Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
Các hoạt động quản l ý đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET
Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề lái xe ở trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET
Giả thuyết khoa học
Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET, cần đề xuất các giải pháp quản lý đảm bảo tính khoa học, đồng bộ và khả thi.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống cơ sở lý luận về quản lý chất lượng đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET là rất quan trọng Nghiên cứu và khảo sát thực trạng công tác quản lý chất lượng đào tạo nghề lái xe tại trường này giúp đánh giá hiệu quả và đưa ra các giải pháp cải tiến cần thiết Việc nâng cao chất lượng đào tạo không chỉ đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động mà còn nâng cao uy tín của nhà trường trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
5.3 Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET.
Phương pháp nghiên cứu
6.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Tập hợp và phân loại tài liệu là quá trình nghiên cứu các tri thức khoa học có trong văn bản của Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục đào tạo cùng với các tài liệu khoa học liên quan.
6.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1 Phương pháp điều tra: áp dụng phương pháp An – két
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi được áp dụng để thu thập ý kiến từ các đối tượng khảo sát về thực trạng quản lý đào tạo của trường, cũng như đánh giá tính cấp thiết và khả năng thực hiện các biện pháp được đề xuất.
6.2.2 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục nghề nghiệp
Thông qua các báo cáo tổng kết và kế hoạch năm học của ngành cũng như Trường CĐN VICET, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác quản lý đào tạo của nhà trường.
6.2.3 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm đầu ra
Nghiên cứu các sản phẩm dạy nghề lái xe từ góc độ của nhà quản lý và ban điều hành, bao gồm Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng khoa, giáo viên và học viên.
6.2.4.Phương pháp lấy ý kiến của chuyên gia
Xin ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực có liên quan
6.3 Nhóm các phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu
Những đóng góp của luận văn
Trường Cao đẳng nghề VICET cần có cơ sở lý luận vững chắc để xác định và nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe Việc này sẽ giúp cải thiện hiệu quả giáo dục tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET, đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong lĩnh vực lái xe.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý hoạt động nâng cao chất lƣợng đào tạo lái xe ở trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET
- Là một trong những tài liệu tham khảo cho trường dạy nghề lái xe
Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1 Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2 Thực trạng nâng cao chất lượng quản lý đào tạo nghề lái xe ở trường
Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET
Chương 3: Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đào tạo nghề lái xe tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Công nghệ VICET
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Đào tạo nghề là quá trình tổ chức dạy và học, nhằm truyền đạt kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho một nghề nghiệp cụ thể Những kiến thức và kỹ năng này giúp người học thực hiện công việc theo sự phân công lao động trong xã hội.
Nghề nghiệp phát triển song hành với tiến bộ xã hội và khoa học kỹ thuật, và trong bối cảnh hiện nay, sự nhanh chóng của công nghệ đã làm cho nhiều nghề trở nên lạc hậu, trong khi nhiều nghề mới xuất hiện và phát triển Đào tạo nghề trở thành nhu cầu thiết yếu trong mọi xã hội, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và hoạch định chính sách Nhiều nghiên cứu, hội thảo và luận văn thạc sĩ, tiến sĩ đã được thực hiện để tìm hiểu về đào tạo nghề cho người lao động từ nhiều góc độ khác nhau Lịch sử cho thấy, khi con người hợp tác để tự vệ và mưu sinh, lao động tập thể cần sự phối hợp và quản lý để đạt được mục tiêu chung C Mác đã chỉ ra rằng lao động xã hội quy mô lớn cần sự quản lý để đảm bảo sự tương hợp giữa các công việc cá nhân Do đó, hoạt động quản lý đã xuất hiện sớm và khoa học quản lý cũng đã phát triển để đáp ứng nhu cầu kinh tế và xã hội Nhiều công trình nghiên cứu về quản lý chất lượng và quản lý đào tạo nghề đã được thực hiện bởi các tác giả từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.
Theo tác giả Freeman (1994) trong tác phẩm “Đảm bảo chất lượng trong giáo dục và đào tạo”, Đảm bảo chất lượng (ĐBCL) là một phương pháp hệ thống mà ngành công nghiệp sản xuất áp dụng để đạt được chất lượng tối ưu ĐBCL giúp xác định nhu cầu thị trường và điều chỉnh các quy trình làm việc nhằm đáp ứng hiệu quả những nhu cầu đó.
Trên lĩnh vực đào tạo nghề Navigation, search (1997), trong công trình
"Cơ quan ĐBCL giáo dục đại học nhấn mạnh rằng mỗi cơ sở đào tạo (CSDN) cần có quy trình đảm bảo chất lượng nội bộ riêng biệt Để thực hiện đánh giá và kiểm soát chất lượng bên ngoài, cơ quan này tiến hành các chuyến thăm tới các CSDN, nhằm đưa ra báo cáo về những ưu điểm cũng như khuyến nghị giúp các cơ sở tự cải thiện."
Danielle Colardyn (1998) trong nghiên cứu “Đảm bảo chất lượng CSĐT trong dạy nghề thường xuyên” nhấn mạnh tầm quan trọng của đảm bảo chất lượng (ĐBCL) trong giáo dục nghề nghiệp suốt đời Mỗi quốc gia phát triển theo cách tiếp cận riêng về ĐBCL, với các tiêu chí chung được sử dụng như điểm tham chiếu Những tiêu chí này sẽ trả lời các câu hỏi khác nhau và nhấn mạnh sự cần thiết của “bên thứ ba” để cung cấp đánh giá khách quan.
Theo Abd Jamil Abdullah (2000), chất lượng dịch vụ đạt được trên thực tế phụ thuộc vào lý thuyết nguồn lực và cách thức tổ chức sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có của mình.
Mô hình QLCL Châu Âu (EFQM) do Paul Watson (2002) phát triển là một khung tự đánh giá giúp các tổ chức nhận diện điểm mạnh và điểm yếu trong quản lý chất lượng Mục tiêu của mô hình này là cải thiện hoạt động của tổ chức, từ đó cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm xuất sắc cho khách hàng và các bên liên quan Mỗi tổ chức có thể áp dụng EFQM theo cách riêng để quản lý, cải tiến và phát triển bền vững.
Tổ chức các Bộ trưởng giáo dục Đông Nam Á (2003), trong công trình
Khung đảm bảo chất lượng trong khu vực xác định hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo bao gồm tổ chức, thủ tục, quy trình và nguồn lực cần thiết cho các cơ sở đào tạo Mục tiêu là quản lý đồng bộ để đạt được các tiêu chuẩn, tiêu chí và chỉ số cụ thể do nhà nước quy định, từ đó nâng cao và cải tiến chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học và thị trường lao động.
Theo nghiên cứu của Theo Petros Kefalas và các cộng sự (2003), một hệ thống đảm bảo chất lượng (ĐBCL) cần bao gồm các tiêu chuẩn quan trọng như chương trình học tập hiệu quả, đội ngũ cán bộ giảng viên chất lượng, khả năng khai thác cơ sở hạ tầng hiện có, phản hồi tích cực từ học viên, cùng với sự hỗ trợ từ các bên liên quan và thị trường lao động.
Mô hình ĐBCL ở các nước Đông Nam Á rất đa dạng, tuy nhiên, điểm chung là hầu hết các cơ quan ĐBCL quốc gia đều do nhà nước thành lập và được cấp kinh phí, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kiểm định.
Theo Anna Maria Tammaro (2005), trong báo cáo về các mô hình Đảm bảo Chất lượng (ĐBCL) trong Thông tin Thư viện (LIS), có ba mô hình chính được xác định từ các hướng dẫn và tiêu chuẩn khác nhau: Định hướng chương trình, Định hướng quá trình giáo dục và Định hướng kết quả học tập.
Tại Việt Nam, đào tạo nghề đã có một lịch sử phát triển lâu dài, liên quan chặt chẽ đến sự hình thành của các làng nghề và cơ sở sản xuất nông nghiệp Mặc dù khoa học quản lý được nghiên cứu muộn, nhưng tư tưởng về quản lý và "Phép trị nước an dân" đã tồn tại từ rất lâu Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã nhấn mạnh: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", cho thấy các minh quân Việt Nam từ xa xưa đã luôn đặt dân làm trung tâm trong công tác quản lý đất nước.
Lịch sử công tác đào tạo nghề ở Việt Nam đƣợc chia thành các giai đoạn:
Giai đoạn 1969 - 1975 đánh dấu sự hình thành của nhiều trường dạy nghề ở miền Bắc Việt Nam Đến cuối năm học 1974 - 1975, miền Bắc đã có 185 trường dạy nghề, với quy mô đào tạo hệ dài hạn lên tới 160.000 học sinh.
Giai đoạn 1975 - 1986 đánh dấu những bước tiến quan trọng trong đào tạo nghề tại Việt Nam, với sự hình thành hệ thống các trường sư phạm kỹ thuật và trung tâm dạy nghề ở khắp các tỉnh, quận, huyện Mục tiêu của giai đoạn này là cung cấp đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động, theo phương châm "Nhà nước, tập thể và người dân cùng chăm lo sự nghiệp dạy nghề" Đến hết năm học 1985 - 1986, cả nước đã có 05 trường sư phạm kỹ thuật và 298 trường dạy nghề.
220 trung tâm dạy nghề với quy mô đào tạo dài hạn 113.000 học sinh