TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
TỔNG QUAN VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU
1.1.1 Tổng quan lưu vực sông Chu sông Mã
Sông Mã bắt đầu từ ngã ba Bông, bao quanh phía Tây và Nam của vùng nghiên cứu, trước khi đổ ra biển tại cửa Hới Đoạn sông dài 34,4 km này có đặc điểm của sông đồng bằng và ven biển, chịu ảnh hưởng rõ rệt từ chế độ thủy triều.
Mực nước về mùa lũ thường là +7,5m tại ngã ba Bông và +1,8 đến +2,2m tại Hoàng
Mùa lũ, mực nước sông Tân thường cao hơn 3 đến 4m so với đồng, nhưng hệ thống đê từ Hoàng Khánh đến Cửa Hới rất kiên cố Trong mùa kiệt, mực nước dao động từ -0,3 đến +1,5m tùy thuộc vào triều cường.
Mùa kiệt, sông Mã trở thành nguồn nước tưới quan trọng cho khu vực Bắc sông Mã, nhờ vào các hệ thống trạm bơm và cống lấy nước dọc theo dòng sông.
Sông Mã, có nguồn gốc từ Tuần Giáo - Lai Châu, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với chiều dài 512 km và chiều rộng bình quân lưu vực 42 km Sông có 39 phụ lưu lớn và 2 phân lưu, phát triển đồng đều trên lưu vực, tạo thành một lưới sông phân bố đều hai bên bờ Một số chi lưu quan trọng của sông Mã bao gồm Nậm Lệ, Suối Vạn Mai, sông Luồng, sông Lò, sông Bưởi, sông Cầu Chày, sông Hoạt và sông Chu.
Sông Chu là phụ lưu cấp I lớn nhất của sông Mã, bắt nguồn từ vùng núi cao trên đất Lào và chảy chủ yếu theo hướng Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam Sông Chu gặp sông Mã tại ngã ba Giàng, cách cửa sông Mã 25,5 km về phía thượng lưu, với chiều dài dòng chính lên tới 392 km, trong đó phần chảy trên đất Việt Nam dài 160 km Tổng diện tích lưu vực của sông Chu đóng vai trò quan trọng trong hệ thống sông Mã.
Chu 7.580 km 2 Diện tích lưu vực sông Chu hầu hết nằm ở vùng rừng núi Từ Bái dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai
Sông Chu, đặc biệt ở thượng nguồn, có nhiều ghềnh thác và lòng sông hẹp, nhưng từ Bái Thượng đến cửa sông, lòng sông rộng và thông thoáng, giúp khả năng thoát lũ nhanh chóng Sông có nhiều phụ lưu lớn như sông Khao, sông Đạt, sông Đằng và sông Âm, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thanh Hóa Tuy nhiên, lũ sông Chu cũng là một mối đe dọa lớn đối với nền kinh tế của tỉnh.
Sông Bưởi, phụ lưu lớn thứ hai của sông Mã, bắt nguồn từ núi Chu thuộc tỉnh Hòa Bình Dòng chính của sông chảy theo hướng Bắc-Nam và đổ vào sông Mã tại Vĩnh Khang, với chiều dài 130 km và diện tích lưu vực 1.790 km² Độ dốc bình quân của lưu vực là 1,22% Thượng nguồn sông Bưởi có ba suối lớn: suối Cái, suối Bin và suối Cộng.
Hoà 3 nhánh hợp lại tại Vụ Bản tạo thành sông Bưởi Lòng dẫn sông Bưởi từ thượng nguồn đến cửa sông đều mang tính chất của sông vùng đồi
4 Lưu vực Sông Cầu Chày
Bắt nguồn từ núi Đèn chảy theo hướng gần Tây - Đông chảy qua đồng bằng Nam sông
Mã - Bắc sông Chu Tổng chiều dài sông 87,5 km Diện tích lưu vực 551 km 2 Khả năng cấp nước và thoát nước của sông Cầu Chày rất kém
Sông Hoạt là một con sông nhỏ với lưu vực độc lập, có diện tích 250 km², trong đó 40% là đồi núi trọc Sông này có hai cửa, một cửa đổ vào sông Lèn tại Báo Văn và cửa còn lại đổ ra biển tại Càn.
Là một phân lưu lớn của sông Mã, bắt đầu từ ngã ba Bông chảy qua huyện Hà Trung,
Sông Lèn, dài khoảng 40km, bắt nguồn từ Nga Sơn và Hậu Lộc, đổ ra biển tại cửa Lạch Sung Lòng sông uốn khúc quanh co và vào mùa lũ, lượng nước chảy từ sông Mã vào sông Lèn đạt khoảng 1.500 m³/s.
Sông Lèn có lưu lượng trung bình đạt 2.000m³/s, với lưu lượng cực đại vào năm 1927 là 1.720m³/s Mực nước trong mùa lũ thường cao hơn, dao động từ 2,5 đến 3,5m, buộc các vùng dọc sông phải tranh thủ tiêu nước khi triều xuống hoặc sử dụng động lực để tiêu thoát Trong mùa lũ, sông Lèn cung cấp 15-17% lưu lượng cho sông Mã trước khi chảy ra biển Tổng chiều dài của sông Lèn là 40 km, hai bên sông được bảo vệ bởi hệ thống đê nhằm bảo đảm an toàn cho dân sinh và sản xuất của các huyện ven sông.
Vào mùa kiệt, lưu lượng sông Mã phân chia sang sông Lèn khoảng 20 đến 30%, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các khu vực Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc và vùng ven biển.
Sông Lèn chịu ảnh hưởng mạnh từ chế độ thủy triều, với biên độ triều tại cầu Lèn đạt 0,4 đến 0,5m, dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến việc lấy nước tưới.
Thắm, qua đo đạc thấy mặn thường xuyên là 2‰
7 Lưu vực Sông Lạch Trường:
Là một nhánh phân lưu lớn của sông Mã bắt nguồn từ Phương Đình chảy qua Hoằng
Sông Lạch Trường, dài khoảng 24km, chảy từ Hóa, Hậu Lộc ra biển Đoạn sông này có đặc điểm hẹp và nông, khiến vào mùa kiệt, nguồn nước từ sông Mã không đủ, dẫn đến tình trạng nước mặn và chịu ảnh hưởng của thủy triều Trong mùa lũ, một phần nước từ sông Mã được phân bổ vào sông Lạch Trường trước khi đổ ra biển tại cửa Lạch Trường.
Lạch Trường, với chiều dài ngắn và chịu ảnh hưởng mạnh từ triều, đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu nước cho khu vực giữa Nam sông Lèn, Đông sông Mã, Bắc Lạch Trường và Tây kênh De.
Sông Lạch Trường phân chia dòng chảy với sông Mã tại ngã ba Tuần chảy theo hướng
HIỆN TRẠNG CÔNG TRÌNH THỦY LỢI VÀ ĐÊ ĐIỀU TRÊN HỆ THỐNG SÔNG CHU, SÔNG MÃ
THỐNG SÔNG CHU, SÔNG MÃ
Trên lưu vực hệ thống sông Mã, sông Chu, đã có hơn 1500 hồ chứa vừa và nhỏ với dung tích từ 0,1 đến 10 triệu m³ được xây dựng, chủ yếu phục vụ cho tưới tiêu và cấp nước Hệ thống đê sông Mã đã được hình thành và bồi trúc qua nhiều thời kỳ phát triển kinh tế, tạo nên các tuyến đê hiện nay.
1.2.1 Hệ thống đê điều và chỉ tiêu chống lũ cho lưu vực sông Mã, sông Chu
Tiêu chuẩn chống bão đã được đưa vào quy phạm xây dựng các công trình kiến trúc, công sở, khu vui chơi giải trí với tần suất bão:
Nhà cấp IV bán kiên cố thiết kế với bão cấp 8, giật trên cấp 10
Nhà kiên cố thiết kế với bão cấp 10 giật trên cấp 12
Các đường cột điện trung và hạ thế được thiết kế để chịu đựng bão cấp 10, với đê biển cũng được xây dựng theo tiêu chuẩn tương tự Mực nước triều cường kết hợp với mực nước dâng lên tới 1,5m và sóng leo được tính toán để đảm bảo an toàn cho các công trình Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này là rất quan trọng nhằm bảo vệ cơ sở hạ tầng trước những tác động của thiên tai.
Trên sông Mã và các sông lân cận, các nhánh sông có tiêu chuẩn chống lũ khác nhau, được quy định theo quy phạm phân cấp đê điều QPTL A6-97 và pháp lệnh về an toàn trong công tác chống lụt bão.
Theo quyết định số 2534 QĐ/BNN-ĐĐ ngày 20/10/2005, việc phân cấp đê điều và quy định mực nước thiết kế cho các tuyến đê trên lưu vực sông đã được quy định cụ thể.
3 Phạm vi cấp của các tuyến đê
Mực nước thiết kế các tuyến đê của Thanh Hoá được xác định theo hệ cao độ quốc gia VN72 và tiêu chuẩn các đê chống lũ trong lư vực sông thuộc vùng dự án Việc tuân thủ các tiêu chuẩn này là cần thiết để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hệ thống đê điều trong khu vực.
Bảng 1 - 6: Mực nước thiết kế của các tuyến đê trong lưu vực
TT Vị trí Sông Tương ứng Km đê MNTK đê từ cấp
1 Trạm TV Lý Nhân Mã K9+080 (hữu sông Mã) 13,2
2 Trạm Thuỷ văn Giàng Mã K37+2000 (hữu sông Mã) 7,51
3 Trạm TV Xuân Khánh Chu K26+000 hữu sông Chu 13,86
Bảng 1 - 7: Tiêu chuẩn các đê chống lũ thuộc lưu vực sông Mã theo QPA6 -77
Mức nước chống lũ hiện tại
Ghi chú Cấp Tần suất chống lũ P% Độ cao an toàn (m)
Hữu sông Chu 1962 I 0,6 0,6 Bảo vệ thành phố, đường sắt, đường 1A
Tả sông Chu 1962 II 1 0,5 Hạ một cấp do ít quan trọng
Hữu sông Mã 1927 II 1 0.5 Đoạn tả K0-
Hữu sông Lèn 1973 III 1 0.5 K0-K29+670 Đê tả sông Lèn 1973 II 2 0.5 K0-K32+560 Đê hữu Lạch
1973 III 1 0.5 K0-K20+011 Đê tả Cầu Chày 1985 IV 5 0.3 K0-K41+860 Đê hữu Cầu Chày 1985 IV 5 0.3 K0-K45+135 Đông kênh De 1973 IV 5 0.3 K0-K5+696
Hữu sông Hoạt Không tiêu chuẩn
III 5 0.3 K0-K27+260 dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai hoc thuy loi dai
Hữu sông Hoạt Không tiêu chuẩn
Tả sông Hoạt Không tiêu chuẩn
Các chỉ tiêu chống lũ bão trên đây được tính toán cho giai đoạn phát triển kinh tế đến năm 2020
1.2.2 Hệ thống công trình hồ đập, cầu cống
1 Đập Bái Thượng Đập Bái Thượng là công trình đầu mối thủy lợi lớn, đập Bái Thượng nằm trên sông
Đập Chu, nằm trong xã Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, được xây dựng từ thời kỳ Pháp thuộc với mục đích cung cấp nước tưới cho ruộng Kết cấu và kích thước của đập được thiết kế nhằm phục vụ hiệu quả cho việc tưới tiêu nông nghiệp trong khu vực.
- Đập tràn trọng lực dài 169m hình chữ V
- Mặt cắt đập hình thang cao 17m
- Đầu bờ phải (nhìn từ thượn lưu xuống) có cống xả cát nb=32m
Âu thuyền rộng 4m tại Đập Bái Thượng đã được khôi phục và sửa chữa vào năm 1996 Phương án cải tạo bao gồm việc sử dụng bê tông để phủ toàn bộ đập và mái hạ lưu, kết hợp với nhiều đập nhỏ dạng bậc thang.
Đập Bái Thượng có nhiệm vụ chính là cung cấp nước tưới cho nông nghiệp trong khu vực, góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững.
Hình1-4 Cống lấy nước - Thọ Xuân -
Thanh Hóa - phía thượng nguồn
2 Hồ chứa nước Cửa Đạt
Hồ chứa nước Cửa Đạt, được xây dựng từ năm 2004, là hồ chứa đa mục tiêu với dung tích lên tới 1,3 tỷ m³, trong đó có 300 triệu m³ dành cho mục đích phòng chống lũ Hiện nay, hồ đã hoàn thành và chính thức đi vào vận hành.
Hình 1-6 Hồ chứa nước Cửa Đạt Hình 1-7 Công trình Đập dâng Bái Thượng
Hồ chứa nước Cửa Đạt nằm tại xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách đập Bái Thượng khoảng 17km và cách trung tâm TP Thanh Hóa 65km về phía tây nam Hồ chứa này được xây dựng nhằm khai thác tổng hợp nguồn nước sông Chu để phục vụ cho sự phát triển của vùng hạ lưu sông Mã, tỉnh Thanh Hóa Công trình này có những đặc điểm nổi bật, góp phần quan trọng vào việc quản lý và sử dụng tài nguyên nước trong khu vực.
Hồ cần điều chỉnh lưu lượng nước để cắt giảm lũ nhỏ hơn hoặc bằng con lũ có tần suất 0,6%, nhằm kiểm soát mực nước hạ lưu theo yêu cầu Điều này đảm bảo rằng mực nước tại Xuân Khánh không vượt quá +13,71 m.
- Cấp nước cho công nghiệp và sinh hoạt
- Tạo nguồn nước tưới ổn định cho 86.862 héc-ta đất canh tác vùng Nam sông
Chu và Bắc sông Chu
- Kết hợp phát điện và bổ sung nước mùa kiệt cho hạ lưu sông Mã để đẩy mặn, cải tạo môi trường sinh thái
Việc xây dựng và vận hành hồ cần phải đảm bảo không làm gián đoạn việc cấp nước và đồng thời không đe dọa an toàn của đập Bái Thượng.
3 Một số hình ảnh hiện trạng các công trình thủy lợi vùng Bắc Sông Mã
Hình1-8: Cống + Âu Báo Văn trên sông Báo
Hình 1-9: Cống+Âu Mỹ Quan Trang trên sông Càn
Hình 1-10: Đập Bồng Bồng trên sông Hoạt Hình 1-11: Cầu Điền Hộ trên sông Càn (Cầu cũ)
Hình 1-12: Tuyến đo lưu lượng sông Lèn Hình 1-13: Tuyến đo độ mặn trên sông Lèn
Tuyến đập Đa Lộc là một công trình quan trọng trong lĩnh vực thủy lợi, được nghiên cứu và phát triển bởi Đại học Thủy lợi Công trình này không chỉ có vai trò trong việc quản lý nguồn nước mà còn góp phần vào phát triển nông nghiệp bền vững Đại học Thủy lợi đã đóng góp nhiều kiến thức và công nghệ tiên tiến để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn cho tuyến đập Việc áp dụng các phương pháp hiện đại trong thiết kế và thi công sẽ giúp nâng cao chất lượng công trình, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu tưới tiêu và bảo vệ môi trường.
1.2.3 Hệ thống các trạm bơm tưới
Nước phục vụ cho nông nghiệp trong khu vực nghiên cứu chủ yếu được cung cấp qua các trạm bơm dọc theo các con sông Mã, Lèn và Hoạt Dưới đây là thống kê về các trạm bơm tưới trong khu vực.
Bảng 1 - 8: Các trạm bơm lấy nước dọc sông vùng nghiên cứu
TT Tên trạm bơm Năm
Nơi lấy nước Thiết kế Thực tế
Chi nhánh Hoằng Hóa a Trạm bơm tưới
5 Yên Vực 1980 TT Tào 194 40 2 1200x1000 S Mã
13 Hoằng Xuyên 2002 H.Xuyên 195 136 2 800 S.Tr.Giang
16 Hoằng Vinh 2 1991 H.Vinh 450 450 2 1400+1000 Lộc vinh
17 Hoằng Trạch 1988 H.Trạch 200 210 2 1.000 K.Th Châu
18 Hoằng Phong 1994 H.Phong 200 40 2 1.400 Hội Triều
19 Hoằng Ngọc 1989 H.Ngọc 1.500 650 4 2x1500+1400 Kênh nam
TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
1.3.1 Tổng quan về nghiên cứu lũ trên thế giới và Việt Nam
1 Tổng quan về một số nghiên cứu lũ trên thế giới
Trên toàn cầu, việc nghiên cứu và áp dụng các mô hình thủy văn và thủy lực đã trở nên phổ biến nhằm dự báo hồ chứa và lũ lụt cho hệ thống sông, đồng thời phục vụ cho công tác quy hoạch phòng chống lũ Nhiều mô hình đã được phát triển và ứng dụng hiệu quả trong lĩnh vực này.
Một số mô hình đã được áp dụng hiệu quả trong công tác quy hoạch phòng chống lũ cho các lưu vực sông, bao gồm các phương pháp tiên tiến nhằm quản lý và giảm thiểu tác động của lũ lụt.
Viện Thủy lực Đan Mạch (DHI) phát triển phần mềm dự báo lũ và quy hoạch phòng lũ, bao gồm mô hình NAM để tính toán dòng chảy từ mưa và mô hình Mike 11 để phân tích thủy lực, dòng chảy lũ trong sông và cảnh báo ngập lụt Phần mềm này đã được áp dụng thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Mô hình dự báo lũ đã được áp dụng thành công tại các lưu vực sông Mun-Chi và Songkla ở Thái Lan, Bangladesh và Indonesia Hiện tại, công ty tư vấn CTI của Nhật Bản đã mua bản quyền mô hình này và đang tiến hành cải tiến để phù hợp với điều kiện thuỷ văn của Nhật Bản.
Wallingford và Hacrow đã phát triển phần mềm iSIS, chuyên dùng cho tính toán dự báo lũ, dòng chảy lũ và ngập lụt Phần mềm này bao gồm các môđun như mô hình đường đơn vị để dự báo dòng chảy từ mưa, cùng với mô hình iSIS để tính toán thủy lực, dự báo dòng chảy trong sông và cảnh báo ngập lụt iSIS đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia, trong đó có việc sử dụng cho sông Mê Kông.
Dự án phân lũ và phát triển thủy lợi lưu vực sông Đáy tại Việt Nam được thực hiện dưới sự chủ trì của ủy hội Mê Kông Quốc tế, với việc áp dụng mô hình iSIS để tính toán.
Trung tâm khu vực START Đông Nam Á đang phát triển "Hệ thống dự báo lũ thời gian thực cho lưu vực sông Mê Kông", dựa trên mô hình thủy văn khu vực với thông số phân bố và tính toán dòng chảy từ mưa Hệ thống được chia thành ba phần: thu nhận dữ liệu từ vệ tinh và các trạm tự động, dự báo thủy văn dòng chảy lũ, và dự báo ngập lụt Thời gian dự báo dự kiến là 1 hoặc 2 ngày.
Viện Điện lực Pháp (EDF) đã phát triển phần mềm TELEMAC để tính toán các bài toán thủy lực 1 và 2 chiều Trong đó, TELEMAC-2D là phần mềm chuyên dụng cho tính toán thủy lực 2 chiều, thuộc hệ thống phần mềm TELEMAC TELEMAC-2D đã được kiểm nghiệm theo các tiêu chuẩn châu Âu về độ tin cậy và đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều địa điểm ở Cộng hòa Pháp cũng như trên toàn thế giới Tại Việt Nam, mô hình này đã được cài đặt tại Viện Cơ học Hà Nội và Khoa Xây dựng - Thủy lợi - Thủy điện.
Trường Đại học Kỹ thuật Đà Nẵng đã tiến hành thử nghiệm tính toán dòng chảy tràn tại vùng Vân Cốc - Đập Đáy, thuộc lưu vực sông Hồng trước Hà Nội, đồng thời thực hiện tính toán ngập lụt cho khu vực thành phố Đà Nẵng.
Trung tâm kỹ thuật thủy văn tại Mỹ đã phát triển mô hình HEC-1, bao gồm chương trình HEC-1F, nhằm tính toán thủy văn, dự báo lũ từ mưa và mô phỏng lũ trên sông.
Mô hình này đã được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt là ở Châu Á với các quốc gia như Indonesia và Thái Lan Nó được sử dụng để tính toán lũ lụt trong các hệ thống sông, góp phần quan trọng trong việc quản lý nguồn nước và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.
Thu Bồn ở Việt Nam Gần đây, mô hình được cải tiến và phát triển thành HMS có giao diện đồ hoạ thuận lợi cho người sử dụng
Trong nghiên cứu về hệ thống dự báo lũ cho sông Maritsa và Tundzha, Roelevink và cộng sự đã sử dụng mô đun mưa - dòng chảy Mike 11-NAM cùng với mô đun thủy lực Mike 11-HD để tiến hành dự báo lũ, với dữ liệu được hiệu chỉnh từ các trận lũ năm 2005 và 2006 Kết quả từ hai mô hình này được kết hợp thông qua phần mềm FloodWatch để dự báo mực nước và cảnh báo tại các điểm xác định Nghiên cứu chỉ ra rằng độ chính xác của kết quả phụ thuộc vào chất lượng dữ liệu đầu vào, với dự báo ngắn hạn có độ chính xác cao hơn so với dự báo dài hạn.
Nghiên cứu này áp dụng chức năng cập nhật mực nước và lưu lượng dựa trên các dữ liệu mực nước và lưu lượng thực đo tại các vị trí biên đầu vào.
2 Tổng quan về một số nghiên cứu lũ ở Việt Nam
Một số mô hình thủy lực đã được áp dụng hiệu quả để diễn toán dòng chảy trong hệ thống thủy lợi Mô hình MASTER MODEL được sử dụng trong nghiên cứu quy hoạch vùng hạ lưu sông Cửu Long từ năm 1988, trong khi mô hình MEKSAL, ra đời năm 1974, giúp tính toán sự phân bố dòng chảy mùa cạn và xâm nhập mặn Mô hình VRSAP được áp dụng cho tính toán dòng chảy lũ và mùa cạn ở đồng bằng, còn mô hình SAL và KOD đóng góp quan trọng trong việc tính toán lũ và xâm nhập mặn tại cửa sông Mô hình DHM đã thành công trong việc tính toán nguy cơ ngập lụt hạ lưu lưu vực Thu Bồn - Vũ Gia và nghiên cứu thủy lực hạ lưu sông Hồng trong các tình huống giả định như vỡ đập Hoà Bình, Sơn La Đề tài "Nghiên cứu xây dựng công cụ tính toán và dự báo dòng chảy lũ thượng lưu hệ thống sông Hồng" do Lê Bắc Huỳnh thực hiện tại Trung tâm DBKTTVTƯ.
Hệ thống dự báo thủy văn cho các lưu vực sông Đà, Thao, Lô đã được xây dựng thành công, giúp vận hành hồ chứa Hoà Bình và diễn toán lũ về hạ lưu đến các trạm.