Mỹ Hòa Hƣng
Địa danh Cù lao Ông Hổ
Ngày nay, du khách đến ngôi chùa cổ Bửu Long sẽ bắt gặp ngôi mộ Ông
Truyền thuyết kể rằng, trong một vùng đất hoang vu, hai ông bà già đã cứu sống một con hổ con bị cụt đuôi và nuôi dưỡng nó bằng cá Mặc dù dân làng lo sợ hổ sẽ gây hại, nhưng con hổ chỉ quay lại để chăm sóc mộ ông bà sau khi họ qua đời Hổ không ăn thịt gia súc của dân làng và thường ngồi gục đầu trước mộ của ông bà vào những đêm trăng sáng Sau nhiều năm sống trong rừng, hổ đã trở lại vào ngày giỗ của ông bà, nhưng cuối cùng đã chết trong một trận bão khi bơi qua sông Dân làng đã chôn cất hổ và lập miếu thờ để tưởng nhớ, từ đó nơi này được gọi là cù lao Ông.
18 http://baodulich.net.vn/Ve-Cu-lao-ong-Ho-0703-8775.html
Truyền thuyết dân gian An Giang, được biên soạn bởi Nguyễn Ngọc Quang trong cuốn sách năm 2016, xuất bản bởi Nxb Văn hóa dân tộc, có nhiều dị bản với nội dung tương tự, thể hiện sự phong phú và đa dạng của văn hóa dân gian vùng này.
Chiếc cổng có hình hai chú hổ biểu trƣợng của xứ cù lao 20
Mộ của “Ông Hổ” đã trải qua nhiều lần trùng tu và được xây mới vào năm 2007 Lễ giỗ Ông Hổ diễn ra vào ngày 28/10 âm lịch hàng năm, thu hút đông đảo du khách tham gia Trước đây, lễ giỗ kéo dài từ 2-3 ngày với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và giải trí, nhằm cầu mong mùa màng bội thu và sức khỏe cho dân làng Trong dịp này, các tiết mục như hát bội, đờn ca tài tử, cải lương, múa lân cùng nhiều trò chơi dân gian như đua ghe, bắt vịt, đẩy gậy, đập nồi được tổ chức sôi nổi.
Mộ Ông Hổ ở Bửu Long cổ tự(ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
20 https://thamhiemmekong.com/thong-tin-du-lich-mien-tay/cu-lao-ong-ho-diem-ve-nguon-y-nghia- cua-giang.html
21 https://phatgiao.org.vn/ve-cu-lao-ong-ho-nghe-ke-chuyen-cop-thuy-chung-d27953.html
Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (Tp Long Xuyên)
* Cuộc đời và sự nghiệp của Tôn Đức Thắng
Tôn Đức Thắng (1888-1980) sinh ngày 20/8/1888 tại làng Mỹ Hòa Hưng, cù lao Ông Hổ, tổng Định Thành, hạt Châu Đốc, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang Ông sinh ra trong một gia đình trung nông, với cha là Tôn Văn Đề và mẹ là Nguyễn Thị Dị Quê ngoại của ông nằm ở rạch Cái Sơn, xã Mỹ Phước, tổng Định Thành, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên, hiện nay thuộc phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên.
Ông Tôn Đức Thắng, từ nhỏ đã học chữ Hán với thầy Nguyễn Thượng Khách, một nhà nho yêu nước của phong trào Duy tân, và sau đó học tại Trường tiểu học Long Xuyên Năm 1907, ông theo học tại Trường Cơ khí Á Châu ở Sài Gòn, nơi ông đã trở thành thợ máy Đến năm 1916, ông sang Pháp làm lính thợ tại quân cảng Toulon.
Cách mạng tháng 10 Nga thành công vào ngày 7/11/1917 đã khiến Pháp và các nước đế quốc liên minh chống lại nước Nga Xô Viết Trong bối cảnh này, Tôn Đức Thắng làm việc trên chiến hạm France tại biển Đen, tham gia chống lại nước Nga Vào ngày 19/4/1919, ông cùng với thủy thủ Pháp phản chiến kéo cờ đỏ trên chiến hạm để ủng hộ giai cấp vô sản Nga Năm 1920, ông bị trục xuất về Sài Gòn, nơi ông thành lập Công hội Đỏ và hoạt động tích cực ở Sài Gòn – Chợ Lớn Đến năm 1925, ông lãnh đạo công nhân xưởng Ba Son bãi công, phản đối việc sửa chữa tàu chiến cho Pháp nhằm ngăn chặn sự đàn áp cách mạng Trung Quốc.
Năm 1927, Tôn Đức Thắng tham gia Kỳ bộ Thanh niên Nam Kỳ Cuối năm
Vào năm 1928, ông bị thực dân Pháp bắt và sau đó bị kết án 20 năm khổ sai, bị đày ra Côn Đảo vào ngày 26/7/1929 Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, ông trở về đất liền vào ngày 23/9/1945 và tham gia Xứ ủy Nam Bộ vào tháng 10/1945 Ông được bầu vào Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 6/1/1946 Đến tháng 3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ra Hà Nội để đảm nhận nhiều vị trí quan trọng, bao gồm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và Chủ tịch danh dự Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Xô và Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, là một nhân vật quan trọng trong lịch sử hòa bình thế giới Ông đã được vinh danh với giải thưởng Lênin “Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc” vào tháng 12/1955 và nhận Huân chương Lênin năm 1967 Đặc biệt, vào tháng 8/1958, ông là người đầu tiên được trao tặng Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của Việt Nam.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng mất ngày 30/3/1980 tại Hà Nội Ông là tấm gương cao quý, suốt đời phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân 22
* Khulưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng
Từ bến phà Ô Môi ở thành phố Long Xuyên, chỉ cần đi khoảng 3km bằng đường thủy là đến cù lao Ông Hổ Tại đây, khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tọa lạc ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Khu lưu niệm Tôn Đức Thắng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1984 Đến năm 1988, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nơi đây đã có ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu và một phòng trưng bày nhỏ, phục vụ cho việc trưng bày hình ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch.
Khu nhà di tích có diện tích tổng cộng 0,6 ha, trong đó khu di tích chiếm 0,4 ha Phần diện tích còn lại bao gồm Văn phòng Ban quản lý và một nhà trưng bày nhỏ, được đặt trong ngôi nhà làm việc của Ban quản lý di tích.
Năm 1998, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, khu lưu niệm đã được mở rộng thêm 5,8 ha với các công trình như đền thờ, nhà trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp, nhà lưu niệm thời niên thiếu của Bác, cùng công viên cây xanh Đến tháng 7-2012, khu lưu niệm được Chính phủ công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt vào thời điểm đó.
22 Nhiều tác giả (2013), Địa chí An Giang, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, tr 902-903; Bùi Đình
Phong (chủ biên) (2007), Tôn Đức Thắng tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng (ảnh Đinh Hoàng Vĩnh Trường)
* Ngôi nhà nơi Chủ tịch Tôn Đức Thắng chào đời
Ngôi nhà sàn mang đậm nét văn hóa làng quê Nam Bộ, gồm các hạng mục như nhà ở, cổng chính, hàng rào, ngõ vào, và sân vườn trồng hoa kiểng cùng cây ăn trái Tất cả kiến trúc đều hướng ra đường lộ và bờ sông, tạo nên không gian sống hài hòa với thiên nhiên.
Vào ngày 20/8/1888, tại ngôi nhà do ông Tôn Văn Đề xây dựng vào năm 1887, Tôn Đức Thắng, một nhân vật ưu tú của quê hương, đã ra đời Ngôi nhà sàn này được lót ván bằng gỗ thao lao, cao 0,7m so với mặt đất, với chân cột làm bằng đá tảng từ núi An Giang, có hình tháp nón cụt, và có diện tích 11,5x12,6m.
Ngôi nhà bát dần ở Nam Bộ chủ yếu được xây dựng từ gỗ, mang đến vẻ ngoài thấp với mái bè rộng Tuy nhiên, bên trong, không gian lại cao ráo và thông thoáng nhờ vào các cột cái cao hơn Kiến trúc nhà gồm ba gian, hai chái với 24 cột chính và các cột phụ, chia thành 7 hàng Gian chính giữa chứa bàn thờ tổ tiên trang trọng, được trang trí bằng bao lam chạm trổ hình hoa lá, chim thú Trên tủ thờ, đỉnh trầm cao 0,6m, rộng 0,2x0,3m, có hai đầu rồng nổi bật ở thân và bốn đầu rồng nhỏ hơn.
4 chân Sau tủ thờ là ghế thờ đứng hai cấp: bên trái thờ ông bà thân sinh Bác
Tôn thờ ông bà Tôn Đức Nhung, em trai và em dâu của Bác Tôn, nằm bên phải Bậc cấp cao hơn được dành để thờ Cửu Huyền Thất Tổ Ghế thờ được đặt trên sập gỗ thao lao.
Trên vách thờ là bộ trang kiếng, kích thước 1,2x1,6m, gồm 3 khung dính liền nhau, vẽ hình lưỡng long, khung dưới vẽ hình bướm bay
Bộ ván ngựa đặt tại tiền sảnh có kích thước 2,3m x 1,56m, bao gồm 3 tấm gỗ mun ghép lại với nhau, mỗi tấm dài 2,3x0,52x0,04m Bộ ván này được đặt trên 2 “con ngựa gỗ” và có công dụng như chiếc đi văng Đặc biệt, đây là bộ ván mà Bác Tôn đã nằm khi còn nhỏ và trong thời niên thiếu.
Bộ bàn ghế tiếp khách được đặt ở tiền sảnh, thường xuất hiện trong các gia đình trung lưu, nay trở thành hiện vật tại di tích Chiếc lu gốm men xanh lá cây cao 0,56m, có nắp đậy bằng nhôm, được đặt trên giá gỗ ba chân cao 0,75m, nằm gần cửa vào gian thứ ba.
Bảo tàng An Giang (Tp Long Xuyên)
Bảo tàng tỉnh An Giang có nguồn gốc từ Phòng Bảo tồn Bảo tàng di tích lịch sử cách mạng, được thành lập vào năm 1976 Năm 1985, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang quyết định thành lập Nhà Bảo tàng tỉnh An Giang, ban đầu tọa lạc tại số 77 Thoại Ngọc Hầu, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên Đến năm 2003, Nhà Bảo tàng được đổi tên thành Bảo tàng tỉnh An Giang và vào năm 2006, Bảo tàng đã chuyển đến địa điểm mới tại số 11 Tôn Đức Thắng, phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên.
Bảo tàng tỉnh An Giang, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang, được thành lập vào ngày 28/4/2008 Đến năm 2014, bảo tàng đã trải qua quá trình duy tu, sửa chữa và cải tạo nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan trong và ngoài nước, đồng thời hỗ trợ nghiên cứu khoa học Trong suốt 44 năm hoạt động, Bảo tàng An Giang không ngừng phát triển, đóng góp vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa địa phương.
24 http://longxuyen.angiang.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3j3oBBL czdTEwN_P0tzA08jDwMjbw9nj-BAA_2CbEdFAEguD-
0!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/longxuyen/longxuyensite/khamphathanhpho/co ngtrinhcongcong/baotangtinhangiangphananhlichsuvanhoavaquatrinhphattrien
25 Tài liệu do Bảo tàng An Giang cung cấp
Bảo tàng An Giang được chia thành 5 phòng trưng bày chính, với sảnh là khu vực trưng bày các chuyên đề đa dạng, nội dung thường xuyên được cập nhật theo nhiệm vụ của bảo tàng.
Phòng trưng bày Văn hóa Óc Eo
Phòng trưng bày ở Tầng 2 giới thiệu các di vật và hiện vật khảo cổ từ nền văn hóa Óc Eo (thế kỷ II-VII), bao gồm mộ táng, tượng, và công cụ lao động, được khai quật tại khu di tích Ba Thê - Óc Eo, huyện Thoại Sơn Tại đây, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng khoảng 300 hình ảnh và hiện vật, cùng với tài liệu mô tả, giúp hình dung về một trung tâm văn hóa lớn của đô thị cổ xưa tại đồng bằng sông Cửu Long.
Văn hóa Óc Eo nổi bật với nhiều công trình kiến trúc như nhà cửa, đền đài, và tường thành, cùng với các vật dụng sinh hoạt và dụng cụ sản xuất Đặc biệt, bộ sưu tập vàng phong phú với tranh vẽ, chữ viết trên cổ vật và đồ trang sức độc đáo đã được phát hiện Tại An Giang, hơn 20 địa điểm di tích thuộc nền văn hóa này đã được tìm thấy, với nhiều di tích tập trung ở vùng tứ giác Long Xuyên và ven biển Hà Tiên, Rạch Giá như Óc Eo-Ba Thê, Đá Nổi, và Núi Sam An Giang được xem là trung tâm phát triển nhất của văn hóa Óc Eo Trong phòng trưng bày, hai khu di tích tiêu biểu nhất là Óc Eo-Ba Thê và Đá Nổi-Phú Hòa, cùng với ba khu di tích mới được khai quật từ năm 1994 đến nay, sẽ được giới thiệu.
Sơ đồ di tích Đá Nổi (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Khu di tích Óc Eo-Ba Thê, được phát hiện vào năm 1942 và trải qua hai lần khai quật vào các năm 1944 và 1983, có diện tích rộng hơn 1.000ha Khu di tích này bao gồm ba khu vực chính: sườn Đông Bắc, sườn Đông Nam của núi Ba Thê và cánh đồng Giồng Cát Giồng Xoài nằm phía Đông núi Ba Thê, thuộc huyện Thoại Sơn.
Di tích Óc Eo ở An Giang nổi bật với đồ gốm sinh hoạt có xương đất mịn màu trắng ngà hoặc vàng nhạt, bao gồm nắp đậy, ly có chân, vòi bình và các mảnh cà ràng được trang trí bằng văn thừng, văn chải, văn vạch vẽ cùng với họa tiết hình học Những sản phẩm này phản ánh truyền thống gốm tại chỗ, chỉ xuất hiện trong thời kỳ văn hóa Óc Eo Đặc biệt, chì lưới và dọi xe chỉ bằng đất nung cho thấy sự phát triển của nghề đánh bắt thủy sản và dệt trong thời kỳ này.
Tại đây, bạn sẽ tìm thấy bộ sưu tập đa dạng về nắp đậy và núm đậy bằng đất nung, cùng với các phù điêu hình mặt người và mặt thú cũng làm từ đất nung Ngoài đồ gốm, còn có những vật dụng bằng đá, bao gồm các rìu đá từ thời nguyên thủy hiếm hoi được bảo tồn trong nền văn hóa Óc Eo, cùng với các loại chày và bàn nghiền dùng để gia công nông lâm sản.
Những hiện vật gốm từ nền văn hóa Óc Eo phản ánh sự đa dạng trong đời sống sinh hoạt của cư dân nơi đây, bao gồm các đồ vật như dĩa đèn, nồi nấu kim loại, vật hình chóp và răng voi Đồ gốm Óc Eo không chỉ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mà còn có vai trò trong các hoạt động tín ngưỡng.
Các hình họa trên cổ vật vàng thể hiện những biểu tượng của đạo Bàlamôn, nổi bật với nét vẽ phong phú, đặc sắc và tinh tế, phản ánh nghệ thuật độc đáo của thời kỳ đó.
Văn hóa Óc Eo từ thế kỷ II đến VII được khắc họa qua 29 hình họa độc đáo, phản ánh phong cách nghệ thuật đồ họa đặc sắc của cư dân nơi đây Những hình ảnh này cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc sử dụng vàng, một kim loại quý, trong đời sống hàng ngày của người dân cổ Óc Eo.
Cƣ trú trên nhà sàn là một hình thức sinh hoạt phổ biến của cƣ dân Óc Eo, với các cọc gỗ cao từ 3-3,2m, đƣợc đẽo nhọn và có lỗ chốt, cho thấy quy mô và độ kiên cố của nhà sàn Những cọc gỗ này, cùng với lan can trang trí, phản ánh phần nào cấu trúc đặc trưng của nhà sàn Óc Eo.
Khu di tích Ba Thê và Đá Nổi đã phát hiện nhiều hiện vật quý giá, bao gồm trang sức bằng vàng, tranh vẽ trên lá vàng, hình tượng trong đạo Bà la môn, hạt chuỗi, và con dấu bằng thạch anh.
Phòng trưng bày Văn hóa dân tộc Kinh
Người Kinh đã sinh sống tại An Giang hơn 250 năm, cùng nhau khai phá và xây dựng cuộc sống ổn định tại vùng đất này Ngoài nghề nông phát triển, nghề đánh bắt thủy sản cũng rất thịnh vượng với các hình thức như nuôi cá bè và làm khô cá tra, mang lại nguồn lợi xuất khẩu đáng kể Hình ảnh sinh hoạt của cư dân Kinh từ năm 1929-1935, cùng với những kênh rạch và bến thuyền đặc trưng, phản ánh sự phát triển của vùng sông nước An Giang Thương nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông hàng hóa, với chợ nổi Long Xuyên là một biểu tượng đặc sắc của khu vực này.
Trong các ngôi đình, nhiều hiện vật được thờ tự như chiêng, gối thờ, trống cái đại cổ, mỏ, bộ lỗ bộ, cùng với bộ sưu tập đỉnh đồng và bình hoa bằng đồng Ngoài ra, còn có các vật dụng sinh hoạt hàng ngày như máy hát đĩa, bàn ủi, ống gà tiết kiệm và bộ dụng cụ làm bánh.
KHU DI TÍCH VĂN HÓA ÓC EO (HUYỆN THOẠI SƠN)
Tổng quan về nền văn hóa Óc Eo
Văn hóa Óc Eo trải rộng trên nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau, bao gồm tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng thuộc tỉnh An Giang – Kiên Giang Ngoài ra, nó còn hiện diện tại vùng đất thấp trũng Ô Môn – Phụng Hiệp của các tỉnh Hậu Giang – Bạc Liêu, cùng với vùng Đồng Tháp Mười và một số khu vực rừng Sác ven cửa sông Đồng Nai cũng như ở trung lưu sông Đồng Nai.
Giao thông sông biển thuận lợi mang lại nhiều cơ hội cho giao lưu văn hóa và kinh tế giữa các vùng, tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng của các di tích và di vật khảo cổ Những yếu tố tự nhiên và xã hội này đã góp phần quan trọng vào sự phong phú của các loại hình di sản văn hóa.
Vương quốc Phù Nam (ảnh Đinh Hoàng Vĩnh Trường)
Văn hóa Óc Eo, được phát hiện sau cuộc khai quật của Louis Malleret tại chân núi Ba Thê (Thoại Sơn, An Giang) vào năm 1944, đã được công bố trong tác phẩm Khảo cổ học đồng bằng sông Cửu Long (1959 – 1963) Nền văn hóa cổ này, hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII, đã để lại nhiều dấu tích cư trú của cư dân cổ trên khắp khu vực Nam Bộ, đặc biệt là ở An Giang, với sự tập trung tại huyện Thoại Sơn.
Nhà trưng bàyvăn hóa Óc Eo
Di tích Óc Eo - Ba Thê, được phát hiện bởi nhà khảo cổ Louis Malleret vào năm 1944, là biểu tượng của văn hóa Óc Eo gắn liền với vương quốc Phù Nam, một trong những vương quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á trong những năm đầu Công nguyên Văn hóa này không chỉ hiện diện ở Nam Bộ (Việt Nam) mà còn lan rộng sang Campuchia, Thái Lan, Myanmar và một phần Malaysia Nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật tại các tỉnh như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, và TP Hồ Chí Minh, với trung tâm là Óc Eo – Ba Thê (huyện Thoại Sơn, An Giang) Văn hóa Óc Eo đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển văn hóa Đông Nam Á và giao lưu với các nền văn minh lớn trên thế giới Ngày 27/9/2012, khu di tích Óc Eo – Ba Thê được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt, đánh dấu một sự kiện quan trọng và là niềm tự hào của nhân dân An Giang.
Nhà trưng bày văn hóa Óc Eo gồm 5 phần chính, tương ứng với 5 di chỉ quan trọng: Di chỉ cư trú, Di chỉ mộ táng, Di chỉ tôn giáo, Di chỉ xưởng, và Di chỉ giao thương Trong đó, Di chỉ cư trú phản ánh nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và đi lại trong cuộc sống hàng ngày của cư dân Óc Eo.
Cư dân Óc Eo chủ yếu tiêu thụ lúa gạo, điều này được chứng minh qua các mảnh gốm có vết tích vỏ trấu Họ sử dụng các vật dụng như nồi và cà ràng để nấu nướng, trong đó cà ràng là bếp lò phổ biến cho những người sống ven sông, ven biển hoặc trên nhà sàn Ngoài ra, các hiện vật như tô, ly chén cũng được tìm thấy, thể hiện sự khéo léo và thông minh của người dân Óc Eo.
Nắp đậy được thiết kế lõm vào trong nhằm tạo sự khít khao hơn, giúp bảo quản tốt hơn cho các vật dụng chứa như bình, chai gốm, lọ và hũ Những sản phẩm này đóng vai trò quan trọng trong việc lưu trữ và bảo vệ thực phẩm, đồ uống.
Tƣợng thần Vishnu và khu mộ cổ Đá Nổi (ảnh Đinh Hoàng Vĩnh Trường)
Cư dân Óc Eo sinh sống trong những ngôi nhà sàn bằng gỗ, mái lợp lá hoặc ngói, với những cọc gỗ có niên đại khoảng 1.800 năm được khai quật tại gò Óc Eo Các cọc gỗ này có lỗ mộng để kết nối và tạo thành khung nhà Để di chuyển trong môi trường nhiều sông ngòi, cư dân chủ yếu sử dụng thuyền bè, trong khi trên bộ, họ vận chuyển hàng hóa bằng voi, trâu, bò Các hình khắc ngựa và bò trên lá vàng được tìm thấy tại các di tích như Đá Nổi, Gò Tháp, Gò Thành, Gò Xoài, cùng với xương trâu, bò và voi, đã chứng minh cho phương thức sinh hoạt và kiến trúc của họ.
Trang phục của cư dân Óc Eo, theo tư liệu từ thời thƣ tịch cổ Trung Quốc, cho thấy phụ nữ thường mặc váy dài, có thể để trần phần trên hoặc phủ kín, trong khi đàn ông mặc khố ngắn và để trần phần thân trên Cả nam và nữ đều đeo nhiều trang sức và bùa chú Một trong những vật dụng quan trọng trong sinh hoạt hàng ngày của họ là dọi se chỉ, được sử dụng để tạo ra sợi chỉ từ vỏ cây, qua đó phục vụ cho việc làm trang phục.
Theo Lương Thư (Trung Quốc), tục chôn cất người chết của cư dân Phù
Nam có bốn phương thức táng: hỏa táng (thiêu xác), thủy táng (thả xác xuống sông hoặc biển), điểu táng (đưa xác lên đài cao cho chim rỉa xác) và thổ táng (mai táng dưới đất) Những phong tục này cũng tồn tại ở các vùng như Lâm Ấp (Champa), Mã Lai, và Ấn Độ Dù theo hình thức nào, các tập tục này đều phản ánh những quan niệm sâu sắc của cộng đồng.
45 đồng là phương thức đưa người đã khuất về thế giới vĩnh hằng, thể hiện sự hòa nhập với thiên nhiên qua các hình thức như điểu táng và thủy táng Ngoài ra, hỏa táng mang đến sự thăng hoa bằng lửa, trong khi thổ táng là cách trở về với đất mẹ.
Hầu hết các mộ táng khai quật từ thời kỳ Óc Eo đều là khu hỏa táng, với cấu trúc trung tâm hình khối được xây dựng bằng gạch và đá Mô hình này phục dựng những ngôi mộ huyệt gạch hình vuông, bên trong được lấp đầy bằng cát, tro của người chết cùng với những vật tùy táng Đặc biệt, phần lớn các vật này bao gồm những lá vàng nhỏ có hoa văn, hình ảnh, chữ viết và các viên đá quý.
Tro cốt người chết thường được lưu giữ trong các chum nhỏ và chôn ở những khu vực cao ráo Những vật tùy táng đi kèm thể hiện quan niệm của cư dân cổ rằng thế giới bên kia có thể tương tự như xã hội hiện tại, do đó người chết cần có các vật dụng như bình, chum, đồ nghề thủ công, trang sức và vũ khí.
Phật giáo và Hindu giáo (Bàlamôn giáo) là hai tôn giáo chính trong văn hóa Óc Eo đều đƣợc truyền từ Ấn Độ sang
Hindu giáo đã du nhập vào đồng bằng sông Cửu Long từ đầu Công nguyên, với ba vị thần tiêu biểu là Vishnu, Shiva và Brahma Cư dân Óc Eo còn thờ các vị thần như Durga-Pavarti (vợ Shiva), Laskmi (vợ Vishnu) và thần Ganesa (con Shiva) Thần Hari – Hara, được hình thành từ sự kết hợp giữa Vishnu và Shiva, tượng trưng cho sức mạnh bảo vệ sinh mạng và tài sản, đồng thời trừng phạt kẻ ác trong xã hội Surya, thần mặt trời, được mô tả với trang phục ấm áp và biểu tượng hoa sen, thể hiện ánh sáng mặt trời Hình ảnh các vị thần được chế tác từ nhiều chất liệu như đá, đồng, thiếc, vàng và đất nung, với kích cỡ đa dạng, cho thấy sự phổ biến của Hindu giáo tại các di chỉ Óc Eo.
Phật giáo du nhập vào Ấn Độ cùng thời với Hindu giáo và đã có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của Hindu giáo Nhiều tƣợng trong thần điện Hindu giáo đã được chuyển hóa thành tƣợng trong thần điện Phật giáo, chẳng hạn như thần Vishnu được chuyển thành Di Lặc và Bồ tát 4 tay (Avalokitesvara) hay Di Lặc 4 tay (Bodhisattva Maitreya).
Gốm trong tôn giáo, mặc dù chiếm số lượng ít, nhưng lại rất độc đáo và tinh tế, phản ánh quan niệm tôn giáo của các tộc người Hai loại gốm nổi bật là bình Kendi và Kundika, chủ yếu được sử dụng để đựng sữa và nước thiêng Cả hai đều có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng khác nhau về chiều dài cổ, hình dáng và chức năng vòi Vòi bình Kundika ngắn và rộng, dùng để đổ chất lỏng vào, trong khi vòi bình Kendi thường cong và dài, phục vụ cho việc đổ chất lỏng ra Bình Kundika được coi là tiền thân của bình Kendi Ngoài ra, hiện vật bát bồng có chân cao và phần bát hình phễu, thường được dùng để đựng hoa quả dâng lên cúng thần, Phật.
Bình Kendi và Kundika có nguồn gốc từ Ấn Độ
(ảnh Đinh Hoàng Vĩnh Trường)
Vật liệu kiến trúc bao gồm các yếu tố như gạch, ngói và diềm ngói Những mảnh ngói phẳng có rãnh trũng song song được sử dụng để thoát nước hiệu quả Diềm ngói và chóp ngói không chỉ có chức năng thực tiễn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc trang trí kiến trúc tôn giáo.
Gạch Óc Eo (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Bộ sưu tập chuỗi thủy tinh nhiều màu sắc được sản xuất từ các xưởng thủ công của người Phù Nam thể hiện sự phong phú và đa dạng trong nghệ thuật chế tác Qua việc khai quật các di chỉ từ Đồng Nai đến Kiên Giang, hàng ngàn hiện vật như đá, mã não, thạch anh và thủy tinh đã được phát hiện, được chế tác thành các món trang sức như vòng, nhẫn, bông tai, dây chuyền và hạt chuỗi với nhiều màu sắc, kích cỡ và kiểu dáng khác nhau.
Linh Sơn cổ tự
Chùa Linh Sơn, còn được gọi là chùa Phật 4 tay, được xây dựng vào năm 1923 bởi thiền sư Như Chánh Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất tại huyện Thoại Sơn, nằm trong quần thể khu di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo – Ba Thê, tọa lạc ở chân núi.
Qua nhiều năm khảo sát, thám sát, khai quật và nghiên cứu của nhà khảo cổ học người Pháp L Malleret (1944) và của các nhà khảo cổ Việt Nam (1993,
Năm 1998 và 2000, trong khu vực kiến trúc đổ nát quanh chùa Linh Sơn, nhiều di vật như đồ gốm, bàn mài, con lăn đá, chân tảng, tấm đan, bậc thềm và trụ cửa bằng đá đã được thu thập, chứng minh sự tồn tại của một kiến trúc lớn và kiên cố Đặc biệt, một trụ đỡ bằng đá có khắc minh văn được cho là nơi thờ cúng bằng gạch, có thể là nơi đặt tượng Linga, biểu tượng của thần Shiva, theo nghiên cứu của học giả G Coedes từ Trường Viễn Đông Bác cổ.
Chùa Linh Sơn trong khu di tích Óc Eo (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Hiện trong chùa đang lưu giữ 2 hiện vật khá độc đáo của nền văn hóa Óc
Tượng thần Vishnu (tượng Phật 4 tay) và hai bia đá cổ được phát hiện vào tháng 7/1912 khi người Pháp khai thác đất để xây dựng tại khu vực hiện nay là Nhà trưng bày văn hóa Óc Eo Theo các nhà nghiên cứu, tượng Vishnu 4 tay có niên đại tương đương với tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam (Châu Đốc) và đều thuộc văn hóa Óc Eo Tượng được chế tác từ đá sa thạch màu xám đen, có chiều cao khoảng 3,3m, với tư thế đứng hoặc nằm, mũ hình trụ tròn và ngực nở đầy.
Bức tượng có niên đại khoảng thế kỷ thứ V đã được các nhà khảo cổ phát hiện Sau khi được mang về thờ tại chùa, người dân địa phương đã thực hiện một số thay đổi so với nguyên bản, bao gồm việc quét bột màu, đắp phần bệ ngồi và điều chỉnh các chi tiết như đầu rắn, nhằm chuyển đổi từ hình thức thần thánh (đứng, nằm) sang hình thức Phật ngồi để phù hợp với phong tục thờ cúng của người Việt.
Tƣợng Phật 4 tay ở chùa Linh Sơn (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Chùa không chỉ nổi bật với tượng Phật mà còn sở hữu hai bia đá cổ từ thế kỷ V, được phát hiện vào năm 1879 Những bia đá này được làm từ sa thạch đen với nhiều vân trên bề mặt Bia bên trái, khi nhìn từ cửa chánh điện, có khắc chữ cổ Sanskrit, trong khi bia bên phải không có chạm khắc hoặc đã bị mất.
Bia đá cổ niên đại thế kỷ V ở chùa Linh Sơn
Tượng thần Vishnu cùng hai bia ký đã được công nhận là di tích quốc gia theo Quyết định số 28/VH.QĐ ngày 18/1/1988 của Bộ Văn hóa Thông tin Hiện nay, chúng thuộc quần thể di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo-Ba Thê.
Di tích Nam Linh Sơn tự
Di tích Nam Linh Sơn tự nằm trong quần thể di tích văn hóa quốc gia đặc biệt Óc Eo – Ba Thê, cách chùa Linh Sơn khoảng 60m trên sườn Đông núi Ba Thê, thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang Các cuộc khai quật diễn ra vào năm 1998 – 1999 đã phát hiện nhiều hiện vật quý giá tại đây.
2 loại hình di tích văn hóa Óc Eo tại di tích Nam Linh Sơn tự: di tích kiến trúc và mộ táng
Cuộc khai quật năm 1999 đã phát hiện một kiến trúc rộng 17,50m theo hướng Bắc Nam và dài 22,50m theo hướng Đông Tây, quay mặt về phía Đông Kiến trúc này bao gồm 36 tường móng được xây dựng bằng đá và gạch, tạo thành nhiều cấu trúc bên trong như sàn nền, sân, hành lang và cống nước.
Di tích Nam Linh Sơn (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Theo các nhà khảo cổ, kiến trúc Nam Linh Sơn trải qua 5 giai đoạn xây dựng và sử dụng Giai đoạn đầu tiên bao gồm các sàn gạch được xây dựng từ gạch nguyên chất lượng cao Các giai đoạn sau tiếp tục xây dựng trên nền tảng kiến trúc cũ, tái sử dụng gạch từ phế tích trước đó và bổ sung đá để làm móng và vách ngăn.
32 Tài liệu do Nhà trƣng bày văn hóa Óc Eo cung cấp
Tại di tích Nam Linh Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện một mộ chum lớn với đường kính 0,67m và cao 0,40m, chứa xương gốm thô và bã thực vật Chum gốm có lớp áo gốm màu đỏ đã bị tróc, chỉ còn lại vài dấu vết và được trang trí bằng 3 dải hoa văn vạch song song, đặc trưng cho gốm Óc Eo và gốm tiền sử muộn ở đồng bằng sông Cửu Long Ngoài đất và cát, mộ chum còn chứa một số mảnh nhỏ chất hữu cơ, cùng với 5 hạt chuỗi bằng vàng và mã não.
Di tích Nam Linh Sơn, có niên đại từ thế kỷ I Công nguyên đến thế kỷ IX, là một kiến trúc cung đình tôn giáo quan trọng Di tích này có mối liên hệ với khối kiến trúc hiện tại nằm dưới nền chùa Linh Sơn ở phía Bắc và các di tích khác đã được ghi nhận trên triền núi phía Đông, kéo dài qua đường lộ đến chân núi.
Di tích Nam Linh Sơn tự đƣợc Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 39/2002/QĐ.BVHTT ngày 30/12/2002, xếp hạng là di tích khảo cổ cấp quốc gia 33
Di tích Gò Cây Thị A và Gò Cây Thị B
Di tích Gò Cây Thị được phát hiện bởi nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret vào năm 1942 và khai quật vào năm 1944 Từ năm 1983 đến 1984, Viện Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Bảo tàng An Giang đã tiến hành khảo sát và khai quật lại di tích này vào năm 1999 Kết quả khai quật cho thấy có hai kiến trúc riêng biệt trong khu vực, được đặt tên là Gò Cây Thị A và B.
* Di tích Gò Cây Thị A
Khu khai quật đã phát hiện một kiến trúc có diện tích 22m theo hướng Bắc-Nam và 24,54m theo hướng Đông-Tây Cấu trúc bao gồm tiền điện và chính điện, trong đó tiền điện nằm ở phía Đông với cửa ra vào hướng Đông, còn chính điện có trung tâm là 4 ô ngăn lớn hình chữ nhật.
33 Tài liệu do Nhà trƣng bày văn hóa Óc Eo cung cấp
Các hoạt động tín ngưỡng của cư dân cổ diễn ra tại 53 địa điểm khác nhau Đền thờ của người Óc Eo cổ đều được xây dựng hướng về phía Đông, phản ánh quan niệm tôn giáo đặc trưng của họ.
Trong quá trình khai quật di tích Gò Cây Thị A, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật quý giá như mảnh vàng hình thần Mặt trời Surya, cọc gỗ nhà sàn và tượng Phật bằng đồng Những đặc điểm kiến trúc tại đây cho thấy đây là một công trình đền thờ thuộc Bàlamôn giáo.
Di tích Gò Cây Thị (ảnh Nguyễn Thanh Lợi)
Cách Gò Cây Thị A 22m về phía Bắc Năm 1999, nền kiến trúc Gò Cây Thị
Khu vực B đã được khai quật, phát hiện một tường móng kiến trúc dài 16,70m theo hướng Đông Tây và rộng 11,65m theo hướng Bắc Nam Mặt nền tại đây được bao phủ bởi lớp đất dày trung bình từ 10-30cm.
Trên bình đồ, qua khai quật, đã xác định đây là kiến trúc xây bằng gạch và đá, gồm hai vòng tường bao quanh nền hình chữ nhật đắp bằng đất cát Vòng tường bên trong có dạng hình chữ nhật khép kín, trong khi vòng tường ngoài có hình dạng chữ nhật với các cạnh bẻ góc, cân xứng giữa hai phần Bắc và Nam Bên trong kiến trúc là mặt nền phẳng, nện chặt bằng nhiều lớp đất màu sắc khác nhau; bên ngoài có hành lang bằng gạch bao quanh các phía Bắc, Nam và Tây Kiến trúc này được nhận định là một mộ hỏa táng mang tính chất thờ phụng của cư dân Óc Eo, với các hiện vật tìm thấy bao gồm một đồng tiền và nhiều mảnh gốm.
Theo các nhà khảo cổ, kiến trúc Gò Cây Thị A và B được xây dựng trên nền tảng văn hóa cư trú với nhiều gốm sớm Óc Eo và cọc nhà sàn, có niên đại hơn 1.500 năm Hiện nay, Gò Cây Thị là kiến trúc quan trọng nhất còn lại trên cánh đồng Óc Eo, có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ V sau Công nguyên.
Gò Cây Thị, với giá trị lịch sử và văn hóa quan trọng, đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích khảo cổ cấp quốc gia theo quyết định số 39/2002/QĐ.BVHTT vào ngày 30/12/2002.
Địa danh Ba Thê
Núi Ba Thê, còn được gọi là núi Thê Sơn và có tên chữ là Hoa Thê Sơn, là ngọn núi lớn nhất trong cụm núi Ba Thê thuộc huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang Với độ cao 221 m và chu vi khoảng 4.220 m, núi Ba Thê nằm giữa cánh đồng tứ giác Long Xuyên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 40 km theo tỉnh lộ 943 Tên gọi Ba Thê được đặt vào thời vua Minh Mạng do kỵ húy tên Hoàng hậu Hồ Thị Hoa Cụm núi Ba Thê bao gồm 5 ngọn: Ba Thê, núi Nhỏ, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc.
Theo Sơn Nam, địa danh Ba Thê xuất phát từ tiếng Khmer "Bát Xăm-xe" Trong khi đó, Vương Hồng Sển cho rằng "Thê" nghĩa là cái thang, vì vào thời kỳ Đàng Cựu, nơi đây từng có một chiếc thang cao được dựng lên để quan sát hoạt động của phe Thổ.
Theo một giả thuyết từ các nhà sƣ Nam tông, Ba Thê có nguồn gốc tên
Palo, hay còn gọi là "Bi Thera", trong tiếng Pali có nghĩa là "hai thượng tọa", để chỉ hai nhà sư thánh tăng từ Ấn Độ đã sang Phù Nam để truyền bá giáo lý.
* Sự tích núi Ba Thê, núi Sập, núi Cậu
Vùng Thoại Sơn, trước đây giáp biển Rạch Giá, đã hình thành từ sự chuyển động của thiên nhiên, tạo nên một khu đất nhiều đá Tại đây, có một gia đình tiều phu nghèo cùng cậu con trai nhỏ đã chuyển đến sinh sống và chăm chỉ lao động để cải thiện cuộc sống.
34 Tài liệu do Nhà trƣng bày văn hóa Óc Eo cung cấp
35 https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi_Ba_Th%C3%AA
Câu chuyện xoay quanh một người chồng và hai người vợ, bắt đầu khi họ làm ăn khấm khá và trở nên giàu có Trong một lần ra ngoài, người chồng gặp hai cô gái và quyết định sống cùng họ trên ngọn núi, bỏ rơi vợ cả Khi trở về thăm vợ con, người chồng bị vợ cả ghen tuông và xảy ra xung đột, dẫn đến cái chết của đứa con trai Vợ cả, trong cơn thịnh nộ, đuổi theo chồng để trả thù, nhưng lại vô tình gây ra cái chết cho cả hai vợ sau của chồng Hai hòn đá nhỏ nơi hai người vợ chết được gọi là núi Sập, trong khi núi nơi người con trai mất mạng được gọi là núi Cậu Cuối cùng, người chồng trở về với vợ cả, cả hai sống trong nỗi buồn và quyết định tu tiên Ngọn núi nơi xảy ra sự việc được đặt tên là núi Ba Thê, còn ngọn núi do người chồng ném đá không trúng được gọi là núi Trọc hay núi Chọi.
36 Nguyễn Ngọc Quang (chủ biên) (2016), Văn học dân gian An Giang, quyển 1, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.99-100