TỔNG QUAN
Ống tủy và những thay đổi của ống tủy
1.1.1 Một số khái niệm và định nghĩa về chân răng và ống tủy
1.1.1.1 Các thành phần của hốc tủy
Hốc tủy răng là khoang do ngà tạo thành, chứa mô tủy răng bao gồm nhiều mô thần kinh và mạch máu Chức năng chính của tủy là tạo ra mô cứng cho răng, đồng thời cung cấp dinh dưỡng và cảm giác Hình dạng ống tủy tương tự đường viền ngoài của răng, nhưng có thể thay đổi do các yếu tố như tuổi tác, bệnh lý và khớp cắn, dẫn đến sự hình thành ngà thứ cấp.
Hình 1.1.Các thành phần của ống tủy [44]
Hốc tủy đƣợc chia thành hai phần: buồng tủy ở thân răng và ống tủy ở chân răng.
Một ống tủy bắt đầu từ lỗ ống tủy hình phễu và kết thúc ở lỗ chóp chân răng, thường tương ứng với số chân răng Tuy nhiên, một chân răng có thiết diện hình bầu dục thường có nhiều hơn một ống tủy Hệ thống ống tủy rất phức tạp với khả năng phân nhánh, tách ra và hợp lại Pineda và Kuttler (1972) đã phát hiện rằng hầu hết ống tủy đều cong theo cả hai hướng ngoài trong và gần xa, với lỗ chóp thường lệch sang một bên so với chóp chân răng.
Hình 1.2.Hình dạng chân răng và số lƣợng ống tủy [45] 1.1.1.2 Một số phân loại hình thái ống tủy
Theo phân loại của Weine (1969), có bốn loại ống tủy: Loại I có một ống tủy duy nhất; Loại II có hai ống tủy nhập lại thành một và đi ra qua một lỗ chóp; Loại III có hai ống tủy riêng biệt; và Loại IV có một ống tủy tách thành hai và đi ra qua hai lỗ chóp.
Vertucci (1984) đã tiến hành nghiên cứu hình thái ống tủy trên 2.400 răng và đưa ra một phân loại gồm 8 loại hình thái ống tủy khác nhau.
+ Loại I: một ống tủy từ buồng tủy đến chóp;
+ Loại II: hai ống tủy rời khỏi buồng tủy rồi hợp lại thành một, ra ngoài qua một lỗ chóp;
+ Loại III: một ống tủy rời khỏi buồng tủy, chia thành hai sau đó hợp lại thành 1 để ra ngoài qua một lỗ chóp;
+ Loại IV: hai ống tủy riêng biệt từ buồng tủy đến chóp;
+ Loại V: một ống tủy tách ra thành hai ở khoảng gần chóp;
+ Loại VI: hai ống tủy riêng biệt nhập lại thành một, sau đó lại tách ra thành hai ở khoảng gần chóp;
+ Loại VII: một ống tủy tách ra thành hai ống tủy riêng biệt, sau đó nhập lại thành một, sau cùng lại tách ra thành hai ở khoảng gầnchóp;
PhânloạicủaVertucciđƣợcsửdụngtrong hầu hết các nghiên cứu hình thái ống tủy vì tính đơn giản và tổng quát của nó, và đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này.
Hình 1.3.Phân loại hình thái ống tủy theo Vertucci
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra sự tồn tại của các biến thể hình thái ống tủy khác, dẫn đến việc đưa ra những phân loại bổ sung cho hệ thống phân loại Vertucci Những loại hình thái bổ sung này ít phổ biến hơn so với tám loại cơ bản của phân loại Vertucci.
Ngoài các phân loại phổ biến, còn có một số phân loại khác như phân loại Briseno-Marroquin, phân loại của Kartal và Yanikogle (1992), và phân loại của Gulabivala (2001), nhưng chúng ít được áp dụng trong nghiên cứu và thực hành lâm sàng.
1.1.2 Một số thay đổi trong quá trình hình thành chân răng a Eo nối giữa các ống tủy trong cùng một chân răng.Trong sự phát triển của từng chân răng ở răng nhiều chân, nếu lá biểu mô dính lại hoàn toàn sẽ hình thành một chân răng với một ống tủy Còn khi lá biểu mô của một chân răng, chỉ dính một phần thì hình thành hai ống tủy với một eo nối ở giữa[30].
Phân loại chân răng theo Hsu và Kim bao gồm một số dạng đặc trưng Chân răng dƣ có thể nằm ở vị trí ngoài hoặc trong so với các chân răng thông thường, thường nhỏ, ngắn và cong hơn Trường hợp các chân răng dính nhau xảy ra khi bao biểu mô Hertwig không phát triển thành các nhánh ống riêng biệt hoặc khi các nhánh ống này dính vào nhau trong quá trình phát triển, dẫn đến hiện tượng dính chân răng ở phần ngà, thường gặp ở các răng số 6 và 7 Hiện tượng này có thể gây ra sự thông nối và kết hợp của các ống tủy ở các chân bị dính, chủ yếu xảy ra ở phần bachóp Đối với chân răng có ống tủy hình C, ống tủy này được đặt tên theo hình dạng của nó trong mặt cắt ngang, với hệ thống ống tủy thông nối thành một dải cong liên tục hoặc đứt quãng Thay vì có các lỗ ống tủy riêng biệt, ống tủy hình C thường có một lỗ lớn hình dải cong như chữ C ở mức sàn tủy, bắt đầu từ góc gần trong và kết thúc ở phía xa của buồng tủy, trong khi bên dưới lỗ tủy, hệ thống ống tủy có thể biến đổi đa dạng, nối nhau thành một dải cong liên tục hoặc phân tách thành vài ống tủy.
Chân răng và ống tủy hình C thường gặp ở răng 7 hàm dưới người châu Á Chân răng và ống tủyhìnhC cũng có thể gặp ở răng 6 hàm dưới và răng 6,
7 hàm trên nhƣng hiếm hơn. e Các phân loại ống tủy hình C
Phân loại Melton (1991) bao gồm ba loại ống tủy dựa trên hình dạng giải phẫu trong thiết diện cắt ngang qua chân răng: loại I có hình C liên tục, loại II có hình chấm phẩy với vách ngà ngăn cách tạo thành ống tủy riêng biệt và hệ thống ống tủy thông nối dạng dải, và loại III là gián đoạn với hai hoặc ba ống tủy.
Hình 1.5.Phân loại ống tủy hình C theo Melton [34]
Phân loại ống tủy của Fan (2004) đã cải tiến từ phân loại Melton, chia thành 5 loại: loại I có hình C liên tục; loại II là dạng chấm phẩy với góc α hoặc β không dưới 60°; loại III có 2 hoặc 3 ống tủy với cả hai góc đều nhỏ hơn 60°; loại IV có ống tủy hình bầu dục hoặc tròn chỉ thấy ở phần chóp; và loại V không có lỗ tủy, chỉ thấy ở phần chóp Các loại II và III, mặc dù có hình dạng không liên tục, vẫn có phần eo nối rất hẹp và có thể thông nối liên tục ở chân răng khác Phân loại của Fan (2004) được đánh giá cao vì tính rõ ràng và đầy đủ, được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về ống tủy hình C sau này.
Hình 1.6.Phân loại ống tủy hình C theo Fan [23]
- Phân loại theo biểu hiện trên phim Fan (2004) đã ghi nhận các răng có ống tủy hìnhCcó3kiểubiểuhiệntrênphimnhƣ(hình1.7).Dosựchồnglắpnênkhóphânbiệt
Răng 7 hàm dưới có thể có ống tủy hình C, nhưng việc xác định chỉ dựa vào phim thông thường có thể gây nhầm lẫn Trên phim, một răng có ống tủy hình C thường thể hiện chân chụm, tuy nhiên, không phải lúc nào răng có biểu hiện này cũng có ống tủy hình C.
- Phân loại Gao (2006) theo hình thái ba chiều gồm 3 loại: loại I hợp nhất, loại II đối xứng, loại III bất đối xứng (hình1.7).
Hình 1.7.Phân loại ống tủy hình C theo Gao dựa vào hình ảnh tỏi cấu trỳc từ àCT [25]
- Phân loại ống tủy hình C ở răng 6, 7 hàm trên theo Martin (2006) gồm
5 loại theo vị trí của ống tủy thông nối nhau (hình 2.11)[6].
1.1.3 Sự thay đổi của ống tủy trong quá trình tích tuổi
Hình dạng và kích thước ống tủy phản ánh giai đoạn phát triển của răng
Ngà thứ phát được hình thành liên tục sau khi chân răng đã phát triển, với tốc độ chậm hơn so với ngà nguyên phát Bên cạnh đó, ống tủy trải qua những thay đổi do ngà sửa chữa hoặc ngà phản ứng, nhằm đáp ứng với các tác động như mòn răng, sâu răng, hoặc các thủ thuật nha khoa Quá trình tạo thành ngà sửa chữa diễn ra nhanh hơn so với ngà thứ phát, dẫn đến sự giảm thể tích ống tủy Sự giảm kích thước của ống tủy không tương ứng với hình dạng ban đầu của nó.
Các nghiên cứu cho thấy, kích thước buồng tủy giảm rõ rệt theo tuổi tác, đặc biệt là chiều cao sừng tủy Pineda và Kuttler (1972) đã chỉ ra rằng ống tủy rộng hơn ở những người dưới 25 tuổi, trong khi đường kính ống tủy giảm đáng kể ở nhóm tuổi 35-45 và giảm nhiều hơn ở nhóm trên 55 tuổi Đồng thời, sự giảm đường kính ống tủy đi kèm với sự gia tăng số lượng và độ cong của ống tủy.
1.1.4 Một số yếu tố liên quan đến hình thái chân răng và ống tủy
Sự khác biệt giữa hai giới ở vùng răng 6 và 7 không đáng kể Theo nghiên cứu của Moreno-Gomez (2013) về đặc điểm hình thái ở người Colombia, chỉ có sự khác biệt về kích thước chiều gần xa ở răng 6 hàm dưới và kiểu hình múi ở răng 7 hàm dưới.
Nghiên cứu về hình thái chân răng và ống tủy ở các răng số 6 và 7 cho thấy có sự khác biệt giữa hai giới Cụ thể, nữ giới thường gặp hiện tượng chân răng dính nhau nhiều hơn so với nam giới Ngoài ra, ống tủy hình C ở răng 7 hàm dưới cũng xuất hiện nhiều hơn ở nữ.
1.1.4.2 Về vị trí (bên phải hay bên trái)
Các phương pháp nghiên cứu hình thái ống tủy
Hunter (1788) là tác giả đầu tiên mô tả những hốc bên trong răng [14].
Từ đó đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về hình thái ống tủy các nhóm răng với những phương pháp khác nhau.
1.2.1 Nghiên cứu lâm sàng và báo cáo ca lâm sàng
Nghiên cứu lâm sàng về răng được điều trị nội nha ghi nhận dữ liệu qua quan sát trực tiếp hoặc sử dụng kính phóng đại và phim chụp trong quá trình điều trị Phương pháp này thường được áp dụng để điều tra các đặc điểm giải phẫu cụ thể, như tỷ lệ, khả năng phát hiện và tạo hình ống tủy gần ngoài thứ 2 của răng 6 và 7 hàm trên, theo nghiên cứu của Stropko (1999).
[12],Wolcott(2005)[16].Dođó,kếtquảthayđổitùytheođiềukiện làm việc, phương tiện hỗ trợ như kính phóng đại, kính hiển vi, kỹ năng và kinh nghiệm của nhà lâm sàng.
1.2.2 Nghiên cứu sử dụng dữ liệu chẩn đoán hình ảnh sẵncó
Các phim chụp răng, đặc biệt là hình ảnh kỹ thuật số lưu trữ tại các đơn vị chẩn đoán hình ảnh, cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu hình thái chân răng và ống tủy Conebeam CT hiện đang được ứng dụng rộng rãi trong nha khoa, với kho dữ liệu ngày càng phong phú Nhờ đó, các nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ cone beam CT thường có mẫu lớn, thu thập thông tin nền đầy đủ của bệnh nhân và nhận dạng răng chính xác hơn, mà không cần can thiệp vào răng của bệnh nhân Phương pháp này cũng đồng nhất cách khảo sát hình ảnh để thu thập số liệu, khắc phục nhược điểm của các nghiên cứu trên răng đã nhổ và các nghiên cứu lâm sàng trên răng đã được điều trị nội nha.
1.2.3 Nghiên cứu trên thi thể và sọ
Nghiên cứu hình thái ống tủy răng trên thi thể và sọ thường được ứng dụng trong nhân học răng và pháp nha Công nghệ hình ảnh như phim và hình ảnh cắt lớp điện toán (CT, microtomography, conebeam CT) đã được sử dụng để khảo sát hình thái răng và ống tủy của người cổ tại các di chỉ khảo cổ.
1.3 Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về hình thái chân răng và ống tủy nhóm răng 6, 7
Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về hình thái chân răng và ống tủy nhóm răng 6, 7
Răng 6, 7 hàm trên thường có 3 chân: gần ngoài, xa ngoài và trong[13],
Răng 6 hàm trên thường có 3 chân riêng biệt, trong khi răng 7 hàm trên lại có nhiều biến thể về số lượng chân răng, với tỷ lệ chân răng dính nhau cao hơn.
Nghiên cứu cho thấy rằng răng 6 hàm trên thường có 3 chân gần, trong khi các biến thể về số lượng chân răng rất hiếm, chỉ chiếm khoảng 1-5% theo một số nghiên cứu.
Nghiên cứu cho thấy hơn 50% trường hợp răng 6 hàm trên có 2 ống tủy gần ngoài Sự phân bố hình thể của ống tủy này thay đổi tùy thuộc vào dân số và phương pháp nghiên cứu được áp dụng.
Chân xa ngoài và chân trong của răng 6 hàm trên thường có cấu trúc ống tủy loại I, với tỷ lệ gần như 100% theo nhiều nghiên cứu Cụ thể, nghiên cứu của Altunsoy (2014) ghi nhận 99,5% chân xa ngoài và 99,8% chân trong có ống tủy loại I.
Răng 7 hàm trên thường đa dạng về số lượng và hình thái chân răng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy dạng 3 chân điển hình ở răng 7 hàm trên tuy chiếm đa số (> 70%), nhƣng có thể gặp răng 7 hàm trên có 1, 2 hoặc 4 chân, trong đó 1 và 2 chân thường gặp hơn (bảng 1.1) Tỷ lệrăng 7 hàm trên có chân dính nhau khá thay đổi trong một số nghiên cứu 10,71% ở người Hàn Quốc theo Kim (2012)[5].
Bảng 1.1.Phân bố răng 7 hàm trên theo số lƣợng chân răng trong một số nghiên cứu răng trên cung hàm
Nghiên cứu Cộng đồng 1 chân 2 chân 3 chân 4 chân
Theo Zhang (2011) đã xác định 8 dạng hình thái chân răng và ống tủy có thể gặp ở răng 6, 7 hàm trên Các hình thái này bao gồm: (1) ba chân răng riêng biệt, mỗi chân có một ống tủy; (2) ba chân răng tách rời, trong đó chân xa ngoài và chân trong mỗi chân có một ống tủy, còn chân gần ngoài có
Có nhiều kiểu cấu trúc ống tủy ở răng, bao gồm: hai ống tủy; hai chân ngoài và trong rời nhau, mỗi chân có một ống tủy; hai chân gần và xa rời nhau, mỗi chân cũng có một ống tủy; một chân với một ống tủy; một chân với hai ống tủy; một chân với ba ống tủy; ba chân rời với chân gần ngoài và trong mỗi chân có một ống tủy, còn chân xa ngoài có hai ống tủy Nghiên cứu của Zhang cho thấy răng hàm trên chỉ có hai dạng ống tủy là dạng 1 (48%) và dạng 2 (52%), trong khi răng hàm số 7 có đủ tám dạng khác nhau.
Vì thế, răng 7 hàm trên đƣợc xem là có nhiều biến thể chân răng và ống tủy đa dạng hơn so với răng 6[5, 40, 47],.
Răng 7 hàm trên thường có 3 chân, với chân gần ngoài có thể có 2 ống tủy, nhưng ít phức tạp hơn so với chân gần ngoài của răng 6 Tỷ lệ răng 7 có một ống tủy ở chân gần ngoài cao hơn 50%, theo nghiên cứu bằng công nghệ cone-beam CT Zhang (2011) cũng ghi nhận rằng răng hàm này có nhiều biến thể về hình thái chân răng.
Khoảng 78% răng có dạng 3 chân điển hình với chỉ một ống tủy gần ngoài Các nghiên cứu khảo sát răng đã nhổ cho thấy tỷ lệ răng có một ống tủy gần ngoài dao động từ 40-50%, thấp hơn so với các nghiên cứu trên cung hàm nhưng vẫn cao hơn so với tỷ lệ ở răng 6 Đối với răng 7 hàm trên, hai chân xa ngoài và chân trong thường chỉ có một ống tủy.
Các chân răng 7 hàm trên có khả năng dính liền, dẫn đến việc hệ thống ống tủy có thể thông nối và tạo thành ống tủy hình dải hoặc hình C Theo nghiên cứu của Martins (2016), tỷ lệ răng 7 hàm trên có ống tủy hình C là 3,8%.
Hình thái và chiều rộng của chân gần răng 6, 7 hàm dưới thường dẫn đến việc răng này có 2 ống tủy, có thể có thông nối giữa các ống tủy Trong khi đó, chân xa thường chỉ có một ống tủy Đặc điểm hình thái của chân răng và ống tủy răng 6, 7 hàm dưới có sự khác biệt theo chủng tộc Cụ thể, ở người đại chủng Á, răng 6 thường có 3 chân (bao gồm chân xa) và răng 7 có dạng 2 chân dính một phần, tạo thành chân răng và ống tủy hình chữ C.
Biến thể về số lượng chân răng có thể có 1, 3 hoặc 4 chân, trong đó dạng 1 và 4 chân rất hiếm gặp, chỉ phát hiện với tỷ lệ thấp trong một số nghiên cứu Răng 6 hàm dưới thường có 3 chân, kèm theo 1 chân răng dư ở phía trong, là một biến thể phổ biến ở người đại chủng Á Chân răng dư này thường nằm ở phía trong của chân xa, trong khi các vị trí khác ít gặp hơn.
3 chân tức răng có chân xa trong Tỷ lệrăng 6 hàm dưới có 3 chân đặc biệt cao hơn 30% trong các cộng đồng Trung Quốc…[17].
Hầu hết nghiên cứu ghi nhận chân gần răng 6 hàm dưới có 2 ống tủy, mà chủ yếu là ống tủy loại IV và loại II.
Trong trường hợp răng 6 hàm dưới có 3 chân, chân thứ 3 thường nằm ở vị trí xa trong, với phần ba cổ gắn một phần hoặc hoàn toàn vào chân xa Hình thể của chân răng đa dạng, từ dạng chân hình nón ngắn đến chân có kích thước tương tự như chân xa bình thường, tuy nhiên, các chân xa trong thường có chiều dài ngắn hơn.
13 cong, và có 1 ống tủy hẹp, hiếm gặp ống tủy phụ và ống tủy bên ở chân này[3].
Bảng 1.2.Phân bố răng 7 hàm dưới theo số lượng chân răng trong một số nghiêncứu.
Răng 7 hàm dưới thường có 2 chân với 2 hoặc 1 ống tủy ở chân gần và
Ống tủy ở chân xa chủ yếu là loại I, trong khi chân gần thường gặp các loại IV, II và I Đặc biệt, răng 7 có tỷ lệ ống tủy loại I cao hơn nhiều so với răng 6 ở hàm dưới.
Răng 7 hàm dưới có nhiều biến thể về số lượng và hình thái chân răng hơn so với răng 6, dẫn đến sự đa dạng trong hệ thống ống tủy Răng này có thể có 1, 2, 3 hoặc 4 chân, trong đó tỷ lệ răng có một chân và hai chân dính nhau khá cao Theo nghiên cứu của Zheng (2011), tỷ lệ răng 7 hàm dưới có 2 chân dính lên đến 39,2%.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm:711 răng 6, 741răng 7 hàm trên và 686 răng 6,
Nghiên cứu được thực hiện trên 724 răng hàm dưới từ hình ảnh conebeam CT của 382 bệnh nhân tại Hà Nội và các khu vực lân cận, bao gồm 171 nam và 211 nữ, với độ tuổi từ 18 đến 63 Các bệnh nhân đã được chụp conebeam CT bằng máy Galileos (Sirona Dental System Inc., Đức), với kích thước voxel 0,3mm x 0,3mm x 0,3mm và độ sâu màu 12 bit, tại bộ môn Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược, Đại Học Quốc Gia Hà Nội và phòng chụp Xquang Hà Thành trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 4 năm 2021.
(1) Có ít nhất 1 răng 6 hoặc 7 hàm trên hoặc hàm dưới.
(2) Các răng 6, 7 có chân răng phát triển hoàn toàn.
(3) Hình ảnh conebeam CT rõ ràng, thể hiện đƣợc hình ảnh ống tủy.
(1) Các răng 6, 7 có tiêu ngót chân răng.
(2) Răng đã trám bít hoặc có miếng trám đến tủy.
(3) Răng có phục hồi kim loại nhƣ chốt, mão, răng quá.
Cỡ mẫu: phương pháp lấy mẫu thuận tiện.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với thiết kế cắt ngang mô tả phân tích, nhằm khảo sát hình thái ống tủy của các răng trên cung hàm của bệnh nhân thông qua công nghệ Conebeam CT.
Hình 2.1.Giao diện phầm mềm Gelileos Viewer
Hình ảnh trên cho thấy việc điều chỉnh để quan sát chân xa của răng số 6 hàm dưới bên phải Hình ảnh dưới ẩn các đường xác định mặt phẳng trực giao, cho phép phối hợp quan sát trong ba mặt phẳng khác nhau Đồng thời, việc di chuyển các lát cắt trong mặt phẳng trục ghi nhận chân xa này có một ống tủy, thuộc loại I.
Máy chụp Conebeam CT Galileos, sản xuất bởi Sirona Dental System Inc vào năm 2010, được sử dụng tại bộ môn Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược, Đại Học Quốc Gia Hà Nội và phòng chụp Xquang Hà Thành Với kích cỡ voxel 0,3mm x 0,3mm x 0,3mm và độ sâu màu 12bit, máy cung cấp hình ảnh chất lượng cao, hỗ trợ chẩn đoán và điều trị trong lĩnh vực nha khoa.
Phương tiện quan sát hình ảnh Conebeam CT sử dụng phần mềm Galileos Viewer từ Sirona Dental System Inc trên màn hình 24 inch với độ phân giải 1.920x1.200 Màn hình này có độ tương phản 1.000:1 và bề dày mỗi lát cắt là 1mm, giúp mang lại hình ảnh sắc nét và chi tiết cho quá trình chẩn đoán.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thu thập dữ liệu cone beam CT từ các bệnh nhân tại bộ môn Răng Hàm Mặt, Đại học Y dược, Đại Học Quốc Gia Hà Nội và phòng chụp Xquang Hà Thành trong khoảng thời gian từ 4/2019 đến 4/2021 Dữ liệu cone beam CT được lưu trữ an toàn trên ổ cứng di động Điều tra viên chính đã tiến hành khảo sát hình ảnh cone beam CT của từng bệnh nhân để lựa chọn những bệnh nhân và răng phù hợp với tiêu chuẩn chọn mẫu Thông tin về bệnh nhân và răng được ghi nhận, bao gồm dữ liệu nền và dữ liệu về hình thái chân răng và ống tủy, với quy trình quan sát chi tiết từng răng và chân răng theo phương pháp khảo sát cone beam CT.
Thu thập và xử lý số liệu
2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu
Thông tin nền của bệnh nhân được thu thập qua phỏng vấn trước khi chụp, do kỹ thuật viên thực hiện Hai quan sát viên ghi nhận các biến số hình thái chân răng và ống tủy Trong trường hợp có sự khác biệt trong ghi nhận, hai quan sát viên sẽ thảo luận để đạt được sự thống nhất; tuy nhiên, không có trường hợp nào xảy ra bất đồng giữa họ, và các răng không thống nhất sẽ bị loại khỏi mẫu nghiên cứu.
Các thông tin nền của bệnh nhân:
- Tên: chỉ chọn mẫu các cá thể có tên Việt.
- Tuổi: đƣợc tính bằng cách lấy ngày chụp trừ cho ngày sinh, tính tròn năm Chia thành các nhóm tuổi: từ 20 tuổi trở xuống (≤20), từ 20 đến
30 tuổi (21-≤30), từ 30 đến 40 tuổi (31-≤40), từ 40 đến 50 tuổi (41-
- Giới tính: gồm 2 nhóm nam vànữ.
Bảng 2.1.Các kiểu chân răng dính nhau ở răng 7 hàm trên
2 chân dính nhau và1 chân riêng biệt
Các thông tin nền của răng, chân răng và ống tủy:
Tên răng được ghi nhận theo thứ tự trên cung hàm trên hoặc dưới khi phân tích hình ảnh CBCT, liên quan đến các răng còn lại Trong những trường hợp không xác định rõ ràng loại răng, chúng sẽ không được đưa vào mẫu.
- Vị trí: răng nằm bên phải hay bên trái cung hàm Các răng đƣợc ghi nhận theo định danh 2 chữ số của FDI: răng 16, 26, 17, 27, 36, 46, 37, 47.
Tên chân răng được xác định dựa trên vị trí của chúng Răng số 6 và 7 ở hàm trên thường có ba chân: chân gần ngoài, chân xa ngoài và chân trong Trong khi đó, răng số 6 và 7 ở hàm dưới thường chỉ có hai chân: chân gần và chân xa.
Tên ống tủy được xác định dựa trên tên của chân răng chứa ống tủy đó Đối với những chân răng có nhiều ống tủy, các ống tủy sẽ được gọi theo thứ tự từ ngoài vào trong.
Số chân răng được xác định bằng cách quan sát mặt cắt ngang của chân răng, với răng một chân được ghi là một nếu có hình dạng rõ ràng và thiết diện cắt ngang từ cổ đến chóp là hình tròn hoặc bầu dục Các răng có từ hai chân trở lên được phân biệt khi có ranh giới rõ ràng giữa các chân từ vùng chẽ chân răng.
Hình thái chân răng được phân loại thành hai loại: chân răng rời và chân răng dính Chân răng rời có đường viền rõ ràng, cho phép phân biệt từng chân răng, mặc dù chúng có thể gần nhau Ngược lại, chân răng dính xảy ra khi các chân răng chia sẻ phần ngà ở bất kỳ phần nào, khiến cho việc xác định đường viền của từng chân răng trở nên khó khăn trong mặt phẳng ngang Răng có chân dính sẽ được ghi nhận tên các chân dính.
- Đối với các răng 6, 7 hàm trên, các răng có chân dính đƣợc ghi nhận theo số chân và tên chân dính nhau theo thứ tự (bảng2.1).
Răng 6 và 7 ở hàm dưới có vị trí dính, với chân răng hình C Khi có hơn hai chân răng dính lại, chúng tạo thành một khối chân răng cong giống như chữ C.
Hình 2.2.Các kiểu chân răng dính nhau ở răng 7 hàm dưới
- Số ống tủy từng chân: đƣợc tính bằng số ống tủy lớn nhất xác định đƣợc của mỗi chânrăng.
- Số ống tủy của răng: tổng số ống tủy của tất cả các chân răng của răngđó.
- Hình thái ống tủy: đƣợc ghi nhận theo phân loại Vertucci (1984) [13].
Ống tủy hình C là dạng ống tủy được hình thành khi các ống tủy kết hợp lại, tạo thành một ống tủy cong giống chữ C Để ghi nhận hình thái và số lượng ống tủy, ống tủy hình C thường được quan sát qua thiết diện cắt ngang Theo phân loại của Fan (2004), ống tủy hình C ở răng 6 và 7 hàm dưới được chia thành 5 loại khác nhau.
[23] Ở răng 6, 7 hàm trên, ống tủy hình C đƣợc ghi nhận theo phân loại của Martin (2016) (hình 2.11)[6].
Hình 2.3.Phân loại ống tủy hình C ở răng 6, 7 hàm trên dựa vào vị trí các ống tủy thông nối [6]
- Sự thông nối giữa các ống tủy: ghi nhận khi phát hiện đƣợc thông nối giữa các ống tủy thuộc các chân răng khácnhau.
Hai răng cùng tên ở hai bên được coi là đối xứng khi chúng có số lượng và hình thái chân răng giống nhau, cũng như số lượng và hình thái ống tủy đồng nhất ở tất cả các chân răng.
2.3.2 Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu bao gồm việc nhập và lưu trữ dữ liệu vào máy tính bằng phần mềm Excel 2010 Sau đó, số liệu sẽ được phân tích thống kê thông qua phần mềm SPSS for Windows, phiên bản 16.0.
Phương pháp phân tích số liệu:
Thống kê mô tả: tần số và tỷ lệ phần trăm theo các biến số chính.
Sử dụng kiểm định Chi bình phương hoặc kiểm định Fisher (đối với nhóm nhỏ hơn 5) để phân tích sự khác biệt về các biến số giữa nam và nữ, các nhóm tuổi, cũng như giữa các răng bên phải và bên trái.
- Phép kiểm Chi bình phương, Fisher hoặc T test cũng được sử dụng để xác định sự khác biệt về các biến số giữa răng 6 và 7 trong cùng mộthàm.
- Các phép kiểm đều đƣợc sử dụng với độ tin cậy 95% và kết luận dựa vào giá trị p.
- Nếu p ≤0,05, thì có sự khác biệt có ý nghĩa thốngkê.
- Nếu p ˃0,05, thì không có sự khác biệt có ý nghĩa thốngkê.
Vấn đề y đức
Đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt bởi Hội đồng khoa học và Hội đồng đánh giá đạo đức tại Đại học Y dược, Đại Học Quốc Gia Hà Nội Hình ảnh conebeam CT của bệnh nhân trong nghiên cứu được thu thập từ các chỉ định không liên quan đến nghiên cứu Thông tin của bệnh nhân được mã hóa để bảo đảm tính bảo mật và riêng tư.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Răng 7 hàm trên
a Số lƣợng và hình thái chân răng
Biểu đồ 3.6.Phân bố số lƣợng chân răng của răng 7 hàm trên
Trong 741răng 7 hàm trên đƣợc khảo sát, 12 răng có 1 chân(1,62%), 51 răng có 2 chân (chân ngoài và trong)(6,88%), 675 có 3 chân (gần ngoài, xa ngoài và trong) (91,09%) và 3răng có 4 chân
Tỷ lệrăng 7 hàm trên có chân dính nhau là 21,73%.
Bảng 3.3.Tần suất và tỷ lệ các loại chân răng 7 hàm trên theo giới n (%)
Tổng b Số lƣợng và hình thái ống tủy
Răng có hệ thống ống tủy riêng biệt từng chân Đa số răng 7 hàm trên có hệ thống ống tủy tách biệt từng chân là răng có 3 chân(88,79%).
* Ống tủy gần ngoàicó 1 hoặc 2 ống tủy với tỷ lệ lần lƣợt là 82,07% và17,93%.
Bảng 3.4.Tần suất và tỷ lệrăng 7 hàm trên có ống tủy gần ngoài thứ 2 theo tuổi
Tỷ lệ chân răng gần ngoài có 2 ống tủy thay đổi theo từng nhóm tuổi Cụ thể, ở nhóm tuổi ≤20, tỷ lệ này là 16,2%; nhóm 20-30 tuổi là 17,8%; nhóm 30-40 tuổi đạt 19,6%; nhóm 40-50 tuổi tăng lên 22,0% Đặc biệt, ở nhóm 50-60 và ≥60 tuổi, không có răng nào có 2 ống tủy gần ngoài.
Biểu đồ 3.7.Phân bố răng 7 hàm trên theo hình thể ống tủy gần ngoài
Hình thái chân răng và ống tủy nhóm răng 6, 7 hàm dưới
* Ống tủy xa ngoài và ống tủy trongtất cả đều có 1 ống tủy loại I.
Chân xa ngoài tất cả các răng đƣợc khảo sát đều có 1 ống tủy.
Chân trong tất cả các răng đều có 1 ống tủy.
Răng có thông nối ống tủy giữa các chân dính nhau
Trong các răng 7 hàm trên có chân răng dính nhau có thể có 3 hoặc 4 chân dính nhau.
Bảng 3.5.Tỷ lệ các loại chân răng dính nhau của răng 7 hàm trên
Tỷ lệrăng 7 hàm trên có thông nối ống tủy các chân răng là 21,73% (161/741) Dạng thường gặp nhất là 2 ống tủy ngoài nhập lại thành một ở gần sát chóp (77/161).
Với ống tủy hình C chủ yếu là hình C loại B 47,82% và loại A 36,02% còn lại là E 12,42% và loại C 3,7% theo phân loại ống tủy hình C ở răng 6, 7 hàm trên của Martins (2016).
Như vậy :răng 7 hàm trên có thể có 1, 2, 3 hay 4 ống tủy với tỷ lệ lần lƣợt là 1,0%, 0,67%, 7,01%, 78,81% và 13,49%.
3.1.3 Hình thái chân răng và ống tủy nhóm răng 6, 7 hàm dưới
3.1.3.1 Răng 6 hàm dưới a Số lƣợng và hình thái chân răng
Biểu đồ 3.8.Phân bố số lượng chânrăng 6 hàm dưới
Trong 686 răng 6 hàm dưới được khảo sát, 604 (88,05%) răng có 2 châncòn lại là có 3 chân Tất cả đều có các chân răng riêng biệt không dính nhau.
Bảng 3.6.Số lượng và tỷ lệ phần trăm răng 6 hàm dưới có 3 chân
Tỷ lệ răng có 3 chân ở nam giới là 14% và ở nữ giới là 10,2% Tổng tỷ lệ người có răng 3 chân là 15,41%, với 17,36% ở nam và 13,79% ở nữ Đặc biệt, tỷ lệ răng có 3 chân bên phải (14%) cao hơn bên trái (9,82%).
Trong 315 người có răng 6 hàm dưới ở cả hai bên Có46 người có răng
3 chân (14,6%) gồm có 25 người (54,35%) xảy ra hai bên, 21 người(45,65%) chỉ xảy ra 1 bên (16 bên phải và 5 bên trái).
Tất cả các răng 3 chân đều là có thêm một chân ở phía trong. b Số lƣợng và hình thái ống tủy * Ống tủy gần
Biểu đồ 3.9.Phân bố răng 6 hàm dưới theo số lượng ống tủy gần ở các nhóm tuổi
Chân gần có thể có 1 hoặc 2 ống tủy với tỷ lệ lần lượt là 8,3% và 91,7% Đặc biệt, nhóm tuổi dưới 20 có tỷ lệ 2 ống tủy gần lên tới 92,48%, trong khi nhóm tuổi 20-30 là 93,46% Tỷ lệ này giảm xuống 88,99% ở nhóm 30-40 tuổi, 91,94% ở nhóm 40-50 tuổi, và 53,85% ở nhóm 50-60 tuổi Đáng chú ý, nhóm tuổi từ 60 trở lên có tỷ lệ 100% có 2 ống tủy gần.
Bảng 3.7.Số lượng và tỷ lệ chân gần răng 6 hàm dưới có ≥ 2 ống tủy theo giới và vị trí
Biểu đồ 3.10.Phân bốrăng 6 hàm dưới theo hình thể ống tủy gần
Các dạng ống tủy gần thường gặp là loại IV (54,66%), loại II (29,88%),
30 các loại khác ít gặp hơn là loại I, loại III, loại V, loại VI và loại VII
Chân xa răng 6 hàm dưới có 1 hoặc 2 ống tủy với tỷ lệ lần lượt là 77,11%; 22,89%.
Biểu đồ 3.11 cho thấy sự phân bố của răng 6 hàm dưới theo hình thể ống tủy xa ở nhóm có 2 chân và nhóm có 3 chân Đối với răng 6 hàm dưới có 2 chân, chân xa có thể có 1 hoặc 2 ống tủy, với tỷ lệ lần lượt là 74% và 26% Trong số các răng này, dạng ống tủy thường gặp nhất là loại I, trong khi các loại khác ít gặp hơn, chủ yếu là loại V.
Trong nghiên cứu về cấu trúc ống tủy, tỷ lệ các loại ống tủy được phân loại như sau: loại II chiếm 15,1%, loại III 4,97%, loại IV 3,31%, loại VI 2,48% và loại V 0,17% Đặc biệt, ở các răng 6 hàm dưới, có 3 chân và tất cả đều có một ống tủy xa thuộc loại I Đối với ống tủy xa trong, chân xa trong chỉ xuất hiện ở những răng có 3 chân, và tất cả đều chỉ có 1 ống tủy duy nhất.
Như vậy :răng 6 hàm dưới có thể có 2, 3 hay 4 ống tủy với tỷ lệ lần lượt là 8,01%; 69,39%; 22,6% Dạng thường gặp nhất là răng 6 hàm dưới có
2 ống tủy gần và 1 hoặc 2 ống tủy xa.
3.1.3.2 Răng 7 hàm dưới a Số lƣợng và hình thái chân răng
Biểu đồ 3.12.Phân bố số lượng chân răng 7 hàm dưới
Răng 7 hàm dưới cũng đa dạng về số lượng và hình thái chân răng; có thể có 1, 2, 3 chân với tỷ lệ lần lƣợt là 0,41%; 97,93%; 1,66%.
Răng 7 hàm dưới 3 chân đều là có thêm 1 chân phía trong. b Số lƣợng và hình thái ống tủy
* Răng có hệ thống ống tủy riêng biệt từng chân(570 răng): Ống tủy gần
Biểu đồ 3.13.Phân bố số lượng ống tủy chân gần răng 7 hàm dưới
Có thể có 1 hay 2 ống tủy với tỷ lệ lần lƣợt là 41,6%; 58,4%. Ở các nhóm tuổi tỷ lệ chân gần có 2 ống tủy là: ≤20tuổi là 62,96%; 20-
30 tuổi là 58,01%; 30-40 tuổi là 61,36%; 40-50 tuổi là 50%; 50-60 tuổi là 50%; ≥60 tuổi là 0%.
Biểu đồ 3.14.Phân bố hình thái ống tủy gần răng 7 hàm dưới
Các dạng ống tủy thường gặp ở chân gần bao gồm loại I (41,6%), loại II (25,8%) và loại IV (23,9%) Các loại ít gặp hơn là loại III (5,6%), loại V (2,6%) và loại VI (0,5%).
Biểu đồ 3.15.Phân bố số lượng ống tủy xarăng 7 hàm dưới
Có thể có 1 hoặc 2 ống tủy với tỷ lệ lần lƣợt là 96,5%; 3,5%.
Hầu hết (96,5%) chân xa (ngoài) có dạng ống tủy loại I, các loại khác có tỷ lệ thấp là loại II (0,5%), loại III (0,55%), loại IV (0,5%), loại V (2,3%).
Chân dƣ phía trong đều có một ống tủy - loại I.
Hiện tượng chân răng dính nhau xuất hiện ở 154 răng, tất cả đều là các răng có 2 chân Các chân răng dính nhau theo kiểu gần và xa, tạo thành khối chân răng hình C quay vào phía trong.
Bảng 3.8.Số lượng và tỷ lệrăng 7 hàm dưới có chân răng và ống tủy hình
Tỷ lệrăng 7 hàm dưới có chân răng và ống tủy hình C là 21,27%; tỷ lệ này ở nam là 17,24% thấp hơn ở nữ là 24,44%.
Tỷ lệ người có ống tủy hình C là 28,83%, ở nam là 22,61% cũng thấp hơn ở nữ là 33,8%
Biểu đồ 3.16.Phân bố hình thái ống tủy C răng 7 hàm dưới
Phần lớn răng 7 hàm dưới có ống tủy hình C (68,18%) có dạng dải cong liên tục (C1), các dạng khác ít gặp hơn.
Có 102 người có 2 răng 7 hàm dưới trong đó ít nhất 1 răng ống tủy hình
C, 45 người (44,11%) có ống tủy hình C hai bên, 57 người (55,88%) một bên
(20 bên phải, 37 bên trái) Ống tủy hình C ở 2 răng hai bên không hoàn toàn đối xứng, chỉ 25/45 (55,56%) ống tủy hình C hai bên có hình thể đối xứng.
Răng 7 hàm dưới có thể có từ 1 đến 4 ống tủy với tỷ lệ lần lượt là 0,41%; 46,54%; 50% và 3,0% Trong đó, dạng điển hình thường gặp là 1 hoặc 2 ống tủy gần và 1 ống tủy xa Đặc biệt, tỷ lệ ống tủy hình C khá cao, đạt 21,27%.
3.2 Xác định đặc trƣng hình thái chân răng và ống tủy ở răng 6, 7 người Hà Nội và tổng quát hóa một số quy luật về hình thái chân răng và ống tủy các răng 6, 7theo giới tính và vị trí
Xác định đặc trưng hình thái chân răng và ống tủy ở răng 6, 7 người Hà Nội và tổng quát hóa một số quy luật về hình thái chân răng và ống tủy các răng 6, 7 theo giới tính và vị trí
Răng 6 và 7 ở hàm trên thường có cấu trúc điển hình với 3 chân, bao gồm chân xa ngoài và chân trong, mỗi răng thường có một ống tủy Đặc biệt, chân gần ngoài của răng 6 có hệ thống ống tủy phức tạp hơn so với các chân còn lại.
Biểu đồ 3.17.Phân bố răng 6, 7 hàm trên theo số lƣợng ống tủy gần ngoài 3.2.2 So sánh răng 6 và 7 hàm dưới
Răng 6, 7 hàm dưới thường có hai chân gần và xa Nhưng các răng 6,
7 hàm dưới trong mẫu nghiên cứu này thể hiện đặc điểm là răng 6 có 3 chân (11,95%) và răng 7 có chân răng và ống tủy hình C (21,27%).
Răng 6 và 7 ở hàm dưới có thể có từ 1 đến 2 ống tủy Cụ thể, chân gần thường có 2 ống tủy, trong khi chân xa thường chỉ có 1 ống tủy.
Biểu đồ 3.18.Phân bố răng 6, 7 hàm dưới theo số lượng ống tủy gần 3.2.3 Tính đối xứng hình thái chân răng và ống tủy ở các răng 6, 7
Bảng 3.9.Số lượng và tỷ lệ người có răng 6, 7 đối xứng về số lƣợng chân răng và hình thái ống tủy Đối xứng n %
Răng 6 hàm trên (333 người có 2 RHL I hàm trên)
Răng 7 hàm trên ( 360 người có 2 RHL II hàm trên)
Răng 6 hàm dưới (315 người có 2 RHL I hàm dưới)
Răng 7 hàm dưới (346 người có 2 RHL II hàm dưới)
Chân răng và ống tủy hình C
Tỷ lệ đối xứng về hình thái chân răng và ống tủy ở tất cả răng 6, 7 trong mẫu nghiên cứu là 73,4%.
Trong 333 người có 2 răng 6 hàm trên, tỷ lệ đối xứng hình thái chân răng và ống tủy là 69,07% (230/333) và tỷ lệ đối xứng là 76,39% (275/360) trong 360 người có 2 răng 7 hàmtrên.
Trong 315 người có 2 răng 6 hàm dưới là tỷ lệ đối xứng là 66,98% (211/315) và tỷ lệ đối xứng là 80,6% (279/346) trong 346 người có 2 răng 7 hàmdưới.
3.2.4 Hiện tƣợng chân răng dính nhau ở các răng 6, 7 a Tỷ lệ: Hiện tƣợng chân răng dính nhau rất hiếm gặp ở răng 6 ở cả hai hàm, trong mẫu nghiên cứu chỉ phát hiện 8 răng 6 hàm trên có 2 chân ngoài dính nhau một phần Tuy nhiên, hiện tượng này khá thường gặp ở răng
7 hàm trên và hàm dưới Tỷ lệ răng có chân dính nhau ở răng 7 hàm trên và hàm dưới lần lượt là 21,73% và 21,27%.
Hiện tượng chân răng dính nhau thể hiện tính đối xứng cao, với 36,28% trong số 113 người có 2 răng 7 hàm trên có ít nhất 1 răng chân dính xuất hiện ở cả hai bên Đối với 102 người có 2 răng 7 hàm dưới, tỷ lệ này cao hơn, đạt 44,12% Bên cạnh đó, số lượng và tỷ lệ răng có ống tủy hình C cũng cần được xem xét.
7 hàm trên và hàm dưới lần lượt là 161/741 (21,72%) và 154/724 (21,27%).
BÀN LUẬN
Mô tả những đặc điểm về hình thái chân răng và ống tủy các răng 6, 7 hàm trên và hàm dưới người Hà Nội
7 hàm trên và hàm dưới người Hà Nội
Nghiên cứu khảo sát 711 răng 6, 741 răng 7 hàm trên và 686 răng 6,
Nghiên cứu này tập trung vào 724 răng thuộc 7 hàm dưới, được chọn lọc từ hình ảnh conebeam CT chất lượng cao Các hình ảnh rõ nét được thu thập từ 382 người Hà Nội, thực hiện tại bộ môn Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược, Đại Học Quốc Gia Hà Nội và phòng chụp Xquang.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ răng 6 hàm trên có 3 chân riêng biệt đạt 97,3%, tương tự như kết quả nghiên cứu của Huỳnh Hữu Thục Hiền tại thành phố Hồ Chí Minh Một số nghiên cứu khác trên người châu Á cũng chỉ ra rằng răng 6 hàm trên với 3 chân răng riêng biệt là phổ biến, nhưng hiếm gặp các biến thể về hình thái và số lượng chân răng, như trong nghiên cứu của Zhang R, Yang H, Yu X, Wang H, Hu T, Dummer PMH trên người Trung Quốc, nghiên cứu của Alavi AM, Opasanon A, Ng Y-L, Gulabivala K trên người Thái Lan, và nghiên cứu của Kim Y, Lee S, Woo J trên người Hàn Quốc.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ răng 7 hàm trên có 3 chân đạt 91,09%, trong khi tỷ lệ răng 7 hàm trên với 3 chân răng riêng biệt chỉ là 69,5% Tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Zhang R, Yang H, Yu X, Wang H, Hu T, Dummer PMH trên người Trung Quốc và của Kim Y, Lee.
S, Woo Jtrên người Hàn Quốc [5] Nguyên nhân có lẽ do khác biệt về chủng tộc giữa người ĐNA với người Bắc Á và người Nam Mỹ.
Hiện tượng dính nhau khá thường gặp, tỷ lệ chân răng dính nhau ở răng
7 hàm trên ở nghiên cứu này là 21,73%,tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Zhang R, Yang H, Yu X, Wang H, Hu T, Dummer PMH trên người TQ
[47], nguyên nhân có thể docó sự khác biệt trong phương pháp cũng như kết quả đo đạc.
Hệ thống ống tủy răng 6, 7 hàm trên Ống tủy gần ngoài của răng 6 hàm trên có tỷ lệ nhiều hơn 2 ống tủy là
Tỷ lệ 35,3% trong nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của Huỳnh Hữu Thục Hiền trên người dân TP.HCM, có thể do sự khác biệt trong phương pháp khảo sát Hệ thống ống tủy ở răng 6 hàm trên có sự đa dạng và phức tạp, với 8 dạng ống tủy theo phân loại của Vertucci được ghi nhận Các dạng ống tủy thường gặp ở răng 6 người Hà Nội theo thứ tự là loại I (64,7%), loại II (16,46%), loại IV (14,91%) và loại V (1,83%), trong khi các loại khác ít gặp hơn Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Huỳnh Hữu Thục Hiền, cho thấy các dạng ống tủy thường gặp ở chân gần ngoài răng 6 hàm trên là loại IV, loại I và loại II Nghiên cứu của Kim Y, Lee S, Woo J trên người dân Hàn Quốc cũng ghi nhận kết quả tương tự, với các loại IV, II và I là thường gặp nhất.
Bảng 4.1.Phân bố các răng 6 hàm trên (%) theo hình thái ống tủy gần ngoài trong các nghiên cứu dữ liệu conebeam
Khi so sánh với các cƣ dân châu Á khác, hình thể ống tủy gần ngoài răng
Bài nghiên cứu của Kim Y và các cộng sự, cùng với nghiên cứu của Lee J và đồng nghiệp, đã chỉ ra rằng trong số những người Hà Nội, có 6 cá nhân nổi bật với những đặc điểm riêng biệt Các loại IV, I và II thường phổ biến và chiếm tỷ lệ cao, trong khi loại V lại ít gặp.
Nghiên cứu của Zhang R và cộng sự trên người Trung Quốc cho thấy loại I là loại phổ biến nhất, tiếp theo là loại IV, II và V Những khác biệt này có thể xuất phát từ sự khác nhau trong phương pháp nghiên cứu được sử dụng.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ răng 6 hàm trên có 1 ống tủy ở chân xa ngoài và chân trong lần lượt là 98,73% và 100%, tương đồng với nghiên cứu của Alavi AM và các cộng sự trên người Thái Lan Điều này có thể do đặc điểm dân cư Đông Nam Á Ống tủy gần ngoài của răng 6 hàm trên được nghiên cứu nhiều hơn so với các răng vĩnh viễn khác, với hơn 50% trường hợp có hơn một ống tủy gần ngoài theo tổng quan các nghiên cứu toàn cầu.
Bảng 4.2.Phân bố răng 6, 7 hàm trên (%) theo hình thái ống tủy gần ngoài phân loại Vertucci trong các nghiên cứu trên răng đã nhổ
Hệ thống ống tủy của chân gần ngoài răng 7 hàm trên ít phức tạp hơn so với chân tương tự ở răng 6, với tỷ lệ có một ống tủy cao hơn (17,93%) Tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Huỳnh Hữu Thục Hiền tại Hồ Chí Minh nhưng tương đồng với một số nghiên cứu quốc tế, cho thấy tỷ lệ răng 7 có 2 ống tủy gần ngoài thường dưới 50% (khoảng 30-40%) Đối với hai chân xa ngoài và trong, tất cả các răng trong nghiên cứu đều có 1 ống.
40 tủy Tỷ lệ này cũng tương đương với nghiên cứu của Altunsoy M, Ok E, Nur
BG, Aglarci OS, Gungor E, Colak M trên người dân Thổ Nhĩ Kỳ [20] và tỷ lệ này cũng tương tự với nghiên cứu của Huỳnh Hữu Thục Hiền ở người dân
Khi so sánh răng 6 và 7, có sự khác biệt đáng kể về số lượng ống tủy gần ngoài (p