1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Công tác xã hội nhóm trong việc kết nối các nguồn ngoại lực góp phần nâng cao đời sống vật chất cho nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con (nghiên cứu tại địa bàn phường nghi hòa thị xã cửa lò tỉnh nghệ an)

101 19 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Công Tác Xã Hội Nhóm Trong Việc Kết Nối Các Nguồn Ngoại Lực Góp Phần Nâng Cao Đời Sống Vật Chất Cho Nhóm Phụ Nữ Nghèo Đơn Thân Nuôi Con
Tác giả Nguyễn Thị Huyền
Người hướng dẫn Ông Thị Mai Thương
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Công Tác Xã Hội
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2012
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 901,76 KB

Cấu trúc

  • 2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài (10)
    • 2.1. Ý nghĩa khoa học (10)
    • 2.2. Ý nghĩa thực tiễn (11)
    • 3.1. Đối tượng nghiên cứu (12)
    • 3.2. Khách thể nghiên cứu (12)
    • 3.4. Mục tiêu nghiên cứu (12)
    • 3.5. Phạm vi nghiên cứu (13)
      • 3.5.1. Phạm vi không gian (13)
      • 3.5.2. Phạm vi thời gian (13)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (13)
    • 4.1. Phương pháp luận (13)
      • 4.1.1. Phương pháp duy vật biện chứng (13)
      • 4.1.2. Phương pháp duy vật lịch sử (13)
    • 4.2. Phương pháp nghiên cứu (14)
      • 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành CTXH nhóm (14)
      • 4.2.2. Phương pháp phân tích tài liệu (18)
      • 4.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu (19)
      • 4.2.4. Phương pháp quan sát (19)
      • 4.2.5. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung (20)
  • 5. Câu hỏi nghiên cứu (21)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI (22)
    • 1. Cơ sở lý luận (22)
      • 1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo (22)
      • 1.2. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu (25)
        • 1.2.1. Lý thuyết nhu cầu của Maslow (25)
        • 1.2.2. Lý thuyết nhận thức hành vi (26)
        • 1.2.3. Lý thuyết học tập xã hội (26)
      • 1.3. Các khái niệm liên quan (29)
        • 1.3.1. Khái niệm phụ nữ (29)
        • 1.3.2. Khái niệm phụ nữ nghèo đơn thân (29)
        • 1.3.3. Khái niệm nhóm, nhóm xã hội (30)
        • 1.3.4. Khái niệm nghèo (30)
        • 1.3.5. Khái niệm giảm nghèo (31)
    • 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài (31)
      • 2.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (31)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA NHÓM PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN TẠI PHƯỜNG NGHI HÒA (36)
    • 2.1. Tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ nghèo đơn thân tại phường Nghi Hòa (36)
    • 2.2. Đời sống của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con (38)
    • 2.1. Thực trạng về đời sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con (38)
    • 2.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đời sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân (44)
    • 3. Đánh giá nhu cầu và nguyện vọng giảm nghèo của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con (46)
      • 3.1. Đánh giá nhu cầu của nhóm thân chủ (46)
      • 3.2. Đánh giá nguyện vọng của nhóm thân chủ trong tiến trình thực hiện các giải pháp giảm nghèo (49)
  • CHƯƠNG 3: TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC KẾT NỐI CÁC NGUỒN NGOẠI LỰC GÓP PHẦN NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT CHO NHÓM PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON ( Nghiên cứu tại địa bàn phường Nghi Hòa – Thị xã Cửa Lò – Tỉnh Nghệ An) (51)
    • I. Giai đoạn hỗ trợ và thành lập nhóm (51)
      • 1.1. Xác định mục đích thành lập nhóm (51)
      • 1.2. Đánh giá khả năng thành lập nhóm (52)
        • 1.2.1. Đánh giá khả năng tài trợ nhóm (52)
        • 1.2.2. Đánh giá khả năng tham gia của các thành viên (52)
        • 1.2.3. Đánh giá khả năng các nguồn lực khác (53)
      • 1.3. Thành lập nhóm (54)
        • 1.3.1. Tuyển chọn các thành viên nhóm (54)
        • 1.3.2. Thành phần nhóm (54)
        • 1.3.3. Quy mô nhóm (55)
      • 1.4 Định hướng cho các thành viên trong nhóm (55)
        • 1.4.1. Thông tin về nhóm và tiến trình hoạt động nhóm (55)
        • 1.4.2. Đánh giá lại nhu cầu thân chủ (56)
      • 1.5. Thỏa thuận nhóm (56)
        • 1.5.1. Thỏa thuận về cách thức làm việc (0)
        • 1.5.2. Thỏa thuận về các mục tiêu cá nhân (0)
      • 1.6. Chuẩn bị môi trường (57)
        • 1.6.1. Chuẩn bị về cơ sở vật chất (0)
        • 1.6.2. Chuẩn bị nguồn tài chính (0)
      • 1.7 Viết đề xuất nhóm (58)
    • II. Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động (64)
      • 2.1. Giới thiệu các thành viên trong nhóm (64)
      • 2.2. Xây dựng mục đích của nhóm (64)
      • 2.3. Xây dựng mục tiêu nhóm (64)
      • 2.4. Thảo luận và đưa ra nguyên tắc bảo mật thông tin của nhóm (65)
      • 2.5. Giúp các thành viên trong nhóm cảm nhận họ là một phần của nhóm (66)
        • 2.5.1. Tạo cảm giác an toàn, thoải mái trong nhóm (66)
        • 2.5.2. Tìm kiếm sự sự tương đồng và tôn trọng sự khác biệt giữa các thành viên (66)
      • 2.6. Định hướng phát triển của nhóm (67)
      • 2.7. Cân bằng giữa nhiệm vụ, yếu tố tình cảm, xã hội của tiến trình nhóm (67)
      • 2.8. Thỏa thuận các công việc của nhóm (68)
      • 2.9. Khích lệ động cơ các thành viên thực hiện mục tiêu (69)
      • 2.10. Dự đoán những khó khăn, cản trở (70)
    • III. Giai đoạn can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ (71)
      • 3.1. Chuẩn bị các cuộc họp nhóm (71)
      • 3.2 Chia sẻ thông tin (74)
      • 3.3. Thu hút sự tham gia và tăng cường tính cam kết của các thành viên (75)
      • 3.4. Điều phối tìm kiếm thông tin về những vấn đề mà nhóm đối mặt (77)
      • 3.5. Giải quyết xung đột/ mâu thuẫn (77)
      • 3.6. Đưa ra quyết định hiệu quả (77)
      • 3.7. Hiểu biết về sự phân chia chính trị của nhóm (78)
      • 3.8. Theo dõi và lượng giá (78)
      • 3.9. Giải quyết vấn đề (79)
    • IV. Giai đoạn kết thúc (89)
      • 4.1. Lượng giá (89)
      • 4.2. Kết thúc (90)
  • PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ (91)
    • 3.1 Kết luận (91)
    • 3.2. Khuyến nghị (92)
      • 3.2.1. Đối với Nhà nước (92)
      • 3.2.2. Đối với cộng đồng (93)
      • 3.2.3. Đối với nhóm đối tượng phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con (93)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (100)

Nội dung

Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học

Để thực hiện nghiên cứu, tôi áp dụng các lý thuyết chuyên ngành như lý thuyết nhu cầu của Maslow, thuyết hệ thống, thuyết phân tầng xã hội và lý thuyết công tác xã hội.

Tôi kết hợp các kỹ năng chuyên nghiệp trong công tác xã hội nhóm để phân tích và giải thích vấn đề của các thành viên, từ đó tìm kiếm giải pháp cùng với họ Đặc biệt, tôi chú trọng đến lý thuyết nhu cầu của Maslow, vì nghiên cứu này tập trung vào việc nâng cao đời sống vật chất cho nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội Đây là nhu cầu thiết yếu và quan trọng nhất, tạo nền tảng cho con người vươn tới những nhu cầu cao hơn trong cuộc sống.

Ý nghĩa thực tiễn

Công tác xã hội nhóm đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các nguồn lực bên ngoài nhằm nâng cao đời sống vật chất cho nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con Nghiên cứu được thực hiện tại phường Nghi Hòa, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, nhằm tìm hiểu và phát triển các giải pháp hiệu quả hỗ trợ nhóm đối tượng này.

Nhà nghiên cứu tại Nghệ An đã phát triển một mô hình can thiệp nhằm hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con thông qua việc kết nối các nguồn ngoại lực khác nhau Mô hình này khuyến khích các thành viên trong nhóm liên kết và giúp đỡ lẫn nhau, tạo ra các mối quan hệ xã hội tích cực Đồng thời, nhóm còn được kết nối với các tổ chức, cá nhân có chuyên môn và vị thế xã hội, từ đó mở ra cơ hội cho phụ nữ đơn thân phát huy năng lực và nâng cao đời sống vật chất Mục tiêu cuối cùng là tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế và ổn định cuộc sống cho nhóm đối tượng này.

Bên cạnh đó thì đề tài cũng góp phần giúp nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con:

- Nâng cao sự chia sẻ kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm giữa các thành viên với nhau

- Nâng cao một số kỹ năng sống cho các thành viên trong nhóm, bao gồm:

* Kỹ năng làm việc theo nhóm

* Kỹ năng thuyết trình và kỹ năng thuyết phục

* Kỹ năng vượt qua khủng hoảng

3.Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu

Công tác xã hội nhóm đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các nguồn ngoại lực nhằm hỗ trợ nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại phường Nghi Hòa Qua đó, giúp nâng cao đời sống vật chất cho họ và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của các gia đình này.

Khách thể nghiên cứu

- Nhóm đối tượng là phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại phường Nghi Hòa – Thị xã Cửa Lò – Tỉnh Nghệ An

Đại diện từ các ban ngành bao gồm chính quyền địa phương, cán bộ chính sách, cán bộ y tế, cán bộ phụ nữ, đoàn thanh niên, cùng với đại diện các công ty và cơ sở kinh doanh tại phường.

Mục đích nghiên cứu này là áp dụng kiến thức về công tác xã hội với nhóm để hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con Nghiên cứu nhằm kết nối các nguồn lực, giúp nâng cao đời sống vật chất cho nhóm phụ nữ này và từng bước giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.

Mục tiêu nghiên cứu

- Tìm hiểu thực trạng đời sống khó khăn mà nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con đang gặp phải

- Đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo tại địa phương

- Tìm hiểu, đánh giá những nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của nhóm đối tượng trong việc thành lập nhóm

Để hỗ trợ nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nâng cao đời sống vật chất, cần triển khai các giải pháp kết nối họ với cộng đồng và các nguồn lực khác nhau Những nỗ lực này sẽ giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.

Phạm vi nghiên cứu

3.5.1 Phạm vi không gian: Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở khảo sát nghiên cứu tại địa bàn Phường Nghi Hòa – Thị xã Cửa Lò

3.5.2 Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01/2012 đến tháng 05 / năm 2012

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận

4.1.1 Phương pháp duy vật biện chứng

Theo phương pháp này, nhà nghiên cứu cần xem xét các sự vật và hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng, bao gồm mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nhu cầu thực tế và điều kiện có hạn, cũng như sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, công bằng xã hội Đồng thời, cần chú trọng đến trách nhiệm của nhà nước, gia đình và cộng đồng xã hội đối với các thành viên yếu thế trong xã hội.

Trong nghiên cứu này, tôi sẽ phân tích mối quan hệ giữa nhóm phụ nữ nghèo đơn thân và cộng đồng xã hội, cũng như các tổ chức và nhóm hỗ trợ Đồng thời, tôi cũng sẽ xem xét tác động của cuộc sống khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế này đến trách nhiệm của cá nhân, tổ chức và các ban ngành tại địa phương.

4.1.2 Phương pháp duy vật lịch sử Đó là chúng ta phải xem sự vật, hiện tượng trong điều kiện lịch sử cụ thể Không thể áp đặt điều kiện lịch sử của đất nước này với đất nước khác, địa phương này với địa phương khác Chúng ta phải xem xét mô hình an sinh xã hội, những chính sách xã hội cũng như vai trò của nhà nước Việt Nam trong giai đoạn đất nước kháng chiến chống giặc ngoại xâm phải khác với mô hình an sinh xã hội, chính sách xã hội cũng như vai trò của nhà nước trong thời đất nước hòa bình và nền kinh tế đang ngày càng phát triển Từ đó chúng

Trong bối cảnh lịch sử đất nước đang phải đối mặt với giặc ngoại xâm, nhận thức và trách nhiệm xã hội của con người đã có sự khác biệt rõ rệt Hiện nay, đất nước đang trải qua nhiều biến đổi về kinh tế, xã hội và con người, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách mà mỗi cá nhân nhìn nhận và thực hiện trách nhiệm của mình trong cộng đồng.

Nhà nghiên cứu đã linh hoạt áp dụng phương pháp duy vật lịch sử để xem xét những khó khăn mà nhóm phụ nữ nghèo đơn thân đang gặp phải tại phường Nghi Hòa trong bối cảnh hiện tại Qua việc tìm hiểu và đánh giá tình hình, nhà nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện điều kiện sống của họ, đồng thời khắc phục những khó khăn tồn tại trong khu vực này.

Khi nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) xây dựng mô hình và tiến trình can thiệp để giải quyết vấn đề của nhóm thân chủ, họ cần xem xét mối quan hệ giữa nhóm thân chủ và vấn đề mà họ đang gặp phải trong môi trường sống Đồng thời, NVCTXH cũng phải đánh giá nhu cầu và nguyện vọng của nhóm thân chủ so với vai trò và trách nhiệm của các ban ngành, cá nhân, tổ chức liên quan Chỉ khi mối tương quan này được xem xét một cách toàn diện, vấn đề của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân mới có thể được giải quyết triệt để và khách quan.

Phương pháp nghiên cứu

4.2.1 Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành CTXH nhóm

Trong đề tài này phương pháp được nhà nghiên cứu và quan tâm nhiều nhất đó là phương pháp công tác xã hội nhóm Theo Toseland và Rivas

Năm 1998, CTXH nhóm được định nghĩa là hoạt động có mục đích, tập trung vào các nhóm nhiệm vụ và trị liệu nhỏ, nhằm đáp ứng nhu cầu tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ Hoạt động này nhắm trực tiếp đến từng cá nhân trong nhóm.

Hoạt động công tác xã hội nhóm là một quá trình có mục đích rõ ràng, yêu cầu thực hiện theo một tiến trình cụ thể và có kế hoạch Trong quá trình này, nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) tạo ra môi trường thuận lợi để các thành viên trong nhóm có thể giao tiếp, chia sẻ thông tin và hợp tác với nhau Mục tiêu cuối cùng là hướng tới và hoàn thành các mục tiêu chung của nhóm Để thực hiện hiệu quả, NVCTXH cần tuân theo các bước trong tiến trình công tác xã hội nhóm.

Giai đoạn chuẩn bị và thành lập nhóm là bước đầu tiên trong công tác xã hội nhóm, diễn ra khi nhà nghiên cứu thực địa nhận thấy nhiều phụ nữ nghèo đơn thân gặp khó khăn trong cuộc sống Là một nhân viên công tác xã hội, tôi quyết định thành lập nhóm để tạo môi trường cho những phụ nữ có hoàn cảnh tương tự chia sẻ tâm tư và nguyện vọng, từ đó giúp cộng đồng nhận biết và hỗ trợ kịp thời Để khởi động quá trình này, nhân viên công tác xã hội cần thực hiện các hoạt động chuẩn bị kỹ lưỡng, dựa trên mục đích hỗ trợ và khả năng thành lập nhóm, nhằm hình thành một nhóm công tác xã hội hiệu quả.

- Xác định mục đích hỗ trợ của công tác xã hội

- Đánh giá khả năng thành lập nhóm

- Định hướng cho các thành viên trong nhóm

- Chuẩn bị môi trường và viết đề xuất nhóm

Giai đoạn nhóm bắt đầu hoạt động là thời điểm các thành viên tham gia sinh hoạt chung và thực hiện các hoạt động hướng tới mục tiêu chung của nhóm cũng như mục tiêu cá nhân Trong giai đoạn này, các thành viên thường đặt nhiều kỳ vọng vào nhau, đặc biệt là vào người điều phối các hoạt động Đây cũng là thời điểm nhóm đối mặt với nhiều thử thách, do đó, sự đoàn kết, hỗ trợ và lắng nghe ý kiến của nhau với thiện chí xây dựng là rất quan trọng để phát triển nhóm.

+ Trong giai đoạn này nhóm bao gồm có 10 hoạt động sau:

- Giới thiệu các thành viên nhóm

- Làm rõ mục đích hỗ trợ nhóm của NVCTXH

- Xây dựng mục tiêu nhóm

- Thỏa thuận đưa ra nguyên tắc bảo mật thông tin của nhóm

- Giúp các thành viên nhóm cảm nhận họ là một phần của nhóm

- Định hướng phát triển của nhóm

- Cân bằng giữa nhiệm vụ và yếu tố tình cảm xã hội của tiến trình nhóm

- Thỏa thuận các công việc của nhóm

- Khích lệ động cơ các thành viên

- Dự đoán những khó khăn, cản trở

Giai đoạn can thiệp là thời điểm tập trung vào các hoạt động hỗ trợ và trị liệu, nhằm thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả Mục tiêu chính của giai đoạn này là hoàn thành các mục đích và nhiệm vụ đã đề ra.

Trong giai đoạn trước, nhiệm vụ chính của nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) là hỗ trợ các thành viên và nhóm vượt qua rào cản, khó khăn Họ điều phối các hoạt động nhóm nhằm giúp các thành viên đạt được mục tiêu và mục đích chung Đồng thời, NVCTXH cũng thúc đẩy các tổ chức và cộng đồng phản hồi tích cực trước những nỗ lực của các thành viên trong nhóm.

Nhóm nâng cao đời sống vật chất cho phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình Để đạt được thành công, nhóm cần duy trì sự tập trung vào mục tiêu và chức năng đã đề ra Theo Toseland và Rivas (1998), trong giai đoạn này, các hoạt động của nhóm nhiệm vụ sẽ bao gồm những chiến lược cụ thể nhằm hỗ trợ và phát triển khả năng cho các thành viên.

- Chuẩn bị các cuộc họp nhóm

- Chia sẻ thông tin, suy nghĩ và cảm xúc về những lo lắng, quan tâm của nhóm đang phải đối mặt

- Thu hút sự tham gia và tăng cường tính cam kết của các thành viên

- Điều phối và tìm kiếm thông tin về những vấn đề mà nhóm đang đối mặt

- Đưa ra các quyết định có hiệu quả

- Hiểu biết về sự phân chia chính trị của nhóm

- Quản lý và lượng giá công việc của nhóm

Giai đoạn kết thúc là bước cuối cùng trong tiến trình CTXH nhóm, diễn ra khi các thành viên đã hoàn thành mục tiêu của mình Sau khi đánh giá và xem xét kỹ lưỡng, nhóm quyết định kết thúc để chuyển sang hình thức hỗ trợ khác.

11 này là tập trung vào phân tích hai bước công việc chính là (1) lượng giá và (2) kết thúc

Lượng giá lại tiến trình các hoạt động và kết quả cũng như mức độ hoàn thành các mục đích, mục tiêu so với kế hoạch

Kết thúc nhóm thực chất là việc NVCTXH cùng nhóm thống nhất dừng lại tiến trình nhóm

Tiến trình sẽ kết thúc khi các vấn đề của nhóm thân chủ được giải quyết từng bước và mục tiêu ban đầu của nhóm được đạt được.

Bên cạnh công tác xã hội nhóm, tôi áp dụng thêm phương pháp công tác xã hội cá nhân để tạo lập mối quan hệ và trao đổi thông tin giữa nhân viên công tác xã hội (NVCTXH) và thân chủ Trong quá trình này, NVCTXH sử dụng kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn nhằm giúp thân chủ nhận thức rõ vấn đề của họ, khuyến khích họ bày tỏ tâm tư và nhu cầu, từ đó phát huy tiềm năng tham gia tích cực vào việc cải thiện điều kiện sống của mình.

4.2.2 Phương pháp phân tích tài liệu

Trong quá trình nghiên cứu, tôi áp dụng phương pháp nhằm tìm hiểu và bổ sung kiến thức lý luận liên quan đến đề tài từ nhiều khía cạnh như triết học, tâm lý học và công tác xã hội Tôi cũng nghiên cứu các chính sách, văn bản pháp luật và công trình khoa học về chuyên ngành công tác xã hội Mục tiêu của phương pháp này là thu thập các vấn đề lý luận liên quan đến phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo và phụ nữ đơn thân, làm cơ sở lý luận cho việc điều tra thực trạng và những khó khăn mà họ đang gặp phải tại Phường Nghi Hòa cũng như trên toàn quốc.

Ngoài ra đề tài còn dùng phương pháp phân tích tài liệu từ nguồn tài liệu: internet, sách, báo, băng hình, phim ảnh…Phân tích, sàng lọc thông tin

Đề tài nghiên cứu này liên quan đến 12 khía cạnh khác nhau và kết hợp tham khảo từ một số nghiên cứu trước đó, nhằm bổ sung phương pháp nghiên cứu cho đề tài của mình.

4.2.3 Phương pháp phỏng vấn sâu

Tôi áp dụng phương pháp này để hỗ trợ các phương pháp đã nêu và thu thập thông tin cụ thể, chính xác, nhằm tăng độ tin cậy và sức thuyết phục cho đề tài nghiên cứu Cụ thể, tôi đã phỏng vấn 6 thành viên của nhóm phụ nữ đơn thân để tìm hiểu về thực trạng khó khăn trong đời sống của họ, cũng như những mong muốn và nguyện vọng của họ trong hiện tại và tương lai.

Tôi đã thực hiện phỏng vấn với cán bộ chính sách tại phường để tìm hiểu về việc thực hiện chính sách dành cho phụ nữ nghèo đơn thân trong khu vực Ngoài ra, tôi cũng phỏng vấn cán bộ phụ nữ và đại diện chính quyền địa phương tại phường Nghi Hòa để thu thập thông tin chi tiết hơn.

Quan sát là phương pháp chú ý đến các đặc điểm của người, vật và tình huống nhằm thu thập thông tin chính xác về đối tượng nghiên cứu Mục đích của việc quan sát là sử dụng những dữ kiện đã ghi nhận để hiểu rõ hơn về thực trạng của vấn đề Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta thường quan sát môi trường xung quanh và các mối quan hệ, vai trò của đối tượng trong bối cảnh sống hiện tại.

Câu hỏi nghiên cứu

- Thực trạng, nguyên nhân đời sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân tại địa bàn phường Nghi Hòa như thế nào ?

- Tình hình của việc thực hiện các chủ trương, chính sách cho hộ nghèo trên địa bàn phường ra sao ?

- Phương pháp kết nối các nguồn ngoại lực góp phần nâng cao đời sống vật chất cho nhóm phụ nữ nghèo đơn thân được tiến hành như thế nào?

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Cơ sở lý luận

1.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo

Công tác giảm nghèo là sự quan tâm từ cơ quan quản lý đối với dân cư nghèo đói, nhằm nâng cao đời sống cho họ Đây là một thách thức lớn mà Đảng và Nhà nước cần phải đối mặt, từ đó đưa ra các chính sách khoa học và hợp lý để giải quyết vấn đề này.

Hồ Chí Minh coi đói nghèo là một loại giặc nguy hiểm, tương tự như giặc dốt và giặc ngoại xâm, đe dọa đến vận mệnh quốc gia Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Người đã chú trọng đến đời sống nhân dân, với mục tiêu đảm bảo mọi người đều có đủ ăn, đủ mặc và được học hành Chính sách cần thiết là phải giúp người nghèo có đủ ăn, từ đó nâng cao đời sống cho người khá giả và tạo điều kiện cho người giàu phát triển thêm.

Chính sách xóa đói giảm nghèo (XĐGN) được Đảng ta coi là một phần quan trọng trong chính sách xã hội, nhằm giúp đỡ người nghèo thoát khỏi cảnh đói nghèo và nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời thực hiện công bằng xã hội Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách XĐGN càng trở nên cần thiết khi sự phát triển kinh tế nhanh chóng đã tạo ra sự phân tầng xã hội sâu sắc và gia tăng khoảng cách giàu nghèo Mặc dù phần lớn dân cư được cải thiện đời sống, vẫn có một bộ phận cần sự hỗ trợ từ nhà nước Do đó, chính sách XĐGN đang trở thành vấn đề cấp bách đối với Đảng và Nhà nước ta.

Tư tưởng nhất quán về xây dựng gia đình nghèo (XĐGN) của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện rõ ràng trong các văn kiện của các Đại hội VII, VIII, IX, X và XI Những văn kiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện đời sống cho các gia đình nghèo và khẳng định cam kết của Đảng trong việc giảm nghèo bền vững.

Đại hội IX của Đảng đã khẳng định rằng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ của Việt Nam Mục tiêu của mô hình này là phát triển lực lượng sản xuất và kinh tế nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH, đồng thời nâng cao đời sống nhân dân Việc thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội được xem là đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển bền vững.

Để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững, cần tiến hành công cuộc xóa đói giảm nghèo (XĐGN) kết hợp với thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng giới Việc giảm phân hóa giàu nghèo và khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp là rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh 90% người nghèo sinh sống ở vùng nông thôn và miền núi Chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc này.

XĐGN là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện một cuộc cách mạng sâu sắc và là phong trào mạnh mẽ của quần chúng, đặc biệt tại các địa phương và cơ sở.

Hệ thống chính sách và chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN đã được hình thành, nhằm tập trung nguồn lực xóa nhanh các hộ đói và giảm mạnh số hộ nghèo, đặc biệt tại những xã đặc biệt khó khăn.

Xã hội hóa công tác giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng, cần đa dạng hóa các nguồn lực trong nước và phát huy nguồn lực tại chỗ Đồng thời, việc hợp tác và tranh thủ sự trợ giúp từ quốc tế sẽ tạo ra một phong trào sôi động, góp phần thúc đẩy công tác giảm nghèo trên toàn quốc.

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, nhiều chương trình, chính sách và chương trình mục tiêu quốc gia đã được triển khai đồng bộ trên toàn quốc, thể hiện tư tưởng nhất quán trong việc phát triển đất nước.

Quyết định số 133/1998 QĐ – TTg ngày 23/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1998 – 2000, nhằm thực hiện các biện pháp cụ thể để xóa đói, giảm nghèo tại địa phương Tiếp theo, Quyết định số 135/1998 QĐ – TTg ngày 31/07/1998 được ban hành để phê duyệt chương trình xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn Để cụ thể hóa các quyết định này, vào ngày 27/09/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 143/2001/QĐ – TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm giai đoạn 2001-2005.

Vào ngày 26/09/2011, Ban thường vụ Tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định số 3946/QĐ-UBND, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhằm triển khai chương trình mục tiêu giảm nghèo cho giai đoạn 2011-2015.

Chính sách giảm nghèo cần tôn trọng tính lịch sử và nghiên cứu thực tế đời sống nhân dân, điều kiện kinh tế tự nhiên và văn hóa địa phương Các chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ xã hội và nhân dân, vì vậy yếu tố thực tiễn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả thực hiện các chính sách này.

Để chiến dịch XĐGN đạt hiệu quả, cần có sự thống nhất giữa các chính sách của Đảng và Nhà nước tại các địa phương Các địa phương phải dựa vào chủ trương của Đảng để xây dựng các phương pháp và chỉ thị phù hợp với điều kiện thực tế của mình.

Chính sách XĐGN được thể hiện rõ ràng qua các nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước, cũng như trong các chương trình của các tổ chức đoàn thể như MTTQ, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ và Hội cựu chiến binh Mỗi tổ chức đoàn thể và chính sách đều đóng góp vào mục tiêu chung của công tác giảm nghèo.

Cơ sở thực tiễn của đề tài

2.1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Công tác giảm nghèo và phát triển bền vững đang thu hút sự quan tâm toàn cầu, từ Liên hợp quốc đến các tổ chức quốc tế và chính quyền địa phương Liên hợp quốc coi giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ Tại Việt Nam, Đảng cộng sản và Nhà nước đã xác định giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu, đồng thời nghèo đói trở thành chủ đề nghiên cứu và tranh luận sôi nổi.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện xung quanh vấn đề nghèo đói tại Việt Nam, bao gồm các công trình từ Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Liên hợp quốc và ActionAid – Việt Nam.

Oxfam tại Việt Nam cụ thể như: “ Đói nghèo ở Việt Nam” tác giả Nguyễn Thị Hằng, “ Giảm nghèo trong nông thôn hiện nay” tác giả Nguyễn Văn Tiêm

Nhiều nghiên cứu về nghèo đói ở Việt Nam đã được thực hiện từ những năm 1990, bao gồm "Giảm nghèo Việt Nam" của UNICF năm 1993 và "Vấn đề nghèo đói ở Việt Nam" của ADUKI năm 1995 Năm 1997, Nguyễn Thị Hằng đã trình bày về "Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay" Các nghiên cứu vĩ mô cũng đã chỉ ra sự phân tầng xã hội, như trong "Báo cáo về tình trạng nghèo đói và công bằng ở Việt Nam" của Oxfam năm 1999, cũng như công trình của Lê Du Phong và Hoàng về "Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo của vùng dân tộc miền núi phía Bắc nước ta hiện nay".

Nghiên cứu về nghèo đói tại Việt Nam đề cập đến nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm vùng miền núi, đô thị, nông thôn và các xã nghèo Một trong những chủ đề quan trọng là “Phát triển bền vững nông thôn vùng Bắc Trung Bộ, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm” của Viện nghiên cứu môi trường và phát triển Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá thực trạng nông thôn Bắc Trung Bộ dưới góc độ thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và các mục tiêu thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết, tập trung vào việc xóa đói giảm nghèo và tạo ra việc làm.

Một nghiên cứu năm 2006 của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ nữ và Gia đình đã chỉ ra vai trò quan trọng của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế ở đồng bằng Sông Hồng, đặc biệt trong việc xóa đói giảm nghèo Nghiên cứu cũng nhấn mạnh sự ảnh hưởng của các tổ chức xã hội như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, và Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội đối với sự phát triển kinh tế và phong trào giảm nghèo.

Luận văn thạc sỹ của Đặng Đỗ Quyên nghiên cứu về "Đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo tại tỉnh Bắc Cạn." Nghiên cứu này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống của hộ nghèo, từ đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ phù hợp Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để thu thập dữ liệu, góp phần làm rõ thực trạng và đặc điểm của hộ nghèo tại địa phương Kết quả nghiên cứu không chỉ giúp nâng cao nhận thức về tình hình nghèo đói mà còn cung cấp thông tin quý báu cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Bắc Cạn.

Năm 2006, bài viết tập trung phân tích các đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo theo chuẩn mới, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa các đặc trưng này với tình trạng và mức độ nghèo đói Bài viết cũng tìm hiểu những khó khăn và nhu cầu trợ giúp của hộ nghèo, từ đó dự báo xu hướng biến đổi đặc trưng kinh tế - xã hội của họ và đề xuất một số kiến nghị cùng giải pháp phù hợp.

Luận văn thạc sỹ xã hội học của Hà Thị Thu Hòa nghiên cứu về hoạt động giảm nghèo đối với phụ nữ nghèo tại ngoại thành Hà Nội, tập trung vào hai xã Cổ Nhuế và Xuân Phương thuộc huyện Từ Liêm Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của các chương trình hỗ trợ và những thách thức mà phụ nữ nghèo gặp phải trong quá trình thoát nghèo.

2008 đã đi sâu tìm hiểu về thực trạng nghèo đói của các hộ gia đình ở hai xã

Cổ Nhuế và Xuân Phương đang tập trung vào việc làm rõ vai trò của các đoàn thể, đặc biệt là Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện, trong công tác xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cho phụ nữ tại ngoại thành Hà Nội Các hoạt động của tổ chức này không chỉ giúp nâng cao đời sống của phụ nữ mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương Để tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác XĐGN, cần đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm hỗ trợ và phát huy vai trò của các đoàn thể tại hai xã Cổ Nhuế và Xuân Phương.

Luận văn thạc sỹ của Võ Thị Cẩm Ly năm 2010 về “Phụ nữ nghèo ở Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An” đã phân tích thực trạng nghèo khổ của phụ nữ đô thị, chỉ ra nguyên nhân và các chiến lược thoát nghèo mà họ áp dụng Nghiên cứu làm nổi bật vai trò chủ động của phụ nữ trong việc tìm kiếm cơ hội cải thiện cuộc sống, đồng thời đưa ra các kiến nghị điều chỉnh chính sách giảm nghèo và nâng cao chất lượng sống Tác giả cũng đề xuất giải pháp cho công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương trong thời gian tới.

Các nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng kinh tế - văn hóa - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là vấn đề nghèo đói, được xem như thách thức lớn đối với phát triển bền vững Trong đề tài này, tôi sẽ không đi sâu vào các khía cạnh đã được phân tích trước đó mà sẽ tập trung vào mô hình can thiệp thông qua tiến trình công tác xã hội nhóm, hỗ trợ phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại phường Nghi Hòa, Thị xã Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện nghiên cứu này.

2.2 Tổng quan về phường Nghi Hòa – Thị xã Của Lò – Tỉnh Nghệ An

Phường Nghi Hòa là một trong 7 phường của Thị xã Cửa Lò

Phường Nghi Hòa nằm trong tọa độ địa lý khoảng từ 18 0 45’ đến

18 0 50’ vĩ độ Bắc và từ 105 0 42 đến 105 0 45 kinh độ Đông

Phường Nghi Hòa có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa hè kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, nhiệt độ thường đạt từ 35°C đến 38°C do gió Tây Nam Mùa mưa, từ tháng 9 đến tháng 12, thường có lượng mưa lớn và tiềm ẩn nguy cơ bão lụt.

Từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, Nghi Hòa, thuộc thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, thường chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc với nhiệt độ trung bình từ 16°C đến 25°C, có những ngày rét đậm xuống dưới 10°C Phường Nghi Hòa có diện tích 408,46 ha và dân số khoảng 3.669 người, chủ yếu là dân tộc Kinh với 806 hộ dân Người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, bên cạnh đó, một bộ phận lớn là ngư dân, trong khi phần còn lại làm kinh doanh dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động.

Phường cách trung tâm thành phố Vinh 12km về phía Đông Địa bàn có tuyến tỉnh lộ 535 đi qua nối liền cảng Cửa Hội – Cửa Lò

Nghi Hòa nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp xã Nghi Hương, phía Nam giáp phường Nghi Hải, phía Đông tiếp giáp với biển Đông, và phía Tây giáp xã Nghi Thạch cùng xã Nghi Xuân thuộc huyện Nghi Lộc.

Phường có khu du lịch biển Cửa Hội, kết nối với thị xã Cửa Lò, tạo thành tuyến tham quan nghỉ dưỡng lý tưởng cho du khách Từ Cửa Lò, du khách có thể dễ dàng di chuyển lên thành phố Vinh và tiếp tục hành trình về Kim Liên, quê hương của Bác.

THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG CỦA NHÓM PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN TẠI PHƯỜNG NGHI HÒA

Tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ nghèo đơn thân tại phường Nghi Hòa

2.1 Tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với nhóm phụ nữ nghèo đơn thân tại phường Nghi Hòa

Tình hình lạm phát hiện nay đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhiều lao động nghèo, khiến họ rơi vào cảnh khó khăn hơn Nhằm hỗ trợ nhóm hộ nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo đơn thân, Đảng bộ và chính quyền phường Nghi Hòa đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ theo quy định của Đảng và Nhà nước, giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống.

Toàn phường Nghi Hòa đã tích cực tham gia cuộc vận động “Vì người nghèo”, thể hiện tinh thần “Thương người như thể thương thân” và “Lá lành đùm lá rách” Năm 2011, phường đã huy động được 168 triệu đồng để thực hiện chương trình giảm nghèo theo tiêu chí của Thị xã Trong năm qua, ngân sách đã hỗ trợ sửa chữa 3 ngôi nhà cho phụ nữ nghèo đơn thân và cung cấp các điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho hộ nghèo Bên cạnh đó, phường cũng triển khai các chương trình khuyến học, khuyến tài nhằm hỗ trợ học sinh, sinh viên nghèo vượt khó.

Bên cạnh đó các ban ngành, tổ chức chính quyền địa phương đã hỗ trợ nhóm phụ nữ nghèo đơn thân về các khía cạnh như:

Chính sách hỗ trợ giáo dục dành cho con em gia đình nghèo bao gồm việc miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí xây dựng trường lớp Vào đầu năm học, học sinh sẽ nhận được sự hỗ trợ từ nhà trường về sách vở, giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho các gia đình.

Vào các dịp lễ Tết, nhà trường và chính quyền địa phương sẽ trích quỹ để hỗ trợ quỹ khuyến học, giúp đỡ con em gia đình nghèo vượt khó và học giỏi.

Chính sách hỗ trợ y tế ưu tiên cấp thẻ bảo hiểm cho phụ nữ nghèo và con của họ, giúp giảm chi phí khám chữa bệnh Chính quyền địa phương khuyến khích nhóm đối tượng này đi khám bệnh định kỳ tại trạm y tế phường để phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Nhóm gia đình phụ nữ nghèo đơn thân nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương với nước sạch sinh hoạt miễn phí Mỗi gia đình cũng được giảm 30.000đ/tháng cho chi phí tiền điện, cùng với việc giảm thuế nhà đất, giúp cải thiện điều kiện sống của họ.

Chính quyền và ban chính sách phường Nghi Hòa nỗ lực hỗ trợ việc làm cho phụ nữ nghèo bằng cách tìm kiếm và kết nối với các cơ hội việc làm thêm, giúp họ tăng thu nhập cho bản thân và gia đình.

Vào các dịp lễ tết, các ban ngành và tổ chức chính quyền địa phương đã triển khai hỗ trợ tiền bạc và quà cáp cho nhóm phụ nữ nghèo Cụ thể, trong dịp Tết Nguyên Đán vừa qua, các gia đình thuộc diện hộ nghèo được nhận 200.000đ và 10kg gạo mỗi người, nhằm giúp đỡ các gia đình chính sách có một lễ tết cổ truyền ấm cúng và đầy đủ.

Trong quá trình thực hiện chính sách địa phương, mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khuyết điểm Tốc độ thực hiện chính sách còn chậm, và chính quyền địa phương thường áp dụng các biện pháp một cách chung chung, chưa thực sự nắm bắt được tình hình cụ thể của từng đối tượng Đặc biệt, phường chưa thiết lập được đội ngũ cán bộ chuyên trách để theo dõi, đôn đốc và đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách Điều này dẫn đến sự kém hiệu quả trong công tác thực hiện chính sách.

31 của địa phương chưa cao điều này làm cho nhóm hộ nghèo qua nhiều năm vẫn chưa thoát được vòng luẩn quẩn của cái nghèo.

Thực trạng về đời sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con

Nền kinh tế nước ta đang phát triển mạnh mẽ, dẫn đến thu nhập quốc dân và đời sống người dân được cải thiện, tỷ lệ hộ giàu và khá giả tăng lên Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận dân cư thuộc diện hộ nghèo, phải đối mặt với cuộc sống khó khăn và thiếu thốn, không đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu Đặc biệt, nhóm phụ nữ nghèo đơn thân tại phường Nghi Hòa đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ tình hình kinh tế và lạm phát, khiến cuộc sống của họ càng trở nên khó khăn hơn.

Nghề nghiệp chủ yếu của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân là buôn bán nhỏ và lao động tự do, dẫn đến thu nhập không ổn định, trung bình chỉ từ 261.000 đến 500.000 đồng/người/tháng Mức thu nhập hạn chế này kìm hãm khả năng chi tiêu, khiến mức sống của họ thấp Trong cuộc sống hàng ngày, họ phải dành phần lớn chi tiêu cho ăn uống, học hành của con cái, chữa bệnh và một khoản cho ma chay, hiếu hỉ Điều này cho thấy nhu cầu thiết yếu hàng ngày đòi hỏi chi phí lớn, trong khi thu nhập lại quá thấp, dẫn đến sự mất cân bằng giữa thu nhập và chi tiêu.

32 Điều đó dẫn đến một kết quả không thể tránh khỏi là trong cuộc sống thường nhật nhóm phụ nữ nghèo đơn thân gặp phải rất nhiều khó khăn “

Nghề ngồi chợ của tôi thường không ổn định, có ngày có ngày không, nhưng thật sự rất vất vả Tôi phải chạy vạy buôn bán suốt tháng nhưng thu nhập lại rất thấp, không đủ để trang trải cho những khoản chi tiêu hàng ngày, chứ chưa nói đến các công việc khác.

Phần lớn phụ nữ nghèo sống trong những ngôi nhà tạm bợ, thường là nhà cấp bốn cũ kỹ, tối tăm và chật chội, được xây dựng từ lâu và trong tình trạng rất tồi tàn.

Nhóm phụ nữ này đối mặt với nguồn ngân sách hạn chế do thu nhập cá nhân hàng tháng rất thấp, trong khi họ phải gánh vác trách nhiệm nuôi sống cả gia đình với nhiều khoản chi tiêu.

Khi cần tiền cho việc học hành hay chữa bệnh, nhiều người thường phải vay mượn từ ngân hàng chính sách, hàng xóm hoặc người thân Hiện nay, mọi thứ đều cần tiền, giá cả các mặt hàng đều tăng cao, khiến cho khoản thu nhập chủ yếu chỉ đủ để chi tiêu hàng ngày Khi gặp phải những nhu cầu cần số tiền lớn, họ buộc phải tìm cách vay mượn.

( Trích PVS số 2 chị N.T.T.A – Khối Bắc Hòa – Phường Nghi Hòa)

Nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại phường Nghi Hòa đang đối mặt với nhiều khó khăn riêng biệt, bên cạnh những thực trạng chung của họ Các vấn đề cụ thể của từng cá nhân trong nhóm này đã được nhà nghiên cứu thể hiện rõ ràng trong bảng số liệu.

Bảng thứ 1: Bảng danh sách, hoàn cảnh và đặc điểm của nhóm thân chủ

STT Họ tên Năm sinh Nơi ở Tên con

Tính cách Hoàn cảnh gia đình

Khối Trung Hòa – Nghi Hòa

Hoàng Văn Đạt ( 1998) – hiện đang là học sinh lớp

Là người phụ nữ chịu thương, chịu khó làm ăn, hết lòng chăm sóc bố mẹ, con cái…

- Chồng mất cách đây 8 năm

- Một mình chị ở vậy nuôi con

1988) đều là lao động phổ thông

Là một người rất hòa đồng, dễ tiếp xúc, chăm chỉ, chịu khó

- Chồng mất cách đây 5 năm và ba me con nương tựa vào nhau để sinh sống

Khối Đông Hòa – Nghi Hòa

1996) đều là học sinh trường

Là một người phụ nữ đảm đang, hết lòng chăm sóc con cái

- Chồng đi xuất khẩu lao động và đã bỏ rơi 3 mẹ con chị để đi tìm hạnh

Lò phúc mới Một mình chị tự làm lụng để nuôi con ăn học

Khối Liên Hòa – Nghi Hòa

Chịu thương, chịu khó, chăm chỉ làm ăn

Chồng chị đã qua đời vì một căn bệnh hiểm nghèo, dù chị đã tiêu tốn nhiều tiền bạc cho việc chữa trị nhưng không thể cứu sống được anh Sau khi chồng mất, mẹ con chị còn phải gánh chịu một khoản nợ đáng kể.

- Lê Thị Hoa Mai( 1998) – học sinh

9/12 Đảm đang trong mọi công việc,

Chồng chị bi mất sau một vụ tai nạn

Hòa hết lòng chăm lo, vun vén cho gia đình, con cái giao thông

Từ đó mẹ con chị mất đi trụ cột trong gia đình

Khối Bắc Hòa- Nghi Hòa

Chăm chỉ, chịu thương chịu khó, vui vẻ hòa đồng với mọi người

- Chồng chị cũng đã ra đi vĩnh viễn sau một vụ tai nạn trên biển

Từ đó chị đã ở vậy nuôi con ăn học

( Nguồn bảng được trích từ số liệu thu thập được của nhà nghiên cứu)

Các đối tượng phụ nữ trong bài viết đều có điểm chung là thuộc tầng lớp nghèo, có trình độ học vấn thấp và đã mất đi chỗ dựa vững chắc trong gia đình, đó là người chồng Dù vậy, họ vẫn là những người phụ nữ đảm đang và chịu thương chịu khó, tự mình gánh vác mọi công việc trong gia đình, từ việc lo toan cuộc sống đến việc nuôi dạy con cái học hành.

Bảng thứ 2: Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn phường Nghi Hòa năm 2011

Tổng sè hé trong khèi n¨m

Két quả phân loại hộ nghèo

Tổng số ng-ời thuộc diện hộ nghÌo 2011

Tình trạng nhà ở sè hé thoát nghÌo số hộ rơi vào nghÌo

Tổng sè hé nghÌo tỷ lệ nghÌo (%)

( Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác giảm nghèo của ban chính sách phường Nghi Hòa năm 2011)

Số lượng hộ nghèo đã giảm từ 80 hộ vào năm 2010 xuống còn 69 hộ vào năm 2011, nhờ vào sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, tổ chức và cá nhân trong công tác giảm nghèo tại phường Bên cạnh đó, ý thức vượt khó của đa số hộ nghèo cũng ngày càng được nâng cao.

Cũng thông qua bảng số liệu ta thấy trong số lượng thuộc diện hộ nghèo

Trong một nghiên cứu với 225 người, phụ nữ trong diện hộ nghèo chiếm đến 132 người, tương đương 65% Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do phụ nữ thường gặp khó khăn về sức khỏe, có công việc thu nhập thấp và bị hạn chế trong giao tiếp cũng như xây dựng các mối quan hệ xã hội Điều này đã khiến tỷ lệ phụ nữ thuộc diện hộ nghèo gia tăng đáng kể.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đời sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân

Cuộc sống khó khăn của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau Một số nguyên nhân chính bao gồm thiếu hỗ trợ tài chính, áp lực từ xã hội và thiếu cơ hội việc làm Những yếu tố này góp phần làm tăng gánh nặng cho họ trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng con cái.

Thiếu nguồn nhân lực lao động chính do mất đi người chồng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình phụ nữ nghèo đơn thân Khi trụ cột gia đình không còn, những người phụ nữ này phải gánh vác trách nhiệm lớn lao, từ việc nuôi dưỡng đến lo toan mọi công việc Bên cạnh đó, việc có nhiều con trong độ tuổi đi học mà chưa có thu nhập cá nhân cũng làm giảm thu nhập bình quân của gia đình, dẫn đến khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu như ăn, ở, học hành và chữa bệnh cho tất cả các thành viên.

Nghề nghiệp không ổn định và thu nhập bấp bênh là vấn đề chính của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân, khi họ chủ yếu làm trong các lĩnh vực sản xuất, chăn nuôi, buôn bán nhỏ và nghề tự do Sự thay đổi liên tục trong công việc đã dẫn đến thu nhập bình quân không ổn định, thậm chí đôi khi khiến họ thất nghiệp Đa số phụ nữ trong nhóm này cho rằng tính chất công việc là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo khổ của họ.

Trình độ học vấn và tay nghề thấp của nhóm đối tượng này đã được xác nhận qua các cuộc phỏng vấn sâu và quan sát thực tế Họ không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện tại, dẫn đến tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng hơn.

Việc hạn chế trong giao tiếp và thiết lập mối quan hệ xã hội gây khó khăn cho sự phát triển cá nhân, đặc biệt là đối với nhóm phụ nữ nghèo đơn thân Họ thiếu hụt vốn xã hội, dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin và kết nối với người khác Hệ quả là, họ không thể tận dụng các nguồn lực và nhận được sự hỗ trợ cần thiết để vượt qua những thử thách trong cuộc sống.

Hạn chế trong công tác thực hiện giảm nghèo cho nhóm đối tượng:

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu trong công tác giảm nghèo, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục Công tác chỉ đạo và thực hiện chưa linh hoạt, tốc độ huy động và khai thác tiềm năng địa phương còn chậm, dẫn đến hiệu quả giảm nghèo chưa cao Nhiều hộ nghèo chưa tiếp cận được nguồn tín dụng ưu đãi, trong khi việc cho vay lại không đúng đối tượng hoặc bị sử dụng sai mục đích Các chương trình tập huấn kỹ thuật và kinh nghiệm cho đối tượng cũng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thiếu mô hình trình diễn Hơn nữa, việc phát triển các ngành nghề mới còn hạn chế và hiệu quả thấp Hội phụ nữ tại một số địa phương chưa chú trọng đến công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho phụ nữ nghèo, trong khi các hoạt động cho vay vốn, hỗ trợ học nghề và giải quyết việc làm vẫn cần được triển khai hiệu quả hơn.

Mặc dù có 39 phường, nhưng điều kiện làm việc chưa phù hợp khiến chị em chưa tham gia đông đảo, tâm lý ngại thay đổi và ỷ lại vẫn còn tồn tại Hơn nữa, việc xây dựng và nhân rộng mô hình giảm nghèo chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến việc thiếu các mô hình điển hình.

Đánh giá nhu cầu và nguyện vọng giảm nghèo của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con

3.1.Đánh giá nhu cầu của nhóm thân chủ

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng lý thuyết nhu cầu của Maslow để đánh giá nhu cầu của nhóm thân chủ Qua việc phân tích, tác giả xác định được những nhu cầu đã được đáp ứng và những nhu cầu chưa được thỏa mãn của nhóm đối tượng Từ đó, tác giả đề xuất các phương pháp can thiệp nhằm cải thiện tình hình hiện tại của nhóm thân chủ.

Nhu cầu được tôn trọng

Tình yêu thương, hòa nhập

Nhu cầu an toàn: Được gắn bó, được bảo vệ…

Nhu cầu được sống, được ăn, ở, mặc…

Trong cuộc sống của nhóm phụ nữ nghèo đơn thân, nhu cầu vật chất cơ bản như ăn uống ba bữa một ngày, khám bệnh định kỳ cho con cái theo chế độ bảo hiểm y tế và đảm bảo việc học hành đều được đáp ứng Tuy nhiên, mức độ đáp ứng này chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, không đủ đầy đủ như các gia đình khác Họ thường cảm thấy thương con cái khi so sánh với những đứa trẻ khác, khi mà con họ thường gầy gò hơn so với những đứa trẻ khác mập mạp và khỏe mạnh.

( Trích PVS số 3 chị P.T.Đ – Khối Đông Hòa)

Nhu cầu an toàn là yếu tố quan trọng đối với các thành viên trong gia đình của phụ nữ đơn thân, khi họ được đảm bảo sống trong môi trường an ninh trật tự, có nơi ở ổn định, được chăm sóc sức khỏe định kỳ và được pháp luật bảo vệ Một người mẹ chia sẻ: “Cuộc sống mấy mẹ con đã khổ rồi, nên chị chỉ mong nó khỏe mạnh, đừng ốm đau, bệnh tật là chị mãn nguyện lắm rồi.”

( Trích PVS số 4 chị N.T.X – Khối Liên Hòa)

Nhu cầu tình cảm xã hội, đặc biệt là từ những người phụ nữ nghèo đơn thân, thường không được đáp ứng đầy đủ mặc dù họ nhận được sự quan tâm từ các tổ chức, chính quyền và cộng đồng Họ phải đối mặt với sự thiếu thốn tình cảm từ người chồng, điều này trở nên rõ ràng khi họ cảm thấy cô đơn, đặc biệt vào ban đêm hoặc khi con cái ốm đau Một người phụ nữ chia sẻ rằng, dù cuộc sống bận rộn với công việc và chăm sóc con cái, cô vẫn cảm thấy nhớ chồng và đôi khi cảm thấy kiệt sức, bất lực Tuy nhiên, vì con cái, cô luôn cố gắng làm việc chăm chỉ để đảm bảo cho tương lai của chúng, mong muốn chúng không phải trải qua những khổ cực như mình.

Nhóm phụ nữ đơn thân và con cái của họ thường thiếu thốn tình yêu thương từ người chồng, người cha, dẫn đến cảm giác tự ti và sự thiếu tự tin trong giao tiếp, ứng xử và hòa nhập với cộng đồng.

Nhu cầu được tôn trọng của nhóm phụ nữ đơn thân là rất quan trọng, bởi họ thường mất đi chỗ dựa kinh tế và tinh thần Các con của họ thiếu tình yêu thương và sự chỉ bảo từ người cha, dẫn đến việc một số người trong xã hội không coi trọng họ Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, họ thường phải đối mặt với những lời nói thiếu tôn trọng Một số người không có ý coi thường, nhưng vẫn có những câu nói làm họ cảm thấy tủi thân và suy nghĩ nhiều về bản thân.

Nhiều phụ nữ không chỉ chịu tổn thương mà còn ảnh hưởng đến những đứa con nhỏ của họ Một số trẻ em bị bạn bè từ chối chơi cùng vì hoàn cảnh gia đình, như việc không có bố hoặc điều kiện kinh tế khó khăn, dẫn đến những xung đột và cảm giác bị cô lập.

(Trích PVS số 7 cháu N.T.N- con gái thân chủ)

Nhu cầu hoàn thiện của nhóm phụ nữ đơn thân và con cái họ không chỉ nằm ở khía cạnh kinh tế mà còn ở sự thiếu thốn tình cảm và yêu thương Điều này tạo ra những khó khăn trong việc phát huy nguyện vọng và năng lực của bản thân họ Những đứa trẻ trong hoàn cảnh này cũng gặp trở ngại trong việc học tập và phát triển tri thức Họ phải lo lắng cho cuộc sống hàng ngày, từ việc kiếm tiền cho đến việc trang trải học phí Một người mẹ chia sẻ rằng hiện tại cô đang cố gắng lo cho con học cấp 2, nhưng không biết liệu mình có đủ khả năng để nuôi dưỡng con khi nó học lên cao hơn trong tương lai.

(Trích PVS số 8 chị T.T.H – 1971- Khối Hải Bằng 1)

Nhóm phụ nữ nghèo đơn thân rất khao khát tham gia các hoạt động xã hội và phát triển bản thân, đồng thời mong muốn con cái họ được học hành đầy đủ Tuy nhiên, do khó khăn về kinh tế, họ không đủ khả năng thực hiện những ước mơ này.

Nhiều người dành thời gian cho bản thân nhưng không đủ tài chính để trang trải cuộc sống và hỗ trợ cho con cái học hành Điều này khiến họ không có cơ hội hoàn thiện bản thân và trở thành những đối tượng chịu thiệt thòi, cần sự quan tâm từ cộng đồng và xã hội.

3.2 Đánh giá nguyện vọng của nhóm thân chủ trong tiến trình thực hiện các giải pháp giảm nghèo

NVCTXH sử dụng các phương pháp như phỏng vấn sâu, quan sát và thảo luận nhóm tập trung để đánh giá nhu cầu và mong muốn của nhóm thân chủ Qua đó, họ tìm hiểu những nguyện vọng của nhóm thân chủ nhằm nâng cao đời sống vật chất cho họ.

Trải qua quá trình đó NVCTXH đã rút ra được những vấn đề mà nhóm cần thực hiện lúc này:

* Tạo điều kiện cho nhóm phụ nữ nghèo phát triển kinh tế bằng cách

- Tạo nguồn vốn hỗ trợ ban đầu

- Mở các lớp tập huấn, các lớp dạy nghề, giới thiệu việc làm cho nhóm phụ nữ sau khi đã được đào tạo

- Kết nối nhóm đối tượng với các nguồn ngoại lực

- Hỗ trợ công ăn việc làm cho những các nhân có nhu cầu tìm kiếm việc làm hoặc thất nghiệp

- Giúp nhóm đối tượng huy động những chính sách từ Đảng và nhà nước đối với người nghèo, trẻ mồ côi

Chúng tôi hỗ trợ nhóm phụ nữ nghèo nâng cao kiến thức phát triển kinh tế qua các lĩnh vực như phát triển nông nghiệp với chăn nuôi và sản xuất hiệu quả, nghề phụ như chế biến cá đông lạnh và làm nước mắm, cũng như ngành du lịch bằng cách thuê mặt bằng xây dựng kiốt kinh doanh trong mùa du lịch Mục tiêu là tạo ra lợi nhuận bền vững thông qua việc niêm yết giá cả hợp lý, tôn trọng khách hàng và duy trì hoạt động kinh doanh minh bạch, tuân thủ các quy định đã đề ra.

Liên kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội là yếu tố quan trọng giúp nhóm phụ nữ đơn thân nâng cao khả năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái Sự hỗ trợ này không chỉ cải thiện điều kiện vật chất mà còn nâng cao tinh thần cho các gia đình đơn thân, từ đó tạo ra môi trường phát triển toàn diện cho trẻ.

* Tạo điều kiện cho nhóm thân chủ nâng cao đời sống tinh thần

Ngoài việc nâng cao đời sống vật chất cho nhóm đối tượng chính, cần hỗ trợ họ trong giao tiếp, ứng xử và tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, nhằm giúp họ hòa nhập tích cực vào cộng đồng.

TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TRONG VIỆC KẾT NỐI CÁC NGUỒN NGOẠI LỰC GÓP PHẦN NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT CHO NHÓM PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON ( Nghiên cứu tại địa bàn phường Nghi Hòa – Thị xã Cửa Lò – Tỉnh Nghệ An)

Ngày đăng: 16/09/2021, 19:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Báo cáo phát triển Việt Nam( 2004), Nghèo, Nxb Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghèo
Nhà XB: Nxb Hà Nội
3. Bộ LĐ- TB và XH ( 2009), tài liệu tập huấn cán bộ XĐGN cấp xã ,thôn bản, Nxb Lao động - xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: tài liệu tập huấn cán bộ XĐGN cấp xã ,thôn bản
Nhà XB: Nxb Lao động - xã hội
5. Đảng cộng sản Việt Nam ( 2001) , văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG , Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Nhà XB: Nxb CTQG
6. Đảng cộng sản Việt Nam ( 2006) , văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG , Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Nhà XB: Nxb CTQG
7. Đảng cộng sản Việt Nam ( 2010) , văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG , Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb CTQG
8. Nguyễn Đăng Bằng( 1993), Vấn đề phân hóa giàu nghèo ở nông thôn Nghệ An hiện nay, thực trạng và hướng giải quyết, Thông báo khoa học Đại học Vinh,(9), trang 60-63 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề phân hóa giàu nghèo ở nông thôn Nghệ An hiện nay, thực trạng và hướng giải quyết
9. Nguyễn Thị Hằng - Bộ trưởng bộ LĐ – TB & XH (1997), phân hóa giàu nghèo và các tiêu chuẩn về đói nghèo ở Việt Nam, Nxb Hà Nội 10. Nguyễn Văn Tiêm( 1993), giàu nghèo trong nông thôn hiện nay, nxbNông nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: phân hóa giàu nghèo và các tiêu chuẩn về đói nghèo ở Việt Nam", Nxb Hà Nội 10. Nguyễn Văn Tiêm( 1993), "giàu nghèo trong nông thôn hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thị Hằng - Bộ trưởng bộ LĐ – TB & XH
Nhà XB: Nxb Hà Nội 10. Nguyễn Văn Tiêm( 1993)
Năm: 1997
11. Lê Văn Phú, Công tác xã hội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công tác xã hội
Nhà XB: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
12. Phạm Văn Quyết – TS Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp Nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp Nghiên cứu xã hội học
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
13. Phạm Thị Oanh, Bài giảng Công tác xã hội cá nhân, Nxb Đại học Vinh 14. Phạm Viết Đào( 1986), Mặt trái của cơ chế thị trường, Nxb Văn hóa,thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng Công tác xã hội cá nhân", Nxb Đại học Vinh 14. Phạm Viết Đào( 1986), "Mặt trái của cơ chế thị trường
Nhà XB: Nxb Đại học Vinh 14. Phạm Viết Đào( 1986)
15. Ths. Nguyễn Thị Thái Lan ( chủ biên), Ths. Nguyễn Thị Thanh Hương, TS. Bùi Thị Xuân Mai, Công tác xã hội nhóm, Nxb Đại Lao động – xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công tác xã hội nhóm
Nhà XB: Nxb Đại Lao động – xã hội
16. Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng( 1996), phụ nữ, giới và phát triển, Nxb Phụ nữ Sách, tạp chí
Tiêu đề: phụ nữ, giới và phát triển
Nhà XB: Nxb Phụ nữ
1. Báo cáo tổng kết phát triển kinh tế của phường Nghi Hòa giai đoạn 2006 – 2011 Khác
4. Đề án xây dựng và phát triển kinh tế phường Nghi Hòa giai đoạn 2011 - 2015 Khác
17. Website: w.w.w. mov.gov.vn: XĐGN ở nước ta – thành tựu, thách thức và giải pháp Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w