CƠ SỞ VÀ MỤC TIÊU
Nhu cầu năng lượng tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa mạnh mẽ, với mức tiêu thụ năng lượng tăng gấp 5 lần từ năm 1990 đến 2005 và dự báo sẽ tiếp tục tăng Việt Nam hiện được xem là nước sử dụng năng lượng kém hiệu quả hơn Ấn Độ, cho thấy tiềm năng tiết kiệm năng lượng lớn Tuy nhiên, nhận thức về tiết kiệm năng lượng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp vẫn còn yếu Nếu nâng cao nhận thức công cộng, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng.
Cho đến nay, Chính phủViệt Nam đã ban hành (i) Nghị định vềtiết kiệm năng lượng vào năm
Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định quan trọng nhằm thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bao gồm Quyết định số 79/2006/QD-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về tiết kiệm năng lượng, Quyết định số 1855/2007/QD-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050, cùng với Quyết định số 158/2008/QD-TTg phê duyệt chương trình thích ứng với biến đổi khí hậu Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách này vẫn còn ở giai đoạn đầu và khái niệm tiết kiệm năng lượng chưa được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Do đó, sự hợp tác từ Chính phủ Nhật Bản đã được Chính phủ Việt Nam đánh giá cao trong nỗ lực nâng cao nhận thức và hiệu quả sử dụng năng lượng.
Những mục tiêu chính của SAPI:
Ban quản lý dự án được thành lập tại Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) nhằm thực hiện Dự án thúc đẩy hiệu suất năng lượng và năng lượng tái tạo (EEREP).
Nâng cao nhận thức về hiệu suất năng lượng và năng lượng tái tạo cho các doanh nghiệp của Việt Nam
Hỗtrợlập dựtoán chi phí và thực hiện quy hoạch xây lắp
Doanh nghiệp trong nước cần tăng cường đầu tư vào hiệu suất năng lượng và năng lượng tái tạo, nhằm chứng minh hiệu quả của các khoản đầu tư này Việc này không chỉ giúp cải thiện hiệu suất hoạt động mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững.
NỘI DUNG THAM CHIẾU
SAPI được thực hiện dựa trên Biên bản thảo luận về nội dung công việc giữa VDB và JICA vào tháng 5 năm 2009 Nội dung tham chiếu (TOR) của SAPI bao gồm 8 thành phần, được phân chia thành các vấn đề tài chính và kỹ thuật, cụ thể là TOR 1 đến TOR 3 cho các vấn đề tài chính và TOR 4 cho các vấn đề kỹ thuật.
2 KẾT QUẢ CỦA TỪNG TOR
TOR-1: HỖ TRỢ BIÊN SOẠN HƯỚNG DẪN HOẠT ĐỘNG CHO DỰ ÁN
Cơ sở: Thực tế kinh doanh của VDB
(1) Những nét chính vềhoạt động kinh doanh của VDB và vịtrí của nó trong ngành ngân hàngởViệt Nam
Ngành ngân hàng của Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 38 ngân hàng cổ phần,
Việt Nam hiện có 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh và 2 ngân hàng phát triển, cho thấy sự phát triển của ngành ngân hàng Các bước cải cách quan trọng bao gồm việc phi điều tiết lãi suất tiền đồng và ngoại tệ trong giai đoạn 1996 - 2002, tái cấu trúc và cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước vào năm 2010, và cho phép ngân hàng 100% vốn nước ngoài tham gia thị trường theo cam kết WTO Kết quả là thị trường tài chính Việt Nam đã phát triển và đa dạng hóa đáng kể trong những năm gần đây.
Kể từ năm 1996, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua quá trình tự do hóa và cải cách, trong đó cho vay chính sách được tách ra khỏi cho vay thương mại và chuyển giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP) Ngân hàng này tập trung hỗ trợ người nghèo và các nhóm yếu thế, trong khi Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) chuyên cho vay các dự án ưu tiên, đặc biệt là những dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng.
VDB cung cấp đa dạng sản phẩm tài chính và dịch vụ, bao gồm cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng, phát hành tín dụng xuất khẩu và cho vay lại nguồn vốn ODA Khách hàng chính của VDB là các doanh nghiệp nhà nước như Tổng công ty, Tập đoàn và các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, thủy sản cùng các sản phẩm xuất khẩu.
Chức năng và đặc điểm chính của VDB bao gồm: (i) hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, (ii) tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0%, (iii) không yêu cầu bảo hiểm tiền gửi, (iv) được chính phủ bảo lãnh khả năng thanh toán, (v) được miễn thuế và các khoản nộp khác cho Ngân sách nhà nước, và (vi) có quyền huy động vốn thông qua phát hành.
NHNHVN, kho bạc và các tổchức tài chính/tín dụng trong nước và nước ngoài khác.
VDB hiện nay đang trực thuộc Thủ tướng chính phủvà nằmdưới sựgiám sát chung của Bộtài chính, Bộ KH&ĐT và NHNNVN.
Dự thảo “Chiến lược phát triển VDB đến năm 2010 và 2015, Tầm nhìn đến 2020” đặt ra mục tiêu phát triển VDB thành tổ chức tài chính tự chủ, thể hiện vai trò quan trọng trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp đã nhận thấy sự cần thiết của VDB như một cơ quan tài chính Để thích ứng với thực tế, VDB đã điều chỉnh các dự án vay vốn theo Nghị định 106/2008/NĐ-CP, nhằm thu hẹp mục tiêu các dự án hạ tầng do chính phủ kiểm soát, đồng thời đề xuất cấp vốn lưu động trung và dài hạn cho khách hàng.
“Chiến lược phát triển VDB đến năm 2010 và 2015, Tầm nhìnđến 2020”.
(2) Hệthống nội bộvà các vấn đềcủa VDB
VDB có trụ sở chính tại Hà Nội và một văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, cùng với hai trung tâm giao dịch và 61 chi nhánh trên toàn quốc Tính đến tháng 5 năm 2009, VDB có tổng cộng 2.543 cán bộ công nhân viên Trong dự án này, các ban thành viên của PMU bao gồm Ban quản lý vốn nước ngoài với 20 người phụ trách quản lý cho vay lại các quỹ nước ngoài, Ban thẩm định gồm 14 người đảm nhiệm thẩm định kỹ thuật các tiểu dự án, Ban tín dụng đầu tư với 38 người phụ trách thẩm định tài chính các tiểu dự án, và Ban Hợp tác Quốc tế có 13 người chuyên trách các vấn đề đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Công tác thẩm định tín dụng tại VDB chủ yếu dựa vào hai tài liệu hướng dẫn chính: Hướng dẫn tín dụng đầu tư (tháng 9/2008) và Hướng dẫn tín dụng xuất khẩu (tháng 7/2009) Tuy nhiên, các hướng dẫn này tập trung vào phân tích dự án thay vì đánh giá công ty vay vốn, dẫn đến việc ngân hàng không thực hiện các đề xuất cho vay dựa trên phân tích tổng hợp giữa dự án và người vay Đối với thẩm định công ty, cán bộ tín dụng thu thập báo cáo tài chính trong hai năm gần nhất và so sánh các tỷ số tài chính với tiêu chuẩn ngành từ Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) Trong khi đó, thẩm định dự án không yêu cầu cán bộ cho vay chuẩn bị kế hoạch đầu tư hay dự báo dòng tiền, mà chủ yếu dựa vào Báo cáo thẩm định dự án do các công ty tư vấn độc lập cung cấp, được đánh giá một cách chiếu lệ về tính đầy đủ của ước tính dòng tiền.
Hệ thống phê duyệt tín dụng đầu tư của VDB được thiết lập theo Hướng dẫn tín dụng và các quy định liên quan, nhằm hỗ trợ quá trình ra quyết định cho vay Các Ban liên quan có nhiệm vụ tư vấn cho Tổng Giám đốc trong việc ký quyết định cho vay cho các dự án nhóm A và B, trong khi Giám đốc các chi nhánh sẽ đảm nhận quyết định cho vay cho các dự án thuộc nhóm C.
Các cán bộ cho vay tại các chi nhánh và hội sở chính chưa ghi chép rõ ràng lý do đánh giá đơn xin vay, dẫn đến việc thiếu minh bạch trong quy trình ra quyết định Điều này đã làm giảm trách nhiệm của cán bộ theo dõi và thu nợ, tạo ra điểm yếu cho Ngân hàng Hiện tại, VDB cũng thiếu hệ thống thu thập và lưu trữ dữ liệu, đang trong quá trình xây dựng cơ sở dữ liệu khách hàng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ dự án phát triển năng lực của JICA.
Hệ thống ra quyết định của VDB về lãi suất và số lượng vay lớn nhất phụ thuộc vào chính sách tài chính hiện hành Theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP, lãi suất vay trung hạn và dài hạn được quy định là lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm cộng thêm 0,5% Tuy nhiên, thực tế cho thấy VDB thường áp dụng lãi suất do Bộ tài chính quyết định dựa trên yếu tố chính trị VDB có thể cho vay tối đa 70% tổng chi phí đầu tư của dự án, và yêu cầu thế chấp cho toàn bộ số tiền vay Trong khi các ngân hàng thương mại không chấp nhận thế chấp tài sản hình thành từ khoản vay, VDB lại cho phép Tuy nhiên, họ không chấp nhận quyền bảo lãnh của ngân hàng khác trừ khi có sự hợp tác đồng cấp vốn Trong trường hợp này, ngân hàng cung cấp khoản vay lớn nhất sẽ có ưu tiên về lãi suất đối với tài sản liên quan.
Hướng dẫn vận hành cho dự án hoàn thành trong SAPI
Nhóm SAPI đã hoàn thành hai mục tiêu của TOR-1, bao gồm việc hỗ trợ xây dựng Hướng dẫn vận hành dự án cho Dự án thúc đẩy nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo (EEREP) và điều chỉnh dự thảo hướng dẫn này để phù hợp với nhu cầu của người sử dụng cuối cùng, tức là người vay cuối cùng.
[1] Hỗ trợ cho việc dự thảo Hướng dẫn vận hành dự án cho dự án HSNL và NLTT (EEREP)
Hướng dẫn vận hành EEREP bao gồm 8 hợp phần chính sau:
(i) Những người vay cuối cùng hợp lệ và các tiểu dựán hợp lệ, bao gồm các tiêu chí về tính hợp lệ đối với các tiểu dựán;
(ii) Các phương pháp quản lý sốliệu vềcác tiểu dựán;
Thời hạn và các điều kiện của khoản vay bao gồm thời gian vay, lãi suất, yêu cầu thế chấp, và phương thức giải ngân 50% phí chuẩn bị báo cáo đầu tư (FS).
(iv) Thủtục cho vay từnộp đơn xin vay đến giải ngân;
(v) Hệthống thẩm định tín dụng, bao gồm các phương pháp và các bước thẩm định;
Các phương pháp giải ngân và thu nợ cần được xác định rõ, bao gồm việc phân công ban phụ trách Đồng thời, cần thành lập và quản lý tài khoản đặc biệt của EEREP, cũng như phương pháp quản lý quỹ cho tài khoản vốn quay vòng, cho phép sử dụng Quỹ để chi cho các chi phí dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật.
(viii) Các phương pháp giám sát.
[2] Sửa Dự thảo hướng dẫn vận hành EEREP theo nhu cầu của những người vay cuối cùng
Nhóm SAPI đã thu thập thông tin về nhu cầu của người sử dụng cuối, bao gồm nhu cầu về tiếp cận vốn lưu động trung hạn cho đầu tư thiết bị và cơ sở, lãi suất ưu đãi, và hỗ trợ làm hồ sơ vay vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Trong chuyến công tác thứ hai đến Việt Nam từ đầu đến giữa tháng 12/2009, nhóm đã thảo luận về việc sửa đổi Hướng dẫn Hướng dẫn vận hành cho dự án đã được biên soạn bởi cán bộ của Ban Quản lý Vốn nước Ngoài.
TOR-2: HỖ TRỢ PMU KHỞI ĐỘNG DỰ ÁN
Thành lập PMU và Ban cố vấn
PMU được thành lập theo quyết định số 695/QD-NHPT của VDB nhằm quản lý dự án thúc đẩy nguồn nhân lực và năng lượng tái tạo, với sự tài trợ từ JICA Ban quản lý PMU bao gồm Ban quản lý vốn nước ngoài, cùng với ba bộ phận chính: Ban Thẩm định, Ban Tín dụng đầu tư và Ban Hợp tác quốc tế.
Theo gợi ý của Nhóm SAPI, các thành viên của PMU đã nắm rõ chức năng của mình để thực hiện tốt Dự án PMU cũng hợp tác với Nhóm SAPI nhằm phổ biến thông tin liên quan đến dự án cho nhân viên của VDB, bao gồm khái niệm dự án, các thủ tục, kế hoạch tiến độ và tài liệu hướng dẫn vận hành.
Vai trò của PMU và Ủy ban tư vấn
Các trách nhiệm của các ban thành viên của PMU được xác định rõ qua thảo luận giữa PMU và Nhóm SAPI Nhóm SAPI và PMU đã thống nhất tổ chức cuộc họp đầu tiên của Ban Cố vấn vào ngày 26/02/2010, do Ông Trang, Giám đốc PMU, chủ trì, với sự tham gia của các cơ quan như VDB, JICA, BTC, BKH&ĐT, BCT, Văn phòng TKNL/EECO và Bộ TN&MT Tại cuộc họp, các thành viên đã thảo luận về chính sách HSNL và NLTT, cũng như việc thành lập đơn vị kinh doanh cho dự án ODA của Nhật Bản và kế hoạch cấp vốn cho các tiểu dự án PMU sẽ thiết lập quan hệ với các tư vấn trong nước như Viện Năng lượng và các trung tâm TKNL tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh để tìm kiếm các tiểu dự án.
TOR-3: HỖ TRỢ PMU BIÊN SOẠN VĂN KIỆN CHƯƠNG TRÌNH
Dựa theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006, Nhóm SAPI đang hỗ trợ PMU trong việc biên soạn tài liệu Chương trình ODA cho EEREP nhằm nhận sự phê duyệt từ Tổng Giám đốc VDB.
Tài liệu chương trình dự thảo dài khoảng 30 trang, được xây dựng theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP về Quản lý và sử dụng vốn ODA, bao gồm 11 mục chính: 1) Lý do và cơ sở; 2) Mục tiêu tổng thể; 3) Hướng dẫn chi tiết; 4) Tổng chi phí đầu tư, kế hoạch cấp vốn và cơ chế cho vay; 5) Cơ cấu tổ chức; 6) Phương pháp quản lý; 7) Kế hoạch tổng thể và kế hoạch thực hiện năm đầu tiên; 8) Những giả thuyết về rủi ro và các giải pháp đề xuất; 9) Kế hoạch giám sát và đánh giá; 10) Tính bền vững của kế hoạch sau khi hoàn thành; 11) Năng lực quản lý và thực hiện của cơ quan điều hành.
TOR-4&5: HỖ TRỢ PMU LỰA CHỌN CÁC TIỂU DỰ ÁN ỨNG CỬ
Thu thập thông tin về các tiểu dự án
Nhóm SAPI đã tiến hành thăm các cơ quan để thu thập thông tin liên quan, và dưới đây là những nội dung quan trọng được trích dẫn từ các cuộc phỏng vấn.
Luật cơ bản mới về tiết kiệm và hiệu quả năng lượng dự kiến sẽ được phê duyệt vào tháng 5/2010, sau đó sẽ có các nghị định liên quan được ban hành Luật này điều chỉnh năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng, có tham khảo từ luật tiết kiệm năng lượng của Nhật Bản Ông Okamoto, chuyên gia từ ECCJ, đang làm việc như một cố vấn hỗ trợ soạn thảo tài liệu này theo yêu cầu của METI.
Mục tiêu TKNL và HSNL được đặt cho từng giai đoạn 5 năm là: 3-5% cho giai đoạn
2006 - 2010 và 5-8% cho giai đoạn 2011 - 2015 Hiện nay luậtđã nhận thấy quản lý năng lượng là quan trọng bên cạnh TKNL và HQNL.
Trong ngành NLTT, tập trung vào thủy điện và tỷlệsẽchiếm 2% tổng điện năng phát ra.
Các dự án tiết kiệm năng lượng (TKNL) do MOIT-EECO cung cấp đã được lựa chọn và đưa vào danh sách dài các dự án tiềm năng trong tương lai Số liệu gốc của các dự án này được MOIT-EECO lưu giữ, bao gồm thông tin tương tự như trong báo cáo khả thi (FS) và báo cáo kiểm toán năng lượng không bắt buộc.
Các dự án đầu tiên được phê duyệt bởi MOIT, sau đó là MOF và đệtrình lên VDBđểxin vay vốn.
Vềviệc đánh giá các dự án TKNL, ưu tiên đầu tiên là công nghệvà tiếp theo là tính khả thi tài chính.
Các kiểm toán năng lượng hiện nay được thực hiện bởi các tư vấn viên đã được cấp chứng nhận, và danh sách các tư vấn này được Bộ Công Thương (MOIT) công bố Tuy nhiên, quy trình kiểm toán vẫn chưa được tiêu chuẩn hóa.
MOIT có thểcung cấp cho Nhóm SAPI thêm thông tin vềcác tiểu dựán khi nhận được yêu cầu bằng văn.
Những ngành công nghiệp có tiềm năng TKNL lớn nhấtởViệt Nam là xi măng, thép, chế biến thực phẩm và dệt may.
Chính phủ có kế hoạch mở rộng đầu tư về tiết kiệm năng lượng gấp 10 lần, từ 2 triệu US$ lên 20 triệu US$.
Viện Năng lượng (IE) (ngày 16/11/2009)
Hiện nay, các hoạt động chính liên quan đến hệ thống năng lượng bao gồm: (i) Tổng sơ đồ năng lượng tái tạo quốc gia; (ii) Tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn 2006-2015 với tầm nhìn đến năm 2025; và (iii) Tổng sơ đồ năng lượng quốc gia, được thực hiện với sự hợp tác của Nhóm nghiên cứu JICA từ Nhật Bản cho giai đoạn đến 2025.
IE sẽ bổ sung các tiểu dự án vào danh sách dài các dự án, bao gồm tiêu thụ năng lượng trước khi có dự án, năm xây dựng của hệ thống hiện có, loại TKNL, kế hoạch thực hiện dự án và những rào cản đối với việc thực hiện dự án Những dự án này đã hoàn thành kiểm toán năng lượng, đảm bảo tất cả đều thỏa mãn các tiêu chuẩn của EE hoặc RE Thực hiện phỏng vấn để thu thập số liệu hiện trạng của các tiểu dự án tiềm năng.
Người vay tiền không có đủ thông tin về thời hạn và điều kiện của EEREP TSL, dẫn đến khó khăn trong việc quyết định nộp đơn xin vay từ EEREP, trong khi họ cũng đang có một khoản vay khác từ ADB.
Trung tâm tiết kiệm năng lượng thành phốHồChí Minh (ECC-HCMC) thực hiện khoảng
100 kiểm toán năng lượng mỗi năm Chi phí cho kiểm toán năng lượng vào khoảng vài nghìn US$ cho một địa điểm, do chủdựán hoặc người tài trợtrả (nhưUNDP).
Báo cáo kiểm toán là điều kiện bắt buộc để được Chính phủ phê duyệt dự án TKNL/HQNL, theo quy định của luật TKNL mới có hiệu lực từ năm 2012.
Vào tháng 5 năm 2009, ECC-HCMC đã chọn hai dự án, bao gồm nhà máy đường và nhà máy chế biến gỗ, để đưa vào danh sách dài các dự án tiềm năng SAPI Đến tháng 8 năm 2009, họ tiếp tục đề xuất năm dự án khác, gồm dự án nhà máy đường Bến Tre, nhà máy chế biến gỗ Đức Nhân, dự án xử lý khí của que hàn, dự án sản xuất ethanol và dự án chuyển đổi nhiên liệu taxi sang LPG, vào danh sách ngắn các dự án SAPI được đề cử.
Kết quả từ các chuyến thăm cho thấy ECC-HCMC có kinh nghiệm phong phú trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng (TKNL) và khả năng hợp tác hiệu quả với các đối tác quốc tế.
ECC-Hà Nội đã tổ chức sự kiện ENTECH Hà Nội 2009, diễn ra từ ngày 18 đến 21 tháng 6, là hội chợ triển lãm quốc tế đầu tiên về công nghệ năng lượng và môi trường Sự kiện thu hút 22.000 lượt khách tham quan và đạt tổng giá trị hợp đồng ký kết lên tới 4 triệu đô la Trong tổng số 100 gian hàng triển lãm, có 5 gian hàng đến từ các tổ chức Nhật Bản như EECJ và các tổ chức bơm nhiệt.
Vềkhả năng tham gia dựán SAPI, ECC-Hà Nộiđềxuât 7 tiểu dựán tiềm năng (gồm 4 dựán dệt và 3 dựán máy móc và kim loại).
EEC-Hà Nội hiện có 10 dự án kiểm toán năng lượng với mức tiêu thụ năng lượng vượt quá 1.000 toe, trong đó dự kiến thực hiện nghiên cứu khả thi cho 5 dự án Các cơ sở công nghiệp tham gia bao gồm xi măng, thực phẩm, đóng tàu và vật liệu xây dựng Trong số 5 dự án này, ba dự án dự kiến hoàn thành nghiên cứu khả thi vào tháng 6 năm 2010, trong khi các dự án còn lại sẽ hoàn thành vào tháng 9 năm 2010.
EEREP TSL được đánh giá bởi EEC-Hà Nội là có nhiều nhà vay vốn tiềm năng đáp ứng yêu cầu Tuy nhiên, những người vay cuối cùng lại thiếu thông tin về thời hạn và điều kiện của EEREP TSL.
Điều tra các tiểu dự án tiềm năng
Dựa trên thông tin từ VNL và BCT, Nhóm SAPI đã lập danh sách dài các tiểu dự án tiềm năng, trong đó 8 tiểu dự án được chọn để tiến hành điều tra địa điểm Việc lựa chọn này dựa trên thông tin thu thập từ VDB và các cơ quan liên quan, đồng thời xem xét các tiểu dự án hiện có tại Việt Nam.
Theo kết quả điều tra, EEREP dự kiến tiếp nhận sự giải ngân cho 4 tiểu dự án, với mong muốn vay tiền từ các chủ dự án này Đã có báo cáo khả thi được thực hiện (xem Bảng 2) Các chủ dự án sẽ nộp hồ sơ xin vay vốn lên VDB.
Bảng 1: Các tiểu dựán tiềm năng của EEREPcho điều tra địa điểm
Ngành Tên dự án Công nghệ HSNL/NLTT Giảm
1 Xi măng Dự án xi măng
Phát điện thu hồi nhiệt thải bằng tua bin mới
15.581 749 Giải ngân vốn vay khi bắt đầu EEREP
Dự án năng lượng Hòa Phát
Công nghệ phát điện bằng một tua bin mới sử dụng nhiệt thu hồi từ khói thải có nhiệt độ cao của nhà máy chế biến than
54.548 1.475 Giải ngân vốn vay khi bắt đầu EEREP
Dự án điện gỗ Đức Nhân
Tua bin và lò hơi mới cho một nhà máy điện sử dụng phế thải gỗ (cấp điện lên lưới)
83.850 4.543 Giải ngân vốn vay khi bắt đầu EEREP
Dự án đường Bến Tre
Phát điện sử dụng bã mía thừa từ quá trình sản xuất đường
1.742 104 Giải ngân vốn vay khi bắt đầu EEREP
5 Đóng tàu Dự án đóng tàu
Lắp máy nén khí tiết kiệm năng lượng, máy hàn, vv.
160 Đang thảo luận về việc có thực hiện dự án hay không (có ý định vay từ EEREP nhưng báo cáo FS chưa xác định tổng chi phí đầu tư)
6 Xi măng Xi măng Thái
Phát điện thu hồi nhiệt bằng nhà máy điện ORC (hệ thống kết hợp tua bin khí và khí hóa sinh khối)
13.592 900 Đang thảo luận về việc có thực hiện dự án hay không (có báo cáo FS nhưng chủ dự án chưa quyết định vay vốn EEREP)
Dự án làng Bát Tràng Ở làng Bát Tràng, chuyển đổi lò đốt than sang lò đốt LPG
EEREP nhưng chưa có báo cáo FS (cần thành lập thực thể pháp lý)
8 Dệt Dự án Dệt kim Đông Xuân
Kế hoạch dự án chưa được chuẩn bị
Chưa có báo cáo FS. Ý định vay vốn EEREP chưa rõ ràng
Bảng 2: Danh sách ngắn các dựán tiềm năng và ước tính tổng sốtiền vay trong dựán EEREP
STT Ngành Loại vốn vay Công nghệ
Giảm CO2 Tổng dự án Số lượng vay
1 Xi măng HSNL Phát điện bằng thu hồi nhiệt thải
HSNL Thu hồi nhiệt thải 54.584 1.475 1.180
HSNL Phát điện bằng sinh khối 1.742 104 45
4 Chế biến gỗ NLTT Phát điện bằng phế thải gỗ
* Những số liệu tiền vay là dựa vào thông tin thu được trong các cuộc phỏng vấn với VDB
Tổng quan vềcác tiểu dựán tiềm năng của EEREPđược trình bày dưới đây.
(1)Xi măng Thành công(Tháng 11/2009)ởtỉnh Hải Dương
Nhà máy mới này được trang bị hai lò khô nằm ngang với bộ sấy treo (SPH) và bộ nung sơ bộ, có tổng công suất 2.500 tấn clinke/ngày, tương đương 750.000 tấn clinke/năm và 1.000.000 tấn ximăng/năm Đến năm thứ ba, công suất sản xuất đã tăng lên 3.000 tấn clinke/ngày, 900.000 tấn clinke/năm và 1.200.000 tấn ximăng/năm.
Thiết bị tiết kiệm năng lượng dự kiến hoàn thành vào cuối tháng 12 năm 2012, cùng thời điểm với dây chuyền sản xuất số 1 Hệ thống này sử dụng công nghệ phát điện thu hồi nhiệt thải từ lò nung và các buồng dập không khí (AQC), cung cấp điện cho nhà máy Mỗi lò nung được trang bị một bộ lò hơi SPH và lò hơi AQC, với tổng công suất 4MW từ bốn lò hơi, đáp ứng 30% tổng nhu cầu điện của nhà máy Nhờ đó, hệ thống không chỉ tiết kiệm năng lượng mà còn giảm phát thải khí nhà kính, góp phần bảo vệ môi trường.
Nhà máy xi măng được quy hoạch và thiết kế bởi văn phòng Bắc Kinh của Tập đoàn Krupp tại Thượng Hải, Trung Quốc, với hệ thống thu hồi nhiệt thải phát điện nằm trong phạm vi kỹ thuật Thiết bị chính, bao gồm hệ thống thu hồi nhiệt thải, được nhập từ Trung Quốc Báo cáo FS xây dựng nhà máy, bao gồm hệ thống phát điện, được chuẩn bị bởi một công ty kỹ thuật xi măng ở Việt Nam, và hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu về môi trường VDB đã hướng dẫn người vay cuối cùng trong việc chuẩn bị báo cáo kiểm toán năng lượng.
Người vay cuối cùng mong muốn VDB hỗ trợ tài chính cho việc lắp đặt hệ thống phát điện Hệ thống này là một phần trong kế hoạch xây dựng nhà máy mới, đã được thực hiện từ trước bởi một công ty Trung Quốc, do đó không còn cơ hội cho các quốc gia khác tham gia.
(2)Năng lượng Hòa Phát (ngày 11/11/2009)ởtỉnh Hải Dương
Hệ thống EEC là công nghệ sản xuất điện từ việc thu hồi nhiệt của khói thải có nhiệt độ cao từ nhà máy chế biến than, với 40 x 2 lò luyện cốc, dự kiến phát 15MW điện Trong tổng điện năng sản xuất, 2MW sẽ được sử dụng cho nhu cầu nội bộ, 2MW cấp cho nhà máy luyện than cốc, và 11MW còn lại sẽ được bán cho nhà máy thép Hòa Phát, có công suất tiêu thụ trên 100MW.
Công nghệ của MW được nhập khẩu từ Trung Quốc, với thiết kế nhà máy và thiết bị tiết kiệm năng lượng do Viện thiết kế công nghệ Thiên Tân thực hiện Các thiết bị chính được chế tạo tại Trung Quốc và các quốc gia khác Sản phẩm cốc được phân phối ra thị trường quốc tế thông qua một công ty tái xuất Tín dụng CDM ước tính đạt khoảng 1 triệu USD mỗi năm, với hợp đồng đã được ký kết với một công ty của Đức.
Điều chưa rõ là liệu người vay cuối cùng có muốn vay hỗtrợtừVDB hay không.
(3)Nhà máy phát điện sửdụng phếthải gỗ Đức Nhân (Ngày 13/11/ 2009)
Kế hoạch dự án bao gồm việc xây dựng một nhà máy điện mới có công suất 30 MW, với 5 tổ máy 6 MW mỗi tổ, nhằm cung cấp điện cho lưới điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam Nhà máy sẽ sử dụng công nghệ đốt phế thải gỗ và bao gồm nhiều tổ máy có công suất nhỏ với thông số hơi trung áp.
Một công ty kỹ thuật Trung Quốc đã được lựa chọn để thực hiện các công việc kỹ thuật cho dự án Dự án này dự kiến sẽ áp dụng thiết kế từ một nhà máy tương tự đã được triển khai trước đó Các thiết bị chính của nhà máy sẽ được nhập khẩu từ Trung Quốc.
Các điều kiện thiết kế cho dự án được chọn là tương đối bảo thủ so với tiêu chuẩn thiết kế cao hơn của Nhật Bản hiện nay Việc áp dụng khái niệm thiết kế cao hơn là không cần thiết, vì mục tiêu chính là cung cấp phế thải gỗ ổn định với chi phí thấp cho nhà máy điện Hơn nữa, đảm bảo sự vận hành an toàn và ổn định của nhà máy là quan trọng hơn việc tiết kiệm tiêu thụ nhiên liệu gỗ phế thải thông qua các công nghệ tiên tiến.
Theo quan điểm kỹ thuật, thiết kế nhà máy cho dự án SAPI cần đảm bảo các cơ sở đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ môi trường xung quanh nhà máy điện Gỗ phế thải được coi là nguồn năng lượng tái tạo sạch Việc giảm phát thải khí nhà kính sẽ được thực hiện ngoài lưới điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam nhờ vào việc giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, được thay thế bằng điện năng sạch từ dự án này.
(4)Nhà máy điện Bến Tre sửdụng phếthải từ đường (Ngày 12/11/2009)
Dự án nhằm mở rộng nhà máy điện hiện tại từ công suất 3,0 MW lên 4,5 MW bằng cách sử dụng bã mía và rỉ đường từ quá trình sản xuất đường, hiện đang bị lãng phí Hơi thừa và điện sản xuất từ hệ thống mở rộng sẽ được bán cho các nhà máy lân cận.
Khái niệm thiết kế cơ bản trong việc mở rộng nhà máy là việc áp dụng công nghệ tương tự như nhà máy hiện tại để xây dựng các thiết bị mới Các thiết bị chính của nhà máy sẽ được mua từ các nhà cung cấp đã cung cấp thiết bị cho nhà máy hiện có.
Các điều kiện thiết kế cho dự án hiện tại tương đối bảo thủ so với tiêu chuẩn thiết kế cao hơn của Nhật Bản Tuy nhiên, việc áp dụng các khái niệm thiết kế cao mới nhất không cần thiết do nguồn cung bã mía đã đủ Quan trọng hơn cả là đảm bảo sự vận hành an toàn và ổn định của nhà máy, thay vì chỉ tập trung vào việc tiết kiệm bã mía thông qua công nghệ cao hơn cho hệ thống mới.
TOR-6: HỖ TRỢ PMU LẬP CÁC GIÁ TRỊ MỤC TIÊU CỦA CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ ĐO HIỆU QUẢ CỦA TIỂU DỰ ÁN
Biên bản thảo luận giữa Chính phủ Việt Nam và JICA vào ngày 22/5 và 19/6/2009 chỉ ra rằng hiệu quả tiết kiệm năng lượng (TKNL) đạt trên 20% Điều này có nghĩa là lượng năng lượng tiêu thụ hàng năm (TOE) sau khi dự án hoàn thành sẽ giảm hơn 20% so với lượng năng lượng được tính toán trước khi dự án bắt đầu.
Nhóm SAPI đã tiến hành thiết lập các giá trị mục tiêu cho tiêu chí đánh giá hiệu quả của tiểu dự án bằng cách tính toán mức độ cải thiện hiệu suất năng lượng của các dự án NEDO Kết quả cho thấy rằng các thông số về hiệu suất năng lượng được sử dụng trong các dự án mẫu không tương đồng với các thông số được áp dụng để tính toán mức độ cải thiện hiệu suất năng lượng hoặc tỷ lệ phần trăm giảm theo quy định trong Biên bản thảo luận.
Nhóm SAPI đã kết luận rằng hiệu quả sử dụng năng lượng cần đạt mức tiết kiệm 20% cho các thiết bị như điều hòa không khí và hệ thống chiếu sáng, đặc biệt là những thiết bị lắp đặt ngoài phạm vi các nhà máy công nghiệp Họ cũng nhấn mạnh rằng các giá trị mục tiêu nên được xác định một cách linh hoạt hơn đối với các thiết bị và nhà máy công nghiệp trong danh sách thiết bị EE&RE.
Dựa trên kết luận trên, Nhóm SAPIđã thảo luận với JICA và cuối cùng đưa ra những thông sốhiệu suất năng lượng cho EEREP TSL nhưsau.
(i) Về nguyên tắc, lượng tiêu thụ năng lượng sau khi hoàn thành tiểu dự án sẽ giảm hơn
Dự án này đạt được mức tiết kiệm năng lượng lên đến 20% so với lượng tiêu thụ năng lượng đã được tính toán trước khi triển khai, dựa trên các thiết bị và hệ thống hiện có hoặc thông thường Các thiết bị và hệ thống thông thường là những công nghệ được sử dụng phổ biến trong ngành.
(ii) Đánh giá kỹthuật sẽ được thực hiện cho một tiểu dựán chỉ ởmức độ phạm vi cấp tài chính từnguồn vốn cho vay EEREP.
Trong các trường hợp thiết bị hoặc hệ thống mới được lựa chọn phù hợp với điều kiện Việt Nam, tỷ lệ cải thiện hiệu suất năng lượng có thể không cần vượt quá 20% Người vay cuối cùng cần nộp báo cáo kiểm tra cho VDB và để chuyên gia kỹ thuật của VDB thực hiện kiểm tra xác nhận tại địa điểm.
Các chuyên gia kỹthuậtởbên ngoài VDB sẽluận chứng tính phù hợp của từng dựán riêng rẽ Cần tập hợp các ý kiến đánh giá vào một báo cáo thẩm định.
Để tính toán sự tăng hiệu suất, cần xem xét các điều kiện như: (i) đường ranh giới của dự án, (ii) tiêu thụ năng lượng đường cơ sở, và (iii) các nguồn năng lượng Mỗi đánh giá phải được thực hiện dựa trên các điều kiện giống nhau theo dự án tham khảo.
TOR-7: HỖ TRỢ PMU BIÊN SOẠN TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN THẨM ĐỊNH KỸ THUẬT 21
Dựa trên cuộc thảo luận của Nhóm SAPI, tài liệu Hướng dẫn thẩm định kỹ thuật sẽ được tích hợp vào tài liệu hướng dẫn vận hành dự án EEREP Dưới đây là nội dung chính của Hướng dẫn Thẩm định Kỹ thuật.
Vai trò và chức năng của chuyên gia kỹthuật của Ban quản lý dựán này (PMU) là nhưsau:
(i) Duy trì danh sách các tiểu dựán tiềm năng
(ii) Duy trì mẫu giám sát
(iii) Đánh giá các sốliệu giám sát (Tiêu thụ năng lượng)
(iv) Sàng lọc EE&RE bằng mẫu thẩm định kỹthuật và các tiêu chí hợp lệ
(2) Các tiêu chí vềtính hợp lệ đối với tiểu dựán
Các tiêu chí của tính hợp lệ được nêu rõ trong Phụ lục 3, nơi chuyên gia kỹ thuật cần điền vào các kết quả và ý kiến thẩm định Dưới đây là những tiêu chí quan trọng về tính hợp lệ.
(i) Người vay cuối cùng là một doanh nghiệp Việt Nam
Để đủ điều kiện tham gia dự án, các yêu cầu đầu tiên bao gồm: (a) dự án cần có tiềm năng cải thiện hiệu suất năng lượng tối thiểu 20%, (b) doanh nghiệp phải thuộc ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng với mức tiêu thụ hàng năm lớn hơn 1.000 toe hoặc 3.000.000 kWh, (c) dự án phải có kế hoạch sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng đã được kiểm tra, (d) khả năng hoàn thành giải ngân vốn vay trước năm 2012, và (e) cần nộp báo cáo kiểm toán năng lượng cho VDB.
Tiểu dự án cần đáp ứng một trong hai yêu cầu sau: (i) sử dụng công nghệ nằm trong danh mục thiết bị EE/RE hoặc (ii) áp dụng công nghệ được công nhận là đủ tiêu chuẩn theo quy định của Việt Nam.
Danh sách EE&RE trong Phụ lục 8 chủ yếu dựa trên các dự án mẫu của NEDO tại Đông Nam Á và Trung Quốc Các thông số hiệu suất năng lượng được liệt kê là tài liệu tham khảo cho công tác thẩm định Chuyên gia kỹ thuật sẽ đánh giá hiệu suất năng lượng của từng tiểu dự án thông qua việc so sánh các thông số hiệu suất và đánh giá hiệu quả của tiểu dự án Danh sách này cần được cập nhật dựa trên số liệu từ các tiểu dự án thực tế đã được chọn cho EEREP.
(4) Sửa đổi các tiêu chí vềtính hợp lệ
Các tiêu chí về tính hợp lệ trong Phụ lục 3 có thể cần sửa đổi, với hiệu quả tiêu thụ năng lượng dự kiến hơn 20% cho một số thiết bị và nhà máy Dữ liệu cụ thể sẽ được áp dụng cho các thiết bị và quá trình, xem xét tình hình hiện tại và tương lai của Việt Nam Cải thiện hiệu suất năng lượng kỳ vọng sẽ cao hơn 25% về tiêu thụ điện, nhưng tổng tiêu thụ năng lượng sẽ có hiệu quả cải thiện thấp hơn ngưỡng 20% Theo số liệu từ Viện Năng lượng, tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong ngành thép là 9,1% cho tiêu thụ điện, 3,9% cho tiêu thụ nhiên liệu và 5,6% cho tổng chi phí; trong khi đó, ngành bia có tiềm năng tiết kiệm tương ứng là 12,1%, 3,7% và 6,2%.
Chuyên gia kỹthuật sẽchịu trách nhiệmđềxuất những vấnđềtrên lên PMU.
(5) Báo cáo kiểm toán năng lượng (EA)
Các tiêu chí trong Phụ lục 3 quy định việc nộp báo cáo kiểm toán năng lượng áp dụng cho các dự án năng lượng sạch, nhưng không áp dụng cho dự án năng lượng tái tạo Đối với các dự án năng lượng sạch mới, nếu thiết bị hoặc nhà máy chưa bắt đầu vận hành, báo cáo kiểm toán năng lượng sẽ không cần thiết Thay vào đó, báo cáo khả thi sẽ được sử dụng để thẩm định kỹ thuật trong những trường hợp này.
(6) Mẫu của thẩm định kỹthuật
Mẫu thẩm định kỹ thuật cho các ngành công nghiệp được nêu trong Phụ lục 10, với sự thay đổi tùy theo ngành và hạng mục Nội dung của mẫu thẩm định bao gồm thông tin chung về đơn vị nộp hồ sơ, các chi phí dự án, thời gian giải ngân vốn vay đầu tiên, và biểu tiến độ thực hiện dự án.
Để đảm bảo hồ sơ thẩm định kỹ thuật được hoàn thiện, người thực hiện dự án cần cung cấp các thông tin quan trọng như tính khả thi của thiết bị và công nghệ tiết kiệm năng lượng, mức tiêu thụ năng lượng của nhà máy hiện tại, ước tính giảm tiêu thụ năng lượng khi lắp đặt nhà máy mới, tỷ lệ cải thiện hiệu suất năng lượng và dự báo giảm phát thải khí nhà kính Những nội dung này cần được trình bày một cách rõ ràng và dễ hiểu cho các nhân viên thẩm định tín dụng của VDB.
Nhóm SAPI sẽ hoàn thiện mẫu thẩm định cho 4 tiểu dự án ứng cử, với các mẫu được trình bày trong Phụ lục 11 Để đảm bảo rằng phương pháp thẩm định kỹ thuật không ảnh hưởng đến tiến độ cho vay, có thể áp dụng phương pháp danh mục kiểm tra Phương pháp này giúp thẩm định nhanh chóng và hiệu quả Thông qua việc sử dụng danh mục kiểm tra và tạo bảng tổng hợp, cán bộ của VDB có thể nắm bắt các điểm quan trọng trong thẩm định kỹ thuật, từ đó tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng.
Hiệu suất năng lượng của dự án cần được giám sát chặt chẽ bởi người vay cuối, tức là chủ dự án Việc giám sát này phải dựa trên các số liệu từ hóa đơn mua bán năng lượng để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.
Số lượng sản phẩm chính sẽ do chủ dự án báo cáo và mẫu hồ sơ này cần được nộp trước khi bắt đầu dự án Đánh giá cải thiện hiệu suất năng lượng sẽ được thực hiện bởi chuyên gia kỹ thuật và báo cáo lên PMU Thông tin về mẫu giám sát có thể tìm thấy trong Phụ lục 9.
Chuyên gia kỹ thuật được lựa chọn thông qua quy trình mua bán thông thường, trong đó bao gồm việc chuẩn bị tài liệu mua hàng để yêu cầu báo giá từ các công ty tư vấn và ký hợp đồng với một trong số đó dựa trên đánh giá kỹ lưỡng TOR của dịch vụ tư vấn được quy định trong Phụ lục 13 Các chuyên gia này thường đến từ các cơ quan tư vấn như Viện Năng lượng và các trung tâm TKNL Đặc biệt, thẩm định kỹ thuật của hồ sơ vay cho tiểu dự án cần được thực hiện bởi một tổ chức tư vấn khác với tổ chức đã chuẩn bị báo cáo kiểm toán năng lượng và báo cáo khả thi của tiểu dự án.
TOR-8: THỰC HIỆN CHIẾN DỊCH NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ ĐẦU TƯ HIỆU QUẢ NĂNG LƯỢNG VÀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
Hiệu quả năng lượng và năng lượng tái tạo là những lĩnh vực quan trọng trong việc hiểu về hệ thống và công nghệ liên quan Để nâng cao nhận thức cộng đồng về chương trình cho vay hai bước, các hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội và Hồ Chí Minh.
Hội thảo sẽ tập trung vào các khía cạnh tài chính và kỹ thuật, bao gồm hệ thống cho vay hai bước cho EEREP, cùng với các thủ tục và ưu đãi liên quan.
Về các mặt khác, sự giới thiệu các thiết bịkỹ thuật cho EEREP và những ưu tiên của chúng cũng được đưa vào.
Dưới đây là những câu hỏi và yêu cầu của những người tham gia hai hội thảo này và những câu trảlời.
(1) Vềthời hạn và điều kiện của các khoản vay EEREP, bao gồm những yêu cầu có các bảo lãnh tín dụng và yêu cầu thếchấp (Hội thảoởHà Nội)
Các thế chấp hợp lệ cho các khoản vay EEREP khác biệt so với các khoản vay ngân hàng thương mại Người vay có thể sử dụng tài sản tạo ra từ khoản vay EEREP làm tài sản thế chấp Khoản vay EEREP có thể lên đến 85% tổng chi phí đầu tư của dự án, vượt xa mức 50% của các khoản vay ngân hàng thương mại Thời gian hoàn trả tối đa lên đến 20 năm, nhưng cần được xác định cho từng dự án cụ thể.
Các khoản vay EEREP có thể áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo (NLTT) trong khuôn khổ các chương trình xóa đói giảm nghèo, và các dự án này sẽ được giám sát bởi Ủy ban Nhân dân tỉnh.
Kếhoạch: ThứSáu, 8/1/1010 tại Hà Nội
ThứBa, 12/1/2010, tại Thành PhốHồChí Minh
Tổchức: VDB (với sựhỗtrợcủa nhóm SAPI)
Khách mời: Các cán bộcủa hội sởchính và các chi nhánh của VDB
Các cán bộcủa các cơ quan nhà nước liên quan Các tổchức tư vấn liên quan đến EERE Các công ty sửdụng cuối đối với TSL
Vốn cho vay EEREP không phải là viện trợ không hoàn lại, và yêu cầu đầu tiên để người vay của VDB được công nhận là tính khả thi về mặt tài chính Do đó, các dự án Giảm nghèo sẽ không được coi là hợp lệ.
(3)Có cơ quan nào đượcủy quyền để chuẩn bịcác báo cáo kiểm toán năng lượng không? (Hà Nội)
MOIT sẽ cấp phép cho các cơ quan thực hiện báo cáo kiểm toán năng lượng nhằm xác định mức tiết kiệm năng lượng trong các tòa nhà thương mại và doanh nghiệp Hiện tại, MOIT đang có kế hoạch thành lập hai trung tâm kiểm toán năng lượng chuyên về đào tạo, cấp phép và quản lý năng lượng.
(4) Cách nộp đơn vay vốn như thếnào (Hà Nội)
Hồ sơ vay vốn cần nộp tại hội sở hoặc các chi nhánh của VDB, với khuyến nghị đầu tiên là nộp tại văn phòng chi nhánh để đảm bảo hồ sơ được sàng lọc Hiện tại, VDB đang chuẩn bị công bố thông tin cần thiết về vốn vay EEREP trên mạng.
Tiêu chí yêu cầu giảm hơn 20% tiêu thụ năng lượng hàng năm được cho là quá cao, và VDB nên tránh sử dụng tỷ lệ phần trăm cố định vì mục tiêu này có vẻ không khả thi Cần làm rõ liệu tiêu chí 20% áp dụng cho toàn bộ nhà máy hay chỉ cho từng cụm thiết bị riêng Ngoài ra, ESCO cần được phép tham gia vào dự án cho vay EEREP với vai trò tư vấn Các báo cáo kiểm toán năng lượng nên được đánh giá dựa trên chất lượng kết quả thay vì thương hiệu của đơn vị tư vấn Sự hấp dẫn của chương trình EEREP đã giảm sút do lãi suất ưu đãi tăng từ 6,9% lên 9,6%.
VDB nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng báo cáo kiểm toán và đã dành 6 triệu USD cho dịch vụ tư vấn, bao gồm cả chuyên gia quốc tế, để kiểm tra tính khả thi của các tiểu dự án Mặc dù các ESCO có khả năng chuẩn bị báo cáo khả thi, VDB khẳng định rằng kiểm toán năng lượng nên được thực hiện bởi các đơn vị tư vấn có kinh nghiệm VDB cũng mong muốn có danh sách các đơn vị tư vấn đủ điều kiện Về tiêu chí giảm 20% tiêu thụ năng lượng, VDB cho rằng đây không phải là mức quá cao, vì tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong các cơ sở công nghiệp tại Việt Nam nằm trong khoảng 10-40%, và tỷ lệ giảm tiêu thụ năng lượng có thể thay đổi.
Lãi suất 9,6% hiện nay vẫn thấp hơn so với lãi suất của các ngân hàng thương mại, dao động từ 10-15% Đặc biệt, các lãi suất chính sách hàng năm, hay lãi suất ưu đãi, được quyết định bởi Bộtài chính chứ không phải VDB.
Các khoản cho vay EEREP có thể áp dụng cho các dự án phát điện từ sinh khối, bao gồm việc sử dụng rơm rạ và các lò gạch cải tiến tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trảlời: Dự án phát điện sử dụng sinh khối là hợp lệtrong EEREP, còn dựán lò gạch cải tiến là không hợp lệvì việc cho vay tương đối nhỏ
3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
PMU được thành lập tại Hội sở VDB vào tháng 12 năm 2009 và đã bắt đầu chuẩn bị cho việc giải ngân các khoản vay EEREP Với sự hỗ trợ từ Nhóm SAPI, PMU đã nắm vững cấu trúc và quy trình của khoản vay tiền Yên/EEREP, đồng thời chuẩn bị tài liệu chương trình để phê duyệt và dự thảo Hướng dẫn vận hành EEREP Hơn nữa, PMU và Nhóm SAPI đã tổ chức thành công các hội thảo nâng cao nhận thức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Hiệp định vay vốn giữa Chính phủ Việt Nam và JICA đã bị chậm hai tháng, dẫn đến một số công việc cần thực hiện trong thời gian tới Mục tiêu của PMU là tiến hành giải ngân đợt đầu các khoản cho vay vào tháng 3 năm 2010 Các bước cụ thể bao gồm: tổ chức cuộc họp đầu tiên của Ban cố vấn vào ngày 2/2/2010, lấy phê duyệt chính thức của Tổng Giám đốc VDB cho “Tài liệu chương trình” vào đầu tháng 2, hoàn thành và ban hành Hướng dẫn vận hành EEREP tại VDB giữa tháng 2, ra quyết định chính thức về giải ngân đầu tiên tại VDB giữa tháng 2, lấy phê duyệt của Bộ Tài chính cho giải ngân đầu tiên giữa tháng 2, và mở các tài khoản quỹ đặc biệt và quỹ quay vòng vào giữa tháng 3.
EEREP đang đối mặt với ba rào cản chính: Thứ nhất, hai thành viên chủ chốt của PMU từ Ban Quản lý vốn nước ngoài quá bận rộn với các dự án ODA tại VDB, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân khoản vay đầu tiên vào tháng 3 năm 2010 Thứ hai, cần tăng cường hoạt động tiếp thị của PMU và cán bộ VDB để đảm bảo tính bền vững của EEREP Thứ ba, hệ thống quản lý rủi ro và giám sát tại VDB chưa hoàn thiện, đây là một điểm yếu lớn Cuối cùng, các thành viên PMU và nhân viên thẩm định thiếu chuyên môn kỹ thuật, cần tài liệu tham khảo về công nghệ năng lượng tái tạo trong quá trình thẩm định Để khắc phục những rào cản này sau lần giải ngân đầu tiên, cần có sự hỗ trợ liên tục từ các đơn vị tư vấn trong giai đoạn tiếp theo của EEREP.
Trong quá trình điều tra thực tế, Nhóm SAPI đã thảo luận với các thành viên của PMU và đưa ra 7 kiến nghị cùng 5 biện pháp hành động quan trọng nhằm thực hiện Dự án một cách hiệu quả.