1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thực trạng rối loạn trầm cảm ở sinh viên chuyên ngành y đa khoa năm thứ 5 và 6 tại trường đại học y dược năm học 2020 2021

69 34 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Rối Loạn Trầm Cảm Ở Sinh Viên Chuyên Ngành Y Đa Khoa Năm Thứ 5 Và 6 Tại Trường Đại Học Y Dược Năm Học 2020 2021
Tác giả Nguyễn Đức Lương
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Viết Chung, ThS. Mạc Đăng Tuấn
Trường học Đại học Y Dược
Chuyên ngành Y đa khoa
Thể loại khoá luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020-2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 69
Dung lượng 91,03 KB

Cấu trúc

  • Chương 1................................................................................................................................................... 4 (12)
    • 1.1 Giới thiệu về trầmcảm (12)
      • 1.1.1 Định nghĩa (12)
        • 1.1.1.1. Khái niệm trầmcảm (12)
        • 1.1.1.2. Nguyên nhân gây ra trầmcảm (12)
        • 1.1.1.3. Dịch tễ (13)
      • 1.1.2 Tính chất lâm sàng trầm cảm (14)
      • 1.1.3 Tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm (16)
      • 1.1.4 Giới thiệu về các thang đo lường trầm cảm và đánh giá các yếu tố liên quan (18)
    • 1.2 Trầm cảm trong sinh viên Y (20)
      • 1.2.1 Đặc điểm trầm cảm sinh viên y (20)
      • 1.2.2 Những yếu tố thuận lợi dẫn đến trầm cảm ở sinh viên y (21)
    • 1.3 Một số nghiên cứu trên về trầm cảm (24)
      • 1.3.1 Nghiên cứu trầm cảm ở người trẻ (24)
      • 1.3.2. Một số nghiên cứu tại Việt Nam về trầm cảm sinh viên và sinh viên y (24)
  • CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (26)
    • 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu (0)
    • 2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu (26)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (26)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu (26)
      • 2.3.3. Các biến số nghiên cứu (27)
      • 2.3.4. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin (29)
        • 2.3.4.1. Công cụ thu thập số liệu (29)
        • 2.3.4.2. Quy trình thu thập số liệu (30)
      • 2.3.5 Quản lý, xử lý và phân tích số liệu (31)
      • 2.3.6 Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu (31)
      • 2.3.7 Hạn chế của nghiên cứu (32)
  • Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (33)
    • 3.1. Mô tả tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược, ĐHQGHN năm học 2020-2021 (33)
      • 3.1.1. Đặc điểm thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu (33)
      • 3.1.2. Tỷ lệ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu (39)
    • 3.2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược, ĐHQGHN năm học 2020-2021 (42)
      • 3.2.1. Yếu tố đặc điểm nhân khẩu học (42)
      • 3.2.2. Yếu tố liên quan đến gia đình (44)
      • 3.2.3. Yếu tố liên quan đến kết quả học tập (48)
  • CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN (49)
    • 4.1. Đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu (0)
    • 4.2. Thực trạng rối loạn trầm cảm ở sinh viên chuyên ngành y đa khoa năm thứ 5 và 6 tại trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021 và các yếu tố liên quan (50)
      • 4.2.1. Tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa năm thứ 5 và 6 trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021 (50)
      • 4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa năm thứ 5 và 6 trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021 (50)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN (54)
    • 5.1. Tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa năm thứ 5 và 6 trường Đại học Y Dƣợc năm học 2020-2021 (54)
    • 5.2. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa (54)
  • CHƯƠNG 6: KHUYẾN NGHỊ (55)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (56)

Nội dung

4

Giới thiệu về trầmcảm

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, được đặc trưng bởi cảm giác buồn rầu, mất đi sự hứng thú hoặc khoái cảm, cùng với cảm giác tội lỗi và giá trị bản thân thấp Ngoài ra, trầm cảm còn gây ra rối loạn giấc ngủ, ăn uống và ảnh hưởng đến khả năng tập trung.

Theo DSM-IV của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, trầm cảm được định nghĩa là một rối loạn cảm xúc với các triệu chứng như giảm khí sắc, mất hứng thú, và giảm năng lượng Tình trạng này dẫn đến mệt mỏi gia tăng, đặc biệt sau những nỗ lực nhỏ, và kéo dài ít nhất hai tuần.

Trầm cảm là một rối loạn khí sắc phổ biến trong các rối loạn tâm thần, gây ra tình trạng buồn chán và giảm hứng thú kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến công việc, học tập, gia đình và xã hội Đây là một rối loạn tâm thần có thể điều trị hiệu quả.

Hội chứng trầm cảm được xem là một tình trạng cấp cứu trong lĩnh vực tâm thần học Để xử lý hội chứng này, việc đánh giá mức độ nghiêm trọng, nguy cơ tự sát và tính đa dạng lâm sàng là rất quan trọng Tính đa dạng này thể hiện qua các khía cạnh cảm xúc, nhận thức, cơ thể và hành vi.

1.1.1.2 Nguyên nhân gây ra trầmcảm

Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp mộtsốdữliệunhưngchođếnnaykhoahọcvẫnchưatìmrađượcnguyênnhânchín h xácgâyratrầmcảm.Tuynhiêncó thể phân chia ra 3 loại như sau:

Trầm cảm nội sinh là loại rối loạn tâm thần mà chưa có bằng chứng rõ ràng về tổn thương hình thái của hệ thần kinh Mặc dù phần lớn bệnh nhân vẫn có thể ăn uống, vận động bình thường, nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc thể hiện cảm xúc, hành vi và ý nghĩa sống, dẫn đến những biểu hiện không phù hợp và khó hiểu.

- Trầm cảm tâm sinh: gặp sau các sang chấn tâm lý

- Trầm cảm thực tổn: do các bệnh thực tổn ở não

Hiện nay, có nhiềunghiêncứuđãchỉrađượccácyếu tố liên quan đến các rối loạn trầm cảm Bao gồm các yếu tố sau [10,11,12]:

- Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính cách, suy nghĩ, trình độ học vấn, lốisống…

- Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vậtchất…

- Môi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hoá, kinhtế…

Nơi làm việc bao gồm nhiều yếu tố quan trọng như các mối quan hệ trong công việc, văn hóa tổ chức, và môi trường làm việc Cơ sở vật chất và trang thiết bị cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu suất làm việc Bên cạnh đó, khối lượng công việc và các nguy cơ tiềm ẩn cũng cần được xem xét kỹ lưỡng, cùng với vị trí và chức danh của nhân viên để đảm bảo một môi trường làm việc hiệu quả và an toàn.

- Môi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi, sự ônhiễm…

Trầm cảm là một bệnh lý phổ biến, với nguy cơ mắc bệnh trong suốt cuộc đời khoảng 10% Theo DSM-V (2013), tỷ lệ mắc trầm cảm trong vòng 12 tháng tại Mỹ là 7% dân số.

Tỉ lệ trầm cảm ở nữ giới cao gấp 2 lần so với nam giới, với nguy cơ mắc rối loạn trầm cảm trong suốt cuộc đời là 10-25% ở nữ và 5-12% ở nam Trên toàn cầu, tỉ lệ trầm cảm ở nữ thường cao hơn từ 1,5-3 lần so với nam, điều này có thể liên quan đến sự khác biệt về hormon và trải nghiệm sinh con Tuy nhiên, trong giai đoạn tuổi thiếu niên, tỉ lệ trầm cảm giữa nam và nữ lại tương đương nhau.

- Rối loạn trầm cảm gặp nhiều ở lứa tuổi 25-44.

- Những người li di, hoặc li thân có nguy cơ trầm cảm cao hơn những người có giađình ở cùng một lứa tuổi.

- Tái diễn là khuynh hướng thường gặp ở trầm cảm.

Theo Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia Việt Nam, khoảng 25% dân số Việt Nam đang gặp phải tình trạng trầm cảm Tỷ lệ này đang gia tăng trong những năm gần đây, một phần do tuổi thọ ngày càng cao và sự quan tâm của cộng đồng đối với vấn đề sức khỏe tâm thần Bên cạnh đó, việc các bác sĩ áp dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm chính xác hơn cũng góp phần vào sự gia tăng này.

1.1.2 Tính chất lâm sàng trầm cảm

Giai đoạn trầm cảm điển hình thường phát triển từ từ trong nhiều tuần, bắt đầu với các biểu hiện của hội chứng suy nhược và sự suy giảm khí sắc Sau đó, người bệnh sẽ xuất hiện đủ bộ ba triệu chứng trầm cảm.

Cảm xúc bị ức chế, hay còn gọi là cảm xúc trầm cảm, là triệu chứng chính thể hiện qua sự buồn rầu với nhiều mức độ khác nhau Tình trạng này có thể bao gồm cảm giác chán nản, thất vọng, và một nỗi buồn sâu sắc, nặng nề, dẫn đến cảm giác tuyệt vọng và nguy cơ tự sát.

Tư duy bị ức chế là quá trình liên tưởng chậm chạp, với hồi ức khó khăn và suy nghĩ thường xuyên chìm đắm trong những chủ đề như trầm cảm, bi quan, xấu hổ, tủi nhục và bất hạnh Trong nhiều trường hợp, tình trạng này có thể dẫn đến hoang tưởng bị buộc tội hoặc tự buộc tội, từ đó gia tăng nguy cơ tự sát.

Bệnh nhân thường có dấu hiệu chậm chạp trong việc nói, gặp khó khăn khi trả lời câu hỏi, và thường nói với âm lượng nhỏ, thậm chí thì thào Đôi khi, họ không nói gì mà chỉ phát ra âm thanh như rên rỉ hoặc khóc lóc.

Bệnh nhân có nguy cơ tự sát cao, với những ý tưởng và hành vi tự sát có thể xuất hiện bất cứ lúc nào Nhiều khi, họ có thể giả vờ khỏi bệnh để trở về nhà và thực hiện hành vi tự sát, lừa dối cả bác sĩ và người thân Do đó, việc theo dõi sát sao bệnh nhân là rất cần thiết để ngăn chặn các hành vi tự sát.

- Hoạt động bị ức chế (Depressed activity):

Bệnh nhân thường ngồi hoặc nằm im lìm trong thời gian dài, với tư thế khom lưng, cúi đầu, và thường xuyên nằm ép trên giường Họ có dấu hiệu hoạt động bị ức chế, thể hiện qua những hành vi đơn điệu, đi lờ đờ và quanh quẩn trong phòng.

- Rối loạn tâm thần khác (Other mental disorders):

- Hoang tưởng, ảo giác xuất hiện nhiều hơn trong hưng cảm Nội dung thường là bị tội, tựbuộc tội, nghi bệnh.

- Ảo thanh nghe tiếng nói tố cáo tội lỗi của mình hay báo trước hình phạt, tiếng khóc tiếngthan của đám ma.

- Khả năng chú ý giảm sút do bị ức chế.

- Những rối loạn khác (Other disorders):

Trầm cảm trong sinh viên Y

1.2.1 Đặc điểm trầm cảm sinh viên y

Sinh viên thường phải đối mặt với áp lực từ việc học tập, cuộc sống và kỳ thi, dẫn đến nguy cơ rối loạn sức khỏe tâm thần Khi gặp phải vấn đề này, chất lượng cuộc sống của họ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gây mất cân bằng về thể chất và cảm xúc, làm giảm niềm tin vào bản thân và khả năng giải quyết vấn đề Hệ quả là sinh viên khó khăn trong việc hoàn thành học tập và xây dựng mối quan hệ xã hội Nghiêm trọng hơn, các rối loạn sức khỏe tâm thần nhẹ có thể tiến triển thành những vấn đề nghiêm trọng hơn như stress, lo âu, trầm cảm, thậm chí là hành vi tự sát.

Sinh viên thường gặp phải nhiều biểu hiện rối loạn sức khỏe tâm thần, bao gồm nhức đầu do thiếu ngủ, lo âu quá mức và khó kiểm soát cảm xúc Họ dễ rơi vào trạng thái buồn bã, kích động và cảm thấy bất an khi đối mặt với các vấn đề trong cuộc sống Tình trạng căng thẳng kéo dài do áp lực từ học tập, bạn bè và gia đình cũng là một vấn đề phổ biến.

Nhiều sinh viên không nhận ra rằng các triệu chứng họ gặp phải thực sự là dấu hiệu của rối loạn sức khỏe tâm thần Sự hiểu lầm này dẫn đến việc họ không đánh giá đúng tình trạng sức khỏe tâm thần của bản thân và xem nhẹ các biểu hiện của rối loạn Việc cho rằng chỉ những người bị trầm cảm hoặc tâm thần mới cần sự hỗ trợ đã khiến nhiều sinh viên ngần ngại tìm đến các chuyên gia tư vấn và có cái nhìn tiêu cực đối với những người gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần.

Nhiều bạn trẻ chỉ tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên môn về sức khỏe tâm thần khi tình trạng đã nghiêm trọng, thậm chí có biểu hiện tự sát Thái độ tiêu cực này không chỉ cản trở sinh viên trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ mà còn gây ra những tác động xấu đến tâm lý của họ.

1.2.2 Những yếu tố thuận lợi dẫn đến trầm cảm ở sinh viên y

Sinh viên y khoa phải đối mặt với áp lực lớn trong học tập và nghề nghiệp, đặc biệt là trong những năm đầu khi họ gặp khó khăn trong giao tiếp và thích nghi với môi trường đại học Khi lên năm 3, 4, sinh viên bắt đầu làm quen với việc trực tại bệnh viện, yêu cầu sắp xếp thời gian hợp lý cho việc ăn uống, nghỉ ngơi và học tập Đến năm 5, 6, áp lực về kiến thức gia tăng, khi các em cần chuẩn bị đủ kiến thức để tốt nghiệp và tìm kiếm việc làm Những yếu tố này góp phần dẫn đến tình trạng trầm cảm ở sinh viên y khoa.

Nghiên cứu về nguy cơ trầm cảm ở sinh viên đa khoa trường Đại học Y Hà Nội trong năm học 2010-2011 đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố liên quan đến tình trạng này Một số điều kiện phổ biến gây ra trầm cảm cho sinh viên y bao gồm áp lực học tập, khối lượng công việc lớn và sự thiếu hụt hỗ trợ tâm lý.

Sinh viên thường gặp khó khăn trong việc xây dựng mối quan hệ mới, đặc biệt khi xảy ra mâu thuẫn với bạn cùng phòng, tham gia các hoạt động xã hội hoặc gặp rắc rối trong gia đình Những mâu thuẫn này có thể dẫn đến cảm giác mệt mỏi, căng thẳng và nếu không được giải quyết kịp thời, dễ gây ra trầm cảm Để tham gia các hoạt động xã hội một cách hiệu quả, sinh viên cần năng động và hòa đồng; nếu không, họ có thể rơi vào trạng thái cô lập và suy nghĩ tiêu cực, làm gia tăng nguy cơ trầm cảm Đặc biệt, sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,7 lần so với những người khác do thiếu sự quan tâm và chia sẻ trong cuộc sống.

Khó khăn tiếp theo là sinh viên phải thay đổi thói quen ngủ, ăn uống.

Do lịch học và lịch trực chồng chéo, sinh viên gặp khó khăn trong việc sắp xếp thời gian hợp lý Việc thay đổi thói quen ăn uống và ngủ không chỉ ảnh hưởng đến nhịp sinh học mà còn dẫn đến tình trạng mệt mỏi, buồn chán và cáu gắt, làm tăng nguy cơ trầm cảm Cụ thể, 65,6% sinh viên có nguy cơ trầm cảm do thay đổi thói quen ăn uống và 70,7% do thay đổi thói quen ngủ.

Sinh viên có vấn đề về sức khỏe có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,62 lần so với những sinh viên bình thường, trong đó sinh viên Y4 có tỷ lệ nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,13 lần Khi sức khỏe không được đảm bảo, sinh viên sẽ mất tập trung vào việc học, không đạt được mục tiêu học tập và cảm thấy lo lắng về việc thua kém bạn bè Điều này dẫn đến cảm giác buồn chán, thất bại và bất lực, từ đó gia tăng nguy cơ trầm cảm.

Khi được hỏi về học tập, 86,4% sinh viên có nguy cơ trầm cảm cho biết họ có điểm số thấp hơn mong đợi Các sinh viên thi vào Đại học Y Hà Nội thường có học lực khá và đặt ra mục tiêu học tập cao Tuy nhiên, khi không đạt được những mục tiêu này, họ dễ cảm thấy thất vọng và buồn chán, dẫn đến tình trạng trầm cảm do thiếu phương pháp giải quyết vấn đề.

Sinh viên thường xuyên bỏ học có nguy cơ trầm cảm cao hơn so với những người không bỏ tiết Việc không nắm bắt được bài học và thiếu giao tiếp trong học tập dẫn đến kết quả thi không cao, không đạt được mục tiêu học tập, thậm chí có thể bị lưu ban Họ cảm thấy bị bạn bè coi thường và chịu áp lực lớn từ gia đình, từ đó dẫn đến sự tự ti và xa lánh mọi người.

Sinh viên thường chịu áp lực học tập lớn từ gia đình và bản thân, dẫn đến thời gian biểu không hợp lý và giờ học kéo dài mà không có thời gian nghỉ ngơi Điều này khiến họ luôn trong trạng thái căng thẳng và lo lắng, gây suy giảm trí nhớ và tâm lý bất an Nhóm sinh viên này có nguy cơ trầm cảm cao gấp 2,2 lần so với những sinh viên không bị áp lực học tập.

Trong môi trường sống ồn ào và bừa bãi, sinh viên có nguy cơ trầm cảm cao, lên tới 45,6%, gấp 1,91 lần so với những sinh viên khác Môi trường sống ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tập trung và tinh thần của sinh viên; nếu nơi ở lộn xộn, họ sẽ cảm thấy bất an và mệt mỏi, dẫn đến cảm giác buồn chán kéo dài Đặc biệt, sinh viên năm thứ sáu (Y6) đối mặt với nguy cơ trầm cảm cao gấp 4,49 lần do áp lực từ các vấn đề tương lai như tốt nghiệp, nghề nghiệp và việc làm.

Bước vào năm học cuối, sinh viên phải tập trung vào học tập, thi cử và thực tập, đồng thời lo lắng về việc tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp Nhiều nơi làm việc yêu cầu phương tiện đi lại, điều này khiến sinh viên năm cuối phải suy nghĩ Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh viên năm cuối có nguy cơ trầm cảm do vấn đề liên quan đến xe cộ cao gấp 3,8 lần so với sinh viên khác trong khối.

Một số nghiên cứu trên về trầm cảm

1.3.1 Nghiên cứu trầm cảm ở người trẻ

Trầm cảm là một rối loạn phổ biến trên toàn cầu, xảy ra ngay cả ở những khu vực chưa nhận thức rõ về vấn đề này Tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi, giới tính, văn hóa và tầng lớp xã hội, ảnh hưởng đến cả nam và nữ, trẻ em và người lớn.

Nghiên cứu của Ganesh S Kumar về trầm cảm ở sinh viên y khoa tại Karnataka cho thấy tỷ lệ trầm cảm chung đạt 71,25% Trong số những sinh viên bị trầm cảm, 80% gặp phải mức độ nhẹ và trung bình, với 46,3% là phụ nữ và 53,7% là nam giới Theo thang điểm BECK, 29,8% sinh viên được đánh giá là bình thường, 27,8% ở mức độ nhẹ, 29,3% ở mức độ vừa, 7,5% mắc trầm cảm nặng, và 6,7% bị trầm cảm rất nặng Đặc biệt, tỷ lệ trầm cảm thấp hơn ở sinh viên y khoa năm nhất và năm hai.

Nghiên cứu tại Viện Karolinska, Thụy Điển, cho thấy tỷ lệ sinh viên y mắc triệu chứng trầm cảm đạt 12,9%, cao hơn so với mức trung bình trong cộng đồng Đặc biệt, tỷ lệ này là 16,1% ở nữ sinh viên, trong khi ở nam sinh viên chỉ là 8,1% Ngoài ra, có 2,7% sinh viên đã từng có ý định tự tử.

1.3.2 Một số nghiên cứu tại Việt Nam về trầm cảm sinh viên và sinh viên y

Theo nghiên cứu của Nguyễn Triệu Phong về áp lực học tập và sức khỏe tâm thần của sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Hà Nội năm 2011, có khoảng 8% sinh viên thường xuyên cảm thấy trầm cảm, 6,5% cảm thấy buồn và 6,3% cảm thấy cô đơn Ngoài ra, 8% sinh viên nói chuyện ít hơn bình thường, 5,3% gặp khó khăn trong việc bắt đầu công việc, và 5% khóc nhiều lần Tỷ lệ sinh viên thỉnh thoảng gặp phải các vấn đề liên quan đến trầm cảm cũng cao, với 10,5% cảm thấy buồn, 6% cảm thấy cô đơn, 17,3% gặp khó khăn trong việc ghi nhớ, 6,5% tự nhận thấy mình bị trầm cảm, 10% không muốn ăn và 6,5% cảm thấy mọi việc mình làm là sai.

Nghiên cứu của Niemi chỉ ra rằng lo âu, căng thẳng, khó chịu, nhức đầu và đau ở cổ và vai là những triệu chứng phổ biến trong suốt 6 năm học tại trường Y Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên tăng lên đáng kể vào thời điểm tốt nghiệp, với 36% sinh viên cảm thấy trầm cảm so với 17% khi bắt đầu lâm sàng Cuối thời gian đào tạo tiền lâm sàng, 47% sinh viên cảm thấy căng thẳng rất mạnh, trong khi 36% cảm thấy căng thẳng nhiều vào đầu khóa học và 40% vào cuối thời gian đào tạo lâm sàng.

Trong nghiên cứu sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược thành phố

Hồ Chí Minh, cho thấy 39,6% sinh viên có triệu chứng trầm cảm và 60,4% sinh viên không có triệu chứng trầm cảm [21].

Nghiên cứu tại trường Đại học Y Hà Nội trong năm học 2010-2011 cho thấy tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm đạt 47,6% Cụ thể, tỷ lệ này ở sinh viên Y2 là 51,3%, sinh viên Y4 là 50%, và sinh viên Y6 là 40%.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Địa điểm, thời gian nghiên cứu

- Thời gian: Tháng 8/2020 đến tháng 6/2021.

- Thời gian thu thập số liệu: Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid – 19 nên chúng tôi gửi phiếu khảo sát để thu thập thông tin từ tháng 3/2021 đến tháng 5/2021

- Địa điểm: Trường đại học Y Dược – ĐHQG Hà Nội

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang

2.3.2 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:

Nghiên cứu được thực hiện trên toàn bộ sinh viên y đa khoa năm thứ 5 và năm thứ 6 tại Trường Đại học Y Dược, ĐHQG Hà Nội, những người đã đồng ý tự nguyện tham gia.

Để thu thập số liệu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành gửi phiếu khảo sát từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2021, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 Kết quả thu thập được thông tin từ 96 đối tượng, bao gồm 30 sinh viên y đa khoa năm thứ 5 và 35 sinh viên y đa khoa năm thứ 6.

2.3.3 Các biến số nghiên cứu:

Bảng 2.1: Bảng các biến số nghiên cứu

Mục tiêu 1: Mô tả tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021.

Tỷ lệ có nguy cơ Tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm trầm cảm theo khối

Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021

Nhóm biến số Đặc điểm chung

Yếu tố căng liên quan trường học

Thiếu thời gian cho gia đình và bạn bè

Yếu liên nhân và mâu thuẫn nội tâm

Yếu tố căng thẳng liên quan đến việc dạy và học

Hệ thống đánh giá trong thi cử cần được cải thiện để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả Nhiều học sinh gặp khó khăn do thiếu tài liệu nghiên cứu và công cụ học tập, dẫn đến việc không theo kịp lịch học Hơn nữa, sự thiếu hướng dẫn từ giáo viên và kỹ năng giảng dạy kém cũng là những yếu tố cản trở quá trình học tập Bên cạnh đó, việc bài tập không phù hợp với khả năng của học sinh cũng cần được xem xét để nâng cao chất lượng giáo dục.

Gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài

Không thể trả lời các câu hỏi từ giáo viên

Phản hồi từ giáo viên thường không đủ, dẫn đến việc học sinh thiếu định hướng trong quá trình học tập Quy trình chấm điểm cũng không hợp lý, gây khó khăn cho học sinh trong việc hiểu rõ năng lực của bản thân Bên cạnh đó, nhiều học sinh thiếu động cơ học tập, làm giảm hiệu quả trong việc tiếp thu kiến thức Cuối cùng, việc không có đủ thời gian để xem lại những gì đã học càng khiến cho việc củng cố kiến thức trở nên khó khăn hơn.

Không đủ kỹ năng thực hành lâm sàng Thiếu sự công nhận đối với công việc đã hoàn thành

Yếu tố căng thẳng Xung đột với các sinh viên khác

Yếu tố căng liên quan đến động lực và ham muốn

Yếu tố căng liên quan đến động nhóm

2.3.4 Phương pháp và công cụ thu thập thông tin:

2.3.4.1 Công cụ thu thập số liệu:

Thang đo trầm cảm PHQ-9 (Phụ lục 2) Modified for Teens bao gồm 9 câu hỏi nhằm đánh giá mức độ trầm cảm ở thanh thiếu niên Kết quả đánh giá được phân loại theo mức độ như sau: từ 10 đến 14 điểm là trầm cảm nhẹ, từ 15 đến 19 điểm là trầm cảm vừa, và từ 20 đến 27 điểm là trầm cảm nặng.

Thang đo MSSQ (Phụ lục 3) được thiết kế để đánh giá mức độ stress và các yếu tố liên quan đến đào tạo y khoa Công cụ này nhằm xác định các yếu tố gây căng thẳng cho sinh viên y khoa và đo lường cường độ stress từ các tác nhân khác nhau MSSQ được chia thành 6 nhóm nguyên nhân gây căng thẳng, dựa trên các nghiên cứu trước đây, với tổng cộng 40 câu hỏi tình huống.

1 Yếu tố căng thẳng liên quan đến trường học

2 Yếu tố căng thẳng liên quan đến cá nhân và mâu thuẫn nội tâm,

3 Yếu tố căng thẳng liên quan đến việc dạy và học,

4 Yếu tố căng thẳng liên quan đến xã hội,

5 Yếu tố căng thẳng liên quan đến động lực và ham muốn,

6 Yếu tố căng thẳng liên quan đến hoạt động nhóm

2.3.4.2 Quy trình thu thập số liệu:

Bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên các biến số nghiên cứu và sẽ được thử nghiệm trên sinh viên để kiểm tra tính logic và sự phù hợp trước khi chính thức triển khai.

Sau khi lựa chọn sinh viên tham gia nghiên cứu, cần liên hệ với phòng Đào tạo Đại học để kiểm tra lịch học của họ Dựa trên lịch học này, hãy chọn thời gian phù hợp nhất để tiến hành nghiên cứu, nhằm hạn chế ảnh hưởng đến thời gian học tập của sinh viên.

Sinh viên tham gia nghiên cứu sẽ nhận được giấy mời cùng mã cá nhân, kèm theo giải thích chi tiết về mục đích và tính bảo mật của nghiên cứu Họ cũng sẽ được thông báo về thời gian cần thiết để hoàn thành phiếu điều tra, từ đó có thể quyết định có tham gia nghiên cứu hay không.

- Sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu được cung cấp phiếu điều tra online và tự đánh giá.

- Phiếu điều tra không thu thập các thông tin để nhận diện đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thu thập dữ liệu qua khảo sát trực tuyến, sử dụng mẫu phiếu điện tử được thiết kế trên Google Form Quá trình khảo sát diễn ra từ tháng 3 đến hết tháng 5 năm 2021.

2.3.5 Quản lý, xử lý và phân tích số liệu:

- Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu.

- Số liệu điều tra được nhập vào máy tính với phần mềm EPI-DATA.

- Việc phân tích được tiến hành dựa trên phần mềm EPI-DATA.

2.3.6 Các khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu:

Nghiên cứu đã nhận được sự chấp thuận từ Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo và công tác Học sinh sinh viên của Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho phép tiến hành thực hiện nghiên cứu.

Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả các đối tượng sẽ nhận được thông tin rõ ràng về mục tiêu và nội dung nghiên cứu Họ có quyền tự nguyện quyết định tham gia, và mọi thông tin thu thập được sẽ chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, hoàn toàn được bảo mật.

Số liệu đảm bảo tính khoa học, tin cậy và chính xác.

2.3.7 Hạn chế của nghiên cứu:

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang chỉ cho thấy tình trạng stress và trầm cảm của sinh viên tại một thời điểm nhất định, mà không thể xác định mối quan hệ nhân quả giữa các yếu tố này.

- Việc thu thập số liệu online có thể làm giảm độ chính xác khi đưa ra các đáp án trong bệnh án nghiên cứu.

Kết quả từ thang đo chỉ có giá trị sàng lọc ban đầu cho những người có dấu hiệu stress, lo âu và trầm cảm, mà không đủ để chẩn đoán xác định bệnh trầm cảm Do đó, cần sử dụng ít nhất hai thang đo khác nhau để chẩn đoán và so sánh kết quả một cách chính xác hơn.

- Để xác định được các yếu tố liên quan đến trầm cảm cần phải nghiên cứu trên số lượng sinh viên đủ lớn.

- Nghiên cứu viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thu thập và phân tích kết quả.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Mô tả tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược, ĐHQGHN năm học 2020-2021

3.1.1 Đặc điểm thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.1 Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Sinh viên có số tuổi là 23 24 và lớn hơn 24 tuổi lần lượt là:

Bảng 3.2 Phân bố tỉ lệ giới tính của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Trong số 95 sinh viên, có 57 sinh viên nữ chiếm tỉ lệ 60%; còn lại 38 sinh viên nam chiếm tỉ lệ 40%.

Bảng 3.3 Đặc điểm sinh viên năm thứ mấy của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Đối tượng tham gia khảo sát nhiều nhất là sinh viên năm thứ

5 (53,7%), sinh viên năm sáu là 46,3%

Bảng 3.4 Đặc điểm quê quán và nơi ở hiện tại của đối tượng nghiên cứu

Kết quả khảo sát cho thấy, trong số các đối tượng tham gia, tỉ lệ người có quê quán ở vùng nông thôn chiếm cao nhất với 57,9%, tiếp theo là thành phố với 36,8%, trong khi quê ở miền núi chỉ chiếm 5,3% Về nơi ở hiện tại, phần lớn người tham gia sống tại nhà trọ với 47,3%, tiếp đến là sống cùng gia đình chiếm 29,5%, và ở ký túc xá chiếm 15,8%.

Bảng 3.5 Đặc điểm về dân tộc, tôn giáo của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm

Nhận xét: 100% các bạn được khảo sát đều là dân tộc kinh Trong đó có

2,1% các bạn theo đạo phật và 2,1% các bạn theo đạo thiên chúa còn lại không theo đạo.

Bảng 3.6 Đặc điểm về số lượng anh chị em ruột của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm

Con thứ trong gia đình

Số lượng chị em trong gia

27 chị em nữa chiếm 35,8%, nhiều hơn 2 anh chị em chiếm 22% và chỉ có 3,2% là con một.

Bảng 3.7 Đặc điểm tình trạng hôn nhân của đối tượng nghiên cứu

Tình trạng hôn nhân Độc thân Đã kết hôn

Nhận xét: Đối tượng tham gia khảo sát chỉ có 2,1% là đã kết hôn còn lại là độc thân.

Bảng 3.8 Đặc điểm kinh tế gia đình của đối tượng nghiên cứu

Nghèo/cận nghèo Đủ ăn

Nhận xét: Về tình trạng kinh tế gia đình đủ ăn chiếm 86,3%, gia đình khá giả chiếm 8,4% và hộ nghèo chiếm 5,3%.

Bảng 3.9 Đặc điểm điểm trung bình kỳ vừa qua của đối tượng nghiên cứu Điểm trung bình kỳ vừa qua

Nhận xét: Xếp loại học lực đa số thuộc nhóm khá+ trung bình+ yếu chiếm 59%, học lực giỏi+ xuất sắc chiếm 41%.

Bảng 3.10 Tỷ lệ mắc bệnh mạn tính của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Trong đối tượng tham gia nghiên cứu có 18,9% mắc bệnh mãn tính.

3.1.2 Tỷ lệ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.11 Tỉ lệ trầm cảmcủa đối tượng nghiên cứu theo thang đánh giá PHQ-9

Trầm cảm tối thiếu (5 – 9 điểm)

Trầm cảm trung bình (15 – 19 điểm)

Theo kết quả từ PHQ-9, trong số các đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ sinh viên không có triệu chứng trầm cảm chiếm 31,5% Trong khi đó, có 42,2% sinh viên cho thấy dấu hiệu trầm cảm tối thiểu, 21% mắc trầm cảm nhẹ, 4,2% có mức độ trầm cảm trung bình, và 1,1% gặp phải trầm cảm nặng.

Bảng 3.12 Tỉ lệ trầm cảmcủa đối tượng nghiên cứu theo thang đánh giá PHQ-9 và theo giới tính

Trầm cảm tối thiếu (5 – 9 điểm)

Trầm cảm trung bình (15 – 19 điểm)

Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ, với 31,6% nam và 49,1% nữ có triệu chứng trầm cảm tối thiểu Mức độ trầm cảm nhẹ ghi nhận là 26,3% ở nam và 17,5% ở nữ, trong khi tỷ lệ trầm cảm trung bình là 7,9% ở nam và 1,8% ở nữ Đặc biệt, trầm cảm nặng chỉ xuất hiện ở nữ với tỷ lệ 1,8% Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy p>0,05, chỉ ra rằng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.13 Tỉ lệ trầm cảmcủa đối tượng nghiên cứu theo thang đánh giá PHQ-9

Nguy cơ trầm cảm (≥ 5 điểm)

Nhận xét: Tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên năm thứ 5 và 6 là 68,4%

Mô tả một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa trường Đại học Y Dược, ĐHQGHN năm học 2020-2021

3.2.1 Yếu tố đặc điểm nhân khẩu học

Bảng 3.14 Mối liên quan giữa nguy cơ trầm cảm với một số đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu

Nơi ở hiện tại Ở cùng gia đình

Tỷ lệ trầm cảm ở nữ sinh viên đạt 70,2%, trong khi tỷ lệ này ở nam sinh viên là 65,8% Nữ sinh viên có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,22 lần so với nam sinh viên, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 1,22; KTC 95%: 0,51 – 2,96).

Tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên năm thử 5 là 72,6%; tỷ lệ này ở

31 lần so với sinh viên năm thứ 5, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (OR = 0,67; KTC 95%: 0,28 – 2,16).

Tỉ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 71,4% đối với những người sống cùng gia đình, trong khi tỉ lệ này ở sinh viên không sống cùng gia đình là 67,2% Mặc dù sinh viên không sống cùng gia đình có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,82 lần so với sinh viên sống cùng gia đình, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 0,82; KTC 95%: 0,31 – 2,16).

Tỉ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 66,7% đối với những người mắc bệnh mạn tính và 68,8% đối với những người không mắc bệnh Mặc dù sinh viên không có bệnh mạn tính có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,1 lần so với sinh viên mắc bệnh mạn tính, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 1,1; KTC 95%: 0,37 – 3,31).

3.2.2 Yếu tố liên quan đến gia đình

Bảng 3.15 Mối liên quan giữa nguy cơ trầm cảm với một số đặc điểm gia đình của đối tượng nghiên cứu

Số lượng anh chị em

Tình trạng hôn nhân Độc thân Đã kết hôn

Kinh tế của gia đình

Nghèo/ cận nghèo Đủ ăn + khá giả

Tỷ lệ nguy cơ trầm cảm ở sinh viên là con cả trong gia đình đạt 73,8%, trong khi con thứ là 64,2% Mặc dù sinh viên là con thứ có nguy cơ trầm cảm chỉ bằng 0,63 lần so với con cả, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 0,63; KTC 95%: 0,26 – 1,56).

Tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 70% đối với những người có 1 anh chị em và 67,3% đối với những người có trên 1 anh chị em Mặc dù sinh viên có nhiều hơn 1 anh chị em có nguy cơ trầm cảm chỉ bằng 0,89 lần so với những người có dưới 1 anh chị em, sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR= 0,89%; KTC 95%: 0,36-2,13).

Tỉ lệ nguy cơ trầm cảm ở sinh viên độc thân đạt 58,8%, trong khi tỉ lệ này ở sinh viên đã kết hôn là 50% Điều này cho thấy sinh viên đã kết hôn có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,45 lần so với sinh viên độc thân, tuy nhiên sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 0,45; KTC 95%: 0,01 – 36,78).

Tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm cao hơn ở những người có gia đình nghèo hoặc cận nghèo, đạt 80%, so với 67,8% ở sinh viên có gia đình đủ ăn và khá giả Nguy cơ trầm cảm ở sinh viên có kinh tế gia đình đủ ăn và khá giả chỉ bằng 0,53 lần so với nhóm sinh viên có gia đình nghèo, cận nghèo; tuy nhiên, sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê (OR = 0,53; KTC 95%: 0,05 – 4,99).

3.2.3 Yếu tố liên quan đến kết quả học tập

Bảng 3.16 Mối liên quan giữa nguy cơ trầm cảm với kết quả học tập của đối tượng nghiên cứu

Từ trung bình trở xuống

Tỉ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm đạt mức kết quả học tập khá trở lên là 69,7%, trong khi tỉ lệ này ở sinh viên có kết quả trung bình trở xuống chỉ là 50% Mặc dù sinh viên có kết quả học tập trung bình trở xuống có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,44 lần so với sinh viên có kết quả khá trở lên, nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (OR = 0,44; KTC 95%: 0,08- 2,34).

BÀN LUẬN

Thực trạng rối loạn trầm cảm ở sinh viên chuyên ngành y đa khoa năm thứ 5 và 6 tại trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021 và các yếu tố liên quan

4.2.1 Tỷ lệ có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa năm thứ 5 và 6 trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021.

Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên năm thứ 5 và 6 đạt 68,4%, tương đương với nghiên cứu của Ganesh S Kumar năm 2012 tại Karnataka, cho thấy tỷ lệ trầm cảm chung là 71,25% Sinh viên năm Y5 phải dành nhiều thời gian học tập tại các bệnh viện và chuyên khoa, trong khi sinh viên Y6, chuẩn bị tốt nghiệp, đối mặt với nhiều lo lắng về kỳ thi, khóa luận, điểm tổng kết và tương lai nghề nghiệp cũng như vấn đề gia đình.

Trong nghiên cứu, tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm đạt 42,2%, trong đó trầm cảm nhẹ chiếm 21% So với nghiên cứu của Ganesh S Kumar, tỷ lệ trầm cảm tổng thể là 57%, với 14,25% là trầm cảm trung bình và nặng Nghiên cứu của tôi cho thấy mức độ trầm cảm trung bình chỉ là 4,2% và trầm cảm nặng là 1,1% Sự khác biệt này có thể do số lượng người tham gia nghiên cứu và đặc điểm môi trường đào tạo y khoa khác nhau giữa các quốc gia.

4.2.2 Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Y đa khoa năm thứ 5 và 6 trường Đại học Y Dược năm học 2020-2021

Tỷ lệ trầm cảm ở nữ sinh viên là 70,2%, cao hơn 1,22 lần so với nam sinh viên với tỷ lệ 65,8%, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê (OR 1,22; KTC 95%: 0,51 – 2,96) Cụ thể, tỷ lệ trầm cảm tối thiểu ở nữ là 49,1% và ở nam là 31,6%; mức nhẹ lần lượt là 26,3% và 17,5%; mức trung bình là 7,9% ở nam và 1,8% ở nữ, trong khi trầm cảm nặng chỉ xuất hiện ở nữ với tỷ lệ 1,8% Kết quả nghiên cứu cho thấy p > 0,05, điều này chỉ ra rằng sự khác biệt giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê Theo nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, tỷ lệ trầm cảm ở nữ thường cao gấp 1,5-3 lần so với nam ở mọi mức độ, do tính cách và đặc điểm sinh lý của nữ giới có thể dẫn đến tâm lý dễ bị ảnh hưởng hơn.

Tỷ lệ sinh viên năm thứ 5 có nguy cơ trầm cảm đạt 72,6%, trong khi sinh viên năm thứ 6 là 63,6% So với nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên, tỷ lệ sinh viên Y6 tại Hà Nội có nguy cơ trầm cảm chỉ là 40%.

Sinh viên Y Hà Nội có thể ít chịu áp lực về việc tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp, nhờ vào sự đa dạng của các chương trình đào tạo sau đại học Bên cạnh đó, trường Y Hà Nội sở hữu một hệ thống đào tạo lâu đời hơn so với Đại học Y Dược – Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Tỉ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 71,4% đối với những người ở cùng gia đình và 67,2% đối với những người không ở cùng gia đình Mặc dù sinh viên không ở cùng gia đình có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,82 lần so với sinh viên ở cùng gia đình, sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê Môi trường sống đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động học tập và nghỉ ngơi, vì vậy việc sống trong một môi trường thoải mái có thể giúp cải thiện và giảm thiểu các yếu tố gây stress cho sinh viên.

Tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên mắc bệnh mạn tính là 66,7%, trong khi tỉ lệ này ở sinh viên không mắc bệnh mạn tính là 68,8% Mặc dù sinh viên không mắc bệnh mạn tính có nguy cơ trầm cảm cao hơn 1,1 lần so với sinh viên có bệnh mạn tính, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê Sinh viên năm 5 và năm 6, nhờ vào kiến thức y học và sự hướng dẫn từ giảng viên, đã có hiểu biết đầy đủ về bệnh mạn tính của mình Điều này giúp họ có tâm lý sẵn sàng đối mặt với bệnh tật, dẫn đến tỉ lệ trầm cảm giữa hai nhóm là tương đương.

Tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 73,8% đối với con cả trong gia đình, trong khi con thứ là 64,2% Mặc dù sinh viên là con thứ có nguy cơ trầm cảm thấp hơn (0,63 lần) so với con cả, nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê Đối với sinh viên có 1 anh chị em hoặc không, tỷ lệ nguy cơ trầm cảm là 70%, trong khi tỷ lệ này ở sinh viên có trên 1 anh chị em là 67,3% Sinh viên có trên 1 anh chị em có nguy cơ trầm cảm thấp hơn (0,89 lần) so với sinh viên có dưới 1 anh chị em, nhưng sự khác biệt này cũng chưa có ý nghĩa thống kê.

Tỉ lệ trầm cảm ở sinh viên độc thân đạt 58.8%, trong khi tỉ lệ này ở sinh viên đã kết hôn là 50% Mặc dù sinh viên đã kết hôn có nguy cơ trầm cảm chỉ bằng 0,45 lần so với sinh viên độc thân, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê Việc kết hôn trong thời gian học có thể ảnh hưởng đến thời gian học tập của sinh viên, dẫn đến khả năng gia tăng tỉ lệ trầm cảm Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi không thể đưa ra kết luận rõ ràng do số lượng sinh viên đã kết hôn tham gia nghiên cứu quá ít.

Tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm trong gia đình nghèo và cận nghèo là 80%, trong khi tỷ lệ này ở sinh viên có kinh tế gia đình đủ ăn và khá giả chỉ là 67,8% Mặc dù sinh viên có kinh tế khá hơn có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,53 lần so với nhóm nghèo, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê Sinh viên y khoa thường phải chi tiêu nhiều cho sách vở, tài liệu và phương tiện di chuyển, điều này có thể gây stress nếu kinh tế gia đình không đủ đáp ứng Tuy nhiên, tại Đại học Y Dược, các chương trình miễn giảm học phí và học bổng cho sinh viên nghèo hoạt động tích cực, giúp giảm bớt áp lực tài chính cho sinh viên năm thứ 5 và 6.

Tỉ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm đạt mức học tập khá trở lên là 69,7%, trong khi đó tỉ lệ này ở sinh viên có kết quả học tập trung bình trở xuống chỉ là 50% Mặc dù sinh viên có kết quả học tập trung bình trở xuống có nguy cơ trầm cảm thấp hơn 0,44 lần so với nhóm học lực khá trở lên, nhưng sự khác biệt này chưa đạt ý nghĩa thống kê Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên, có đến 86,4% sinh viên có nguy cơ trầm cảm có điểm số thấp hơn mong đợi Sinh viên Đại học Y Dược, thường có học lực khá và đặt ra những mục tiêu học tập cao, dễ cảm thấy thất vọng và buồn chán khi không đạt được mục tiêu, dẫn đến nguy cơ trầm cảm.

KHUYẾN NGHỊ

Để giảm thiểu tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên y, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập và thực hành hiệu quả tại trường Đại học Y Dược - ĐHQG Hà Nội, chúng tôi xin đề xuất một số phương án hỗ trợ.

Phát hiện và tư vấn tâm lý cho sinh viên có dấu hiệu trầm cảm là rất quan trọng để giải quyết các vấn đề tâm lý mà họ gặp phải trong học tập và cuộc sống Việc hỗ trợ kịp thời giúp sinh viên vượt qua khó khăn, cải thiện sức khỏe tinh thần và nâng cao hiệu quả học tập.

Để hỗ trợ kịp thời cho sinh viên có nguy cơ trầm cảm, việc thực hiện bài kiểm tra tâm lý định kỳ hàng năm là rất cần thiết nhằm sàng lọc và phát hiện sớm những trường hợp cần can thiệp.

3 Tổ chức hội thảo, câu lạc bộ trao đổi về phương pháp học giữa các sinh viên đểgiúp tránh căng thẳng và mệt mỏi.

Khuyến khích sinh viên tham gia vào các hoạt động tập thể như nhóm nhảy và câu lạc bộ thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và tinh thần Đồng thời, việc chia sẻ tâm sự với bạn bè và thầy cô cũng giúp giảm căng thẳng, tạo sự gắn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong học tập.

5 Cải thiện cơ sở vật chất và hỗ trợ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn trong kinh tế.

Ngày đăng: 19/09/2021, 08:23

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. World Health Organization (1946), 1948, New York, truy cập ngày, tại trang web https://www.who.int/about/who-we-are/frequently-asked-questions Sách, tạp chí
Tiêu đề: World Health Organization
Tác giả: World Health Organization
Nhà XB: New York
Năm: 1946
2. Trần Viết Nghị (2003) ―Thuốc chống trầm cảm hiện tại và tương lai ‖ Tài liệu báo cáo hội nghị khoa học về tác dụng của thuốc remeron – Hạ Long, trang 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thuốc chống trầm cảm hiện tại và tương lai
Tác giả: Trần Viết Nghị
Nhà XB: Tài liệu báo cáo hội nghị khoa học về tác dụng của thuốc remeron
Năm: 2003
3. Bài báo ―Một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với vấn đề trầm cảm và lo âu của học sinh 2 trường Trung học cơ sở, thành phố Hà Nội‖ Nguyễn Thanh Hương – Tiến sỹ, Phó trưởng khoa các Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ đối với vấn đề trầm cảm và lo âu của học sinh 2 trường Trung học cơ sở, thành phố Hà Nội
Tác giả: Nguyễn Thanh Hương
4. Nguyễn Văn Siêm Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm và c.s ((2004), Nghiên cứu dịch tễ - lâm sàng các rối loạn trầm cảm tại một số quần thể và cộng đồng, tài liệu hội thảo quốc gia về chăm sóc sức khoẻ tâm thần và phòng chống tự tử, Huế, 76-80 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu dịch tễ - lâm sàng các rối loạn trầm cảm tại một số quần thể và cộng đồng
Tác giả: Nguyễn Văn Siêm Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm, c.s
Nhà XB: tài liệu hội thảo quốc gia về chăm sóc sức khoẻ tâm thần và phòng chống tự tử
Năm: 2004
5. Patten S. (2005), Markov models of major depression for linking psychiatric epidemiology to clinical practice, Clinical Practice and Epidemiology in Mental Health, 1(1): 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Markov models of major depression for linking psychiatric epidemiology to clinical practice
Tác giả: Patten S
Nhà XB: Clinical Practice and Epidemiology in Mental Health
Năm: 2005
6. Lisa S. Rotenstein, Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among Medical Students (2017) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among Medical Students
Tác giả: Lisa S. Rotenstein
Năm: 2017
7. Nguyễn Thị Bích Liên (2012) ―Nguy cơ trầm cảm ở một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Hà Nội năm học 2010-2011 và một số yếu tố liên quan‖. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa 2006 – 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguy cơ trầm cảm ở một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Hà Nội năm học 2010-2011 và một số yếu tố liên quan
Tác giả: Nguyễn Thị Bích Liên
Nhà XB: Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa 2006 – 2012
Năm: 2012
8. Trương Thị Hoà (2018), Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Trương Thị Hoà
Nhà XB: Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Năm: 2018
10. Trần văn Cường (2005), Điều tra dịch tễ học lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các cùng kinh tế xã hội khác nhau của nước ta hiện nay Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều tra dịch tễ học lâm sàng một số bệnh tâm thần thường gặp ở các cùng kinh tế xã hội khác nhau của nước ta hiện nay
Tác giả: Trần văn Cường
Năm: 2005
11. Đậu Thị Tuyết (2013), Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của cán bộ y tế khối lâm sàng tại bệnh viện đa khoa thành phố Vinh, bệnh viện đa khoa 115 Nghệ An năm 2013 và một số yếu tố liên quan, 2013, Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng stress, lo âu, trầm cảm của cán bộ y tế khối lâm sàng tại bệnh viện đa khoa thành phố Vinh, bệnh viện đa khoa 115 Nghệ An năm 2013 và một số yếu tố liên quan
Tác giả: Đậu Thị Tuyết
Nhà XB: Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội
Năm: 2013
12. National Institete of menatl Health (2011), Depression, NIH Publisher, 24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Depression
Tác giả: National Institute of Mental Health
Nhà XB: NIH Publisher
Năm: 2011
13. Kessing LV. Epidemiology of subtypes of depression. Acta Psychiatr Scand Sách, tạp chí
Tiêu đề: Epidemiology of subtypes of depression
Tác giả: Kessing LV
Nhà XB: Acta Psychiatr Scand
14. Kessler RC, Bromet EJ. The epidemiology of depression across cultures.Annu Rev Public Heal. (2013) 34:119–38. 10.1146/annurev-publhealth- 031912-114409 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The epidemiology of depression across cultures
Tác giả: Kessler RC, Bromet EJ
Nhà XB: Annu Rev Public Heal
Năm: 2013
15. Cao Tiến Đức, Lâm sàng và điều trị trầm cảm, Nhà xuất bản y học. (2020) 10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lâm sàng và điều trị trầm cảm
Tác giả: Cao Tiến Đức
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2020
16. Muhamad.S, Ahmad.F, The Medical Student Stressor Questionnaire (MSSQ) Manual, (2010) 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Medical Student Stressor Questionnaire (MSSQ) Manual
Tác giả: Muhamad.S, Ahmad.F
Năm: 2010
17. Ganesh S. Kumar, Animesh Jain, Supriya Hegde, Prevalence of depression and its associated factors using Beck Depression Inventory among students of a medical college in Karnataka(2012) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Prevalence of depression and its associated factors using Beck Depression Inventory among students of a medical college in Karnataka
Tác giả: Ganesh S. Kumar, Animesh Jain, Supriya Hegde
Năm: 2012
18. Marie Dahlin, Nils Joneborg, Bo Runeson, Stress and depression among medical students: across-sectional study(2005) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stress and depression among "medical students: across-sectional study
19. Nguyễn Triệu Phong, Áp lực học tập và một số vấn đề về sức khỏe tâm thần ở sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Hà Nội (2011) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp lực học tập và một số vấn đề về sức khỏe tâm thần ở"sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Hà Nội
20. Niemi, P. M. and Vainiomọki, P. T.(2006) ―Medical students' distress - quality, continuity and gender differences during a six-year medical programme‖, Medical Teacher,28:2,136 — 141 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Medical students' distress - quality, continuity and gender differences during a six-year medical programme
Tác giả: P. M. Niemi, P. T. Vainiomọki
Nhà XB: Medical Teacher
Năm: 2006
21. Do Dinh Quyen (2007) ―Depression and among the first year medical students in university of medicine and pharmacy Ho Chi Minh city, Viet Nam‖, College of Public Health Sciences, Chulalongkorn University Sách, tạp chí
Tiêu đề: Depression and among the first year medical students in university of medicine and pharmacy Ho Chi Minh city, Viet Nam
Tác giả: Do Dinh Quyen
Nhà XB: College of Public Health Sciences, Chulalongkorn University
Năm: 2007

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trong bảng này gồm 21 đề mục được đánh số từ 1 đến 21, ở mỗi đề mục có ghi một số câu phát biểu - Thực trạng rối loạn trầm cảm ở sinh viên chuyên ngành y đa khoa năm thứ 5 và 6 tại trường đại học y dược năm học 2020 2021
rong bảng này gồm 21 đề mục được đánh số từ 1 đến 21, ở mỗi đề mục có ghi một số câu phát biểu (Trang 65)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w