,8% kế hoạch, nhằm bù đắp bội chi ngân sách và phục vụ cho đầu tư phát triển Dự kiến, bội chi ngân sách nhà nước năm 2015 sẽ ở mức 5% GDP và sẽ giảm dần xuống còn 4% GDP vào năm 2020.
Chỉ tiêu nợ công theo Bộ Tài chính tính toán sẽ là năm 2015 là 64%, 2016 là 64,9%,
Từ năm 2017 đến 2020, tỷ lệ nợ công của Việt Nam giảm từ 64% xuống 60,2%, vẫn nằm trong ngưỡng an toàn 65% Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước duy trì ở mức an toàn, dự kiến khoảng 16,1% vào năm 2015, thấp hơn quy định tối đa 25% Chính phủ đang tích cực thực hiện cơ cấu lại nợ công, chỉ đạo Bộ Tài chính kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu để giảm áp lực trả nợ ngắn hạn và giảm đảo nợ Cụ thể, Chính phủ đã giảm mạnh và hướng tới ngừng phát hành tín phiếu và trái phiếu ngắn hạn, tập trung vào trái phiếu có kỳ hạn dài từ 5 đến 15 năm, qua đó bước đầu cơ cấu lại danh mục trái phiếu Chính phủ.
Mặc dù nợ công đã có những tiến bộ nhất định, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế Đầu tiên, nợ công đang gia tăng nhanh chóng với cơ cấu chưa thật sự bền vững Thứ hai, công tác quản lý nợ công còn phân tán và thiếu sự phối hợp đồng bộ Thứ ba, việc huy động và sử dụng vốn vay còn dàn trải, chưa gắn kết chặt chẽ với các hạn mức nợ công Cuối cùng, công tác kiểm tra và thanh tra chưa được thực hiện thường xuyên, dẫn đến hiệu quả tổ chức thực hiện một số dự án còn thấp.
DỰ BÁO VĨ MÔ NỬA CUỐI NĂM 2015
Kinh tế nửa cuối năm 2015 dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng tích cực, với xuất khẩu có khả năng tăng mạnh trên 10%, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế nhờ các hiệp định thương mại tự do đã và sắp ký kết Bên cạnh đó, sản xuất và tiêu dùng trong nước cũng được kỳ vọng sẽ cải thiện do giá cả và chi phí đầu vào duy trì ổn định ở mức thấp.
Các tổ chức quốc tế đã có cái nhìn lạc quan về kinh tế Việt Nam trong năm 2015 Ngân hàng Thế giới (WB) đã nâng dự báo tăng trưởng của Việt Nam lên 6%, tăng từ mức 5,5% Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam thêm 0,4 điểm phần trăm lên 6% ANZ thể hiện sự lạc quan khi dự đoán Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng vượt 6,5% trong năm 2015.
Ngoài ra trong các năm gần đây, GDP quý sau luôn có mức tăng trưởng cao hơn quý trước
Với mức tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm đạt 6,28%, mục tiêu tăng trưởng GDP 6,2% cho cả năm 2015 của Chính phủ là hoàn toàn khả thi và có khả năng vượt kế hoạch.
Trong 6 tháng đầu năm 2015, lạm phát ở mức thấp với chỉ số CPI tăng 0,55% so với cuối năm 2014 So với cùng kỳ năm trước, lạm phát trong 6 tháng đầu năm 2014 đạt 1,38%.
Lạm phát năm 2014 chỉ đạt 1,84%, cho thấy khả năng duy trì mức thấp trong năm nay Nếu giá dầu thế giới hồi phục chậm, lạm phát năm 2015 có thể chỉ ở mức 2%.
Tính đến hết quý 2/2015, giá dầu WTI thế giới giữ mức 60 USD/thùng; giá dầu Brent ở mức
Giá dầu hiện tại đạt 64 USD/thùng, tăng khoảng 20% so với đầu năm, nhưng đang gặp kháng cự mạnh tại mức 60 USD/thùng do các công ty dầu khí có khả năng tăng nguồn cung Khủng hoảng nợ công châu Âu, đặc biệt là khả năng Hy Lạp rời bỏ Eurozone, cũng là yếu tố kìm hãm giá dầu toàn cầu Thỏa thuận về chương trình hạt nhân của Iran có thể dẫn đến việc phương Tây dỡ bỏ lệnh cấm vận, cho phép Iran tăng xuất khẩu dầu Theo dự báo của Bloomberg, giá dầu WTI có thể duy trì quanh mức 60 USD/thùng trong quý 3 và 63 USD/thùng trong quý 4 năm 2015, cho thấy giá xăng, dầu trong nước có khả năng ổn định, góp phần giữ lạm phát nửa cuối năm 2015 ở mức thấp.
Theo mô hình dự báo định lượng của BSC, kết quả dự báo CPI các quý 3, 4 tăng lần lượt 0,84% và 1,7% so với cùng kỳ năm trước
Dự báo định lượng lạm phát các quý tiếp theo trong năm 2015
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong thời gian tới vẫn tích cực, với xu hướng tăng trưởng ổn định của vốn FDI giải ngân, cho thấy sức hấp dẫn của Việt Nam Trong 6 tháng cuối năm, việc thu hút FDI còn được hỗ trợ bởi nhiều yếu tố quan trọng.
Việt Nam không ngừng nỗ lực đẩy mạnh hội nhập Quý 2/2015, VKFTA (Việt
Việc ký kết Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã mở ra cơ hội lớn cho thương mại và đầu tư, với Hàn Quốc dẫn đầu về vốn đầu tư FDI vào Việt Nam Đồng thời, vòng đàm phán thứ 13 của Hiệp định EVFTA giữa Châu Âu và Việt Nam đã đạt được nhiều thỏa thuận tích cực, hướng tới việc hoàn tất đàm phán TPP cũng đang có những tiến triển thuận lợi để kết thúc trong năm 2015 Trong bối cảnh này, sức hấp dẫn đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực ngày càng rõ ràng.
Môi trường đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam đã được cải thiện đáng kể với sự ra đời của nhiều đạo luật mới có hiệu lực từ tháng 7/2015, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản Những đạo luật này đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, đồng thời cắt giảm thủ tục hành chính và giảm bớt rào cản kinh doanh Việt Nam cũng đang nỗ lực nâng cao các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, phấn đấu đạt và vượt mức trung bình của các nước ASEAN-6 trong năm 2015 và hướng tới mức trung bình của ASEAN-4 vào đầu năm 2017.
Việt Nam nổi bật với chính sách tiền tệ ổn định, tạo sức hấp dẫn trong bối cảnh bất ổn kinh tế tại EU và Trung Quốc, cũng như giữa các quốc gia đang thực hiện nới lỏng chính sách trong khu vực.
Thương mại, xuất nhập khẩu
Xu hướng nhập siêu dự kiến sẽ gia tăng trong các quý tới, với khả năng cán cân thương mại thâm hụt từ 7-8 tỷ USD vào cuối năm 2015 Hoạt động nhập khẩu tư liệu sản xuất và nguyên phụ liệu sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ.
Trong năm 2015, 20 nhiên liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu sẽ được đẩy mạnh Tuy nhiên, giá cả hàng hóa thế giới có khả năng giảm do các biến động kinh tế và tài chính toàn cầu trong nửa cuối năm, điều này có thể giúp kiềm chế sự gia tăng nhập khẩu và thâm hụt thương mại.
Kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc trong thời gian gần đây, với các biện pháp nới lỏng tín dụng và gia tăng phá giá đồng nhân dân tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ổn định thị trường chứng khoán Sự mất giá của đồng nhân dân tệ đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc Đồng thời, nhu cầu tiêu dùng nội địa Trung Quốc giảm mạnh, khiến nước này tìm kiếm cơ hội xuất khẩu sang các thị trường khác, bao gồm cả Việt Nam Một số ngành của Việt Nam như dệt may và da giày, có nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, sẽ được hưởng lợi, nhưng phần còn lại của nền kinh tế sẽ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh gia tăng Xu hướng nhập siêu từ Trung Quốc dự kiến sẽ tăng lên.
5 Thị trường ngoại hối, tỷ giá
Trong quý tới, tỷ giá VND/USD dự kiến sẽ ổn định trong khoảng 21.750 – 21.890 Các công cụ điều tiết thị trường ngoại hối của NHNN hiện đã hạn chế, và tâm lý thị trường không còn áp lực tăng giá cho đồng USD do kỳ vọng về việc sử dụng 1% dư địa tỷ giá còn lại trong năm 2015 đã kết thúc Xu hướng tăng của đồng USD trong nước sẽ chủ yếu phụ thuộc vào diễn biến cán cân thương mại và giá đồng USD toàn cầu.
Từ đầu năm, USD đã duy trì xu hướng tăng giá trên toàn cầu, ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND trong trung hạn Trước những biến động lớn trên thị trường tài chính, như lo ngại về khủng hoảng nợ công châu Âu, khả năng Hy Lạp rời Eurozone, sự suy yếu của kinh tế Trung Quốc và tăng trưởng chậm lại của Mỹ, FED có thể hoãn thời gian nâng lãi suất USD đến quý 4/2015 Những yếu tố này đã làm giảm tốc độ tăng giá của USD so với quý 1/2015.
Trên quy mô trong nước, thâm hụt cán cân thương mại đang duy trì cầu cao đối với đồng USD, mặc dù cán cân thương mại hiện tại vẫn ở trạng thái bình thường Bên cạnh đó, việc ổn định tỷ giá là ưu tiên hàng đầu của Ngân hàng Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu ổn định vĩ mô Vì vậy, tỷ giá trong nước dự kiến sẽ ổn định và khó có khả năng biến động mạnh trong quý tới.
Ngân hàng - lãi suất
Một số ngân hàng đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động do sự mất cân đối trong vay và huy động ngắn hạn Tuy nhiên, lạm phát dự báo ở mức thấp khoảng 2% trong năm nay sẽ hỗ trợ lãi suất Ngân hàng Nhà nước sẽ điều tiết kế hoạch tăng trưởng tín dụng hợp lý, đảm bảo không tăng quá mạnh ở mức 13% - 15% trong cả năm Nếu không giải quyết kịp thời các nguyên nhân sâu xa, có thể dẫn đến cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng, ảnh hưởng đến chính sách giảm lãi suất cho vay Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng khẳng định NHNN sẽ tiếp tục điều tiết thanh khoản và phối hợp với Bộ Tài chính phát hành tín phiếu và trái phiếu Chính phủ để duy trì chính sách lãi suất theo định hướng đầu năm.
MaritimeBank (MSB) dự kiến hoàn thành sáp nhập MDB vào tháng 7/2015 Đối với sáp nhập Sacombank và Southern Bank, NHNN dự kiến sẽ chấp thuận nguyên tắc trong quý 3, cùng với việc hoàn thiện các thủ tục khác Sang quý 4/2015, Sacombank sẽ xin lưu ký và niêm yết bổ sung cổ phiếu Các thủ tục sau sáp nhập, bao gồm sắp xếp mạng lưới chi nhánh và nhân sự, sẽ được thực hiện trong quý 4 Ngân hàng sáp nhập dự kiến giữ nguyên cơ cấu nhân sự hiện tại của Sacombank và bổ sung cá nhân có năng lực từ Southern Bank Tỷ lệ hoán đổi cổ phần sẽ là 1:0,75, tức 1 cổ phiếu của Southern Bank sẽ đổi thành 0,75 cổ phiếu của Sacombank Ngoài ra, có thông tin không chính thức về việc sáp nhập giữa Eximbank với Nam A Bank, Dong A Bank với ABBank và SaiGonBank với Vietcombank.
DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN QUÝ 2/2015
Trong 6 tháng đầu năm, thị trường chứng khoán diễn ra với hình sin, với đáy và đỉnh mới cao hơn so với trước đó Hai chỉ số chính đã có tháng tăng điểm thứ ba liên tiếp, nhưng mức tăng này chưa phản ánh đầy đủ sự biến động phức tạp trong quý 2 Tháng 5 chứng kiến đợt sụt giảm mạnh, với đáy thấp nhất vào giữa tháng, trước khi phục hồi gần chạm đỉnh trong 6 tháng Tâm lý lo ngại trước các tin tức tiêu cực như hoạt động của giàn khoan COSLProspector tại Biển Đông, căng thẳng tỷ giá và giá xăng tăng cao là nguyên nhân chính dẫn đến sụt giảm này Ngược lại, kỳ vọng về việc mở room cho đầu tư nước ngoài, Quốc hội Mỹ trao quyền TPA cho Tổng thống Mỹ để thúc đẩy đàm phán TPP, và dự thảo sửa đổi thông tư 74 đã hỗ trợ thị trường tăng giá trong tháng 6 Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/6, VN-Index đạt 593 điểm, tăng 7,6% trong quý 2, trong khi HNX-Index đạt 84,9 điểm, tăng 3,1% trong quý 2 Tính chung trong 6 tháng, VN-Index và HNX-Index lần lượt tăng 8,6% và 2,2% so với đầu năm.
Nguồn: HNX, HSX, Bloomberg, BSC Đồ thị 22: Diễn biến HNX-Index
Nguồn: HNX, HSX, Bloomberg, BSC
Diễn biến thị trường trong 6 tháng đầu năm biến động khá phức tạp và chia thành 3 giai đoạn tăng giảm khá rõ rệt
Giai đoạn tăng điểm của VN-Index diễn ra từ 1/1/2015 đến 4/3/2015, với mức tăng 10% sau gần 3 tháng giảm sâu do ảnh hưởng từ các cổ phiếu dầu khí Thị trường phục hồi nhờ sự gia tăng mua vào từ khối ngoại, chủ yếu dẫn dắt bởi cổ phiếu ngân hàng Tuy nhiên, xu hướng tăng này bị gián đoạn trong 4 phiên từ 29/1 đến 3/2 do tâm lý tiêu cực khi Thông tư 36 có hiệu lực, dẫn đến hoạt động bán tháo mạnh mẽ và làm giảm giá cổ phiếu ngân hàng Dù vậy, sự mua vào mạnh mẽ từ khối ngoại đã giúp thị trường hồi phục và đạt đỉnh 600 điểm, mặc dù thanh khoản giảm 18%.
23 so cùng kỳ năm trước và chỉ đạt trung bình 2,200 tỷ/phiên khi khối nội giảm mạnh hoạt động giao dịch
Giai đoạn giảm điểm từ 4/3 đến 18/5/2015 chứng kiến VN-Index giảm 11.8%, với một nhịp tăng xen giữa hai nhịp giảm Trong đợt giảm đầu tiên, khối ngoại mạnh tay bán ra các cổ phiếu Dầu khí, cùng với việc các quỹ ETF rút vốn, khiến thị trường nhanh chóng quay về mức giá đầu năm Thanh khoản giảm sút và hoạt động bắt đáy hạn chế đã kéo thị trường vào vòng xoáy giảm điểm, làm VN-Index từ 600 điểm giảm xuống còn 539 điểm.
Trong 19 phiên giao dịch, VN-Index ghi nhận 14 phiên giảm điểm, mặc dù khối ngoại bất ngờ quay trở lại mua ròng, tạo ra nhịp hồi 5.5% và đưa chỉ số về vùng 568 điểm với thanh khoản thấp vào cuối tháng 4 Tuy nhiên, sau kỳ nghỉ lễ dài, VN-Index lại đột ngột quay về xu hướng giảm điểm do tin tức về giàn khoan COSLProspector hoạt động tại Biển Đông Thêm vào đó, giá xăng tăng liên tục và tỷ giá tăng 1% đã khiến thị trường suy giảm, lập đáy mới tại ngưỡng 529 điểm Thanh khoản trong giai đoạn này chỉ đạt 2,080 tỷ đồng/phiên, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước.
Giai đoạn từ 18/5/2015 đến 30/6/2015, VN-Index đã tăng 12%, phản ánh sự mạnh mẽ của thị trường nhờ thông tin đồn về việc mở room và rút ngắn thời gian giao dịch Nhà đầu tư trong và ngoài nước đã tích cực mua vào, với cổ phiếu Ngân hàng giữ vai trò trụ cột Dòng tiền liên tục luân chuyển giữa các nhóm cổ phiếu lớn như Dầu khí, BĐS, chứng khoán, thép và Thủy sản, góp phần tạo ra mức tăng giá mạnh cho VN-Index Thanh khoản thị trường cũng ghi nhận mức tăng 35% so với cùng kỳ năm trước, đạt 2,700 tỷ đồng.
Trong 6 tháng đầu năm, mặc dù các chỉ số biến động có sự tăng giảm phức tạp, nhưng chúng vẫn duy trì xu hướng tăng điểm trung dài hạn từ năm 2012 Điều này được hỗ trợ bởi nền tảng vĩ mô ổn định, tăng trưởng tốt và cải thiện hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết.
Trong 6 tháng đầu năm, cổ phiếu Bluechips đã dẫn dắt thị trường với mức tăng trưởng 9,8%, vượt trội so với các nhóm cổ phiếu khác như Penny (8,9%), MidCap (6,3%), LargeCap (4,4%) và SmallCap (2,8%) Đặc biệt, trong tháng 6, nhóm cổ phiếu Bluechips ghi nhận mức tăng 4,9%, cao hơn so với Penny (3,9%), Small Cap (1,7%), Mid Cap (1,4%) và Large Cap (1,2%) Sau gần 3 tháng giảm mạnh, sự phục hồi ngoạn mục của cổ phiếu Bluechips cho thấy tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của nhóm này đối với diễn biến chung của thị trường, khẳng định vị thế là nhóm cổ phiếu hiệu quả nhất trong nửa đầu năm.
24 Đồ thị 23: Biến biến của các nhóm cổ phiếu trong 6 tháng đầu năm
Cổ phiếu Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán, khi chiếm 29,5% vốn hóa và ảnh hưởng lớn đến chỉ số thị trường Trong số 15 cổ phiếu lớn nhất, nhóm này đóng góp 70,9% tổng vốn hóa, quyết định 70% xu hướng thị trường VCB dẫn đầu với 12% vốn hóa, tiếp theo là CTG (6,6%), BID (5,7%), STB (2,1%) và MBB (1,6%).
Trong quý 2, tỷ trọng vốn hóa của nhóm cổ phiếu Ngân hàng đã tăng mạnh từ 22% lên 29,5%, dẫn đến ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng của thị trường Cổ phiếu 11 và BID (1,5%) đứng ở vị trí thứ 12 trong danh sách này.
Nhóm cổ phiếu Ngân hàng trên HSX đã ghi nhận mức tăng trưởng 42,4%, đóng góp 47,5 điểm cho VN-Index từ đầu năm, vượt trội so với mức tăng 8,6% của VN-Index và mức giảm 10,1% của ngành dầu khí Trong 6 tháng đầu năm, các cổ phiếu Ngân hàng như VCB, BID và CTG lần lượt đóng góp 24,8 điểm, 14,4 điểm và 7,1 điểm cho thị trường Ngược lại, nhóm cổ phiếu dầu khí đã lấy mất 10,5 điểm, trong đó GAS giảm 8,5 điểm và PVD giảm 1,9 điểm Bên cạnh đó, một số cổ phiếu như HPG, DHG, KDC và PPC cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường với mức giảm lần lượt -2,5 điểm, -1 điểm, -1 điểm và -0,9 điểm.
BCs Index LargeCap Index MidCap Index SmallCap Index Penny Index
25 Đồ thị 24: Tỷ trọng 15 cổ phiếu lớn nhất trong VN-Index
Nguồn: HNX, HSX, Bloomberg, BSC Đồ thị 25: Diễn biến các ngành chủ chốt trong VN-Index
Nguồn: HNX, HSX, Bloomberg, BSC
Thị trường hiện có vốn hóa đạt 1,248 nghìn tỷ đồng, tương đương 57,1 tỷ USD, tăng 8,4% so với đầu năm Nếu loại trừ 1,4 tỷ USD từ hoạt động niêm yết mới, như DCM 320 triệu USD, NCT 121 triệu USD, CSV 46 triệu USD, và các hoạt động phát hành tăng vốn, trái phiếu chuyển đổi, cùng cổ tức bằng cổ phiếu từ VIC 88 triệu USD, KBC 58 triệu USD, KDH 53 triệu USD, QCG 50 triệu USD, ITA 37 triệu USD, FLC 33 triệu USD, thì mức vốn hóa vẫn cao hơn 5,6% so với đầu năm.
Trong quý 2, thanh khoản trung bình đạt 2,422 tỷ đồng mỗi phiên, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2014 Tuy nhiên, tổng thanh khoản trong 6 tháng đầu năm vẫn giảm 14% so với năm trước, chỉ đạt 2,342 tỷ đồng mỗi phiên.
Trong những năm gần đây, đỉnh thanh khoản thường xảy ra vào tháng 2 hoặc tháng 3, khi hoạt động giao dịch của ETF diễn ra sôi nổi, tạo ra hiệu ứng tích cực cho toàn thị trường Dù khối ngoại và ETF vẫn duy trì mức mua mạnh như mọi năm, dòng vốn trong nước đã giảm mạnh, dẫn đến thanh khoản sụt giảm 19% trong quý 1 Mặc dù thanh khoản quý 2 có dấu hiệu cải thiện, đặc biệt trong tháng 6, nhưng vẫn không đủ để bù đắp cho sự giảm sút trong quý 1, khiến thanh khoản 6 tháng giảm 14% so với cùng kỳ năm trước.
VCB GAS VNM CTG VIC BID MSN BVH STB HPG MBB EIB FPT PVD HAG Khác
1/5/2015 2/5/2015 3/5/2015 4/5/2015 5/5/2015 6/5/2015VN-Index Bank_Hose Index PV_Hose Index
26 Đồ thị 26: Giá trị giao dịch bình quân các tháng
Các yếu tố ảnh hưởng đến TTCK
Kinh tế vĩ mô của Việt Nam tiếp tục ổn định và tăng trưởng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường và thu hút dòng vốn ngoại Nghị quyết Chính phủ năm 2015 cho thấy chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp, dư nợ tín dụng cao hơn cùng kỳ năm trước và cán cân thanh toán tổng thể thặng dư Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước, đạt 6,28% trong 6 tháng đầu năm, là mức cao nhất trong 5 năm qua Khu vực dịch vụ và tổng mức bán lẻ hàng hóa tiếp tục tăng trưởng mạnh Các tổ chức quốc tế như Nikkei và Market cũng ghi nhận PMI Việt Nam đạt 52,5 điểm, cho thấy hoạt động sản xuất đang mở rộng Niềm tin tiêu dùng tại Việt Nam đạt mức kỷ lục 143,1 điểm, với nhận định tích cực về triển vọng tăng trưởng Về thương mại, Việt Nam dự kiến sẽ nằm trong top 5 quốc gia có tăng trưởng thương mại mạnh nhất thế giới với mức bình quân 8% từ 2015 đến 2030, nhờ vào các hiệp định thương mại như TTIP và TPP Tuy nhiên, vấn đề nhập siêu và sự giảm sút trong xuất khẩu trong nước cùng với việc vốn đầu tư nước ngoài đăng ký giảm mạnh sẽ tạo áp lực lên kinh tế vĩ mô, đặc biệt khi FED có khả năng tăng lãi suất vào cuối năm.
Kinh tế vĩ mô Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực trong nửa đầu năm 2015 và có khả năng vượt qua các chỉ tiêu đề ra Điều này tạo nền tảng vững chắc cho sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán trong 6 tháng cuối năm.
Yếu tố thông tin thị trường
Các quy định đột phá liên quan tới hoạt động đầu tư nước ngoài và hoạt động giao dịch chứng khoán
Nghị định 60/2015/NĐ-CP, được ban hành vào ngày 26/6, quy định về tỷ lệ sở hữu đầu tư nước ngoài, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng cho thị trường Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến tháng 6 mà còn định hình xu hướng thị trường trong 6 tháng cuối năm Đây là nghị định mà các nhà đầu tư đang mong đợi.
2 năm nay, và được xem là đột phá lớn trong chính sách thu hút đầu tư gián tiếp đầu tư
Nghị định 60/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ 1/9/2015, cho phép mở room cho nhà đầu tư nước ngoài, mặc dù cần thêm thời gian để Đại hội cổ đông phê duyệt Việc mở room bị giới hạn ở một số ngành nghề có điều kiện, nhưng đã tạo ra hiệu ứng tâm lý tích cực và sự gia tăng mạnh mẽ trong hoạt động mua bán của khối ngoại Các cổ phiếu hết room và được mở room dự kiến sẽ trở thành tâm điểm của thị trường trong nửa cuối năm 2015, thu hút dòng vốn ngoại vào thị trường chứng khoán và thúc đẩy hoạt động M&A Đồng thời, trong tháng 6, UBCKNN đã lấy ý kiến về thông tư thay thế Thông tư 74/2011, cho phép nhà đầu tư thực hiện giao dịch mua bán trong ngày đối với các cổ phiếu VN30 và HNX30, rút ngắn thời gian giao dịch từ T+3 xuống T+2 Những quy định mới này sẽ giúp nhà đầu tư có thêm công cụ giao dịch, tiến gần hơn với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện để MSCI xem xét đưa Việt Nam vào nhóm các thị trường mới nổi, thu hút sự chú ý của nhà đầu tư trong năm tới.
Các yếu tố như việc FED tăng lãi suất, Hiệp định TPP, nguy cơ Hy Lạp rời Eurozone và biến động giá dầu sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường.
Trong cuộc họp tháng 6, các quan chức FED khẳng định rằng sự cải thiện của nền kinh tế có thể dẫn đến 1 hoặc 2 lần nâng lãi suất trước cuối năm, bất chấp lo ngại về thị trường lao động Nhiều nhà phân tích dự đoán lần tăng lãi suất đầu tiên sẽ diễn ra vào tháng 9 với biên độ 0,25% Việc tăng lãi suất của FED có thể ảnh hưởng đến dòng vốn tài chính, khiến dòng vốn chuyển dịch vào thị trường Mỹ, đồng thời gây áp lực lên thị trường mới nổi do ngoại tệ mất giá USD tăng giá cũng có thể làm giảm lợi nhuận từ các giao dịch carry trade, tạo áp lực lên cán cân tổng thể, đặc biệt khi Việt Nam đang đối mặt với tình trạng nhập siêu trong 6 tháng đầu năm.
Cuộc khủng hoảng Hy Lạp trở nên nghiêm trọng hơn khi nước này chính thức tuyên bố phá sản do không thể trả nợ đúng hạn và tổ chức cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 5/7, với hơn 62% cử tri phản đối các điều kiện vay nợ Tình hình này đánh dấu một giai đoạn khó khăn mới cho cả Hy Lạp và Eurozone, buộc Eurozone phải xem xét các biện pháp mới nhằm ngăn chặn hiệu ứng Domino từ Hy Lạp, bao gồm khả năng gia hạn chương trình mua trái phiếu hiện tại, điều này có thể tiếp tục làm suy yếu đồng Euro Các cuộc đàm phán sẽ sớm diễn ra để tìm giải pháp cho khủng hoảng.
Căng thẳng giữa Hy Lạp và các chủ nợ vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc, khiến cho quyết định cứu trợ hay loại bỏ Hy Lạp khỏi Eurozone trở thành một thách thức lớn Hệ quả của quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến Hy Lạp mà còn tác động đến toàn bộ Eurozone và đồng Euro Sự kiện này đã gây chấn động thị trường chứng khoán toàn cầu và vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư cho đến khi có quyết định cuối cùng Trong khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng Hy Lạp, mà ngược lại, sự bất ổn tại châu Âu đã thu hút dòng vốn đầu tư vào Việt Nam như một nơi trú ẩn an toàn Tuy nhiên, sự mất giá của Euro đã làm cho hàng hóa xuất khẩu vào Eurozone trở nên đắt đỏ hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả kinh doanh của nhiều công ty niêm yết và thị trường trong nửa cuối năm.
Nhóm cổ phiếu dầu khí là nhóm có ảnh hưởng lớn thứ hai đến thị trường chứng khoán, chỉ sau nhóm Ngân hàng Sau một thời gian giảm mạnh, giá dầu đã có sự hồi phục và hiện đang ổn định trong khoảng giá nhất định.
Giá dầu hiện dao động từ 58 đến 62 USD/thùng, nhưng đã giảm mạnh do lượng cung tăng và sự suy yếu của các nền kinh tế lớn Sự giảm giá này không chỉ ảnh hưởng đến nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô mà còn tác động tiêu cực đến các cổ phiếu trong ngành dầu khí, ảnh hưởng đến diễn biến thị trường trong nửa cuối năm.
Hiệp định TPP đã có những chuyển biến tích cực khi Quốc hội Mỹ phê chuẩn quyền đàm phán nhanh (TPA) cho Tổng thống, mở ra hy vọng hoàn tất vào đầu năm 2016 Điều này sẽ tác động tích cực đến các ngành như dệt may, thủy sản, da giày và hạ tầng khu công nghiệp, khiến cổ phiếu trong những lĩnh vực này trở nên hấp dẫn trên thị trường trong 6 tháng cuối năm.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc đang trải qua sự sụt giảm mạnh, với tổng mức giảm lên tới 35% kể từ ngày 15/06/2015, do tăng trưởng không tương xứng với sự chậm lại của nền kinh tế, hiện chỉ đạt 7% GDP Tâm lý đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng góp phần vào tình hình này Sự suy giảm này không chỉ ảnh hưởng đến tiêu thụ hàng hóa trong nước mà còn kéo theo hệ lụy đối với nhu cầu nhập khẩu từ các nền kinh tế khác Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội cho thị trường chứng khoán Việt Nam, khi vốn rút ra khỏi Trung Quốc có thể chuyển hướng sang các thị trường mới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ.
Nền kinh tế vĩ mô Việt Nam đang phục hồi tích cực, thu hút sự chú ý từ các nhà đầu tư tổ chức và nước ngoài Gần đây, chính phủ đã thực hiện nhiều cải cách nhằm mở cửa hơn cho thị trường quốc tế, bao gồm việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp trong nước.
Yếu tố Đầu tư nước ngoài
Khối ngoại đang nắm giữ 13.1 tỷ USD, chiếm 23% tổng giá trị thị trường, với 12.1 tỷ USD trên HSX và 1 tỷ USD trên HNX Mặc dù giá trị nắm giữ tăng 19% so với quý 1, tỷ trọng vẫn giữ nguyên Khối ngoại có ảnh hưởng lớn đến thị trường trong 6 tháng qua, với hoạt động mua vào thúc đẩy tăng trưởng và giảm khi điều chỉnh danh mục Mặc dù hoạt động mua vào giảm so với cùng kỳ 2014, Việt Nam vẫn thu hút dòng vốn ngoại mạnh mẽ, đặc biệt sau Nghị định 60 cho phép mở room cho nhà đầu tư nước ngoài Dự báo, khối ngoại sẽ tiếp tục mua ròng trong 6 tháng cuối năm nhờ vào dòng vốn đầu tư và dòng vốn nóng từ các ETF trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định.
Dòng vốn đầu tư từ các quỹ đóng, mở và nhà đầu tư nước ngoài đạt 12,2 tỷ USD, chiếm 93% giá trị của khối ngoại, với xu hướng ổn định và gia tăng nhờ vào các yếu tố cơ bản của nền kinh tế và doanh nghiệp niêm yết Mặc dù hoạt động huy động vốn của các quỹ lớn giảm sút, nhưng sự xuất hiện ngày càng nhiều quỹ nhỏ và trung bình đang tạo ra sự sôi động trong giao dịch của khối ngoại Khác với xu hướng giao dịch của ETF, dòng vốn đầu tư có xu hướng mua vào khi thị trường giảm mạnh và bán ra khi thị trường tăng cao Các cổ phiếu khi mở room sẽ thu hút một lượng đầu tư đáng kể.