1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CÁC QUY ĐỊNH KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ĐỂ XÂY DỰNG HƯỚNG DẪN CHI TIẾT THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ TTKT TRONG LUẬT CẠNH TRANH 2018 CỦA VIỆT NAM

74 43 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Kinh Nghiệm Quốc Tế Về Các Quy Định Kiểm Soát Tập Trung Kinh Tế Để Xây Dựng Hướng Dẫn Chi Tiết Thi Hành Các Quy Định Về TTKT Trong Luật Cạnh Tranh 2018 Của Việt Nam
Trường học Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng – Bộ Công Thương
Thể loại báo cáo
Năm xuất bản 2018
Định dạng
Số trang 74
Dung lượng 1 MB

Cấu trúc

  • Lời mở đầu

  • I. Tổng quan

    • 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

      • 1.1. Tập trung kinh tế và các hình thức tập trung kinh tế

      • 1.2. Mục tiêu của kiểm soát TTKT

      • 1.3. Các cách tiếp cận và nguyên tắc đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của TTKT

      • 1.4. Cách tiếp cận về kiểm soát TTKT tại Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam

  • II. Kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát tập trung kinh tế

    • 1. Cơ chế giám sát, rà soát tập trung kinh tế

      • 1.1. Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế

      • 1.2. Quy trình thông báo tập trung kinh tế

    • 2. Đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của tập trung kinh tế

      • 2.1. Các tiêu chí định lượng

      • 2.2. Các tiêu chí định tính

    • Các yếu tố xác định khả năng gây tác động HCCT thông qua hành vi đơn phương

  • III. Đề xuất xây dựng Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định về TTKT trong Luật Cạnh tranh 2018 của Việt Nam

    • 1. Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh của việc tập trung kinh tế

      • 1.1. Việc tập trung kinh tế không gây tác động hoặc không có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể

      • 1.2. Đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trong quá trình thẩm định chính thức

    • 2. Đánh giá tác động tích cực của việc tập trung kinh tế

      • 2.1. Các tác động tích cực của việc tập trung kinh tế

      • 2.2. Tái cấu trúc doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn hoặc sắp phá sản nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực

Nội dung

Tổng quan

Cơ sở lý luận và thực tiễn

1.1 Tập trung kinh tế và các hình thức tập trung kinh tế

1.1.1 Khái niệm tập trung kinh tế

Khái niệm tập trung kinh tế hiện nay được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, chủ yếu là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông qua sáp nhập hoặc tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp Tập trung kinh tế còn được hiểu là sự gia tăng tư bản nhờ hợp nhất nhiều nguồn vốn hoặc thu hút tư bản từ các nguồn khác Trong lĩnh vực kinh tế học và khoa học pháp lý, khái niệm này được phân tích qua ba cách tiếp cận cơ bản.

Tập trung kinh tế trên thị trường được hiểu là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập cạnh tranh thông qua sáp nhập hoặc tăng trưởng nội sinh, dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc thị trường Hiểu rõ nguyên nhân và hậu quả của tập trung kinh tế giúp các nhà hoạch định chính sách phân tích các yếu tố kinh tế, từ đó tìm ra bản chất pháp lý và cơ chế điều chỉnh phù hợp Tuy nhiên, quan điểm này có thể xem hiện tượng tích tụ tư bản như một phần của khái niệm tập trung kinh tế.

Tập trung kinh tế, hay còn gọi là tập trung tư bản, là hành vi của các doanh nghiệp nhằm tăng thêm tư bản thông qua việc hợp nhất nhiều nguồn lực hoặc thu hút vốn từ các nguồn khác Mặc dù khái niệm này không nêu rõ các biểu hiện cụ thể, nhưng nó thể hiện bản chất và phương thức hoạt động của hiện tượng này trong nền kinh tế.

Theo Luật cạnh tranh 2004, khái niệm "tập trung kinh tế" không được định nghĩa rõ ràng, mà chỉ liệt kê các hành vi được xem là tập trung kinh tế Cụ thể, các hành vi này được quy định tại điều luật liên quan.

16 quy định về tập trung kinh tế bao gồm các hành vi như sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp, và các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật Danh sách này giúp làm rõ các hình thức tập trung kinh tế mà quan điểm trước đó chưa đề cập đầy đủ.

Các nhà khoa học đồng thuận rằng dù có nhiều góc độ và ngôn ngữ pháp lý khác nhau, bản chất của tập trung kinh tế vẫn được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau đây.

Chủ thể của tập trung kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường, có thể là doanh nghiệp cùng hoặc không cùng lĩnh vực Luật cạnh tranh năm 2004 định nghĩa doanh nghiệp bao gồm mọi thành phần kinh tế và hộ kinh doanh cá thể, nhưng không phải tất cả doanh nghiệp đều có quyền tham gia vào tập trung kinh tế Sự tham gia vào các hành vi tập trung kinh tế bị giới hạn bởi quy định pháp luật về doanh nghiệp Cụ thể, theo Điều 152 và 153 của Luật Doanh nghiệp 2014, chỉ các loại công ty như công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty TNHH 2-50 thành viên, công ty TNHH 1 thành viên, và các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã mới có thể thực hiện các hành vi sáp nhập, hợp nhất.

Hình thức tập trung kinh tế bao gồm sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp, và để hiện tượng này xảy ra, cần có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp khác nhau trên thị trường Điều này cho thấy hành vi tập trung kinh tế không phải là hành vi đơn phương của một doanh nghiệp Do đó, việc đầu tư vốn để thành lập các công ty TNHH một thành viên từ một doanh nghiệp sẽ tạo ra nhóm kinh doanh nhưng không được coi là hiện tượng tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh.

Sáp nhập, hợp nhất, liên doanh, và mua lại là những hình thức mà các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế sử dụng để tích tụ nguồn lực như vốn, lao động, kỹ thuật và năng lực quản lý Điều này tạo ra một khối thống nhất hoặc nhóm doanh nghiệp, giúp phân biệt tập trung kinh tế với tích tụ tư bản trong kinh tế học Tích tụ tư bản, theo từ điển tiếng Việt, là quá trình gia tăng tư bản thông qua việc tích lũy giá trị thặng dư từ kết quả kinh doanh Doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Tuy nhiên, việc tích tụ tư bản đòi hỏi thời gian dài, trong khi tập trung kinh tế có thể diễn ra nhanh chóng thông qua các hành vi của doanh nghiệp.

Tập trung kinh tế đã tạo ra các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp, dẫn đến sự hình thành các nhóm doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế, từ đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh Các hình thức sáp nhập và hợp nhất giảm số lượng doanh nghiệp hoạt động bằng cách tập trung năng lực vào một doanh nghiệp duy nhất Việc mua lại hoặc liên doanh tạo ra các liên kết giữa các doanh nghiệp độc lập, hình thành nhóm kinh doanh theo kiểu tập đoàn Dù là tích tụ hay liên kết năng lực, tập trung kinh tế đều dẫn đến sự thay đổi trong tương quan cạnh tranh, khi thị trường xuất hiện doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có tiềm lực lớn hơn mà không cần trải qua quá trình tích tụ tư bản Điều này không làm giảm thị phần của các doanh nghiệp còn lại, nhưng thay đổi vị trí cạnh tranh của chúng so với doanh nghiệp được hình thành từ quá trình tập trung kinh tế.

Một trong những lý do chính khiến doanh nghiệp tập trung vào kinh tế là nhu cầu "tăng trưởng" Họ thực hiện điều này thông qua nhiều phương thức khác nhau như phát triển sản xuất, áp dụng công nghệ mới, cải tiến quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm.

“tăng trưởng nội sinh”, các doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường

Tăng trưởng nội sinh có thể tốn kém thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời không đảm bảo hiệu quả nếu thiếu chiến lược phát triển phù hợp Thay vào đó, doanh nghiệp nên xem xét phương thức "tăng trưởng ngoại sinh" thông qua các hoạt động như sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh để đạt được mục tiêu phát triển hiệu quả hơn.

Khi doanh nghiệp tiến tới thế độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh trên thị trường, nguy cơ lạm dụng quyền lực để gây hại cho các đối thủ cạnh tranh và ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng tăng lên Tập trung kinh tế, trong bối cảnh này, được hiểu là những hành vi của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tăng trưởng ngoại sinh, dẫn đến việc hạn chế cạnh tranh, và điều này cần được pháp luật điều chỉnh để bảo vệ trật tự cạnh tranh.

1.1.2 Các hình thức TTKT Để nhận dạng bản chất của hành vi tập trung kinh tế, ngoài việc phân tích khái niệm, các lý thuyết kinh tế và các luận thuyết của pháp luật cạnh tranh cũng đòi hỏi phải nhận dạng những hình thức biểu hiện của chúng Trong kinh tế học, tồn tại nhiều tiêu chí để xem xét về hình thức của tập trung kinh tế

Dựa vào mức độ liên kết từ hành vi tập trung kinh tế, có hai loại chính: tập trung kinh tế chặt chẽ, còn được gọi là tổ hợp, và tập trung không chặt chẽ, hay còn gọi là liên minh lý tài.

Kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát tập trung kinh tế

Cơ chế giám sát, rà soát tập trung kinh tế

1.1 Ngưỡng thông báo tập trung kinh tế

"Doanh số trong nước" là yếu tố quan trọng để xác định ngưỡng thông báo TTKT theo Luật Chống độc quyền sửa đổi năm 2010 của Nhật Bản Khái niệm này được định nghĩa là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cung cấp tại Nhật Bản trong năm tài chính gần nhất Ngưỡng thông báo TTKT áp dụng cho cả công ty trong và ngoài nước, và doanh số bán hàng trong nước cũng bao gồm doanh số từ xuất khẩu trực tiếp vào Nhật Bản, bất kể công ty có hiện diện tại đây hay không.

Ngưỡng thông báo TTKT đối với việc mua cổ phần, bao gồm cả liên doanh, được xác định dựa trên doanh số bán hàng trong nước và tỷ lệ cổ phần nắm giữ Cần thông báo khi tổng doanh thu nội địa của nhóm công ty mua lại vượt quá 20 tỷ JPY và tổng doanh thu nội địa của công ty bị mua lại và các công ty con vượt quá 5 tỷ JPY Việc mua lại dẫn đến công ty mua có thị phần trên 20% hoặc 50% tổng số quyền biểu quyết của cổ đông công ty bị mua lại cũng cần thông báo Đối với sáp nhập và chuyển nhượng cổ phần, ngưỡng thông báo áp dụng khi doanh số bán hàng trong nước của nhóm công ty tham gia vượt quá 20 tỷ JPY và 5 tỷ JPY tương ứng Trong trường hợp mua lại doanh nghiệp, ngưỡng thông báo cũng dựa trên doanh số bán hàng trong nước, yêu cầu thông báo khi tổng doanh thu của nhóm công ty mua lại vượt quá 20 tỷ JPY Các ngưỡng khác nhau cũng áp dụng cho công ty chuyển nhượng tùy thuộc vào việc chuyển nhượng toàn bộ doanh nghiệp hoặc một phần quan trọng của doanh nghiệp Đối với chia tách doanh nghiệp, tiêu chuẩn thông báo khác nhau nhưng ngưỡng 20 tỷ JPY và 5 tỷ JPY vẫn được áp dụng.

Theo Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Úc (ACCC), doanh nghiệp không bắt buộc phải thông báo về các giao dịch mua bán, sáp nhập đến cơ quan cạnh tranh mà thực hiện theo cơ chế tự nguyện Tuy nhiên, ACCC khuyến khích các doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo và tham vấn trước khi tiến hành giao dịch.

Để giúp doanh nghiệp xác định liệu giao dịch có cần thông báo tới ACCC hay không, cơ quan cạnh tranh Úc đã thiết lập các ngưỡng như sau: (i) Hàng hóa của các bên tham gia sáp nhập có thể thay thế hoặc bổ sung cho nhau; (ii) Thị phần kết hợp của các bên tham gia sáp nhập vượt quá 20% trên thị trường liên quan.

Hàng năm, ACCC nhận hơn 300 hồ sơ từ doanh nghiệp về thông báo hoặc tham vấn Số vụ rà soát chính thức đang giảm dần nhờ vào việc ACCC đã thay đổi phương pháp đánh giá các vụ mua bán và sáp nhập Cơ quan này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong quy trình thông báo sơ bộ, yêu cầu các chứng cứ rõ ràng liên quan đến hạn chế cạnh tranh, đồng thời xem xét các doanh nghiệp không có thị phần lớn và quy mô giao dịch không quá lớn trên thị trường.

Bảng 1: Số liệu về số vụ việc rà soát do ACCC thực hiện qua các năm

Năm Số vụ rà soát chính thức

Số vụ rà soát sơ bộ Tổng số

(Nguồn: Website của Ủy ban Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng Úc)

Khi doanh nghiệp nhận thấy giao dịch dự kiến nằm trong ngưỡng thông báo, họ có thể nộp hồ sơ đến ACCC để thảo luận về các vấn đề cạnh tranh Tất cả thông tin và dữ liệu mà doanh nghiệp cung cấp sẽ được bảo mật Trong hồ sơ, doanh nghiệp có thể trình bày các vấn đề và quan ngại liên quan đến cạnh tranh, cùng với các phân tích kinh tế và pháp luật thích hợp Một yếu tố tham khảo quan trọng để đánh giá sức mạnh thị trường là số liệu về thị phần mà doanh nghiệp cung cấp.

Việc thông báo cho cơ quan cạnh tranh là tự nguyện và không có ngưỡng pháp lý bắt buộc Theo "Hướng dẫn thủ tục sáp nhập năm 2012", Ủy ban sẽ không tiến hành điều tra các vụ sáp nhập của các công ty quy mô nhỏ có doanh thu tại Singapore trong năm tài chính trước khi thực hiện giao dịch.

5 triệu đô Sing và doanh thu trên toàn thế giới kết hợp trong năm tài chính trước khi giao dịch của tất cả các bên dưới 50 triệu đô Sing

Ủy ban đã đưa ra hướng dẫn về các thương vụ hợp nhất và sáp nhập có thể gây lo ngại về cạnh tranh, cụ thể là khi các thực thể sáp nhập đạt các ngưỡng nhất định: (i) nếu thị phần của các thực thể sáp nhập từ 40% trở lên; hoặc (ii) nếu thị phần từ 20 đến 40% và thị phần của ba doanh nghiệp lớn nhất sau hợp nhất (CR3) đạt 70% hoặc hơn.

Các bên sáp nhập được khuyến khích thông báo cho Ủy ban nếu thương vụ sáp nhập nằm trong ngưỡng hoặc vượt quá một trong hai ngưỡng trên

Ủy ban có quyền rà soát các thương vụ sáp nhập ngay cả khi các bên tham gia không nằm trong ngưỡng kiểm soát nếu có nghi ngờ về tác động đến cạnh tranh Thị phần chỉ là một trong nhiều yếu tố được xem xét trong đánh giá thương vụ Thông báo sáp nhập là tự nguyện, không có ngưỡng hay thời hạn quy định bởi Luật Cạnh tranh, và các bên được khuyến khích tự đánh giá xem có cần thông báo cho Ủy ban hay không.

Ngưỡng thông báo đối với các giao dịch sáp nhập hoặc mua lại dựa trên doanh thu hoặc giá trị tài sản của công ty mẹ và giá trị giao dịch Các bên liên quan phải thông báo cho PCC khi lợi nhuận gộp hàng năm hoặc giá trị tài sản tại Philippines của công ty mẹ vượt quá 1 tỷ Peso, và giá trị giao dịch cũng trên 1 tỷ Peso Điều này áp dụng cho ít nhất một trong các công ty tham gia giao dịch, bao gồm tất cả các công ty con mà công ty mẹ kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp.

1 tỷ Peso;và (iii ) Giá trị của giao dịch vượt quá 1tỷ Peso

Ngưỡng xác định cổ phần biểu quyết của bên mua và bên bán trong giao dịch mua bán, sáp nhập được quy định cụ thể Các bên tham gia, bao gồm cả công ty con, cần sở hữu cổ phần biểu quyết đạt ít nhất 35% hoặc 50% Điều này áp dụng khi các bên đã có cổ phần vượt ngưỡng 35% trước giao dịch, hoặc trong trường hợp mua lại một thực thể phi lợi nhuận, bên mua sẽ nắm giữ lợi nhuận tích lũy hoặc tài sản của thực thể đó vượt quá 35% hoặc 50%, tùy thuộc vào tình hình sở hữu trước đó.

Các giao dịch vượt ngưỡng sẽ bị đình chỉ trong 30 ngày sau khi bên sáp nhập nộp thông báo cho Ủy ban Nếu không thông báo, giao dịch sẽ bị phạt từ 1-5% giá trị Ủy ban có thể yêu cầu thêm thông tin trong thời gian 30 ngày và có thể gia hạn thêm 60 ngày để kiểm tra, tổng thời gian trì hoãn tối đa là 90 ngày Sau 90 ngày, nếu Ủy ban không có kết luận, các bên có thể tiếp tục thực hiện giao dịch.

1.2 Quy trình thông báo tập trung kinh tế

Giai đoạn I của quy trình xem xét giao dịch bắt đầu khi Ủy ban Thương mại Lành mạnh Nhật Bản (JFTC) nhận thông báo về việc thỏa thuận kinh doanh JFTC có thời gian 30 ngày để đánh giá giao dịch và yêu cầu thông tin từ các bên liên quan Trong trường hợp cần thiết, bên nộp đơn hoặc các bên khác có thể rút lại thông báo ban đầu và nộp lại sau khi thảo luận với JFTC.

Dựa trên kết quả rà soát giai đoạn 1, nếu JFTC xác định giao dịch không gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể, họ sẽ gửi thư thông báo quyết định không ban hành lệnh ngừng hoặc hủy bỏ giao dịch Ngược lại, nếu cần đánh giá chi tiết hơn, JFTC sẽ tiến hành rà soát giai đoạn II và yêu cầu bên nộp đơn cung cấp các báo cáo, thông tin hoặc tài liệu cần thiết.

Thời hạn xem xét Giai đoạn II là 120 ngày kể từ khi JFTC chấp nhận thông báo, và 90 ngày kể từ khi nhận đầy đủ báo cáo, thông tin hoặc tài liệu theo yêu cầu vào cuối Giai đoạn I.

Đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của tập trung kinh tế

2.1 Các tiêu chí định lượng

2.1.1 Các chỉ số đo lường mức độ tập trung kinh tế

Tại nhiều quốc gia có luật cạnh tranh, mức độ tập trung trong ngành được sử dụng bởi cơ quan quản lý cạnh tranh như một chỉ số để xác định quy mô tương đối của các doanh nghiệp so với toàn bộ các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực Những chỉ số này cũng hỗ trợ trong việc xác định cấu trúc thị trường của ngành Hai chỉ số tập trung phổ biến nhất là tỷ lệ tập trung của 3 hoặc 5 doanh nghiệp (CR3 và CR5) và chỉ số HHI (Hirschman – Herfindahl Index).

Chỉ số CR3 đo lường tổng thị phần của ba doanh nghiệp lớn nhất trong một thị trường, trong khi chỉ số HHI tính tổng bình phương thị phần của tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường đó Thị phần được xác định bằng cách lấy phần trăm sản lượng hàng hóa bán ra của doanh nghiệp so với tổng sản lượng hàng hóa trên thị trường Trong những trường hợp khó xác định sản lượng, thị phần cũng có thể được tính dựa trên doanh số bán hàng.

2.1.2 Đánh giá khả năng gây tác động HCCT đáng kể sử dụng các tiêu chí định lượng

Hướng dẫn về tập trung kinh tế của Nhật Bản thiết lập các tiêu chuẩn đánh giá đa dạng cho các loại giao dịch khác nhau, dựa trên cấu trúc và tính chất của chúng Nội dung hướng dẫn bao gồm các chương liên quan đến liên kết kinh doanh theo chiều ngang và chiều dọc hoặc hỗn hợp, đồng thời phân biệt rõ ràng giữa tác động hạn chế cạnh tranh từ hành vi đơn phương và hành vi kết hợp.

JFTC tiến hành đánh giá các giao dịch tập trung kinh tế riêng lẻ dựa trên khả năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể trong thị trường liên quan.

Ngưỡng an toàn cho giao dịch theo chiều ngang được xác định qua các tiêu chí: HHI sau tập trung kinh tế không vượt quá 1.500; HHI từ 1.500 đến 2.500 với mức tăng HHI không quá 250; hoặc HHI trên 2.500 với mức tăng dưới 150 Đối với giao dịch theo chiều dọc và hỗn hợp, tiêu chí bao gồm thị phần kết hợp không vượt quá 10% ở các thị trường liên quan và HHI sau tập trung kinh tế không quá 2.500, cùng với thị phần kết hợp không quá 25% trên bất kỳ thị trường nào liên quan.

Các ngưỡng số liệu như HHI không phải là tuyệt đối mà chỉ mang tính hướng dẫn Việc đánh giá thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, được nêu trong Hướng dẫn về tập trung kinh tế Nếu HHI sau tập trung kinh tế dưới 2.500 và thị phần kết hợp không vượt quá 35%, thì khả năng liên kết kinh doanh bị coi là hạn chế cạnh tranh là thấp.

Luật Cạnh tranh Úc không quy định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế và Mục

50 quy định đánh giá việc tập trung kinh tế thông qua tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường Những quy định này nhằm bảo vệ sự cạnh tranh và ngăn chặn các hành vi có thể dẫn đến độc quyền hoặc giảm thiểu sự cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau Việc áp dụng các quy định này sẽ đảm bảo một môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường.

Luật Cạnh tranh Úc quy định cơ chế thông báo tập trung kinh tế tự nguyện, cho phép doanh nghiệp không bắt buộc phải nộp hồ sơ thông báo tới ACCC trước khi thực hiện giao dịch mua bán hoặc sáp nhập Tuy nhiên, theo Hướng dẫn sáp nhập 2008, các doanh nghiệp có thị phần kết hợp sau khi sáp nhập vượt quá 20% trên thị trường liên quan được khuyến khích nên nộp hồ sơ thông báo Ngưỡng thị phần 20% là tiêu chí quan trọng giúp doanh nghiệp xác định xem có cần hoặc nên thông báo về việc tập trung kinh tế hay không Việc xác định chính xác thị trường liên quan là rất cần thiết để tính toán thị phần kết hợp của các doanh nghiệp trong vụ việc.

Việc thiết lập ngưỡng thông báo giúp cơ quan cạnh tranh như ACCC quét và lọc các vụ việc cần rà soát, tập trung vào những trường hợp thực sự gây quan ngại về hạn chế cạnh tranh Ngưỡng này được xác định dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của ACCC trong việc xử lý các vụ việc trước đó.

Mức độ tập trung của thị trường được xác định bởi số lượng và quy mô doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đó Các chỉ số như CR3, CR5 và HHI là những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thay đổi cấu trúc thị trường, đặc biệt khi có các giao dịch mua bán và sáp nhập diễn ra Sự biến động của mức độ tập trung theo thời gian giúp cơ quan cạnh tranh nhận diện rõ ràng hơn về rào cản gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường Điều này thể hiện qua khả năng gia nhập của các doanh nghiệp mới và khả năng mở rộng thị phần của các doanh nghiệp nhỏ.

Chỉ số mức độ tập trung thị trường là công cụ quan trọng giúp cơ quan cạnh tranh đánh giá tác động của các vụ sáp nhập doanh nghiệp Nó cho phép xác định liệu việc sáp nhập có thể gây ra các tác động đơn phương và kết hợp trong tương lai Mối liên hệ giữa mức độ tập trung và sức mạnh thị trường của doanh nghiệp đóng vai trò then chốt trong phân tích các vụ sáp nhập.

Mức độ tập trung trên thị trường không phải là tiêu chí duy nhất để cơ quan cạnh tranh đánh giá tác động của các giao dịch mua bán, sáp nhập Doanh nghiệp có thể gia tăng thị phần thông qua việc tăng sản lượng, doanh thu nhờ ứng dụng công nghệ, giảm chi phí sản xuất và giá thành Vì vậy, những doanh nghiệp có thị phần lớn hoặc mức độ tập trung cao không nhất thiết đồng nghĩa với việc thị trường thiếu cạnh tranh.

ACCC thường dựa vào các tiêu chí như thị phần, mức độ tập trung thị trường và chỉ số HHI để đánh giá các vụ sáp nhập Những chỉ số này được tính toán dựa trên thị phần theo doanh thu hoặc công suất, và thông tin thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm thông tin từ các doanh nghiệp tham gia sáp nhập, đối thủ cạnh tranh, khách hàng, nhà cung cấp, hiệp hội và các báo cáo nghiên cứu thị trường.

Cách tính thị phần của doanh nghiệp phụ thuộc vào từng trường hợp cạnh tranh và nguồn thông tin thu thập được ACCC sẽ xem xét mức độ tập trung thị trường trước và sau giao dịch mua bán, sáp nhập, cũng như sự gia tăng mức độ tập trung Cụ thể, ACCC xác định rằng một số ngưỡng mức độ tập trung không gây lo ngại về cạnh tranh bao gồm: (i) Chỉ số HHI sau sáp nhập thấp hơn 2000; (ii) Chỉ số HHI sau sáp nhập cao hơn 2000 nhưng Delta HHI thấp hơn 100.

Khả năng gây hạn chế cạnh tranh trong tương lai có thể xảy ra khi giao dịch tạo ra thực thể có thị phần từ 40% trở lên, hoặc từ 20%-40% nhưng ba công ty lớn nhất chiếm trên 70% thị phần (CR3) Giao dịch sẽ không bị cấm nếu Ủy ban Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Singapore (CCCS) xác định lợi ích từ sáp nhập lớn hơn tác động tiêu cực, hoặc nếu Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định miễn trừ để bảo vệ lợi ích công Do đó, Luật cạnh tranh Singapore coi thị phần là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh trước khi quyết định cho phép hoặc cấm hành vi đó.

Đề xuất xây dựng Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định về

Ngày đăng: 19/09/2021, 08:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Bộ Công thương (2009), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam - Hiện trạng và dự báo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam - Hiện trạng và dự báo
Tác giả: Bộ Công thương
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2009
3. Phạm Hùng (2007), "Tổng quan về kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới", opera.com, tháng 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng quan về kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới
Tác giả: Phạm Hùng
Nhà XB: opera.com
Năm: 2007
5. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), "Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam", Nghiên cứu lập pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn
Nhà XB: Nghiên cứu lập pháp
Năm: 2006
6. Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc (2003), Luật mẫu về cạnh tranh, Loạt công trình nghiên cứu của UNCTAD về các vấn đề được đề cập trong luật và chính sách cạnh tranh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật mẫu về cạnh tranh
Tác giả: Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc
Nhà XB: Loạt công trình nghiên cứu của UNCTAD về các vấn đề được đề cập trong luật và chính sách cạnh tranh
Năm: 2003
7. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2005), Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh
Tác giả: Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2005
9. Amaro de Matos, J. 2001, Theoretical Foundations of Corporate Finance, Princeton University Press, New Jersey Sách, tạp chí
Tiêu đề: Theoretical Foundations of Corporate Finance
Tác giả: Amaro de Matos, J
Nhà XB: Princeton University Press
Năm: 2001
10. Andrade, G., Mitchell, M., Stafford, E. 2001, ‘New evidence and perspectives on mergers’, Journal of Economic Perspectives, Vol. 15, No. 2 (Spring), pp. 103-120 Sách, tạp chí
Tiêu đề: New evidence and perspectives on mergers
Tác giả: G. Andrade, M. Mitchell, E. Stafford
Nhà XB: Journal of Economic Perspectives
Năm: 2001
12. Vanderbilt University Press, Nashville. Argus, J. and Flynn, F. J. 1991, ‘Analysis of the determinants of aggregate takeover activity’, in Proceedings of Second International Conference on Asian-Pacific Financial Markets, 12-14 September, Hong Kong Sách, tạp chí
Tiêu đề: Proceedings of Second International Conference on Asian-Pacific Financial Markets
Tác giả: Argus, J., Flynn, F. J
Nhà XB: Vanderbilt University Press
Năm: 1991
15. Barber, B. M., Palmer, D., Wallace, J. 1995, ‘Determinants of conglomerate and predatory acquisitions: Evidence from the 1960s’, Journal of Corporate Finance, Vol. 1, pp. 283-318 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants of conglomerate and predatory acquisitions: Evidence from the 1960s
Tác giả: Barber, B. M., Palmer, D., Wallace, J
Nhà XB: Journal of Corporate Finance
Năm: 1995
18. Baumol, , St. Leonards, NSW. Black, B. S. 2000, ‘The first international merger wave (and the fifth and last U.S. wave)’, University of Miami Law Review, Vol. 54, pp. 799-818 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The first international merger wave (and the fifth and last U.S. wave)
Tác giả: B. S. Black
Nhà XB: University of Miami Law Review
Năm: 2000
19. Blackburn, K. & Ravn, M. O. 1992, ‘Business cycles in the United Kingdom: Facts and fictions’, Economica, Vol. 59, pp. 383-401 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Business cycles in the United Kingdom: Facts and fictions
Tác giả: K. Blackburn, M. O. Ravn
Nhà XB: Economica
Năm: 1992
20. Boehm, E. A. and Summers, P. M. 1999, Analysing and Forecasting Business Cycles with the Aid of Economic Indicators, Melbourne Institute Working Paper No. 18/99, Melbourne Institute of Applied Economic and Social Research, The University of Melbourne Sách, tạp chí
Tiêu đề: Analysing and Forecasting Business Cycles with the Aid of Economic Indicators
Tác giả: E. A. Boehm, P. M. Summers
Nhà XB: Melbourne Institute of Applied Economic and Social Research
Năm: 1999
21. Basedow, Jurgen and Pankoke, Stefan L., "General Report" in Jurgen Basedow, Ed., Limits and Control of Competition with View to International Harmonization, (The Hague: Kluwer Law International, 2002) Sách, tạp chí
Tiêu đề: General Report
22. Budzinski, Oliver, "Toward an International Governance of Transborder Mergers? Competition Networks and Institutions Between Centralism and Decentralism", NYU Journal ofInternational Law and Politics Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toward an International Governance of Transborder Mergers? Competition Networks and Institutions Between Centralism and Decentralism
Tác giả: Oliver Budzinski
Nhà XB: NYU Journal of International Law and Politics
23. Budzinski, Oliver, (2004) "The International Competition Network as an International Merger Control Institution" in John-Ren Chen, ed., International Institutions and Multilateral Enterprises : Global Players, Global Markets Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Institutions and Multilateral Enterprises : Global Players, Global Markets
Tác giả: Oliver Budzinski, John-Ren Chen
Năm: 2004
24. Maria Coppola (2011), US Federal Trade Commission, ‘ICN Best Practice: Soft Law’, CPI Antitrust Chronicle Sách, tạp chí
Tiêu đề: ICN Best Practice: Soft Law
Tác giả: Maria Coppola
Nhà XB: CPI Antitrust Chronicle
Năm: 2011
30. Interim Provisions on the Standards Applicable to Simple Cases in Concentrations of Undertakings (12 February 2014) and Guidelines for Notification of Concentration of Undertakings Under Simplified Merger Review Procedure Sách, tạp chí
Tiêu đề: Interim Provisions on the Standards Applicable to Simple Cases in Concentrations of Undertakings
Năm: 2014
32. Egge, Michael G.(2000), "The Harmonization of Competition Laws Worldwide", Richmond Journal of Global Law & Business, [Vol. 2:1, 2001]. Fiebig, Andre, "A Role for the WTO in International Merger Control&#34 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Harmonization of Competition Laws Worldwide
Tác giả: Michael G. Egge
Nhà XB: Richmond Journal of Global Law & Business
Năm: 2000
33. Halverson, James T. (1991), "Harmonization and Coordination ofInternational Merger Procedures&#34 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Harmonization and Coordination of International Merger Procedures
Tác giả: Halverson, James T
Năm: 1991
1. Nguyễn Thị Bảo Ánh (2006), Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w