1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chính sách của ba vị vua đầu triều nguyễn đối với trấn tỉnh thanh hóa từ năm 1802 đến năm 1847

135 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chính Sách Của Ba Vị Vua Đầu Triều Nguyễn Đối Với Trấn – Tỉnh Thanh Hóa Từ Năm 1802 Đến Năm 1847
Tác giả Trần Thị Quỳnh
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Quang Hồng
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Việt Nam
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2012
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 1,43 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (7)
    • I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (7)
    • II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ (8)
    • III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI (11)
    • IV. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU (11)
    • V. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (12)
    • VI. BỐ CỤC CỦA ĐỂ TÀI (12)
  • B. PHẦN NỘI DUNG (13)
  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA GIA LONG (12)
    • 1.1. Tình hình nước Đại Nam khi nhà Nguyễn xác lập quyền thống trị (13)
      • 1.1.1. Vài nét về tình hình thế giới nửa đầu thế kỉ XIX (13)
      • 1.1.2. Vương quốc Đại Nam đầu thế kỷ XIX (15)
    • 1.2. Các chính sách được thi hành từ năm 1802 đến năm 1847 (19)
      • 1.2.1. Chính sách về kinh tế (19)
      • 1.2.2. Chính sách về chính trị - xã hội (35)
      • 1.2.2. Chính sách về văn hóa - giáo dục (42)
  • CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA GIA LONG, MINH MẠNG, THIỆU TRỊ ĐỐI VỚI TRẤN - TỈNH THANH HÓA (12)
    • 2.1 Vài nét về địa lí, lịch sử, văn hóa của vùng đất Thanh Hóa (58)
    • 2.2. Chính sách về kinh tế (63)
      • 2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế xứ Thanh trước năm 1802 (63)
      • 2.2.2. Những chính sách về kinh tế triều Nguyễn thi hành với xứ Thanh và tác động của nó (69)
    • 2.3. Chính sách về chính trị - xã hội (86)
      • 2.3.1. Vài nét khái quát về tình hình chính trị - xã hội xứ Thanh trước năm 1802 (86)
      • 2.3.2. Những chính sách về chính trị - xã hội triều Nguyễn thi hành đối với trấn - tỉnh Thanh Hóa và tác động của nó (90)
  • CHƯƠNG 3. CHÍNH SÁCH VỀ VĂN HÓA - GIÁO DỤC CỦA GIA LONG, (12)
    • 3.1. Vài nét về tình hình văn hóa - giáo dục của xứ Thanh trước khi triều Nguyễn thành lập (1075 - 1802) (108)
    • 3.2 Những chính sách về văn hóa- giáo dục được thi hành ở Thanh Hóa từ 1802 đến năm 1847 (111)
    • C. KẾT LUẬN (123)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (127)
    • E. PHỤ LỤC (130)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vào đầu thế kỷ XIX, vương triều Nguyễn ra đời, đánh dấu sự xuất hiện của triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam Vương triều này tồn tại gần 150 năm, từ năm 1802.

Vương triều Nguyễn (1802-1945) với 13 đời vua đã trải qua một thời kỳ chuyển động mạnh mẽ trong khu vực Đông Nam Á và thế giới, nhưng lại không theo kịp xu thế phát triển Thời kỳ này để lại nhiều bài học sâu sắc về quản lý nhà nước, con người và xã hội, cùng với ý thức độc lập tự chủ và quyền lợi của vương triều và giai cấp thống trị Là triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi và là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học cũng như nghiên cứu trong và ngoài nước Điều này đặt ra câu hỏi về vị trí và vai trò của triều đại Nguyễn đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.

Trong suốt 13 đời vua của triều Nguyễn, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của ba vị vua đầu tiên Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị, đã có nhiều chính sách quan trọng về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục tại Đại Nam Những chính sách này không chỉ mang lại những tác động tích cực mà còn bộc lộ nhiều hạn chế Điều này đặt ra câu hỏi về ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh lịch sử của tỉnh Thanh Hóa.

Thanh Hóa vốn là đất “quý hương”- đất tổ của họ Nguyễn, với người khởi nghiệp là Nguyễn Bặc trên vùng đất Tống Sơn - Gia Miêu (Thanh Hóa)

Từ thế kỉ XVI đến XVIII, họ Nguyễn đã mở rộng thế lực trong các triều đại phong kiến, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Hoàng Đến đầu thế kỉ XIX, vương triều Nguyễn chính thức thành lập và thực hiện nhiều chính sách đối với vương quốc Đại Nam Đối với quê hương Thanh Hóa, các vua đầu triều Nguyễn đã áp dụng những chính sách nào? Liệu những chính sách này có xuất phát từ sự ưu ái dành cho vùng đất quê hương hay chỉ là những chính sách chung cho các địa phương khác? Nghiên cứu vấn đề này giúp làm rõ thái độ của các vua Nguyễn đối với Thanh Hóa và so sánh với các triều đại trước về chính sách đối với quê hương và đất nước.

Sinh ra trên quê hương xứ Thanh, nơi có lịch sử gắn liền với triều đại Nguyễn, tôi mong muốn tìm hiểu và đánh giá các chính sách của ba vị vua đầu triều Nguyễn đối với vùng đất này Mặc dù chế độ phong kiến đã lùi xa, nhưng những nhận định về triều đại vẫn còn rất quan trọng Tôi muốn khám phá tác động của những chính sách đó đến sự phát triển của Thanh Hóa, một trong những trấn - tỉnh lớn của Việt Nam trong lịch sử dân tộc.

Với những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Chính sách của 3 vị vua đầu triều Nguyễn đối với trấn - tỉnh Thanh Hóa (1802 - 1847)” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Triều đại Nguyễn là một trong những giai đoạn phong kiến được nghiên cứu nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam, thu hút sự quan tâm của các nhà sử học cả trong và ngoài nước.

Trong nửa đầu thế kỷ XIX, nhiều nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện về tình hình kinh tế, văn hóa và xã hội Việt Nam, với các công trình tiêu biểu của các tác giả như Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Sự (1959) trong "Lịch sử cận đại Việt Nam", tập 1, NXB GD, Hà Nội; cùng với Phan Huy Lê, Chu Thiên và Vương Những nghiên cứu này đã góp phần làm sáng tỏ bức tranh lịch sử và phát triển của đất nước trong giai đoạn này.

Hoàng Tuyên và Đinh Xuân Lâm (1965) đã nghiên cứu về lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX trong tác phẩm "Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam" tập 3, xuất bản bởi NXB GD tại Hà Nội Ngoài ra, UBKHXH Việt Nam (1971) cũng đã đóng góp vào việc ghi chép lịch sử qua tác phẩm "Lịch sử Việt Nam" tập 1, xuất bản bởi NXB KHXH, Hà Nội.

Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá những đóng góp của triều Nguyễn đối với lịch sử dân tộc Các nhà sử học đã tập trung vào từng lĩnh vực cụ thể, với những tác phẩm tiêu biểu như “Chính sách khuyến nông thời Minh Mạng” của Mai Khắc Ứng (1996) và “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX” của Vũ Huy Phúc (1979) Những nghiên cứu này không chỉ làm sáng tỏ vai trò của triều Nguyễn mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về các chính sách và chế độ trong thời kỳ này.

Trong bối cảnh triều Nguyễn, tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân dân đã có những biến đổi đáng kể, được phân tích qua các tác phẩm như “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân dân dưới triều Nguyễn” của Bùi Thị Tân và Vũ Huy Phúc (1998) Bên cạnh đó, nghiên cứu về “Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn” cũng cho thấy sự phát triển của ngành nghề này trong thời kỳ này Đỗ Bang (1996) đã chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong “Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn”, phản ánh sự thay đổi trong thương mại Cuối cùng, pts Lê Thị Thanh Hòa (1998) đã đề cập đến việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1884, góp phần làm rõ cơ cấu quản lý xã hội trong thời kỳ này.

Nghiên cứu về các chính sách của triều Nguyễn đối với Thanh Hóa đã được nhiều công trình thực hiện, trong đó có tác phẩm của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2008) mang tên “Lịch sử Thanh Hóa”.

Trong những năm gần đây, với xu thế đổi mới và sự thay đổi trong tư duy khoa học, nhiều hội thảo đã tập trung nghiên cứu về triều Nguyễn và các chính sách của triều đại này đối với Thanh Hóa Các tài liệu quan trọng như “Phác thảo lịch sử kinh tế Thanh Hóa từ nguyên thủy đến 1945” của Phạm Văn Đấu và “Thành phố Thanh Hóa (1804 - 1947)” của Quan Lâm - Lê Đức Nghị đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử và phát triển của khu vực này từ năm 1802 đến 1947, bao gồm giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược (1802 - 1884).

Hội thảo khoa học “Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn” diễn ra tại Huế vào năm 2000, tập trung nghiên cứu các thành tựu nổi bật trong kiến trúc, nghệ thuật, giáo dục và đào tạo nhân tài, hệ thống pháp luật, lịch sử, văn học, âm nhạc và lễ hội của Việt Nam dưới triều đại Nguyễn.

Năm 2001, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Tạp chí Xưa và Nay đã cho ra mắt cuốn sách "Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam", tập hợp các nghiên cứu sâu sắc về lịch sử, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa và nghệ thuật trong thời kỳ triều Nguyễn.

+ Kỷ yếu hội thảo khoa học: “Thanh Hóa thời kỳ 1802 - 1930”, Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử, NXB Thanh Hóa, 2003

Các nghiên cứu về địa chí huyện Thanh Hóa đã đề cập đến các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong thời kỳ triều Nguyễn.

Bài viết này đề cập đến các tài liệu như bài viết, tạp chí, ấn phẩm và khóa luận tốt nghiệp liên quan đến triều Nguyễn và trấn - tỉnh Thanh Hóa qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là thời kỳ Nguyễn.

Khi nghiên cứu về các chính sách của triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là đối với các trấn, tỉnh như Thanh Hóa, đây là một chủ đề thu hút sự quan tâm lớn Các công trình nghiên cứu có thể tập trung vào từng lĩnh vực cụ thể hoặc đưa ra những đánh giá tổng quát về triều Nguyễn Do đó, việc xử lý và chọn lọc tài liệu là rất cần thiết để phục vụ cho khóa luận một cách hiệu quả.

Do thời gian hạn chế, năng lực nghiên cứu có giới hạn và khó khăn trong việc tiếp cận tư liệu, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo từ thầy cô và góp ý từ độc giả quan tâm Xin chân thành cảm ơn!

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Trong nghiên cứu này, tôi tập trung vào các chính sách kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục mà triều Nguyễn đã áp dụng tại tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ ba vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị (1802 - 1847) Bài viết sẽ chỉ ra những chính sách tiêu biểu và tác động của chúng đối với sự phát triển của Thanh Hóa, đồng thời so sánh với các chính sách chung của triều Nguyễn đối với Đại Nam Qua đó, nghiên cứu nhằm cung cấp cái nhìn khách quan hơn về triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX.

MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Trong nghiên cứu về triều Nguyễn, tôi tập trung vào các chính sách của ba vị vua đầu tiên là Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đối với vương quốc Đại Nam, nhằm hiểu rõ tác động của chúng đến sự phát triển lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cuối của chế độ phong kiến Đặc biệt, tôi muốn tìm hiểu về các chính sách mà họ thực hiện tại trấn - tỉnh Thanh Hóa, quê hương của nhà Nguyễn, để đánh giá thái độ của triều đình đối với vùng đất này và tác động của những chính sách đó đến sự phát triển của xứ Thanh Qua đó, tôi sẽ so sánh và đối chiếu các chính sách chung và riêng mà nhà Nguyễn đã thi hành đối với Đại Nam và Thanh Hóa.

- Trình bày một số nét khái quát về những chính sách mà ba vị vua đầu triều Nguyễn đã thi hành chung trong cả nước

- Tìm hiểu những chính sách mà Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị thi hành với riêng trấn - tỉnh Thanh Hóa

Trong bài viết này, chúng ta sẽ so sánh và đánh giá các chính sách chung và riêng của ba vị vua đầu triều Nguyễn, nhằm làm rõ thái độ của họ đối với vùng đất tổ tiên của họ Nguyễn Những chính sách này không chỉ phản ánh quan điểm của các vị vua mà còn cho thấy mối liên hệ sâu sắc giữa triều đại và quê hương, từ đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về di sản văn hóa và lịch sử của triều Nguyễn.

NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài viết này dựa trên tài liệu gốc của Quốc sử quán triều Nguyễn và các công trình nghiên cứu của các nhà sử học, nhằm tìm hiểu các chính sách của triều Nguyễn đối với Thanh Hóa trong giai đoạn 1802 - 1847 Mặc dù đã tham khảo nhiều bài viết và đánh giá từ các hội thảo khoa học và tạp chí nghiên cứu lịch sử, nhưng do thời gian và điều kiện hạn chế, tác giả chưa thể tiếp cận hết tất cả tài liệu liên quan Rất mong nhận được sự thông cảm từ thầy cô và bạn bè.

Dựa trên quan điểm của Đảng và phương pháp luận sử học Mác-xít, bài viết sử dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic Bên cạnh đó, tác giả còn áp dụng nhiều phương pháp khác như sưu tầm, xử lý tư liệu, đối chiếu và so sánh để thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện.

BỐ CỤC CỦA ĐỂ TÀI

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung luận văn gồm 3 chương :

Chương 1: Khái quát về những chính sách của Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đối với vương quốc Đại Nam

Chương 2: Chính sách về kinh tế, chính trị - xã hội của Gia Long,

Minh Mạng, Thiệu Trị đối với trấn, tỉnh Thanh Hóa

Chương 3: Chính sách về văn hóa - giáo dục của Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đối với trấn, tỉnh Thanh Hóa

KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA GIA LONG

Tình hình nước Đại Nam khi nhà Nguyễn xác lập quyền thống trị

1.1.1 Vài nét về tình hình thế giới nửa đầu thế kỉ XIX

Năm 1802, triều Nguyễn được thành lập, nhưng Nguyễn Ánh và các tướng lĩnh phải đối mặt với nhiều mặc cảm và thách thức Trong suốt nửa thế kỷ, triều đại này đã phải vượt qua hàng loạt mâu thuẫn, khiến nó trở thành một trong những triều đại có bối cảnh đầy khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc và thế giới.

Bắt đầu từ thế kỉ XVI, thế giới trở thành một khối thống nhất với sự giao lưu kinh tế - văn hóa ngày càng phổ biến Trong bối cảnh này, nhiều quốc gia phương Đông suy yếu trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa thực dân phương Tây, mặc dù số lượng thuộc địa của châu Âu ở khu vực này vẫn còn hạn chế Bồ Đào Nha là cường quốc châu Âu đầu tiên thiết lập chế độ thuộc địa tại phương Đông vào cuối thế kỉ XV và đầu thế kỉ XVI Tuy nhiên, sự bành trướng của Bồ Đào Nha gặp khó khăn do các vương quốc địa phương mạnh mẽ và sự cạnh tranh từ các thương nhân phương Tây, dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt.

Cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, cuộc cách mạng tư sản và công nghiệp ở Tây Âu đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản, kèm theo những thành tựu khoa học kỹ thuật và vũ khí hiện đại Sự gia tăng xâm lược các nước khác của các nước Tây Âu đã tạo ra một quá trình phát triển toàn cầu không dựa trên bình đẳng, mà trên áp bức và nô dịch Hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới và hệ thống thuộc địa hình thành song song, mặc dù diễn ra không đồng đều ở các khu vực như Á, Phi, và Mỹ La Tinh Đến đầu thế kỉ XIX, hầu hết các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, đều phải đối mặt với chính sách xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây, điển hình là việc quân đội Anh xâm chiếm đảo Côn Lôn.

Trong khi các nước phương Đông vẫn đang trì trệ trong chế độ phong kiến lạc hậu, một số dấu hiệu của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bắt đầu xuất hiện.

Sau khi Hà Lan chiếm Inđônêxia và Philippin vào nửa sau thế kỉ XVIII, Anh đã tiến hành tấn công quy mô vào Ấn Độ Tuy nhiên, sự đe dọa từ chủ nghĩa thực dân không khiến các quốc gia độc lập ở châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên thay đổi chính sách đối ngoại mà ngược lại, họ càng thực hiện chính sách cô lập Chính quyền nhà Thanh, tự cho mình là văn minh và trung tâm của thiên hạ, không công nhận sự tiến bộ của phương Tây và xem sự xâm nhập của tư tưởng mới là mối nguy hại cho trật tự phong kiến Hoạt động buôn bán bị kiểm soát nghiêm ngặt và người châu Âu không được tiếp xúc với cư dân địa phương Cuối những năm 30 thế kỉ XVII, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Simmabara (1637), Nhật Bản cũng thi hành chính sách cô lập, cấm đạo và đuổi người ngoại quốc.

Chính sách cô lập và đóng cửa của giai cấp thống trị Trung Quốc và Nhật Bản, tuy có thể tạm thời trì hoãn các cuộc xâm lược, nhưng đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khi đế chế Trung Hoa cuối cùng cũng trở thành thuộc địa Như Karl Marx đã chỉ ra, chế độ này đã sống bên ngoài cuộc vận động chung và cảm thấy bị sỉ nhục khi bị loại ra khỏi hệ thống quan hệ quốc tế, dẫn đến sự tự dối mình với ảo tưởng về sự hoàn hảo Trong khi đại diện cho thế giới cũ nhận được sự khích lệ từ giác ngộ đạo đức, thì đại diện cho xã hội hiện đại lại đấu tranh để giành quyền lợi thương mại, tạo nên một bức tranh bi thảm cho cả hai bên.

Cuối thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, nhiều quốc gia ở Á - Phi trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa, ngoại trừ Nhật Bản và Thái Lan Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này Để đối phó với tình hình thế giới, các vua triều Nguyễn cần có chiến lược phù hợp nhằm phát triển đất nước và giữ gìn độc lập, thể hiện tầm nhìn chính trị của các vị quân vương trong thời kỳ họ thiết lập quyền lực.

1.1.2 Vương quốc Đại Nam đầu thế kỷ XIX

Nhà Nguyễn, ra đời vào đầu thế kỉ XIX, được xem là sản phẩm phản ánh những biến động của cuộc nội chiến cuối thế kỉ XVIII Triều đại này đã kế thừa và phát triển các di sản văn hóa và chính trị từ thời kỳ trước đó.

Từ thế kỉ XVII, Đại Việt bị chia cắt thành hai miền do cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, với sông Gianh trở thành giới tuyến ngăn cách Đàng Trong và Đàng Ngoài Dù nhân dân hai miền vẫn giữ chung tiếng nói và một số tập tục, sự khác biệt trong đời sống và tư tưởng đã hình thành trong suốt hàng trăm năm chia cắt Phong trào Tây Sơn đã xóa bỏ giới tuyến sông Gianh, nhưng sự khác biệt về tính cách và nếp sống giữa hai miền vẫn tồn tại lâu dài Ảnh hưởng của Nho giáo ở mỗi miền cũng khác nhau, tạo nên niềm tự hào riêng cho từng vùng Nguyễn Ánh từng cho rằng Bắc Hà là nước cũ của nhà Lê, cho thấy sự khó khăn trong việc thống nhất hai miền dưới một thể chế chính trị chung Thách thức lớn nhất là liệu nhân dân và sĩ phu Bắc Hà có sẵn sàng chấp nhận sự thay đổi này hay không, điều này không chỉ là thách thức cho Gia Long mà còn cho các vị vua kế nghiệp như Minh Mạng.

Vào đầu thế kỷ XIX, hiện tượng nổi bật là sự di cư của dân cư và các cuộc khởi nghĩa nông dân, điều này một phần là hệ quả từ những biến động lịch sử trước đó.

Cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc và Trịnh - Nguyễn, cùng với tình trạng tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ, đã đánh thức ý thức tự chủ trong nhân dân, đặc biệt là nông dân Từ đầu thế kỉ XVII, ý thức này bùng nổ, bắt đầu từ những người thợ thủ công và điêu khắc tự do Các chủ đề sinh hoạt của nhân dân, như sản xuất và tình cảm nam nữ, đã được thể hiện qua nghệ thuật trang trí tại các ngôi đình làng Cuối thế kỉ XVII, một trào lưu văn học dân gian mạnh mẽ đã xuất hiện, phản ánh nguyện vọng sống trong hòa bình, ấm no, phát huy tài năng cá nhân, tự do luyến ái và giải phóng phụ nữ, trở thành nội dung tư tưởng chính trong văn học dân gian.

Sự bùng nổ tư tưởng và tình cảm trong xã hội nông dân là phản kháng mạnh mẽ chống lại chế độ Nho giáo thống trị Tình hình trở nên căng thẳng, khiến chính quyền Lê - Trịnh phải ra lệnh cấm các hoạt động này vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XVIII Tuy nhiên, những cuộc phê phán bằng ngôn ngữ hình tượng không còn đủ sức, và một phong trào nông dân lớn đã bùng lên khắp miền Bắc Mặc dù chính quyền đã đàn áp các cuộc đấu tranh, nhưng họ không thể khôi phục lại tình hình cũ Từ những năm 70, nhân dân Đàng Trong cũng nổi dậy, đạt đến đỉnh cao với phong trào Tây Sơn, dẫn đến sự thành lập và thống trị của Nhà Nguyễn trong bối cảnh đó.

Sự vươn lên của nhân dân Đàng Ngoài được thúc đẩy bởi những hậu quả từ nạn đinh tán điền hoang kéo dài, khiến chính quyền Tây Sơn phải ban hành mệnh lệnh khẩn trương phục hồi sản xuất nông nghiệp Tuy nhiên, chỉ khoảng 50-60% đất nước trở lại hoạt động canh tác, dẫn đến việc vào đầu thế kỉ XIX, cả nước có đến 1.314.927 mẫu ruộng đất bị bỏ hoang, chiếm 25% tổng diện tích Tình trạng này kéo dài cho đến những năm 40 của thế kỉ XIX, tạo ra bối cảnh không thể tránh khỏi cho cuộc chiến tranh nông dân.

Trong bối cảnh kinh tế nông nghiệp suy thoái, nền kinh tế hàng hóa cũng không khả quan, với một số đô thị phồn thịnh từ thế kỷ XVII nhanh chóng suy tàn vào thế kỷ XVIII do chính sách hạn chế ngoại thương của Nhà nước Dù có một số hiện tượng kinh doanh mới mang tính chất tư bản chủ nghĩa trong khai thác khoáng sản, nhưng chúng không có cơ sở phát triển bền vững Đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn chủ yếu là nước nông nghiệp, thiếu điều kiện để biến đổi chế độ chính trị và phá vỡ chính sách đóng cửa So sánh với Nhật Bản, nơi mà đến cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các yếu tố tư bản chủ nghĩa đã hình thành một cấu trúc hỗ trợ chính quyền Nhật Hoàng trong việc mở cửa buôn bán với phương Tây và dẫn đến cuộc duy tân Minh Trị.

Triều Nguyễn thiết lập một Nhà nước mới, thống nhất Việt Nam từ Nam Quan đến mũi Cà Mau, khác biệt so với Đại Việt thời Lê thế kỷ XV Thời kỳ này chứng kiến sự hợp nhất giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, mặc dù vẫn còn tồn tại những tiềm năng và thách thức khác nhau Đáng chú ý, tình trạng suy thoái ở Đàng Trong vào nửa thế kỷ XVIII vẫn chưa được đánh giá đầy đủ Tuy nhiên, bên cạnh những mâu thuẫn xã hội, đất nước đã có những thuận lợi quan trọng như nguyện vọng sống hòa bình của nhân dân sau thời kỳ chiến tranh và truyền thống yêu nước được khơi dậy từ cuộc kháng chiến chống xâm lược Mãn Thanh.

CHÍNH SÁCH VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA GIA LONG, MINH MẠNG, THIỆU TRỊ ĐỐI VỚI TRẤN - TỈNH THANH HÓA

Vài nét về địa lí, lịch sử, văn hóa của vùng đất Thanh Hóa

Thanh Hóa, một tỉnh lớn của Đại Việt, bao gồm 24 phủ, huyện và châu, nổi tiếng là vựa lúa lớn nhất Bắc miền Trung với hai vùng đồng bằng sông Mã và sông Chu rộng lớn Với núi non không cao, sông nước không sâu và dòng chảy êm đềm, thiên nhiên nơi đây đã hình thành nên những con người có truyền thống hiếu học, thuần lương và thanh nhã.

Theo Đại Nam nhất thống chí, địa giới hành chính của khu vực này được xác định với chiều đông tây cách nhau 74 dặm và nam bắc cách nhau 285 dặm Phía đông giáp biển cách 37 dặm, phía tây tiếp giáp với nước Ai Lao 137 dặm Về phía nam, khu vực này đến địa giới huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An cách 115 dặm, trong khi phía bắc giáp huyện Phụng Hóa tỉnh Ninh Bình cách 170 dặm Phía đông bắc của khu vực này giáp địa giới huyện Yên, đến tuần Chính Đại.

Mô tỉnh Ninh Bình 75 dặm, phía tây bắc đến sơn phận Mai Châu tỉnh Hưng Hóa 212 dặm, từ tỉnh lỵ về phía nam đến kinh 843 dặm”.[20,223]

Sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” của Lê Quang Định mô tả trấn Thanh Hoa vào đầu thời Nguyễn là một vùng rộng lớn, bao gồm cả đạo Thanh Bình (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) Địa giới phía nam tỉnh bắt đầu từ Khe Nước lạnh và kết thúc ở Lỗ Du phía bắc, với tổng chiều dài là 46.300 tầm Khoảng cách từ trấn thành đến kinh sư ở phía nam là 23.405 tầm 1 thước, tương đương với 1.083 dặm, thừa ra 1/2 dặm.

Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn vào năm Gia Long thứ 18 (1819), dân số Thanh Hóa được ghi nhận là 33.230 người Trong khi đó, “Đại Nam thực lục” lại ghi số dân là 40.300 người.

Tỉnh Thanh Hóa, theo phép địa lý, được coi là vùng đất phát vương, nơi có lịch sử lâu đời với sự cư trú của người tiền sử Khí hậu tại đây nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của gió Lào, dẫn đến mùa hè rất oi bức Mùa mưa ở Thanh Hóa có lượng mưa trung bình đạt 1751 mm, với năm có lượng mưa cao nhất.

Thanh Hóa có khí hậu với lượng mưa trung bình 2778 mm và thấp nhất là 1153 mm Nơi đây nổi tiếng với nghề thủ công truyền thống, đặc biệt là nghề làm gốm ở Hàm Rồng, chuyên sản xuất nồi niêu bằng đất nung Ngoài ra, các huyện trong tỉnh còn phát triển nghề đúc, làm giấy, gốm sứ và chiếu cói Đặc biệt, nghề khai thác đá tại An Hoạch và Đông Sơn cũng góp phần quan trọng vào nền kinh tế địa phương.

Địa hình Thanh Hóa có đặc điểm nghiêng từ tây bắc xuống đông nam, với những đồi núi cao từ 1000m đến 1500m ở phía tây bắc Những dãy núi này thoải dần và mở rộng về phía đông nam, chiếm 3/4 diện tích toàn tỉnh Điều này tạo ra tiềm năng lớn cho kinh tế lâm nghiệp, với nguồn lâm sản phong phú và tài nguyên đa dạng.

Thanh Hóa sở hữu địa hình đa dạng, bao gồm vùng núi cao, đồi, đồng bằng và ven biển, tạo nên một cảnh quan môi trường phong phú Vùng đồi núi chiếm 3/4 diện tích tỉnh, trong khi đồng bằng Thanh Hóa rộng 2.900 km², là đồng bằng lớn nhất miền Trung và đứng thứ ba cả nước.

Hệ thống sông ngòi tại Thanh Hóa đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, hình thành các nền văn hóa cổ xưa và tạo lập các vùng trung tâm Từ bắc vào nam, Thanh Hóa có bốn hệ thống sông chính: sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng.

Vùng biển xứ Thanh dài hơn 100 km sở hữu tiềm năng kinh tế biển phong phú Bờ biển Thanh Hóa phẳng và thuận lợi cho việc di chuyển của thuyền bè, tạo điều kiện lý tưởng cho việc khai thác nguồn lợi thủy sản ven bờ.

Thanh Hóa sở hữu nhiều loại khoáng sản phong phú, bao gồm cả những khoáng sản quý hiếm và các nguồn tài nguyên quan trọng phục vụ cho đời sống và phát triển kinh tế Những tài nguyên tự nhiên này đã được con người phát hiện, sử dụng và khai thác qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, góp phần vào sự phát triển văn hóa và kinh tế của vùng đất này.

Xứ Thanh, một trong những trung tâm văn minh Việt cổ, được biết đến như cái nôi của văn hóa dân tộc Vùng đất thuộc lưu vực sông Mã không chỉ chứng kiến sự chuyển mình của nhân loại từ vượn thành người mà còn là nơi sinh sống của con người trong thời kỳ nguyên thủy Các công cụ thô sơ tại Núi Đọ (Thanh Hóa) cho thấy người tiền sử đã cư trú ở đây từ thời đại đồ đá cũ Ngoài ra, nhiều công cụ đá tinh xảo được phát hiện ở Thiệu Dương và Đa Bút, minh chứng cho sự phát triển của văn hóa Văn hóa đồ đồng Đông Sơn với trống đồng và các sản phẩm tinh xảo đã nổi tiếng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới Thanh Hóa cũng có vị trí chiến lược quan trọng trong quân sự và kinh tế, là nơi phát tích của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam, gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Trong thời Bắc thuộc, Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân, Bộ Giao Chỉ Thời Hán (111 TCN - 210), quận Cửu Chân bao gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Vô Thiết, Vô Biên và Hàm Hoan Đến thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn - Nam Bắc Triều (210 - 581), quận Cửu Chân vẫn giữ nguyên 7 huyện này.

Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Sùng Bình, Thường Lạc, Tùng Nguyên, Quân

Nhà Tùy (581 - 617) đã đặt tên cũ cho Quận Cửu Chân, bao gồm 7 huyện: Cửu Chân, Di Phong, Tư Phố, Long An, Quận An, An Thuận, và Nhật Nam Sau khi tiêu diệt nhà Tùy, nhà Đường đã tiến hành sắp xếp lại bộ máy hành chính và phân chia các châu, quận Vào năm Vũ Đức thứ 5 (622), nhà Đường thành lập Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lý 10 châu, trong đó có Ái Châu và Quận Cửu Chân.

(tức Thanh Hóa) Ái Châu đời Đường gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Nhật Nam, Trường Lâm và huyện Quân Minh

Trong thời kỳ đầu dựng nước, Văn Lang được chia thành 15 bộ, trong đó có bộ Cửu Chân Địa giới của bộ Cửu Chân trong thời kỳ các vua Hùng còn khó xác định, nhưng có khả năng bao gồm khu vực Thanh Hóa, một phần Nghệ An và một phần phía nam Ninh Bình ngày nay.

Chính sách về kinh tế

2.2.1 Khái quát tình hình kinh tế xứ Thanh trước năm 1802 a) Thời Bắc thuộc

Trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, chính sách cai trị và đô hộ của chính quyền phong kiến phương Bắc đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của vùng đất này.

Ngành nông nghiệp đang chứng kiến sự chuyển mình với việc sử dụng công cụ bằng sắt ngày càng phổ biến, thay thế cho các công cụ bằng đồng Diện tích canh tác được mở rộng, không chỉ tập trung vào hai vụ lúa mỗi năm mà còn bao gồm nhiều loại hoa màu, rau và cây lương thực khác Bên cạnh đó, hoạt động chăn nuôi gia súc và gia cầm vẫn được duy trì, góp phần vào sự phát triển bền vững của nông nghiệp.

Thủ công nghiệp tại huyện Tư Phố, làng Giàng (Đông Sơn) vẫn duy trì các nghề truyền thống như rèn sắt, đúc đồng và làm đồ gốm để đáp ứng nhu cầu xã hội Là trung tâm chính trị và kinh tế của Cửu Chân trong gần 6 thế kỷ, Tư Phố có sự phát triển giao lưu kinh tế đáng kể.

Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, nền văn hóa Đông Sơn đã trở thành nền tảng vững chắc cho nhân dân ta trong việc đấu tranh giữ gìn và phát triển sản xuất, kinh tế cũng như bảo tồn văn hóa Điều này đã tạo điều kiện cho nước ta bước vào thời kỳ phục hưng văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế trong giai đoạn xây dựng quốc gia phong kiến độc lập từ thế kỷ X đến XIX.

Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Việt Nam bước vào thời kỳ phong kiến độc lập, thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc Các triều đại phong kiến từ Ngô, Đinh, Tiền Lê đến Nguyễn phát triển và suy vong theo quy luật của chế độ phong kiến phương Đông, nhưng đã để lại nhiều thành tựu về kinh tế và văn hóa quan trọng cho lịch sử dân tộc Thanh Hóa, không chỉ là "phên dậu phía Nam" mà còn là quê hương của nhiều bậc vua chúa, đã trở thành "sân khấu chính trị" của những bản anh hùng ca đất Việt Sự thay đổi các vương triều, bao gồm việc thiên đô từ Thăng Long vào xứ Thanh, đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế và văn hóa tại đây Diện mạo kinh tế của Thanh Hóa trong hơn 1000 năm thời phong kiến độc lập phản ánh rõ nét nền kinh tế nông nghiệp phong kiến Việt Nam.

Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê:

Thời Ngô (938 - 968) chứng kiến sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế nông nghiệp, đặc biệt tại các vùng đồng bằng lưu vực sông Mã và sông Lương Diện tích canh tác được mở rộng và kỹ thuật thâm canh được cải thiện, với cây lúa là cây lương thực chủ đạo trồng hai vụ, cùng nhiều loại cây nông nghiệp khác như ngô, đậu, khoai, bầu, bí được trồng xen canh Ngoài ra, các cây lấy sợi như bông, gai, đay, dâu cũng được phát triển Song song với nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống như đúc đồng, làm gốm, dệt vải, làm muối và đóng thuyền cũng phục hồi và phát triển mạnh mẽ Hệ thống giao thông đường thủy được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc rèn luyện thủy quân và vận chuyển quân đội qua đường thủy.

Thời Đinh (968 - 980) mặc dù bị ảnh hưởng bởi các thế lực phong kiến, nhưng kinh tế ở đất Ái Châu vẫn duy trì sự ổn định Sự hiện diện của các hào trưởng và đại cự tộc giàu có phản ánh bức tranh kinh tế của một vùng quê chủ yếu dựa vào nông nghiệp.

Thời Tiền Lê (980 - 1009) đánh dấu giai đoạn phát triển kinh tế - văn hóa mạnh mẽ sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Tống Nhà Tiền Lê đã triển khai nhiều biện pháp khuyến khích sản xuất nông nghiệp, phát triển giao thông và buôn bán Quá trình phong kiến hóa trong làng xã đã hoàn tất, với phương thức sản xuất phong kiến được thiết lập Dưới sự lãnh đạo của Lê Đại Hành, các hoạt động như cày tịch điền, đào vét sông và xây dựng hệ thống giao thông đường thủy được tổ chức hiệu quả Kinh tế nông nghiệp phát triển, cùng với sự thịnh vượng của các ngành nghề như dệt, đóng thuyền, làm giấy và gốm.

Trong hơn 70 năm dưới các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê, mặc dù xã hội có nhiều biến động, kinh tế ở Ái Châu (Thanh Hóa) vẫn duy trì sự ổn định và phát triển Điều này đã tạo nền tảng vững chắc cho công cuộc kháng chiến chống xâm lược và góp phần ổn định đất nước.

Thời Lý - Trần - Hồ là giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, với nhiều sự kiện lớn như các cuộc kháng chiến chống Tống, Nguyên, Minh và những cải cách của Hồ Quý Ly Những sự kiện này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển kinh tế của tỉnh Thanh Hóa.

Thời kỳ Lý - Trần đánh dấu sự thay đổi về trấn lỵ, khi trung tâm chính trị và kinh tế được chuyển về Duy Trinh, nằm trên địa bàn các xã Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thuần Lộc thuộc huyện Hậu Lộc và Hoằng Hóa ngày nay Những cải cách kinh tế của Hồ cũng đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của khu vực này.

Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hóa đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho tình hình kinh tế - xã hội, biến nơi đây từ một "trại", "trấn" thành kinh đô và trung tâm chính trị - kinh tế của đất nước Sự kiện này không chỉ thay đổi diện mạo mà còn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Thanh Hóa.

Mặc dù trải qua nhiều biến động về chính trị và xã hội, thời kỳ Lý - Trần - Hồ vẫn là giai đoạn thịnh vượng của kinh tế Đại Việt Sự phát triển kinh tế tại Châu Ái, phủ Thanh Hóa, trấn Thanh Đô đã đóng góp quan trọng vào việc phục hưng kinh tế và văn hóa dân tộc, đồng thời thúc đẩy sự phát triển văn hóa Thăng Long Kinh tế Thanh Hóa thời điểm này đã có những bước tiến vượt bậc so với trước đây.

Nông nghiệp là nền tảng kinh tế chủ yếu của đất nước, đặc biệt ở phủ Thanh Hóa, nơi mà triều đình đã phân phong ruộng đất cho các quan lại có công lao lớn Ngoài ra, việc khai khẩn và mở rộng đất đai cũng diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của ruộng tư.

Ngoài nông nghiệp, nghề thủ công và giao thông cũng được phát triển mạnh mẽ, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong đời sống Các ngành nghề như dệt, gốm, đồ đá và đúc đồng đều có sự tiến bộ đáng kể Đặc biệt, nghề đục đá tại núi An Hoạch và nghề đúc đồng ở giáp Bối Lý nổi bật với sự phát triển vượt bậc.

CHÍNH SÁCH VỀ VĂN HÓA - GIÁO DỤC CỦA GIA LONG,

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:49

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban nghiên cứu và biên soạn Lịch sử Thanh Hóa (2003), Lịch sử Thanh Hóa, tập 4 (1802 - 1930), NXB KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Thanh Hóa
Tác giả: Ban nghiên cứu và biên soạn Lịch sử Thanh Hóa
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 2003
2. Ban nghiên cứu và biên soạn Lịch sử (2003), Thanh Hóa thời kì 1802 - 1930, Kỷ yếu hội thảo khoa học, NXB Thanh Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thanh Hóa thời kì 1802 - 1930
Tác giả: Ban nghiên cứu và biên soạn Lịch sử
Nhà XB: NXB Thanh Hóa
Năm: 2003
3. Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn
Tác giả: Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1998
4. Các Mác – ph.Enghen toàn tập, tập XI, quyển 1, NXB ST, Hà Nội, 1969 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các Mác – ph.Enghen toàn tập
Nhà XB: NXB ST
5. Cao Xuân Dục (2001), Quốc triều hương khoa lục, NXB Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều hương khoa lục
Tác giả: Cao Xuân Dục
Nhà XB: NXB Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây
Năm: 2001
6. Đỗ Bang (2001), Chân dung các vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chân dung các vua Nguyễn
Tác giả: Đỗ Bang
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 2001
7. Đỗ Bang (1996), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn
Tác giả: Đỗ Bang
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1996
8. Lê Thị Thanh Hòa (1998), Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884, NXB KHXH Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884
Tác giả: Lê Thị Thanh Hòa
Nhà XB: NXB KHXH Hà Nội
Năm: 1998
9. Mai Khắc Ứng (1996), Chính sách khuyến nông thời Minh Mạng, NXB VHTT, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách khuyến nông thời Minh Mạng
Tác giả: Mai Khắc Ứng
Nhà XB: NXB VHTT
Năm: 1996
10. Nguyễn Cảnh Minh (1994, tr 15 – 20), Chính sách chiêu dân khẩn hoang lập ấp ở Nam Kì của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX, Nghiên cứu lịch sử Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách chiêu dân khẩn hoang lập ấp ở Nam Kì của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX
11. Nguyễn Danh Phiệt (1993), Suy nghĩ về bộ máy nhà nước QCTƯTQ Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Suy nghĩ về bộ máy nhà nước QCTƯTQ Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX
Tác giả: Nguyễn Danh Phiệt
Nhà XB: NXB Giáo Dục
Năm: 1993
12. Phạm Văn Đấu (2004), Phác thảo lịch sử kinh tế Thanh Hóa từ nguyên thủy đến 1945, NXB KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phác thảo lịch sử kinh tế Thanh Hóa từ nguyên thủy đến 1945
Tác giả: Phạm Văn Đấu
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 2004
13. Phan Huy Chú (1963), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch triều hiến chương loại chí
Tác giả: Phan Huy Chú
Nhà XB: NXB Sử học
Năm: 1963
14. Phan Thanh Hải (2000, tr 40 - 56), Tổng quan về KHXH và Nhân văn thời Nguyễn (1802- 1945), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Văn hóa Việt Nam thời Nguyễn, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng quan về KHXH và Nhân văn thời Nguyễn (1802- 1945
15. Quan Lâm, Lê Đức Nghi (1990), Thành phố Thanh Hóa (1804-1947), NXB Thanh Hóa Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành phố Thanh Hóa (1804-1947)
Tác giả: Quan Lâm, Lê Đức Nghi
Nhà XB: NXB Thanh Hóa
Năm: 1990
16.Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
Tác giả: Quốc sử quán triều Nguyễn
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1993
17. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam hội điển sự lệ
Tác giả: Quốc sử quán triều Nguyễn
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1993
18. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam hội điển sự lệ, tập V, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam hội điển sự lệ
Tác giả: Quốc sử quán triều Nguyễn
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1993
19. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam hội điển sự lệ, tập XI, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam hội điển sự lệ
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
20. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam nhất thống chí
Tác giả: Quốc sử quán triều Nguyễn
Nhà XB: NXB Thuận Hóa
Năm: 1997

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

BẢNG Kấ CÁC KỲ THI HỘI, THI ĐèNH TRONG TOÀN QUỐC  (1009 - 1789) [33,36] - Chính sách của ba vị vua đầu triều nguyễn đối với trấn   tỉnh thanh hóa từ năm 1802 đến năm 1847
1009 1789) [33,36] (Trang 110)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w