1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện từ thực tiễn của tòa án nhân dân huyện chợ mới bắc kạn

72 43 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đổi Mới Tổ Chức Và Hoạt Động Của Tòa Án Nhân Dân Cấp Huyện Từ Thực Tiễn Của Tòa Án Nhân Dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Tác giả Ngụ Thanh Bình
Người hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Thanh Hũa
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Luật Học
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 72
Dung lượng 785,48 KB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (6)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (6)
    • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (7)
    • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (8)
    • 4. Phương pháp nghiên cứu (0)
    • 5. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài (9)
    • 6. Ý nghĩa của đề tài (9)
    • 7. Bố cục đề tài (0)
  • B. PHẦN NỘI DUNG (11)
  • Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TAND CẤP HUYỆN (11)
    • 1.1. Một số khái niệm cơ bản (11)
      • 1.1.1. Tòa án (11)
      • 1.1.2. Tòa án nhân dân (11)
    • 1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND (12)
    • 1.3. Chức năng và nhiệm vụ của TAND (18)
      • 1.3.1. Chức năng của TAND (18)
      • 1.3.2. Nhiệm vụ của TAND (19)
    • 1.4. Khái quát về nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu của TAND cấp huyện (20)
      • 1.4.1. Nhiệm vụ, thẩm quyền (20)
      • 1.4.2. Cơ cấu tổ chức (21)
  • Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA (25)
    • 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới - Bắc Kạn (0)
      • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên (25)
      • 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội (28)
    • 2.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện (29)
    • 2.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn (31)
      • 2.3.1. Thực trạng về tổ chức của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn (31)
      • 2.3.2. Thực trạng về hoạt động của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn (37)
    • 2.4. Những điểm hạn chế cơ bản trong quá trình tổ chức và hoạt động của (45)
  • Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TAND CẤP HUYỆN (49)
    • 3.1. Sự cần thiết hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện (49)
    • 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện (55)
      • 3.2.1. Nhóm giải pháp về yếu tố con người (55)
      • 3.2.2. Cải thiện chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ ngành Toà án (57)
      • 3.2.3. Đổi mới TAND cấp huyện tiến tới thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực (59)
      • 3.2.4. Giải pháp về nâng cao sự hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân (62)
      • 3.2.5. Tăng cường hợp tác và học hỏi kinh nghiệm giữa các TAND cùng cấp trên địa bàn tỉnh và rộng hơn là phạm vi cả nước (63)
      • 3.2.6. Giải pháp về phát huy dân chủ để huy động sự tham gia rộng rãi và tích cực của nhân dân vào giám sát và đóng góp ý kiến hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện (65)
    • C. PHẦN KẾT LUẬN (67)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam hiện đang nỗ lực xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, điều này đã được thể hiện rõ trong các Văn kiện Đại hội IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Năm 1992, với những sửa đổi và bổ sung vào năm 2001, đất nước ta đang trải qua giai đoạn hội nhập quốc tế với nhiều thay đổi lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Để đáp ứng các mục tiêu trước mắt và nhiệm vụ lâu dài của Nhà nước, việc tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước ở các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp là một nhiệm vụ cấp bách cần được thực hiện ngay.

Trong hệ thống tư pháp Việt Nam, Tòa án đóng vai trò trung tâm, với hoạt động xét xử là nhiệm vụ chính của Tòa án nhân dân Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị chỉ ra rằng tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp thiếu hụt về số lượng, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số cán bộ còn yếu kém, thậm chí có hiện tượng sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp Tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố và xét xử vẫn diễn ra, trong khi cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn và lạc hậu.

Để đáp ứng những yêu cầu cấp thiết, Đảng và Nhà nước đã triển khai các chính sách và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Tòa án Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới - Bắc Kạn là một trong những địa phương thực hiện hiệu quả những chính sách và biện pháp này.

TAND huyện Chợ Mới, giống như nhiều Tòa án địa phương khác trên cả nước, đang đối mặt với những khó khăn và hạn chế trong quá trình hoạt động Để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động, TAND Chợ Mới cần khắc phục những vấn đề này, đồng thời phát huy những kết quả đã đạt được Điều này không chỉ góp phần vào việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Tác giả đã quyết định chọn đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện từ thực tiễn của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn” làm khóa luận tốt nghiệp, nhằm nghiên cứu và đề xuất những cải cách cần thiết trong hệ thống tư pháp tại cấp huyện.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Gần đây, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp thu hút sự quan tâm không chỉ từ Nhà nước mà còn từ nhiều cá nhân, dẫn đến việc tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo và xuất bản nhiều bài viết trên sách, báo, tạp chí Các tác giả nghiên cứu vấn đề này từ nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm cả lý thuyết và thực tiễn Một trong những bài viết tiêu biểu là bài "Nghiên cứu lập pháp", số 6 (143) tháng 3/2009.

Vũ Hà Thanh từ Vụ Pháp luật và Cải cách tư pháp thuộc Văn phòng Trung ương Đảng đã có những đóng góp quan trọng trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân Bài viết của Phạm Quý cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách này nhằm nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong hệ thống tư pháp.

Ngày 15-10-2005, Nhà nước Việt Nam đã ban hành “Nghị quyết số 49-NQ/TW” của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đóng vai trò quan trọng trong việc kiện toàn cơ chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là TAND các cấp Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu về sự đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới, Bắc Kạn, nhằm góp phần vào việc cải cách tư pháp và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp tại địa phương.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: lý luận về cơ cấu tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện và thực tiễn hoạt động của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn

Khóa luận nghiên cứu đề tài dưới góc độ của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

Khóa luận phân tích, đánh giá, khái quát thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn trong nhiệm kỳ (1999 - 2004) và nhiệm kỳ (2004 - 2011)

4 Cơ sở khoa học và Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận này nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, dựa trên các văn bản pháp lý như Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức của Tòa án nhân dân năm 2002, và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, cùng với các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới trong nhiệm kỳ 2004 - 2011.

Trong nghiên cứu đề tài này, tôi đã áp dụng phương pháp luận dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh đổi mới.

Phương pháp cụ thể: phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, phương pháp xác minh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá

5 Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

5.1 Mục tiêu của khóa luận

Bài viết nhằm làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện Đồng thời, nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện tại tỉnh Bắc Kạn, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong khu vực này.

5.2 Nhiệm vụ của khóa luận

Bài viết này nhằm làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án Nhân dân huyện Chợ Mới Đồng thời, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới trong hai nhiệm kỳ (1999 - 2004) và (2004 - 2011), từ đó rút ra những ưu điểm, thành tựu, cũng như những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những vấn đề đó.

Bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới trong những năm tới

Khóa luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

Với kết quả nghiên cứu đạt được của khóa luận có thể áp dụng vào tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

Khóa luận này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan thực thi pháp luật, sinh viên chuyên ngành Luật, Chính trị - Luật và những người có sự quan tâm đến lĩnh vực này.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:

Chương 1: Lý luận chung về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn

Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

5.1 Mục tiêu của khóa luận

Bài viết này nhằm làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án Nhân dân (TAND) cấp huyện Đồng thời, nó cũng sẽ phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện tại tỉnh Bắc Kạn Qua đó, bài viết sẽ đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, góp phần cải thiện hiệu quả công tác tư pháp tại địa phương.

5.2 Nhiệm vụ của khóa luận

Bài viết nhằm làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án Nhân dân huyện Chợ Mới Nó đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới trong hai nhiệm kỳ (1999 - 2004) và (2004 - 2011), từ đó rút ra những ưu điểm, thành tựu cũng như những hạn chế và nguyên nhân của chúng.

Bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới trong những năm tới.

Ý nghĩa của đề tài

Khóa luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

Với kết quả nghiên cứu đạt được của khóa luận có thể áp dụng vào tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

Khóa luận là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan thực thi pháp luật, sinh viên ngành Luật, Chính trị - Luật, cũng như những người có nhu cầu tìm hiểu về lĩnh vực này.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm ba chương:

Chương 1: Lý luận chung về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn

Bố cục đề tài

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

1.1 Một số khái niệm cơ bản

Theo Từ điển Luật học, Tòa án là cơ quan trung tâm của quyền tư pháp, có nhiệm vụ giải quyết các vi phạm pháp luật Tại Việt Nam, Tòa án không chỉ là một bộ phận của hệ thống Nhà nước mà còn có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật Với vai trò đặc biệt quan trọng, Tòa án đảm bảo việc thực thi công lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.

Theo Từ điển Luật học, Tòa án Nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Hệ thống TAND bao gồm Tòa án Nhân dân tối cao, các Tòa án Nhân dân địa phương, Tòa án quân sự và các tòa án khác theo quy định của pháp luật, có nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính.

Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan duy nhất tại Việt Nam có thẩm quyền xét xử, điều này tạo nên đặc trưng cơ bản để phân biệt TAND với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TAND CẤP HUYỆN

Một số khái niệm cơ bản

Tòa án, theo Từ điển Luật học, được định nghĩa là cơ quan trung tâm của quyền tư pháp, có nhiệm vụ giải quyết các vi phạm pháp luật Tại Việt Nam, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong hệ thống bộ máy Nhà nước, thực hiện chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, và giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật Với vị trí đặc biệt này, Tòa án không chỉ là một phần của hệ thống hành chính mà còn là cơ quan quyền lực Nhà nước, đảm bảo việc thi hành công lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân.

Theo Từ điển Luật học, TAND là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Hệ thống Tòa án nhân dân tại Việt Nam bao gồm Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định, có nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính.

Tòa án Nhân dân (TAND) Việt Nam là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, phân biệt rõ với các cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước Hệ thống TAND được tổ chức theo các đơn vị hành chính từ cấp huyện trở lên, với TAND tối cao ở trung ương và các TAND địa phương tại các tỉnh, thành phố Ngoài ra, còn có các Tòa án quân sự và các Tòa án khác theo quy định của pháp luật TAND có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, cùng những việc khác theo quy định.

Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND

Trong tổ chức bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Tòa án Nhân dân (TAND) là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước chủ chốt, đảm nhiệm chức năng xét xử TAND cần tuân thủ các nguyên tắc chung của bộ máy Nhà nước, bao gồm quyền lực thuộc về nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng, tập trung dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phải thực hiện các nguyên tắc cụ thể theo quy định của pháp luật.

Các nguyên tắc này đuợc quy định trong Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức của Tòa án nhân dân năm 2002

Tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND là rất quan trọng, giúp đảm bảo Tòa án xét xử khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo và đương sự.

* Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội thẩm nhân dân

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm

Theo Luật Tổ chức của Tòa án nhân dân năm 2002, Chánh án TAND tối cao được Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước Phó chánh án, Thẩm phán TAND tối cao, Chánh án, Phó chánh án và Thẩm phán Tòa quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán các TAND địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực được Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo đề nghị của hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Chánh án và Phó chánh án các TAND địa phương cũng do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức sau khi thống nhất với Thường trực HĐND địa phương.

Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án và Thẩm phán TAND tối cao, TAND địa phương, cùng Tòa án quân sự là 5 năm Hội thẩm nhân dân được bầu và cử theo quy định, trong đó Hội thẩm TAND địa phương do HĐND cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và có thể bị miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp, sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc.

Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân TAND địa phương là 5 năm

* Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm quân nhân) tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán

Nhà nước CHXHCN Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử, khẳng định tính dân chủ của chế độ Nhân dân không chỉ là chủ đất nước mà còn có quyền tham gia quản lý thông qua nhiều hình thức, bao gồm cả việc tham gia vào hoạt động xét xử tại Tòa án.

Hội thẩm nhân dân có quyền ngang hàng với Thẩm phán, điều này tạo điều kiện cho họ thực hiện vai trò đại diện cho nhân dân trong hoạt động xét xử tại Tòa án.

* Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo Tòa án Nhân dân xét xử một cách khách quan và đúng pháp luật, từ đó bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện rõ ràng trong quy trình xét xử.

Trong quá trình xét xử các vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ dựa vào chứng cứ và quy phạm pháp luật để đưa ra các bản án và quyết định, hoàn toàn độc lập và không chịu sự can thiệp từ bên ngoài.

Trong quá trình xét xử, các thành viên hội đồng xét xử hoạt động độc lập trong việc xác định chứng cứ và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để quyết định tội danh và mức án trong các vụ án hình sự, cũng như xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong các vụ án khác.

Một bản án có thể trải qua nhiều giai đoạn xét xử như sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Trong trường hợp xét xử sơ thẩm, không cần xin ý kiến từ Tòa án cấp trên Tuy nhiên, đối với các phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án không dựa vào chứng cứ và quyết định của Tòa án sơ thẩm mà phải tự xác định chứng cứ và quy phạm pháp luật áp dụng để đưa ra quyết định chính xác.

* Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Xét xử là hoạt động quan trọng của TAND nhằm bảo vệ pháp chế XHCN và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân Thông qua bản án và quyết định, Tòa án đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên liên quan Để đạt được tính khách quan và đúng pháp luật trong xét xử, cần phát huy trí tuệ tập thể, vì vậy mọi vụ án đều phải có hội đồng xét xử.

* Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định

Nguyên tắc này nhằm khuyến khích sự tham gia của người dân trong việc kiểm tra và giám sát hoạt động xét xử của Tòa án Nhân dân, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật trong cộng đồng Việc này không chỉ giúp người dân tích cực tham gia vào công cuộc đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật, mà còn đảm bảo rằng hình phạt từ các bản án hình sự có vai trò không chỉ trong việc trừng phạt, mà còn trong việc răn đe, phòng ngừa và giáo dục.

Các Tòa án Nhân dân (TAND) cần lập kế hoạch xét xử các vụ án và niêm yết kế hoạch này tại trụ sở Tòa án cũng phải thông báo cho chính quyền địa phương nơi cư trú của bị cáo, cũng như thông báo cho bị cáo, người bị hại trong các vụ án hình sự, các đương sự và những người liên quan về thời gian và địa điểm xử án Đối với các vụ án quan trọng, Tòa án cần thông báo qua các phương tiện thông tin đại chúng để công chúng được biết Mặc dù việc xét xử thường diễn ra tại phòng xử án, Tòa án có thể tổ chức xét xử lưu động tại địa điểm xảy ra vụ án nhằm nâng cao tính giáo dục.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định rằng Tòa án có thể tiến hành xét xử kín để bảo vệ bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục dân tộc hoặc bảo vệ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng Tuy nhiên, bất kể là xét xử công khai hay kín, khi tuyên án, Tòa án đều phải công khai đọc bản án để đảm bảo mọi người đều được biết.

* Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật

Tòa án hoạt động dựa trên nguyên tắc bình đẳng pháp luật, đảm bảo mọi công dân, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo hay địa vị xã hội, đều được xét xử công bằng Điều này áp dụng cho cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, như quy định trong Điều 8 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

Chức năng và nhiệm vụ của TAND

1.3.1 Chức năng của TAND Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

Như vậy, chỉ có TAND mới có thẩm quyền xét xử trong tổ chức bộ máy Nhà nước

Hoạt động xét xử của TAND có những đặc điểm riêng biệt so với việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo từ các cơ quan Nhà nước.

Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính, cùng với việc giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Tòa án Nhân dân (TAND) thực hiện chức năng xét xử, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân Bản án và quyết định của TAND có tính bắt buộc đối với bị cáo và các bên liên quan, do đó, quy trình xét xử phải tuân thủ các thủ tục nghiêm ngặt Các thủ tục này được quy định trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Pháp lệnh về giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh về giải quyết các vụ án hành chính, và Pháp lệnh về giải quyết các tranh chấp lao động.

Tòa án Nhân dân (TAND) giữ vai trò quyết định cuối cùng trong việc giải quyết các vụ việc pháp lý Khi các cơ quan, tổ chức đã đưa ra giải quyết nhưng bên liên quan không đồng ý, họ có quyền yêu cầu TAND xem xét lại quyết định đó Quyết định của TAND không chỉ có giá trị thay thế cho các quyết định trước mà còn là quyết định cuối cùng trong quá trình xét xử.

Hoạt động xét xử là quá trình sáng tạo của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, trong đó pháp luật được áp dụng một cách linh hoạt và sáng tạo Điều này là cần thiết vì các nhà làm luật không thể dự đoán hết mọi hành vi, tình tiết và hoàn cảnh cụ thể của từng vụ án.

1.3.2 Nhiệm vụ của TAND Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: “Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”

Tòa án Nhân dân (TAND) có hai nhiệm vụ chính: bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và giáo dục công dân Qua hoạt động xét xử, TAND đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất và tôn trọng Mọi hành vi xâm phạm quyền làm chủ của công dân, tài sản Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý kịp thời và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm hay làm oan người vô tội Việc xét xử nghiêm minh không chỉ giáo dục người phạm tội mà còn răn đe, khuyến khích công dân tôn trọng pháp luật Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, TAND cần tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng và chú trọng hình thức, nội dung của phiên tòa, đồng thời tăng cường xét xử lưu động tại nơi xảy ra vụ án để tuyên truyền pháp luật Mọi tội phạm và tranh chấp pháp lý phải được xét xử đúng pháp luật, với các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực sự công tâm Các bản án và quyết định của Tòa án phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân.

Khái quát về nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu của TAND cấp huyện

Chánh án TAND cấp huyện lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của tòa án, đồng thời báo cáo công tác trước HĐND theo quy định tại Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) Cụ thể, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội, và trong thời gian Quốc hội không họp, sẽ báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân”

Toà án hoạt động dưới sự giám sát của nhân dân thông qua HĐND các cấp Mỗi đơn vị hành chính từ cấp huyện trở lên đều có TAND tương ứng, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND Chánh án TAND huyện có nhiệm vụ tổ chức xét xử và các công tác khác theo quy định pháp luật, đồng thời báo cáo công tác với TAND cấp trên và HĐND cùng cấp.

Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự với mức hình phạt tối đa 15 năm tù, ngoại trừ những tội danh đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và các tội được quy định tại Điều 89, 90 của Bộ luật hình sự.

TAND huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, và hành chính theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, đối với những vụ việc phức tạp hoặc liên quan đến yếu tố nước ngoài, cũng như các tranh chấp về sở hữu công nghiệp, sẽ không thuộc thẩm quyền của TAND huyện Những hoạt động này chính là nhiệm vụ chủ yếu của TAND huyện.

Trong cơ cấu tổ chức của hệ thống tư pháp, ngoài Tòa án nhân dân tối cao, còn có Tòa án nhân dân cấp địa phương, trong đó Tòa án nhân dân huyện là một phần quan trọng Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Tòa án huyện thuộc hệ thống Tòa án cấp địa phương, đảm bảo việc thực thi công lý tại các địa phương.

2002, tại Điều 32 quy định về cơ cấu tổ chức của TAND cấp huyện như sau:

Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh bao gồm Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư kí Tòa án.

Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc

2 Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng”

Theo quy định của điều luật, tổ chức TAND cấp huyện bao gồm các thành phần như Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, cùng với bộ máy giúp việc bổ sung.

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm

Theo quy định tại Khoản 4, Điều 40 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Chánh án và Phó Chánh án của các Tòa án nhân dân địa phương được bổ nhiệm, miễn nhiệm, hoặc cách chức bởi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, sau khi có sự thống nhất với Thường trực Hội đồng Nhân dân địa phương.

Chế độ Thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong Tòa án nhân dân địa phương và các cấp Để trở thành Thẩm phán, cá nhân phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn theo quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002, bao gồm: trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, tốt nghiệp Cử nhân Luật, được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có kinh nghiệm thực tiễn và sức khỏe tốt để hoàn thành nhiệm vụ.

Thẩm phán tại Việt Nam phải trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp và lý tưởng XHCN, đồng thời thực hiện công tác xét xử như một nhiệm vụ chính trị nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay, Thẩm phán cần độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có sai sót Quá trình tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện thông qua Hội đồng do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh đứng đầu, có trách nhiệm lựa chọn Thẩm phán cấp tỉnh và huyện trước khi trình Chánh án Tòa án tối cao để ký quyết định bổ nhiệm.

Nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm; sau năm năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm

Thẩm phán không chỉ cần có kiến thức chuyên môn cao mà còn phải sở hữu phẩm chất chính trị và đạo đức vững vàng, đóng vai trò là người bảo vệ pháp luật, lẽ phải và công lý, cũng như quyền lợi hợp pháp của công dân Trong quá trình xét xử, họ phải đảm bảo không để lọt tội phạm và tránh làm oan người vô tội Bên cạnh đó, thẩm phán cũng cần có kiến thức về các lĩnh vực xã hội như tâm lý học và xã hội học, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử.

Tiêu chuẩn để trở thành Thẩm phán TAND cấp huyện bao gồm việc đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 Ứng viên cần có ít nhất 4 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật và có khả năng xét xử các vụ án cũng như giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.

Chế độ Hội thẩm nhân dân được quy định bởi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 Tiêu chuẩn để trở thành Hội thẩm bao gồm: công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, kiến thức pháp lý vững vàng, và tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa Ngoài ra, Hội thẩm cần có sức khỏe tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với Hội thẩm nhân dân là về chính trị - xã hội và đạo đức nghề nghiệp Tuy nhiên, yêu cầu công tác của Hội thẩm chỉ cần những người có kiến thức pháp lý, tinh thần bảo vệ pháp chế XHCN, và khả năng đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước cùng quyền lợi hợp pháp của công dân Ngoài ra, sức khỏe cũng là yếu tố cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Theo Điều 41 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Hội thẩm nhân dân được bầu bởi HĐND cùng cấp theo nhiệm kỳ của HĐND Để trở thành Hội thẩm nhân dân, ứng viên cần đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 5 và Điều 37 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 Hội thẩm nhân dân tại huyện thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án TAND huyện.

THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm

Năm 2002, Toà án thực hiện việc xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật Cơ cấu tổ chức của ngành Toà án được chia theo địa giới hành chính, với TAND tối cao ở trung ương và các TAND cấp tỉnh, huyện ở địa phương Bên cạnh đó, các Toà án quân sự cũng được thành lập trong quân đội để xử lý các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Trong những trường hợp đặc biệt, Quốc hội có quyền thành lập các Toà án đặc biệt.

Trên toàn quốc, hiện có 742 Tòa án Nhân dân (TAND), bao gồm 678 TAND cấp huyện và không tính các Tòa án quân sự Hệ thống TAND được phân chia theo thẩm quyền xét xử thành 741 Tòa án cấp sơ thẩm, trong đó có 678 Tòa án cấp huyện và 63 Tòa án cấp tỉnh, cùng với 66 Tòa án cấp phúc thẩm, bao gồm 63 Tòa án cấp tỉnh và 3 Tòa phúc thẩm của TAND tối cao.

Đến tháng 3/2008, trong tổng số 678 TAND cấp huyện, có 7550/7822 cán bộ, trong đó có 3250/3690 Thẩm phán Chỉ 20% Thẩm phán cấp huyện đạt trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị Tất cả Thẩm phán TAND cấp huyện đều là Đảng viên và phần lớn đáp ứng tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức Theo định mức xét xử hiện tại, ngành TAND cần bổ sung khoảng 1000 người mỗi năm, trong đó có 500 Thẩm phán, để đáp ứng nhu cầu xét xử gia tăng 15% hàng năm Tuy nhiên, không chỉ thiếu số lượng, mà còn cần cải thiện trình độ và năng lực chuyên môn của Thẩm phán, đặc biệt là về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế, do ngày càng nhiều vụ án phức tạp phát sinh có yếu tố nước ngoài.

Cơ sở vật chất của các Toà án, đặc biệt là TAND cấp huyện, hiện đang gặp nhiều khó khăn do thiếu sự quan tâm và tình hình chia tách địa giới hành chính trong hơn 10 năm qua Nhiều trụ sở làm việc và hội trường xét xử còn chật chội, thậm chí có đơn vị chưa được cấp đất để xây dựng, phải thuê nơi làm việc Hơn nữa, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động và chế độ chính sách dành cho Toà án chưa phù hợp với đặc thù công tác xét xử, dẫn đến hiệu quả công tác của các Toà án bị hạn chế.

Trong những năm gần đây, hoạt động xét xử của các Tòa án tại Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể về số lượng vụ án, với tỷ lệ tăng trung bình khoảng 15% mỗi năm, dẫn đến tình trạng quá tải công việc cho các Tòa án Cụ thể, trong năm 2007, tổng số vụ án mà TAND các cấp thụ lý và xét xử lên tới 256.647 vụ, tăng 23.806 vụ so với năm 2006 Trong đó, Tòa án cấp huyện thụ lý 204.563 vụ, Tòa án cấp tỉnh xử lý 45.821 vụ (bao gồm 18.683 vụ sơ thẩm và 26.739 vụ phúc thẩm), còn Tòa án nhân dân tối cao thụ lý 6.263 vụ (trong đó có 5.747 vụ phúc thẩm).

516 vụ) và xem xét, xử lý 10.999 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

Việc tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục Cần cải thiện tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện để nâng cao hiệu quả, từ đó góp phần tích cực vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Thực trạng về tổ chức và hoạt động của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn

2.3.1 Thực trạng về tổ chức của TAND huyện Chợ Mới - Bắc Kạn

Trong giai đoạn 1999 - 2004, TAND huyện Chợ Mới hoạt động theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, sau đó được thay thế bởi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 Theo Điều 32, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án Do đó, đội ngũ cán bộ của TAND Chợ Mới bao gồm Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án.

Ông Trần Văn Ngân, Thẩm phán, được bổ nhiệm làm Chánh án TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ 1999 - 2004 Đây là nhiệm kỳ đầu tiên của ông trong vai trò Chánh án, trước đó ông đã đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn theo Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 Với nhiều năm kinh nghiệm và thành tích xuất sắc trong công tác, ông đã nhận được giấy khen từ Chánh án TAND tỉnh Bắc Kạn Nhờ những đóng góp này, ông được Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh án TAND huyện Chợ Mới.

Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, TAND huyện Chợ Mới cần có một hoặc hai Phó chánh án Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt cán bộ trong các cơ quan Nhà nước, đặc biệt ở các tỉnh miền núi như Bắc Kạn, TAND huyện Chợ Mới hiện chưa có người đảm nhiệm chức vụ này.

Cơ cấu Thẩm phán tại TAND huyện Chợ Mới bao gồm hai thành viên: Ông Trần Văn Ngân (Chánh án) và Bà Trần Thị Mai Tuyên Cả hai đều đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Điều 37, 38, 39 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, cùng với những quy định mới trong việc tuyển chọn Thẩm phán, đảm bảo lựa chọn những người có năng lực phù hợp cho công việc.

Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, TAND huyện Chợ Mới trong nhiệm kỳ 1999 - 2004 có cơ cấu bao gồm bốn Thư ký Tòa án.

Bốn Thư ký của TAND huyện Chợ Mới đều đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn quy định, bao gồm là công dân Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Việt Nam, sở hữu Bằng Cử nhân Luật, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, cùng với sức khỏe tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao, do đó họ đã được tuyển dụng làm Thư ký tại TAND huyện Chợ Mới.

Hội thẩm nhân dân của TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ 1999 - 2004 gồm 15 thành viên, tất cả đều là công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, và có kiến thức pháp lý Họ thể hiện tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước cùng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời đảm bảo sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ Các hội thẩm này được HĐND huyện Chợ Mới bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Chợ Mới.

Bà Nguyễn Thị Hiền là nhân viên kế toán với trình độ Cử nhân Kinh tế, tuy nhiên theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992, TAND địa phương không có quy định cụ thể về bộ máy giúp việc, do đó nhân viên kế toán không thuộc cơ cấu TAND huyện Chợ Mới Điều này tạo ra sự khác biệt so với các quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân trước đó.

2002, trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì trong cơ cấu của TAND cấp huyện có thêm bộ máy giúp việc

Trong nhiệm kỳ 1999 - 2004, cơ cấu tổ chức của TAND huyện Chợ Mới chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về số lượng nhân sự theo quy định pháp luật, đặc biệt còn thiếu vị trí Phó Chánh án Tuy nhiên, về trình độ học vấn và sức khỏe, đội ngũ nhân sự đã đảm bảo tốt để thực hiện nhiệm vụ xét xử trong giai đoạn này.

Thẩm phán và Thư ký Tòa án đều sở hữu Bằng Cử nhân Luật, với độ tuổi trung bình từ 30 đến 50 tuổi Hội thẩm nhân dân là những cá nhân có uy tín, đạo đức tốt và kiến thức vững về pháp luật.

Trong nhiệm kỳ từ 2004 đến 2011, Tòa án Nhân dân huyện Chợ Mới hoạt động theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 Theo quy định tại khoản 1 Điều 32, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh bao gồm Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án.

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc”

Như vậy, theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 thì TAND huyện Chợ Mới có cơ cấu bao gồm:

Ông Nguyễn Khánh Phương, Chánh án nhiệm kỳ 2004 - 2011, trước khi được bổ nhiệm, đã giữ chức vụ người đứng đầu TAND huyện Chợ Mới Với nhiều năm kinh nghiệm và trình độ nghề nghiệp cao, ông đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngành TAND tỉnh Bắc Kạn Ông đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định theo khoản 1, Điều 5 và Điều 20 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

2002), để đảm nhiệm chức vụ Chánh án TAND huyện và trong nhiệm kì

Từ năm 2004 đến 2011, ông được Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm làm Chánh án TAND huyện Chợ Mới, theo sự thống nhất với Thường trực HĐND huyện Chợ Mới, phù hợp với quy định tại khoản 4, Điều 40 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.

“Chánh án, Phó Chánh án các Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức các chức danh sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân địa phương Điều này thể hiện vai trò quan trọng của Tòa án trong việc đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước.

TAND huyện Chợ Mới có nhiệm vụ quan trọng trong việc tổ chức xét xử các vụ án tại địa bàn huyện Cơ quan này chịu trách nhiệm báo cáo công tác cho HĐND huyện Chợ Mới và Chánh án TAND tỉnh, đồng thời thực hiện các công việc khác theo quy định của pháp luật.

Những điểm hạn chế cơ bản trong quá trình tổ chức và hoạt động của

Trong thời gian qua, Nhà nước đã triển khai các chính sách cụ thể để nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND cấp huyện, bao gồm chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Tư pháp và Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/2/2006 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW trong giai đoạn 2006-2010 Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định, quá trình hoạt động vẫn gặp phải một số hạn chế nhất định.

Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện hiện nay được xác định theo lãnh thổ và tính chất vụ việc, quy định cho phép TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm, trong khi các Tòa án cấp trên có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc cả ba cấp độ như TAND tối cao và TAND cấp tỉnh Điều này không phản ánh đúng vai trò của từng cấp Tòa án trong hệ thống Mặc dù thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện đã được tăng cường, nhưng TAND cấp tỉnh vẫn phải xử lý một số lượng lớn vụ án sơ thẩm, lẽ ra thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.

Nguồn nhân lực trong ngành Tòa án và các lĩnh vực khác ở Việt Nam đang gặp nhiều bất cập, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa và miền núi.

Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Sự thiếu ổn định và chuyên nghiệp trong đội ngũ này đang cản trở quá trình phát triển kinh tế toàn cầu.

Đội ngũ cán bộ, công chức hiện tại chưa đáp ứng đủ nhu cầu cả trước mắt lẫn lâu dài, với sự thiếu hụt giữa các thế hệ trong từng cơ quan, đơn vị Cần có sự bổ sung đội ngũ cán bộ kế cận có trình độ chuyên môn cao và các chuyên gia hoạch định chính sách ở mọi cấp để nâng cao hiệu quả hoạt động.

Tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, công chức còn yếu kém, dẫn đến phong cách làm việc chậm đổi mới và tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao Tình trạng quan liêu, tham nhũng và sách nhiễu nhân dân chưa được ngăn chặn, gây ra trì trệ và trở ngại lớn cho công tác cải cách, làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước Bên cạnh những yếu kém về năng lực và trình độ, các cơ quan nhà nước còn tồn tại tình trạng xa rời nhân dân, hách dịch và cửa quyền Đặc biệt, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, bị dư luận xã hội lên án gay gắt Sự tha hóa của một bộ phận cán bộ, công chức trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường và lợi ích kinh tế từ thế lực thù địch cũng là vấn đề cần được chú ý.

Và những hiện tượng chạy chức chạy quyền, đầu cơ, trục lợi, cơ hội cũng đang ngày phát triển

Trong bối cảnh chính sách đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, cán bộ Tòa án cần không chỉ kiến thức chuyên ngành vững vàng mà còn phải nâng cao trình độ tin học và ngoại ngữ Hiện nay, đội ngũ cán bộ TAND cấp huyện vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu này Việc đào tạo thêm về tin học và ngoại ngữ sẽ giúp cán bộ tận dụng tối đa các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà Nhà nước đầu tư, như internet, và hiện đại hóa phương thức làm việc Khi đạt được điều này, hiệu quả công việc sẽ được cải thiện đáng kể, đáp ứng tốt hơn yêu cầu trong thời kỳ hội nhập của đất nước.

Thư ba, Vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải quan tâm là chế độ

Lương của cán bộ TAND cấp huyện chưa phù hợp với khối lượng công việc họ đảm nhiệm, dẫn đến đời sống của họ không đáp ứng đủ nhu cầu Tại đây, số lượng vụ án phức tạp và cần giải quyết khá cao, gây áp lực lớn cho cán bộ Hệ quả là một số vụ án phức tạp vẫn chưa được thụ lý, và áp lực công việc là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của TAND gặp khó khăn.

Vấn đề hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế, gây khó khăn cho TAND cấp huyện trong quá trình xét xử Điều này là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng giải quyết vụ việc khó khăn, kéo dài thời gian và làm cho cán bộ giải quyết công việc bị căng thẳng, từ đó giảm hiệu quả công việc Đặc biệt, trong các vụ án dân sự, nhiều vụ án phức tạp thường xuyên xảy ra, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của TAND huyện.

Vào thứ năm, điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của TAND huyện đã đáp ứng được nhu cầu hoạt động hiện tại Tuy nhiên, để không bị tụt hậu trong bối cảnh phát triển công nghệ thông tin nhanh chóng, cần bổ sung thêm những phương tiện làm việc mới.

Nghiên cứu các hạn chế của TAND cấp huyện cho thấy đây là những vấn đề chung có thể khắc phục Nhà nước đã đề ra những biện pháp cụ thể và sẽ thực hiện nghiêm túc nhằm cải thiện tình hình trong thời gian tới.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TAND CẤP HUYỆN

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), NXB Thống Kê – 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
Nhà XB: NXB Thống Kê – 2007
4. Nghị quyết số 08 - NQ/TW của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (ngày 02 - 01-2002) Sách, tạp chí
Tiêu đề: về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
5. Nghị quyết số 48 - NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2020”, (ngày 24 - 5 - 2005) Sách, tạp chí
Tiêu đề: về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2020
6. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, (ngày 2 - 6 - 2005) Sách, tạp chí
Tiêu đề: về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
8. Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về "Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000";* Sách và tài liệu tham khảo Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000
9. Giáo trình Triết học Mác-Lênin, NXB Chính trị quốc gia, năm 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học Mác-Lênin
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
10. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Đại học Kinh tế quốc dân-2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhà XB: NXB Đại học Kinh tế quốc dân-2008
11. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, NXB Công An nhân dân – 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Hiến Pháp Việt Nam
Nhà XB: NXB Công An nhân dân – 2007
12. Giáo trình “Lý luận Nhà nước và pháp luật”, trường Đại học luật Hà Nội NXB Công an nhân dân - 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận Nhà nước và pháp luật
Nhà XB: NXB Công an nhân dân - 2008
13. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hạn chế quyền lực Nhà nước
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2005
14. Đinh Ngọc Thắng (chủ biên), 2011, Tập bài giảng “Lý luận về Nhà nước Pháp quyền và vấn đề xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận về Nhà nước Pháp quyền và vấn đề xây dựng Nhà nước Pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
15. Nguyễn Văn Đại, (chủ biên), 2011, Tập bài giảng “Học thuyết Tam quyền phân lập” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học thuyết Tam quyền phân lập
16. Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp, năm 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Nhà XB: NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (số 33/2002/QH ngày 02 - 04 - 2002) Khác
3. Pháp lệnh 02/2002/PL-UBTVQH về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày (04/10/2002) Khác
7. Nghị quyết số 1036/2006/NQ-UBTVQH11 (ngày 27-7-2006) Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng Cơ cấu Tổ chức của TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ (1999-2004) - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện từ thực tiễn của tòa án nhân dân huyện chợ mới   bắc kạn
ng Cơ cấu Tổ chức của TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ (1999-2004) (Trang 68)
Bảng Cơ cấu Tổ chức của TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ (2004-2011) - Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện từ thực tiễn của tòa án nhân dân huyện chợ mới   bắc kạn
ng Cơ cấu Tổ chức của TAND huyện Chợ Mới nhiệm kỳ (2004-2011) (Trang 69)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w