PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu
3.1.1 Phương pháp kế thừa số liệu thứ cấp
Tìm hiểu và thu thập thông tin về điều kiện tự nhiên cùng tình hình kinh tế, xã hội tại các địa phương trong phạm vi nghiên cứu từ các nguồn tài liệu có sẵn là bước quan trọng trong quá trình phân tích và tổng hợp dữ liệu.
+ Các niên giám thống kê
+ Các văn bản quy định pháp luật của các cấp
+ Các báo cáo của các cấp quản lý
+ Báo cáo của các dự án, đề tài nghiên cứu (có liên quan)
+ Các kết quả nghiên cứu điều tra đã được công bố
3.1.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp a Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn người cung cấp thông tin quan trọng (Key Informant Interview) được sử dụng trong việc:
Phỏng vấn các cán bộ quản lý của BQLRPH
Phỏng vấn các cán bộ các Hạt kiểm lâm của huyện
Phỏng vấn các cán bộ các phòng Nông nghiệp, Trung tâm khuyến nông huyện
Phỏng vấn các cán bộ quản lý của các xã, các hộ nông dân năm trong vùng nghiên cứu b Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA)
RRA là từ viết tắt của Rapid Rural Appraisal, Phương pháp này được sử dụng để phỏng vấn những người dân ở các xã c Phương pháp phân tích SWOT
Phân tích SWOT là một phương pháp hiệu quả để đánh giá các yếu tố liên quan đến việc quản lý và phục hồi rừng ở huyện Nghi Lộc Công cụ này giúp xác định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp Việc áp dụng khung SWOT không chỉ hỗ trợ trong việc tổ chức và quản lý mà còn trong việc ra quyết định kinh doanh Thông qua việc xem xét các chiến lược hiện tại, chúng ta có thể xác định vị thế và phát triển các kế hoạch hành động hiệu quả cho việc bảo vệ và phát triển rừng.
Hướng đi của một tổ chức hay công ty cần được xem xét kỹ lưỡng để đánh giá tính khả thi của các dự án Một trong những phương pháp hiệu quả là hỏi ý kiến từ các chuyên gia trong lĩnh vực Lâm nghiệp, như các chuyên gia của Chi cục phát triển Lâm nghiệp Nghệ An.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Xử lý số liệu thu thập bằng phần mềm Microsoft Excel 2007, SPSS 16.5 và MapInfo 9.5 để phân tích dữ liệu bản đồ hiện trạng rừng do ban quản lý rừng phòng hộ cung cấp.
- Thống kê, tổng hợp và phân tích thong tin theo các chủ đề nghiên cứu khác nhau
- Sử dụng các hình ảnh, sơ đồ biểu thị kết quả nghiên cứu
Phân tích định lượng là quá trình sử dụng thống kê bằng Excel để tóm tắt và mô tả số liệu, giúp xác định các giá trị trung bình, tần suất, phần trăm, cùng với việc tạo ra bảng tra chéo, sơ đồ và biểu đồ nhằm đáp ứng các mục tiêu đã đề ra Việc số hoá các loại xếp loại và đánh giá định lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thống kê.
- Phân tích định tính: Các phương pháp sau sẽ được sử dụng: Trích dẫn,
Kết nối các vấn đề, phân tích SWOT (Strengths - Những điểm mạnh; Weakness
- Những điểm yếu; Opportunities - Những cơ hội; Threats - Những thách thức; Favorables – Thuận lợi; Difficults – Khó khăn)
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu
4.1.1 Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Nghi Lộc
Nghi Lộc, một trong năm huyện ven biển của tỉnh Nghệ An, có diện tích tự nhiên 34.767,02 km² và dân số khoảng 195.847 người, bao gồm 29 xã và một thị trấn Huyện sở hữu mạng lưới giao thông đa dạng và thuận lợi, bao gồm đường bộ, đường sắt và đường thủy.
Huyện có nhiều tuyến giao thông quan trọng, bao gồm Quốc lộ 1A dài 16km, Quốc lộ 46 dài 8km, và Đường sắt Bắc – Nam cũng dài 16km Ngoài ra, sân bay Vinh và các tỉnh lộ như tỉnh lộ 534 dài 28km và tỉnh lộ 535 dài 12km cũng góp phần vào hệ thống giao thông phát triển của huyện.
Huyện có bờ biển dài 14 km và hai con sông lớn là Sông Cấm (15 km) và Sông Lam (6 km), cùng với hệ thống giao thông liên huyện, liên xã, liên thôn đã được nhựa hóa và bê tông hóa, tạo thành mạng lưới giao thông hoàn chỉnh Việc di chuyển giữa huyện và thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò cũng như các huyện khác trong tỉnh rất thuận lợi.
Huyện Nghi Lộc, nằm trong khu kinh tế Đông Nam Nghệ An, gồm 10 xã được hưởng ưu đãi đầu tư đặc biệt theo Quyết định số 85/2007/QĐ-TTg, tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo việc làm cho người lao động Với vị trí địa lý thuận lợi, Nghi Lộc có khả năng khai thác các lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới Huyện có diện tích đất lâm nghiệp lớn, lên đến 9.262,52 ha, chiếm 26,2% tổng diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở các xã bán sơn địa với các loại cây như thông nhựa, keo, phi lao, bạch đàn và rừng ngập mặn ven biển Diện tích đất nông nghiệp của huyện đạt 14.224,42 ha, tuy nhiên diện tích trồng lúa đang thu hẹp do đô thị hóa và nhiều nguyên nhân khác như nhiễm mặn, khô hạn và bồi lấp.
Giá trị sản xuất ngành nông – lâm – thủy sản đã duy trì sự tăng trưởng ổn định qua các năm, với giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 292 tỷ đồng vào năm 2000, 406 tỷ đồng vào năm 2005 và 473 tỷ đồng vào năm 2008 Ngành lâm nghiệp cũng có sự tăng trưởng, từ 9 tỷ đồng năm 2000 lên 15 tỷ đồng vào năm 2008 Mặc dù cả hai lĩnh vực đều ghi nhận tăng trưởng dương trong giai đoạn 2000 – 2008, nhưng ngành lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn Tuy nhiên, vào năm 2009 và 2010, sản lượng nông nghiệp giảm mạnh do thiên tai và sâu bệnh, trong khi sản lượng lâm nghiệp cơ bản được duy trì.
4.1.2 Điều kiện tự nhiên của 5 xã đang nghiên cứu Đề tài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào 5 xã: Nghi Yên, Nghi Lâm, Nghi Văn, Nghi Công Nam và Nghi Thái của huyện Nghi Lộc với tổng diện tích tự nhiên 11.032,6 ha Đây là những xã vùng ven biển, vùng bán sơn địa chịu nhiều ảnh hưởng và tác động xấu của BĐKH
Xã Nghi Yên nằm ở phía Bắc, trong khi xã Nghi Lâm, Nghi Văn và Nghi Công Nam tọa lạc ở phía Tây Bắc, còn xã Nghi Thái nằm ở phía Đông Nam của huyện.
Từ 180 0 53’43” đến 180 0 41’08” độ vĩ Bắc
Từ 105 0 27’45” đến 105 0 45’08” độ kinh Đông
- Phía Bắc giáp với các huyện : Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương
- Phía Nam giáp với biển Đông và thị xã Cửa Lò
- Phía Tây giáp với các huyện : Nam Đàn, Hưng Nguyên b, Địa hình địa thế
Vùng có nhiều kiểu địa hình khác nhau, có thể chia ra các phân vùng như sau:
Vùng bờ biển xã Nghi Yên có địa hình đặc trưng với các dãy núi sát biển, xen kẽ là những bãi cát nhỏ Tuy nhiên, diện tích lúa nước tại đây bị nhiễm mặn ở nhiều khu vực, trong khi đó, đất lâm nghiệp ở sườn núi phía Đông đã bị thoái hóa nghiêm trọng, gây khó khăn trong việc phục hồi rừng.
Vùng đồi, núi ven biển có đặc trưng bởi các dãy núi và đồi thấp chạy dọc theo bờ biển, với độ cao từ 200-400m và độ dốc từ 25-30 độ Các khu vực này thường gặp tình trạng xói mòn mạnh, làm lộ ra lớp sỏi bên dưới Những địa hình này không chỉ tạo nên cảnh quan hùng vĩ mà còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái và hoạt động kinh tế của khu vực.
24 đá, rừng tự nhiên không còn nữa, thay vào đó là quần thể rừng trồng vùng này thường thấp, chỉ đạt mức trung bình 10-15 m3/ năm
Địa hình vùng đồng bằng chủ yếu hình thành từ quá trình bồi tụ, với các dải phù sa sông có thành phần cơ giới nặng Đất cát biển trong khu vực này có cấu trúc không ổn định và dễ bị xói lở, đặc biệt trong mùa mưa lũ Khí hậu và thủy – hải văn cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì đặc điểm địa hình này.
Khí hậu: Theo số liệu của trạm khí tượng huyện thì toàn vùng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa
- Nhiệt độ không khí bình quân hàng năm 23,8 0 C
Độ ẩm không khí trung bình đạt 86%, với mức độ ẩm cao bất thường gây ra cảm giác nóng bức vào mùa hè và giá lạnh vào mùa đông, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và sản xuất của người dân.
- Lượng bốc hơi nước trung bình hàng năm 830 mm, cao nhất 1.143mm, thấp nhất 563mm
- Gió : Vùng chịu ảnh hưởng chung của hai loại gió chính tác động vào tỉnh Nghệ An là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam
Gió mùa Đông Bắc, khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, thường mang theo mưa phùn ẩm ướt, gây ra rét đậm, rét hại, ảnh hưởng xấu đến hoa màu và đàn gia súc Ngược lại, gió mùa Tây Nam (Gió Lào) khô, nóng xuất hiện từ giữa tháng 4 đến tháng 9, với các đợt kéo dài từ 2-3 ngày đến vài tuần, gây khô hạn, làm cạn nước ao hồ và khiến cây cối héo úa.
Huyện Nghi Lộc hàng năm phải đối mặt với 3 đến 5 cơn bão nhiệt đới, thường xảy ra từ tháng 8 đến tháng 11, gây ra thiệt hại lớn về người, tài sản, mùa màng, RSX và RPH Các cơn bão này kèm theo mưa to, sóng lớn và triều cường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khu vực ven bờ, nơi mà biển xâm thực làm bồi lấp cửa sông cảng biển và xâm lấn nội đồng bằng cát bay.
- Mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm toàn vùng : 1.827mm Lượng mưa cao nhất 3.814mm, lượng mưa thấp nhất 319mm
Tháng 10 là tháng có lượng ngày mưa cao nhất, trong khi tháng 7 lại có số ngày mưa thấp nhất Điều này cho thấy lượng mưa lớn nhưng phân bố không đều trong năm.
Sự kết hợp của 25 với sóng, gió, triều cường và nước dâng tạo ra những điều kiện bất lợi, dẫn đến hiện tượng lũ lụt, xói mòn và xói lở bờ biển Đồng thời, những yếu tố này cũng gây bồi lấp tại các sông và cửa sông.
Thủy văn: Có hai con sông lớn chảy qua địa bàn 5 xã : Sông Cấm, Sông Lam
Phần Sông Cấm chảy qua các xã : Nghi Văn, Nghi Lâm, Nghi Công Nam, Nghi Yên
Phần hạ lưu Sông Lam chảy qua các xã Nghi Thái
Hiện trạng tài nguyên rừng của khu vực đang nghiên cứu
Rừng tại khu vực này được phân loại thành ba loại chính: rừng phòng hộ, rừng sản xuất và rừng đặc dụng Tuy nhiên, chủ yếu là rừng phòng hộ (RPH) và rừng sản xuất (RSX), trong khi diện tích rừng đặc dụng lại không có.
4.2.2 Hiện trạng tài nguyên rừng của huyện Nghi Lộc
Theo thống kê của huyện Nghi Lộc năm 2012
Tổng diện tích đất LN của toàn huyện : 9.071,2 ha
+ Đất có rừng : 8.452,3 ha, chiếm hơn 90 % tổng diện tích đất LN của của toàn huyện
+ Đất chưa có rừng (đất trống) : 536,2 ha
- Đất chưa có rừng trên đồi núi :468,3 ha
- Đất chưa có rừng ngập mặn : 67,9 ha
Biểu đồ 4.1: Diện tích RPH và RSX 2012 của huyện Nghi Lộc
Theo biểu đồ 4.1, rừng tại khu vực này phát triển và phân bố không đồng đều giữa các xã Diện tích rừng phòng hộ (RPH) chủ yếu tập trung ở xã Nghi Yên, trong khi diện tích rừng sản xuất (RSX) lại chủ yếu nằm ở xã Nghi Công Nam Hai xã Nghi Hợp và Nghi Mỹ có diện tích rừng thấp hơn.
Có 28 xã phát triển RPH nhưng không có RSX, trong khi đó, các xã như Nghi Thái, Nghi Xá, Nghi Xuân và Phúc Thọ chỉ tập trung vào phát triển RSX mà không có diện tích đất lâm nghiệp để phát triển RPH.
4.2.3 Hiện trạng tài nguyên rừng của 5 xã đang nghiên cứu
Bảng 4.1: Diện tích đất rừng của 5 xã năm 2012
Có rừng Đất trống Đất khác
Có rừng Đất trống Đất khác
(Nguồn: Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Tổng diện tích đất nông nghiệp của 5 xã đang nghiên cứu là 4.599,7 ha, chiếm 41,5% tổng diện tích đất tự nhiên của các xã này và hơn 50% diện tích đất nông nghiệp toàn huyện Nghi Lộc.
Diện tích rừng phòng hộ (RPH) và rừng sản xuất (RSX) chủ yếu là rừng mới trồng, có chất lượng thấp và khả năng phòng hộ chống xói lở, lũ lụt kém Trong khi đó, diện tích rừng tự nhiên chỉ đạt 22,8 ha vào năm 2012, tăng 2,8 ha so với năm 2007, chủ yếu là rừng ngập mặn tự nhiên ven biển, giúp chống gió, cát bay và xói lở bờ biển.
Rừng tự nhiên chủ yếu nằm ở xã Nghi Thái, nơi có bờ biển dài tại huyện Rừng sản xuất chủ yếu trồng thông nhựa để cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy và ván ép Ngoài ra, khu vực này cũng trồng bạch đàn, keo tượng và một số loại cây khác, tuy nhiên giá trị kinh tế từ những loại cây này không cao.
Diễn biến diện tích rừng khu vực nghiên cứu (2007-2012)
4.3.1 Diễn biến diện tích rừng của huyện Nghi Lộc (2007 – 2012)
Bảng 4.2 : Diện tích đất rừng huyện Nghi Lộc (2007-2012)
Có rừng 5.037,2 5.216,5 179,3 3.107,7 3.235,8 128,1 Đất chưa có rừng 364,8 253,6 -1112 510,9 282,6 -2283 Đất khác LN 323,1 19,5 -303,6 0 63,2 63,2
Tổng 5.725,1 5.489,6 -2355 3.618,6 3.581,6 -370 (Nguồn: Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Từ năm 2007 đến năm 2012, diện tích đất lâm nghiệp tại Nghệ An đã giảm 9.343,7 ha xuống còn 9.071,2 ha, tương ứng với sự suy giảm 272,5 ha Nguyên nhân chính của sự giảm này là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội Trong giai đoạn này, diện tích đất trống được phủ xanh tăng 307,4 ha, trong khi diện tích đất chưa có rừng giảm 339,5 ha so với năm 2007, chủ yếu là do việc trồng rừng mới, mặc dù chất lượng rừng còn thấp.
Diện tích rừng RPH và RSX từ năm 2007 đến 2012 đã tăng lên, nhưng chất lượng rừng vẫn thấp và khả năng phòng hộ không cao, chủ yếu là rừng mới trồng nhờ vào các dự án hỗ trợ như dự án trồng mới 5 triệu héc ta rừng Sự gia tăng diện tích rừng sản xuất phản ánh nhu cầu nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như khai thác nhựa thông và sản xuất giấy, ván ép, đồ gỗ Trong khi diện tích rừng thông nhựa tăng, rừng trồng bạch đàn và các loại cây khác lại giảm Đặc biệt, rừng ngập mặn (RNM) được đầu tư trồng thêm vào năm 2012 do sự suy thoái nghiêm trọng khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi gia súc, trong khi RNM tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ ven biển Đồng thời, diện tích đất trống đồi trọc đã giảm đáng kể.
4.3.2 Diễn biến diện tích rừng của 5 xã đang nghiên cứu (2007 – 2012)
Diện tích đất LN của 5 xã từ năm 2007 đến nay giảm từ 4.686,5 ha năm
Từ năm 2007 đến năm 2012, diện tích đất rừng đã giảm xuống còn 4.599,7 ha, giảm 86,8 ha Tuy nhiên, diện tích đất rừng được phủ xanh đã tăng đáng kể với 181,3 ha, chủ yếu là rừng trồng lại theo chính sách của nhà nước, tỉnh và huyện Cây thông nhựa là loại cây chủ đạo chiếm diện tích lớn nhất trong khu vực này do nhu cầu khai thác nhựa.
30 thông của thị trường trong những năm gần đây tăng lên Diện tích RPH tăng lên
Trong giai đoạn 2007-2012, diện tích rừng phòng hộ (RPH) đã đạt 131,6 ha, đóng vai trò quan trọng trong việc chống xói lở, cát bay ven biển, ngăn mặn và giữ nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Diện tích rừng tự nhiên chỉ tăng 2,8 ha, trong khi rừng trồng tăng đáng kể 138,5 ha.
Bảng 4.3 : Diện tích RPH và RSX của 5 xã (2007-2012)
Loại rừng RPH Tăng, giảm RSX Tăng, giảm
Có rừng 2.427,7 2.559,3 131,6 1.759,6 1.809,3 49,7 Đất chưa có rừng 171,7 48,1 -123,6 296,5 107,8 -188,7 Đất khác lâm nghiệp 31,0 15,0 - 16,0 0 60,2 60,2
(Nguồn: Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Bảng 4.4 : Diện tích các loại đất có rừng của 5 xã (2007 -2012)
Xã Nghi Công Nam là xã có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn nhất trong 5 xã, chủ yếu là rừng mới trồng trong những năm gần đây Mặc dù diện tích rừng được che phủ đã tăng lên, nhưng chất lượng rừng vẫn còn thấp và không có rừng tự nhiên Độ che phủ rừng hiện tại đạt mức nhất định.
Từ năm 2007 đến nay, diện tích đất nông nghiệp tại xã Nghi Công Nam đã giảm nhẹ từ 1.379,7 ha xuống còn 1.372,1 ha, tương ứng với mức giảm 7,6 ha Trong khi đó, diện tích rừng trồng đã tăng từ 1.109 ha lên 1.251,7 ha, với mức tăng 141,9 ha Đặc biệt, phần lớn diện tích rừng bạch đàn sinh trưởng kém đã được thay thế bằng rừng thông nhựa (693,7 ha), loại cây phù hợp với điều kiện lập địa và mang lại giá trị kinh tế cao.
Bảng 4.5 : Diện tích RPH và RSX của xã Nghi Công Nam (2007-2012)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 283,3 358,8 - 75,5 826,5 892,9 66,4 Đất chưa có rừng 0 81,0 81,0 188,9 65,4 -123,5 Đất khác lâm nghiệp 0 0 0 0 55,0 55,0
(Nguồn:Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Qua bảng 4.9 cho ta thấy diện tích RPH của xã giảm xuống khá lớn từ
283,3 ha năm 2007 xuống 358,8 ha rừng năm 2012; giảm 75,5 ha RPH; diện tích RSX phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế cao hơn; giảm xuống còn 66,4 ha RSX
Biểu đồ 4.2: Diện tích RPH xã Nghi Công Nam 2007-2012
Diện tích RPH của xã Nghi Công Nam đã có sự thay đổi rõ rệt từ năm 2007 đến 2012 Cụ thể, diện tích rừng trồng cây gỗ có TL giảm mạnh từ 96,6 ha xuống 0 ha, trong khi diện tích rừng trồng cây gỗ chưa có TL cũng có xu hướng giảm Ngược lại, diện tích rừng trồng đặc sản lấy nhựa tăng nhanh từ 52,2 ha.
2007 lên 304,5 ha RPH năm 2012 ; tăng 252,3 ha RPH
Biểu đồ 4.3 : Diện tích RSX xã Nghi Công Nam 2007 – 2012
Diện tích rừng trồng cây gỗ tại xã Nghi Công Nam đã giảm mạnh, từ 433,0 ha vào năm 2007 xuống chỉ còn 22,0 ha.
411 ha, rừng trồng đặc sản lấy nhựa lại tăng lên từ 251,3 ha năm 2007 lên 692,7 ha năm 2012; tăng 441,4 ha rừng b, Xã Nghi Thái
Bảng 4.6 : Diện tích rừng của xã Nghi Thái (2007 – 2012)
Có rừng 20,0 27,6 7,6 Đất chưa có rừng 3,2 3,2 Đất khác lâm nghiệp 31,0 0,0 -31,0
(Nguồn:Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Nghi Thái là một xã ven sông Cả, không có đồi núi và chỉ có một phần nhỏ diện tích rừng ngập mặn ven sông, với độ che phủ rừng chỉ đạt 0,5% Mặc dù diện tích đất có rừng đang có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng này không đáng kể, chỉ khoảng 20,0 ha mỗi năm.
Từ năm 2007 đến năm 2012, diện tích rừng của xã Nghi Thái đã tăng từ 20 ha lên 27,6 ha, với mức tăng 7,6 ha Tuy nhiên, Nghi Thái vẫn là xã có diện tích rừng thấp nhất trong năm xã được nghiên cứu Diện tích đất lâm nghiệp gần đây đã giảm do việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng sang các loại đất khác.
51 ha đến năm 2012 chỉ còn 30,6 ha rừng; giảm 20,2 ha)
Bảng 4.7 : Diễn biến diện tích rừng của xã Nghi Thái (2007-2012)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 20 27,6 7,6 0 0 0 Đất chưa có rừng 0 3,2 3,2 0 0 0 Đất khác lâm nghiệp 31 0 31 0 0 0
(Nguồn: Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Rừng ở đây chủ yếu là rừng phòng hộ, không có rừng sản xuất, với xã duy nhất bảo vệ diện tích rừng bần tự nhiên, đóng vai trò quan trọng trong việc chắn sóng, chắn gió và bảo vệ đê 42 cùng cống ngăn mặn Nghi Thái Diện tích đất có rừng tự nhiên ngập mặn đã tăng từ 20,2 ha lên 22,8 ha, tăng 2,8 ha; trong khi đất rừng trồng ngập mặn tăng từ 0,0 ha lên 4,8 ha, tăng 4,8 ha (Theo phụ lục bảng 5) Mặc dù diện tích đất lâm nghiệp không lớn, nhưng có sự biến động giảm nhanh do nhiều yếu tố.
Diện tích RNM tại xã Nghi Văn đã được chuyển đổi sang đầm nuôi tôm, tuy nhiên vẫn chưa hoàn tất thủ tục chuyển đổi từ đất lâm nghiệp sang đất nuôi trồng thủy sản.
Bảng 4.8 : Diện tích rừng RPH và RSX của xã Nghi Văn (2007-2012)
Loại rừng RPH Tăng, giảm
Có rừng 556,4 581,6 25,2 547,6 541,3 -6,3 Đất chưa có rừng 27,4 29,3 1,9 6,8 2,3 -4,5 Đất khác lâm nghiệp
(Nguồn: Chi cục Phát triển Lâm nghiệp, 2012)
Từ năm 2007 đến 2012, diện tích đất lâm nghiệp (LN) đã tăng từ 1.138,2 ha lên 1.154,5 ha, tăng 16,3 ha Độ che phủ rừng đạt 34,57% tổng diện tích đất LN của xã Tại Nghi Công Nam và Nghi Văn, rừng trồng chủ yếu là thông nhựa, chiếm 70,4%, trong khi phần còn lại là keo và bạch đàn Cây thông nhựa phát triển tốt và đã được khai thác Mặc dù diện tích rừng trồng tăng không đáng kể, nhưng một phần diện tích rừng bạch đàn đã được thay thế bằng rừng thông nhựa với tổng diện tích 326,4 ha Diện tích đất có rừng trồng cũng tăng từ 1.104,2 ha lên 1.122,9 ha, tương ứng với mức tăng 18,9 ha.
Biểu đồ 4.4 : Diện tích RPH xã Nghi Văn 2007-2012
Biểu đồ 4.4 cho thấy sự ổn định của diện tích rừng phòng hộ (RPH) tại xã Nghi Văn trong giai đoạn 2007-2012 Tổng diện tích rừng không có sự biến động đáng kể so với năm 2007, trong khi diện tích rừng trồng cây gỗ có trữ lượng và rừng trồng cây gỗ chưa được khai thác vẫn giữ nguyên.
34 có trữ lượng có xu hướng giảm xuống, rừng trồng đặc sản tăng lên 97,6 ha so với năm 2007
Biểu đồ 4.5 : Diện tích RSX xã Nghi Văn 2007-2012
Biểu đồ 4.5 cho thấy sự biến động mạnh mẽ trong diện tích rừng sản xuất (RSX) của xã Nghi Văn giai đoạn 2007 – 2012, với diện tích rừng trồng cây gỗ giảm mạnh từ 395,4 ha xuống còn 165,8 ha, tương ứng với mức giảm 229,6 ha Ngược lại, diện tích rừng đặc sản tăng nhanh chóng từ 0,0 ha lên 228,8 ha, trong khi diện tích rừng trồng có trữ lượng giảm nhưng không đáng kể.
Đánh giá thực trạng quản lí và bảo vệ rừng tại huyện Nghi Lộc
Rừng mới trồng đang gặp khó khăn trong việc hình thành và phát triển hệ sinh thái rừng bền vững do thiếu nghiên cứu cụ thể về nguyên nhân và mức độ tác động của các yếu tố dẫn đến suy giảm chất lượng rừng Việc đánh giá sâu sắc các vấn đề này là cần thiết để cải thiện tình trạng rừng hiện tại.
2 nguyên nhân lớn nhất của tình trạng này chính là do các hoạt động của con người và sự gia tăng của các hiện tượng BĐKH
Hệ sinh thái ven bờ đang bị suy thoái nghiêm trọng do tác động của khai thác con người, ô nhiễm môi trường và thiên tai kéo dài Các hệ sinh thái ven bờ bao gồm rừng ngập mặn, rạn san hô, đầm phá và cỏ biển; tuy nhiên, tại 5 xã vùng dự án chỉ ghi nhận được rừng ngập mặn (RNM) tự nhiên khoảng 20 ha tại xã Nghi Thái, trong khi thông tin về các hệ sinh thái khác còn thiếu Sự suy thoái của các hệ sinh thái ven bờ đã góp phần vào tình trạng giảm sút trong hoạt động nuôi trồng thủy sản mặn lợ, khiến ngành này phải đối mặt với nhiều rủi ro từ thiên tai và dịch bệnh ngày càng gia tăng.
Sự suy giảm diện tích và mật độ rừng ngập mặn (RNM) ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của nhiều loài thủy sản, dẫn đến giảm sản phẩm quang hợp và nguồn dinh dưỡng cho các sinh vật thủy sinh Điều này làm giảm chất lượng môi trường sống cho các loài sinh vật thủy sinh Mặc dù thông tin về hiện trạng hệ sinh thái ven bờ còn hạn chế, nhưng khảo sát định tính cho thấy tình hình đang xấu đi, đặc biệt là sự suy thoái của nghề khai thác thủy sản, với hoạt động này gần như không còn tồn tại ở các xã ven biển trong khu vực nghiên cứu.
4.4 Đánh giá thực trạng quản lí, sử dụng và bảo vệ rừng tại huyện Nghi Lộc
4.4.1 Hệ thống quản lí rừng ở huyện Nghi Lộc
Hệ thống quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tại huyện Nghi Lộc được tổ chức chặt chẽ từ cấp huyện đến xã Hạt kiểm lâm Nghi Lộc có 14 cán bộ phụ trách chỉ đạo, kiểm tra và giám sát hoạt động quản lý rừng và đất lâm nghiệp Tại các xã, đã có Kiểm lâm viên địa bàn hoạt động để tăng cường quản lý Ngoài ra, Ban Quản lý rừng phòng hộ Nghi Lộc với 66 cán bộ đang trực tiếp tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng, kế thừa từ Lâm trường trước đây.
Trước đây, Nghi Lộc chỉ quản lý 3000 ha đất lâm nghiệp, chủ yếu tập trung vào trồng rừng và khai thác nhựa thông Từ năm 2007, Nghi Lộc đã chuyển đổi thành Ban Quản lý Rừng phòng hộ (BQLRPH) với chức năng quản lý, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, hiện đang quản lý 6000 ha, trong đó có 5.725,1 ha rừng phòng hộ và 513,7 ha rừng sản xuất Dưới sự quản lý của ban, có 6 đội trạm thực hiện công tác bảo vệ và phát triển rừng theo từng cụm xã Tất cả đất đai đã được giao cho các đội trạm và hộ gia đình để trồng, chăm sóc, bảo vệ và khai thác nhựa thông Ngoài ra, BQLRPH còn thực hiện các dự án như 661, KFW4 và hỗ trợ khuyến lâm, chuyển giao kỹ thuật, cung cấp cây giống lâm nghiệp cho các xã trong toàn huyện.
Tại cấp xã, có cán bộ lâm nghiệp (LN) hoặc kiểm lâm viên phụ trách quản lý, bảo vệ và phát triển rừng Tuy nhiên, chỉ những xã có diện tích đất lâm nghiệp lớn như Nghi Văn, Nghi Công Nam, Nghi Yên mới có cán bộ chuyên trách, trong khi các xã có diện tích đất lâm nghiệp nhỏ như Nghi Thái, Nghi Xuân, Phúc Thọ chỉ có cán bộ kiêm nhiệm Điều này dẫn đến hiệu quả trong công tác quản lý và bảo vệ rừng tại địa phương chưa cao.
Trong thời gian qua, hệ thống rừng và đất lâm nghiệp đã được giao cho Hạt kiểm lâm, BQLRPH, UBND xã, các tổ chức rừng và hộ gia đình để quản lý, bảo vệ và phát triển Diện tích rừng và đất lâm nghiệp được giao khoán cho các tổ chức và hộ gia đình đã được quản lý hiệu quả Các cấp quản lý từ huyện đến xã đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn và kiểm tra, đồng thời thông qua các dự án như dự án 661 và dự án hội chữ thập đỏ Nhật Bản đã đầu tư hỗ trợ kinh phí cho các đơn vị và cá nhân tham gia Nhờ đó, diện tích và chất lượng rừng ngày càng được nâng cao.
Để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng, cần tăng cường sự phối hợp giữa Hạt kiểm lâm, BQLRPH, UBND xã và các hộ gia đình trong chỉ đạo, kiểm tra và giám sát Cần bổ sung kinh phí cho các hoạt động trồng, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và sâu bệnh hại, đồng thời tăng phụ cấp và chế độ cho cán bộ làm công tác lâm nghiệp từ huyện đến xã Ngoài ra, việc lập các quy ước và hương ước bảo vệ rừng, cũng như quỹ bảo vệ và phát triển rừng là cần thiết để tạo điều kiện cho các hoạt động này.
4.4.2 Các hình thức quản lí rừng ở đây
Phương thức quản lý nhà nước hiện nay có quyền lực cao nhất trong việc ra quyết định liên quan đến quản lý rừng, với Hạt kiểm lâm và BQLRPH là hai đơn vị chủ yếu tại Nghi Lộc Theo thống kê năm 2007, BQLRPH huyện quản lý 5.725,1 ha RPH và 513,7 ha RSX Phương pháp quản lý này chủ yếu tập trung vào kỹ thuật và lâm luật, với nguồn nhân lực có trình độ cao giúp giải quyết các vấn đề chuyên môn như chống cháy rừng và phòng trừ sâu bệnh Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính, hiệu quả quản lý rừng nhà nước chưa cao, dẫn đến việc thực hiện lâm luật và phát triển kinh tế xã hội gặp khó khăn Đánh giá từ cán bộ lãnh đạo địa phương cho thấy quản lý nhà nước còn lỏng lẻo và ít phối hợp với cộng đồng trong công tác trồng rừng.
Phương thức quản lý rừng nhà nước hiện nay tập trung vào vai trò và quyền lực của các cơ quan nhà nước, nhưng thiếu sự tham gia và quyền hưởng lợi của người dân địa phương Do đó, điều này đã dẫn đến việc không đạt được mục tiêu bảo tồn bền vững tài nguyên rừng.
Quản lý nhà nước về rừng tại Nghi Lộc có sự tham gia quan trọng của chính quyền xã, với 21 ha rừng sản xuất (RSX) được UBND xã quản lý tính đến năm 2007 Diện tích này được sử dụng như quỹ đất dự phòng để hỗ trợ các hộ gia đình thiếu đất Nhờ vào sự am hiểu địa bàn và nhu cầu của người dân, hình thức quản lý này đã được đánh giá là hiệu quả và chặt chẽ.
Phương thức quản lý đất đai hiện tại chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân do đội ngũ cán bộ xã thiếu kiến thức chuyên môn về kỹ thuật sử dụng đất và chăm sóc rừng Hơn nữa, hiểu biết pháp luật của cán bộ địa phương còn hạn chế, cùng với việc quản lý diện tích nhỏ lẻ, manh mún và không có nguồn ngân sách hỗ trợ Sự thiếu rõ ràng trong việc trao quyền từ nhà nước cũng góp phần vào những hạn chế trong công tác quản lý.
4.4.2.2 Quản lý hộ gia đình
Phương thức quản lý rừng theo hộ gia đình rất hiệu quả nhờ vào sự giám sát chặt chẽ và trách nhiệm cao của các hộ, vì họ nhận thức được rằng rừng là tài sản của mình Tuy nhiên, hình thức này cũng đối mặt với nhiều thách thức như thiếu vốn, thiếu kỹ thuật và khó khăn trong việc bảo vệ và phát triển rừng do sự độc lập của từng hộ dẫn đến liên kết yếu Hiện nay, diện tích rừng quản lý theo hộ gia đình đạt 3.083,9 ha, chủ yếu trồng các loại cây như thông, keo, phi lao và bạch đàn Đặc điểm đất ở đây chủ yếu là vùng đồi núi cằn cỗi, với độ pH thấp, chỉ phù hợp cho cây thông nhựa (Pinus merkusii) Một số khu vực ven đồi có độ dốc thấp hơn thì thích hợp cho trồng cây nguyên liệu mọc nhanh như keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và keo tai tượng (Acacia mangium).
Bảng 4.12: Quy hoạch đất lâm phần phân theo chủ rừng của huyện
Loại đất, loại rừng Tổng diện tích (Ha)
GĐ UBND BQL Hộ GĐ UBND Đất LN 9,343.70 5,725.10 513.7 3,083.90 21
2 Rừng trồng 8,070.90 4,963.20 456.3 2,645.40 6 2.1 Rừng trồng có cây gỗ TL 3,498.80 1,916.60 341.8 1,234.40 6
2.2 Rừng trồng chưa có cây gỗ TL 1,810.50 812.7 12.6 985.2
( Nguồn: UBND huyện Nghi Lộc, 2007)
4.4.3 Sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lí và bảo vệ rừng
Kinh tế của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp và sản xuất lâm nghiệp, với kinh nghiệm phong phú do nhiều hộ gia đình đã sinh sống lâu dài tại đây Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào nông nghiệp vẫn khiến đời sống của họ gặp nhiều khó khăn Chính sách giao đất và giao rừng đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế rừng, giúp xóa đói giảm nghèo và tạo ra việc làm cho người dân.
Nhiều hộ gia đình đã nhận khoán quản lý và bảo vệ hàng chục ha rừng, từ đó nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ rừng Họ ký cam kết không vi phạm các quy định về rừng, dẫn đến tình trạng chặt phá rừng bừa bãi giảm hẳn Việc giao đất, giao rừng cho người dân không chỉ giúp họ quản lý và bảo vệ rừng hiệu quả mà còn mang lại lợi ích kinh tế Người dân đã trồng rừng theo quy hoạch, chủ yếu là thông nhựa, giúp thu hoạch nhanh chóng và bền vững.
Tác động của BĐKH đến rừng và công tác quản lí, bảo vệ rừng
Biến đổi khí hậu (BĐKH) có nhiều tác động khác nhau đến các lĩnh vực, nhưng trong khu vực nghiên cứu, những tác động chính lại mạnh mẽ và rõ rệt Điều này đã gây ra không ít khó khăn cho Ban Quản lý Rừng phòng hộ Nghi Lộc và người dân trong công tác bảo vệ, quản lý và phục hồi rừng.
4.5.1.2 Các rủi ro/mối nguy có tác động trực tiếp và nhanh chóng
Hạn hán đang gia tăng cả về cường độ và thời gian tại 5 xã nghiên cứu, trở thành hiện tượng thường xuyên hơn Hiện tượng này không chỉ làm tăng nguy cơ cháy rừng mà còn giảm độ phì nhiêu của đất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sản xuất nông nghiệp.
Bảng 4.13: Tình hình hạn hán tại 5 xã vùng nghiên cứu
Xã Hiện nay So với 5 năm trước
Hạn hán thường xảy ra 2-3 lần trong năm Mỗi lần kéo dài khoảng 1 -2 tháng Thời gian xảy ra vào tháng 2 -
7 âm lịch hàng năm nhưng tập trung nhất vào khoảng tháng 5, 6 và 7
Hạn hán nghiêm trọng đã khiến khe núi cạn kiệt nước và cây cối khô héo Tình trạng hạn hán kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, với đỉnh điểm vào tháng 5 và tháng 6 Hiện tượng này đã tác động xấu đến năng suất lúa, thậm chí dẫn đến mất mùa.
Trước đây, hạn hán chỉ xảy ra một lần mỗi năm vào tháng 5-6, kéo dài khoảng 15-20 ngày với mức độ nhẹ hơn và vẫn còn nước trong khe núi Tuy nhiên, so với 5 năm trước, tình trạng hạn hán hiện nay ngày càng trở nên gay gắt hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vụ lúa.
Nghi Lâm Khu vực này thường xuyên thiếu nước cho sản xuất Thời gian hạn hán thường bắt đầu từ khoảng tháng
Tháng 1-2 hàng năm thường thiếu nước cho sản xuất lạc và ngô, trong khi tháng 5-7 lại gặp tình trạng thiếu nước cho sản xuất lúa hè thu Thời gian hạn hán cũng có tác động lớn đến ngành lâm nghiệp, dẫn đến hiện tượng cháy rừng xảy ra thường xuyên.
Hạn hán đang trở nên nghiêm trọng hơn, đặc biệt trong các tháng từ 5 đến 7, nhưng tình trạng thiếu nước phục vụ sản xuất và trồng rừng vẫn tiếp diễn trước và sau giai đoạn này.
Nghi Thái Hiện tại, hạn hán thường xảy ra 2 đợt/năm và vào khoảng tháng 11 (nhẹ, chủ yếu là hanh khô) và
Mức độ hạn hiện nặng nề hơn trước nhiều, gió Lào cũng về sớm hơn và mang
Khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 7 âm lịch thường diễn ra tình trạng hạn hán nặng, kết hợp với gió Lào, với mỗi đợt hạn kéo dài khoảng 30 ngày Hiện tượng này khiến ruộng nứt nẻ, sông Rào Đứng khô cạn, và nhiệt độ tăng cao, trung bình từ 38-40 độ C Số ngày nóng cũng kéo dài hơn, từ 10-15 ngày trước đây giờ có thể lên tới 25-30 ngày Nhiệt độ hiện tại ước tính cao hơn khoảng 3 độ C so với 5 năm trước.
Nghi Văn Hạn hán thường xảy ra 2-3 lần trong năm và mỗi lần kéo dài khoảng 1-2 tháng Thời gian xảy ra vào tháng 2-
7 âm lịch hàng năm Mức độ hạn rất nặng - kênh mương, khe núi đều cạn hết nước Nhiệt độ trung bình là
Năm 2009-2010, nhiệt độ đạt mức cao nhất, có lúc lên tới 40-41 độ C do nắng nóng gay gắt Trong khi đó, năm 2011 lại mát mẻ hơn và ít khô hạn hơn nhờ lượng mưa nhiều hơn.
Trước đây có hạn hán những mức độ nhẹ hơn Thời gian hạn hán cũng ngắn hơn, trong bình chỉ từ
Nghi Yên Hiện nay, hạn hán thường xảy ra từ
Trong năm, có từ 2 đến 3 đợt hạn xảy ra vào khoảng tháng 4 đến tháng 7 âm lịch, mỗi đợt kéo dài từ 1 đến 2 tháng Thời gian hạn hán và nắng nóng kéo dài khiến đồng ruộng cạn nước, nứt nẻ, và cỏ chết khô Nhiệt độ cao nhất có thể đạt từ 39 đến 41 độ C.
Trong vòng hai năm qua, hiện tượng hạn hán đã trở nên thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn so với trước đây Nhiệt độ cũng tăng lên khoảng 1-2 độ C, với mức cao trước đây chỉ dao động từ 36-37 độ C.
(Nguồn: Ban quản lí dự thích ứng với BĐKH và Bảo hiểm nông nghiệp, 2011)
Kết quả khảo sát tại 5 xã cho thấy hiện tượng hạn hán gia tăng mạnh mẽ trong 3 năm qua, với mùa hạn ngắn kéo dài khoảng 4 tháng và mùa hạn dài có thể lên tới 6 tháng, ảnh hưởng đến sản xuất nông, lâm nghiệp Mức độ hạn hán tăng cao khiến các tháng 5-7 gần như không có nước, dễ gây ra cháy rừng Thêm vào đó, gió Lào và nắng nóng làm tình hình sản xuất và sinh hoạt trở nên khó khăn hơn.
Hạn hán đã làm giảm năng suất cây trồng, tăng nguy cơ cháy rừng, và phát sinh dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của người lao động Những thay đổi xấu này trong hiện tượng hạn hán có thể được liên kết với biến đổi khí hậu.
Mưa bão và lũ lụt
Bão và lũ lụt ở miền Trung, đặc biệt tại 5 xã nghiên cứu, thường đi kèm với mưa lớn kéo dài, gây ra tình trạng ngập lụt Mùa mưa bão gắn liền với mùa lũ do lượng mưa gia tăng ở các vùng thượng nguồn, dẫn đến lũ đổ về hạ nguồn Diện tích rừng phòng hộ tự nhiên đã giảm nhiều, chủ yếu là rừng trồng, với độ che phủ cao nhưng khả năng phòng hộ thấp Hiện tượng thiên tai này diễn ra thường xuyên, tuy nhiên, gần đây, cường độ bão và lũ lụt đã mạnh hơn, thời gian ngập lụt kéo dài và sự xuất hiện của bão lũ trở nên bất thường, đặc biệt từ năm 2007.
Bảng 4.14 : Tình hình mưa bão, lũ lụt tại khu vực 5 xã vùng nghiên cứu
Xã Hiện nay So với 5 năm trước
Bão lụt hiện thường xảy ra 4-5 lần trong năm, mỗi đợt kéo dài khoảng 7-
Mùa bão lụt diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9 âm lịch hàng năm, với cường độ bão thường rất mạnh Đặc biệt, vào năm 2010, một cơn bão đạt cấp 12, 13 đã gây ra thiệt hại lớn, khiến nhiều xã bị cô lập trong suốt 10 ngày.
Mưa bão gây thiệt hại lớn đối với cả mùa vụ nông nghiệp, lâm nghiệp và cơ sở vật chất - lúa thường giảm 50% sản
Trong quá khứ, bão lụt xảy ra hàng năm với cường độ thấp Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm gần đây, số lượng bão không tăng, thậm chí còn ít hơn Đến năm 2010, tình hình bất ngờ thay đổi với sự xuất hiện của bão mạnh và lũ lụt lớn kéo dài.
Trước kia lúa cũng bị ngập nhưng mức độ ngập ít hơn, thời gian ngập ngắn hơn
47 lượng, năm nào lụt to có thể mất tới
70% sản lượng, đợt lũ lụt năm 2010 vừa qua làm mất trắng cả vụ lúa nên mức giảm sản lượng cũng ít hơn nhiều
Phân tích SWOT và giải pháp để quản lí, phục hồi rừng ở Nghi Lộc
4.6.1 Phân tích SWOT Điểm mạnh (S)
- Diện tích đất lâm nghiệp lớn
- Đội ngũ cán bộ kiểm lâm xã nhiệt tình trong công tác
- Có sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng như: Kiểm lâm, Ban quản lý rừng phòng hộ, chính quyền và nhân dân các xóm
- Vị trí địa lí thuận lợi gần nhiều trục đường chính, gần trung tâm tỉnh lị, sân bay, cảng biển…
- Với bờ biển khá dài là tiềm năng cho việc phát triển du lịch kết hợp với du lịch sinh thái rừng
- Định hướng và quy hoạch rừng cua huyện rõ ràng
Huyện này nổi bật với truyền thống cách mạng và sự năng động trong phát triển kinh tế, văn hóa Với nguồn lao động dồi dào, cần cù và giàu kinh nghiệm thực tiễn, huyện có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế rừng.
- Lực lượng cán bộ, nhất là cán bộ kiểm lâm viên thiếu và mỏng lại phải công tác trên địa bàn rộng lớn
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác phòng cháy chữa cháy rừng hiện đang còn yếu kém Nguồn lực về phương tiện, thiết bị và dụng cụ chuyên môn vẫn thiếu thốn và lạc hậu, ảnh hưởng đến hiệu quả của nhiệm vụ này.
- Chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên khắc nhiệt
- Chính sách, pháp luật chuyển tải xuống người dân còn chậm
- Chất lượng rừng còn thấp, khả năng phòng hộ và bảo vệ môi trường của rừng còn hạn chế
- Nhận thức về BĐKH của người dân còn hạn chế và phiến diện
Nhà nước và chính quyền các cấp đang tích cực đầu tư tài chính và nguồn lực con người để thích ứng với biến đổi khí hậu.
- Được sự hỗ trợ đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước về công tác bảo vệ và phát triển rừng
- Các chương trình của Nhà nước đã và đang triển khai như: chương trình 135, 117, 661,…
Biến đổi khí hậu là cơ hội để chúng ta thay đổi tư duy phát triển, hướng tới mô hình phát triển với lượng phát thải carbon thấp Điều này đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa việc bảo vệ và phát triển rừng cùng với việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
- Nhu cầu của thị trường về nhựa thông, nguyên liệu thô cho ngành giấy… lớn
Biến đổi khí hậu toàn cầu đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân, đặc biệt trong việc quản lý, bảo vệ và phục hồi rừng, gây ra nhiều khó khăn cho công tác này.
- Trình độ dân trí còn thấp
Áp lực từ sự gia tăng dân số đang ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến việc thu hẹp diện tích rừng Sự chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp, khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng và sân bãi là những vấn đề cần được chú trọng giải quyết.
- Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách trong các hoạt động bảo vệ con chưa đủ mạnh
- Đời sống của đại bộ phận người dân còn ở mức thấp
Ô nhiễm môi trường, sự du nhập của các loài ngoại lai và sự gia tăng sâu bệnh đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các khu rừng trồng.
- Chu kỳ sản xuất của cây lâm nghiệp dài, lợi nhuận thấp, nhiều rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh BĐKH này
Nghi Lộc sở hữu nhiều yếu tố nội lực quan trọng cho sự phát triển của người dân Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, cần có một chiến lược cụ thể và lâu dài, nhằm bảo tồn màu xanh của rừng cho đất nước và thế hệ mai sau.
Trong công tác quản lý rừng tại xã Nghi Lộc, có nhiều điểm mạnh như diện tích rừng và đất rừng rộng lớn, quy hoạch và phân cấp rừng rõ ràng, cùng với việc người dân chấp hành tốt pháp luật Tuy nhiên, xã Nghi Lộc vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình quản lý.
Công tác huy động nguồn lực cho quản lý và bảo vệ rừng đang đối mặt với nhiều thách thức, nhưng những khó khăn này có thể được khắc phục trong tương lai Để đảm bảo sự phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ rừng, cần cải thiện đời sống người dân và tăng cường sự phối hợp giữa các ban ngành từ Trung ương đến địa phương Các hoạt động cộng đồng như phát triển mạng lưới khuyến nông lâm, tập huấn kỹ thuật canh tác, tuyên truyền kiến thức bảo vệ rừng và cung cấp vốn vay cho người dân là rất cần thiết Ngoài ra, các hoạt động vĩ mô như giải quyết vấn đề dân số, bổ sung nhân sự kiểm lâm xã và cấm chặt phá rừng cũng cần có sự hỗ trợ từ Nhà nước và các ngành chức năng.
4.6.2 Giải pháp nhằm quản lí, phục hồi rừng ở huyện Nghi Lộc tốt hơn
Quản lý và bảo vệ rừng trong bối cảnh biến đổi khí hậu là một quá trình phức tạp và kéo dài, cần sự tham gia tích cực từ mọi ngành, cấp, địa phương và cộng đồng Điều này bao gồm việc huy động tài chính, kỹ thuật, nhân lực và thiết lập các cơ chế hỗ trợ hiệu quả.
4.6.2.1 Tăng cường năng lực PCCCR và thích ứng với BĐKH
Để đối phó hiệu quả với biến đổi khí hậu (BĐKH), việc nâng cao nhận thức cho chính quyền và cộng đồng địa phương là rất quan trọng Điều này sẽ thúc đẩy các địa phương chủ động xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý và bảo vệ rừng phù hợp với tình hình BĐKH hiện tại.
Giải pháp chiến lược này hướng đến việc phát huy nội lực địa phương và tận dụng sự hỗ trợ từ Chính phủ cùng các tổ chức quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu (BĐKH) và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu cho cộng đồng.
Thứ 2 cần phải có chương trình hành động:
- Cần phải có chương trình tuyên truyền đề cao công tác phòng chống cháy rừng trong mùa nắng nóng như hiện nay
Cần ưu tiên việc hướng dẫn và tập huấn kỹ thuật chỉ huy cũng như chữa cháy rừng cho các lực lượng tại chỗ, nhằm giúp họ trở thành lực lượng nòng cốt trong công tác cứu chữa khi cháy rừng xảy ra Đồng thời, việc trang bị dụng cụ chữa cháy rừng thủ công cũng rất cần thiết để ứng cứu kịp thời, từ đó giảm thiểu thiệt hại do cháy rừng gây ra.
Cần tăng cường công tác thông tin thời tiết qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là hệ thống phát thanh, nhằm đảm bảo thông tin đến được các vùng sâu, vùng xa, ngư trường và hải đảo.