Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1941 đến 1945 đã đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm đồng minh chống phát xít và giành chính quyền Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này từ các góc độ khác nhau, bao gồm lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Cuốn sách “OSS và Hồ Chí Minh - Đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật” của Dixee R Bartholomew - Feis (NXB Thế giới, Hà Nội năm 2007) là một nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về lịch sử quan hệ giữa Việt Nam và OSS trong bối cảnh cuộc chiến chống phát xít Nhật Tác phẩm này không chỉ cung cấp cái nhìn rõ nét về sự hợp tác giữa Hồ Chí Minh và OSS mà còn làm nổi bật những yếu tố chính trị và chiến lược trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã có mối quan hệ quan trọng với Mặt trận Việt Minh và Hồ Chí Minh thông qua Cơ quan tình báo chiến lược (OSS), tiền thân của CIA Cuốn sách tập trung vào sự hợp tác giữa các lực lượng này và vai trò của Mỹ trong bối cảnh lịch sử phức tạp của Việt Nam.
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương đã đối đầu với phát xít Nhật, đặc biệt là Hoa Kỳ Tuy nhiên, bài viết này chỉ mới tập trung vào mối quan hệ Việt - Mỹ trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuốn sách “Why Viet Nam?” của tác giả L.A Patti (NXB Đà Nẵng năm 1995) chỉ đề cập một phần mối quan hệ đồng minh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mà chưa đi sâu vào nghiên cứu quan hệ quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương trong giai đoạn lịch sử này.
Tác phẩm “Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt - Pháp thời kỳ
Cuốn sách "1945-1946" của tác giả Lê Kim Hải, xuất bản bởi NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, khám phá mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đồng minh chiến lược cũng như Đồng minh điều kiện Tác phẩm cũng đề cập đến các hoạt động quốc tế và những chủ trương đối ngoại của Đảng trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Cộng sản Đông Dương trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi
Trong cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam (1945 - 2000)” của Lưu Văn Lợi, tác giả đã phân tích bản chất và đặc điểm của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam, đồng thời tổng kết những thành tựu nổi bật trong hoạt động ngoại giao của Đảng, Nhà nước và nhân dân Công trình này không chỉ ghi nhận những thành công mà còn chỉ ra những hạn chế trong công tác đối ngoại, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu có giá trị lý luận và thực tiễn cho hoạt động ngoại giao của Việt Nam.
Một số cuốn sách và ấn phẩm về ngoại giao Việt Nam và hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương đã đề cập đến nội dung nghiên cứu của chúng tôi Tuy nhiên, các tài liệu này chủ yếu chỉ dừng lại ở mức khái quát và chưa đi sâu vào chi tiết về hoạt động quốc tế của Đảng trong giai đoạn 1941 - 1945 Dựa trên những thành quả của các nghiên cứu trước, chúng tôi nỗ lực hệ thống hóa và làm rõ vấn đề này.
Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu : “Hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương góp phần tìm đồng minh chống phát xít và giành chính quyền giai đoạn 1941 - 1945”
Nhiệm vụ nghiên cứu nhằm đánh giá bối cảnh lịch sử quốc tế và trong nước trước Cách mạng tháng Tám, từ đó xác định các chủ trương và sách lược mới của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quan hệ quốc tế Đề tài này góp phần làm rõ vai trò của Đảng trong hoạt động quốc tế, đồng thời thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng tạo và linh hoạt của Đảng trong giai đoạn này.
Giai đoạn 1941 - 1945, sự lãnh đạo của Đảng đã đóng vai trò quyết định trong thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 Từ hoạt động quốc tế của Đảng, chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá cho công tác đối ngoại hiện nay.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào tình hình thế giới và Việt Nam, cùng với các hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương trong và ngoài nước trước và sau khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám.
Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tài liệu lưu trữ: văn kiện Đảng và Hồ Chí Minh toàn tập về công tác đối ngoại thời kỳ 1941 - 1945
Nguồn tài liệu tham khảo cho bài viết này bao gồm sách báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu đã được công bố trong và ngoài nước, liên quan đến ngoại giao Việt Nam trước và trong năm 1945.
Tài liệu hồi cố bao gồm hồi ký của các lãnh đạo và nhà hoạt động ngoại giao, được viết bằng tiếng Việt hoặc dịch sang tiếng Việt Chúng tôi đã khai thác những tài liệu này tại Trung tâm thư viện trường Đại học Vinh, Thư viện Tỉnh Nghệ An và Thư viện Quốc gia.
- Tài liệu báo chí: báo viết, báo hình, báo điện tử liên quan đến đề tài nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của bài viết được xây dựng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác ngoại giao Những nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược và chính sách đối ngoại của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Chúng tôi áp dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành cơ bản là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành như phân tích, đánh giá, thống kê, xác minh nguồn tư liệu và phỏng vấn báo chí để thực hiện đề tài.
Đóng góp của luận văn
Luận văn hoàn thành có những đóng góp về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Phục dựng lại các hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương thời kỳ 1941 - 1945
- Phân tích đƣợc vai trò hoạt động quốc tế của Đảng đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn 1941 - 1945
- Hệ thống lại nguồn tƣ liệu liên quan đến hoạt động quốc tế của Đảng giai đọan 1941 - 1945
- Góp phần nêu lên một số bài học cũng nhƣ đề xuất một vài kinh nghiệm trong công tác ngoại giao.
Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương sau:
Chương 1 Bối cảnh lịch sử và vấn đề đặt ra đối với hoạt động quốc tế của Đảng giai đoạn 1941 - 1945
Chương 2 Hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương
Chương 3 Vai trò hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1941- 1945
Bối cảnh lịch sử
Ngày 1 - 9 - 1939, Đức tấn công Ba Lan Ngày 3 - 9 - 1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ Tuy tuyên chiến với Đức nhƣng Anh và Pháp chƣa có động thái quân sự nào đối với quân Đức, mà ngồi dưới chiến hào nghe ngóng, hi vọng phát xít Đức sẽ tấn công và tiêu diệt Liên Xô, lịch sử gọi là “Cuộc chiến tranh kỳ quặc” Trước thái độ do dự của Anh và Pháp, phát xít Đức nhanh chóng tấn công và lần lượt chiếm các nước Châu Âu Đế quốc Pháp lao vào cuộc chiến Chính phủ của Mặt trận nhân dân Pháp do Bluma làm Thủ tướng bị lật đổ, chính phủ Daladier lên cầm quyền, thi hành những chính sách hết sức phản động: ở trong nước tiến hành đàn áp lực lượng dân chủ và tìm cách tiêu diệt phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật
Tháng 6 - 1940, phát xít Đức tấn công Pháp Do thái độ “dung dƣỡng” của Anh, Pháp đối với Đức với hi vọng Đức sẽ tấn công Liên Xô Hơn nữa, Pháp chủ quan có chiến lũy Maginô đã đƣợc xây dựng kiên cố, quân Đức không thể vƣợt qua Nhƣng lính Đức đã không vƣợt qua chiến lũy Maginô mà đi vòng sang Bỉ, Hà Lan, Lucxămbua tiến ra biển, đe dọa bao vây quân Anh - Pháp trên đất Bỉ Chính phủ Hà Lan, Bỉ đầu hàng quân Đức đã đẩy quân Anh - Pháp vào tình thế nguy nan, 45 sƣ đoàn bị đẩy lùi ra biển Lúc này, các sƣ đoàn xe tăng của Đức dừng tiến công nên quân Anh - Pháp có cơ hội rút chạy, song tổn thất vẫn rất nặng nề: Anh - Pháp rút đƣợc 130.000 quân, 130.000 quân Pháp, 8000 quân bị bắt làm tù binh và 100 máy bay của Anh bị hạ, gần 200 tàu chiến bị đánh chìm và nhiều phương tiện chiến tranh bị phá hủy Quân Đức nhanh chóng tiến sâu vào lãnh thổ Pháp Ngày 12 - 6, Tổng tƣ lệnh Pháp là Weygand ra lệnh rút lui Thủ đô Pari bị bỏ ngỏ Ngày 14 - 6 Đức tiến vào Pari Ngày 17 - 6, Chính phủ Pêtanh đƣợc thiết lập, đóng đô ở Vichy, Pêtanh trở thành quốc trưởng, nền cộng hòa bị xóa bỏ Ngày 22 - 6 - 1940, Chính phủ Pêtanh đầu hàng, trở thành chính phủ bù nhìn và rút về miền Nam nước Pháp Chính phủ phản động này đã chấp nhận nộp 233.500 frăng tiền chiếm đóng và lệ phí cho quân Đức trong thời gian 4 năm từ 1940 đến 1944 Một bộ phận yêu nước do Đờ Gôn cầm đầu đã bí mật sang Anh tiến hành cuộc kháng chiến chống Đức Tại Angiêri, Đờ Gôn tuyên bố thành lập Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp, không công nhận Chính phủ Pêtanh Chính sự thỏa hiệp, “dung dƣỡng” của Pháp và Anh đối với phe phát xít đã buộc Pháp phải trả giá bằng sự thất bại nhục nhã trước cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức Đó là “tấn trò đời”, là bi kịch của nước Pháp
Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng sâu sắc đến Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam Vào tháng 7 năm 1939, Catơru được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương Tại Hội đồng Chính phủ Đông Dương vào ngày 4 tháng 1, những quyết định quan trọng đã được đưa ra để đối phó với tình hình chiến tranh.
Năm 1940, ông tuyên bố rằng để Đông Dương được yên ổn và trung thành với nước Pháp, cần phải đánh bại các tổ chức cộng sản một cách toàn diện và nhanh chóng Ông nhấn mạnh rằng chiến tranh buộc chúng ta phải hành động quyết liệt và không có quyền thất bại.
Ngày 28 - 9 - 1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán và tịch thu của cải của các hội hữu ái, nghiệp đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người Bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố Có thể nói rằng, thực dân Pháp ở Đông Dương đã xiết chặt bộ máy thống trị, thủ tiêu mọi quyền lợi mà nhân dân Đông Dương đấu tranh đạt được trong phòng trào dân chủ 1936 - 1939
Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách thời chiến tàn bạo tại Việt Nam và Đông Dương, với việc phát xít hóa bộ máy cai trị và đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng Họ tập trung lực lượng để tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, tiến hành hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ và lục soát trên diện rộng.
Thực dân Pháp đã ban hành lệnh Tổng động viên và thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm khai thác sức người và tài nguyên của Đông Dương phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc, dẫn đến việc 80.000 người Việt Nam bị đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn Chính sách bóc lột này còn thể hiện qua việc tăng cường phát hành bạc giấy, kiểm soát sản xuất và áp dụng nhiều loại thuế mới Catơru, trong diễn văn khai mạc Đại hội đồng kinh tế và tài chính Đông Dương tháng 11-1939, đã nhấn mạnh rằng Đông Dương phải phục vụ lợi ích của mẫu quốc, cung cấp nhân lực và sản phẩm cho Pháp Đông Dương đóng vai trò chiến lược quan trọng không chỉ với thực dân Pháp mà còn với phát xít Nhật, đặc biệt trong bối cảnh Nhật tăng cường sức ép để chiếm đóng khu vực này sau khi Pháp thất bại trước Đức Vào tháng 6-1940, phát xít Nhật đã yêu cầu chính quyền Pháp đóng cửa biên giới Việt - Trung và ngừng cung cấp tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch.
Ngày 2 - 8 - 1940, Nhật yêu cầu Pháp cho quân đội Nhật vào Đông Dương, sử dụng các sân bay, hải cảng vào mục đích quân sự Hơn nữa, Nhật bắt buộc Pháp phải cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm, tài chính, doanh trại cho quân đội Nhật Chính quyền Pháp ở Đông Dương chấp nhận hầu hết các yêu sách của phát xít Nhật Tuy nhiên, ngày 23 - 9 - 1940, Nhật vẫn đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom ở Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn, quân Pháp mau chóng thất bại
Trước sự rút lui của quân Pháp, nhân dân Bắc Sơn đã nhanh chóng khởi nghĩa và giành thắng lợi, dẫn đến việc thành lập đội du kích Bắc Sơn Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quân dân nơi đây, Nhật và Pháp đã hoảng sợ và lập tức cấu kết với nhau.
Sự cấu kết giữa Nhật và Pháp đã khiến nhân dân Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, rơi vào cảnh áp bức và bóc lột nghiêm trọng Cuộc sống của người dân trở nên khốn khổ, nạn đói lan tràn Hồ Chí Minh đã viết: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương để thiết lập căn cứ chống Đồng minh, trong khi thực dân Pháp đầu hàng và mở cửa đón Nhật, từ đó dân ta phải gánh chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật.”
Chính sách tàn bạo của phát xít Nhật - Pháp đã dẫn đến cái chết của hơn hai triệu người Việt Nam do đói kém vào năm 1945, làm gia tăng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và các thế lực thực dân Tình hình này đã tạo ra một bối cảnh căng thẳng, thúc đẩy phong trào cách mạng và khẳng định rằng "Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng".
Việt Nam và Đông Dương không chỉ là mục tiêu tranh chấp giữa thực dân Pháp và phát xít Nhật, mà còn là khu vực chiến lược thu hút sự chú ý của các cường quốc lớn Tham vọng của các đế quốc đối với Việt Nam và Đông Dương trở nên rõ rệt, đặc biệt trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tham vọng các nước đế quốc đối với Việt Nam
Đông Dương có vị trí chiến lược quan trọng, tiếp giáp với Thái Bình Dương và nối liền với lục địa Châu Á, đóng vai trò là cửa ngõ đến Trung Á và Vân Nam - Trung Quốc Khu vực này sở hữu tiềm năng kinh tế lớn và lực lượng quân sự mạnh mẽ Đông Dương còn án ngữ trên tuyến giao thông đường biển từ Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á, kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, cho phép kiểm soát việc vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông đến Đông Bắc Á.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam và Đông Dương trở thành mục tiêu tranh chấp của các cường quốc đế quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật và Trung Hoa Dân quốc Trong số đó, phát xít Nhật là đế quốc hung hăng nhất, thể hiện tham vọng xâm lược mạnh mẽ đối với bán đảo Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 1929 đến 1933 đã thúc đẩy Nhật Bản theo đuổi chủ nghĩa phát xít, khiến Việt Nam - Đông Dương trở thành mục tiêu chiến lược trong tham vọng mở rộng lãnh thổ của quốc gia này tại châu Á Theo tài liệu công bố của Bộ tham mưu Hải quân Nhật Bản vào ngày 1 tháng 8 năm 1940, vị trí của Việt Nam trong kế hoạch thôn tính của Nhật Bản là vô cùng quan trọng.
Nghiên cứu những chính sách đối với Đông Dương chỉ ra rằng khu vực này mang lại nhiều lợi thế cho Nhật Bản, đặc biệt là khả năng sử dụng Đông Dương làm bàn đạp để tấn công Miến Điện và Mã Lai Việt Nam có vị trí chiến lược lý tưởng cho sự tiến quân của Nhật, với Cam Ranh là cảng quân sự hàng đầu thế giới, kết nối các tuyến giao thông thủy quan trọng trong khu vực Đông Nam Á Trong bối cảnh chiến tranh Thái Bình Dương, Đông Dương còn có thể cung cấp quân lực để hỗ trợ các mặt trận Sự quan tâm của Nhật Bản đối với Đông Dương gia tăng từ khi họ xâm lược Trung Quốc vào năm 1937, do vị trí địa lý của Việt Nam nằm sát phía Nam Trung Quốc Mặc dù Nhật Bản đã chiếm nhiều lãnh thổ Trung Quốc, nhưng họ không thể kiểm soát được con đường tiếp tế vũ khí cho Trung Quốc qua Đông Dương Các nhà lãnh đạo quân sự Nhật Bản tin rằng việc cắt đứt con đường này sẽ giúp họ nhanh chóng giành chiến thắng Do đó, vào đầu năm 1939, Tướng Trushibashi đã yêu cầu Pháp ngừng việc chuyển vũ khí sang Trung Quốc, nhưng bị từ chối Hệ quả là vào tháng 4 năm 1939, Nhật Bản đã ném bom các tuyến đường sắt biên giới Việt - Trung, tuy nhiên, hành động này không đạt được hiệu quả mong muốn.
Ngày 18 - 6 - 1940, Nhật gửi tối hậu thư, buộc toàn quyền Đông Dương phải cho ngừng mọi hoạt động vận chuyển hàng hóa, phương tiện chiến tranh vào Trung Quốc qua Đông Dương và Pháp phải đồng ý để phái đoàn Nhật sang Đông Dương giám sát việc Pháp thực hiện Đồng thời điều tra thực lực của Pháp ở Đông Dương, thăm dò tình hình dân chúng và thám thính về quân sự, chuẩn bị cho việc đem quân sang xâm lược Đông Dương Ngày 29 - 6 - 1940, tướng Nishihara cùng với phái đoàn giám sát đến Hà Nội Sang Việt Nam, Nhật Bản tiến hành thiết lập các trạm kiểm soát ở Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Hà Giang, Lào Cai, Hải Phòng, Nhật Bản yêu cầu Pháp nộp tất cả hàng hóa Trung Quốc quá cảnh qua biên giới Việt - Trung và cho phép chuyển vũ khí, đạn dược từ Trung Quốc vào Bắc Kỳ, cũng như điều trị thương binh Nhật tại các bệnh viện Bắc Kỳ Nhật Bản cũng yêu cầu Pháp cho quân đội tiến vào Trung Quốc qua biên giới Việt - Trung và cung cấp khoáng sản quý phục vụ cho công nghiệp chiến tranh Tất cả những đề nghị này đã được Toàn quyền Đông Dương Catơru chấp nhận vào ngày 9-7-1940 Nhà sử học Yoshizawa nhận định rằng việc Catơru chấp thuận các yêu cầu của Nhật Bản là do tình hình thất bại của Pháp trước Đức, và ông tin rằng việc nhượng bộ có giới hạn sẽ tốt hơn so với việc mất toàn bộ Đông Dương Tuy nhiên, Chính phủ Pêtanh đã không hài lòng với những nhượng bộ này và cử Đờcu thay thế, nhưng Đờcu lại thiếu quyết đoán và tiếp tục hợp tác với Nhật.
Năm 1940, Nhật Bản với tham vọng bá chủ Đông Á đã đối mặt với sự lựa chọn giữa vũ lực và hòa bình Mặc dù giới quân sự nôn nóng sử dụng sức mạnh, chính quyền Nhật Bản đã quyết định theo đuổi giải pháp thỏa hiệp, tuyên bố rằng mục tiêu của họ là thiết lập một trật tự mới ở Đông Á thông qua biện pháp hòa bình Quyết định này phản ánh sự thận trọng của Nhật Bản trong việc chưa sử dụng vũ lực để khẳng định quyền lực trong khu vực.
Mỹ đang trở thành cường quốc mạnh mẽ, trong khi đế quốc Anh vẫn chưa bị phát xít đánh bại Ở Đông Dương, phát xít Nhật có tham vọng xâm chiếm nhưng chưa sử dụng vũ lực, thay vào đó áp dụng biện pháp hòa bình Chính quyền Nhật Bản coi việc sử dụng thực dân Pháp làm công cụ thống trị là giải pháp khéo léo và tiết kiệm Vào ngày 26-6-1940, Nagata Yasukichi, Tổng lãnh sự Nhật tại Hà Nội, đã đề xuất kế hoạch chiếm Đông Dương bằng cách kích thích ý thức dân tộc, hy vọng rằng người dân Việt Nam sẽ ủng hộ Nhật để thành lập chính phủ lâm thời Sau khi đảo chính Pháp, Nhật sẽ trao "độc lập" cho chính quyền Bảo Đại thông qua chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim Tuy nhiên, từ năm 1940-1945, Nhật đã quyết định sử dụng chính quyền Pháp làm công cụ thống trị Đông Dương, nhằm đạt được mục tiêu chiến thắng trong cuộc chiến Thái Bình Dương Vào tháng 11-1941, Hội đồng Chiến tranh tối cao Nhật Bản đã xác định rằng cần giành nguồn nguyên liệu thô và đảm bảo tự do vận chuyển, đồng thời không ngần ngại đàn áp người bản xứ như ở Trung Quốc Hai tháng sau, phát xít Nhật đã ra tối hậu thư lần thứ hai yêu cầu đưa quân vào chiếm các sân bay ở Đông Dương, trong khi toàn quyền Đông Dương Đờcu tỏ ra bất lực Cuối hè 1940, Chính phủ Vichy đã nhượng bộ Nhật Bản, công nhận quyền lợi tối cao của Nhật ở Viễn Đông, với hy vọng rằng sự chiếm đóng chỉ là tạm thời và giới hạn ở Bắc Kỳ.
Nhật Bản đã chính thức công nhận "chủ quyền" của Pháp tại Đông Dương, thể hiện qua thông báo của Ngoại trưởng Nhật Bản Matsuoka Yosuke gửi đến đại sứ Chính phủ Vichy tại Nhật Ông nhấn mạnh rằng Chính phủ Nhật Bản cam kết tôn trọng quyền lợi của Pháp ở Viễn Đông, đặc biệt là sự toàn vẹn lãnh thổ của Đông Dương và chủ quyền của Pháp trên toàn Liên bang Đông Dương.
Vào tháng 9 năm 1940, Nhật Bản đã gửi tối hậu thư thứ ba yêu cầu Pháp tiếp tục nhượng bộ về kinh tế và quân sự tại Đông Dương, trong đó bao gồm việc cho phép Nhật sử dụng cảng Hải Phòng để chuyển quân và nhận nguyên vật liệu chiến tranh cho quân đội Nhật tại miền Nam Trung Quốc Điều này giúp Nhật Bản ngăn chặn nguồn tiếp tế của Đồng minh cho Tưởng Giới Thạch qua cảng Hải Phòng Đồng thời, Pháp cũng đồng ý cho Nhật thiết lập ba sân bay và đưa 6000 quân vào chiếm đóng Bắc Kỳ.
Vào đêm 22 tháng 9 năm 1940, Nhật Bản đã tấn công và chiếm Lạng Sơn, Đồng Đăng, đồng thời sử dụng máy bay để thị uy tại Hà Nội, mặc dù Pháp đã chấp nhận hầu hết các yêu cầu của Nhật Sự hoảng sợ của thực dân Pháp đã dẫn đến việc họ nhanh chóng đầu hàng và ký kết các thỏa thuận vào ngày 22 tháng 9 năm 1940 Từ đó, chính quyền Pháp tại Đông Dương chỉ còn chức năng quản lý, biến Đông Dương thành bán thuộc địa của Nhật Bản Nhật Bản được phép tự do sử dụng Đông Dương, thắt chặt biên giới Việt - Trung và biến nơi đây thành căn cứ cung cấp vật lực cho kế hoạch thôn tính Trung Quốc và Đông Nam Á.
Nhật Bản đã đưa quân sang Đông Dương nhằm lợi dụng thời điểm Pháp thất bại, chiếm đoạt một phần thuộc địa của Pháp để khai thác nguồn nguyên liệu quý giá phục vụ cho chiến tranh Họ xem Đông Dương như một căn cứ quân sự để tấn công Hoa Nam và cắt đứt tuyến tiếp tế vũ khí cho Trung Quốc tại Diến Điện, nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn ở Trung Quốc, đồng thời sử dụng Đông Dương làm cầu nối để tiến vào miền Nam Dương Á châu.
Từ ngày 22 tháng 9 năm 1940 đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản và Pháp đã hợp tác để thống trị nhân dân Đông Dương, thành lập Ủy ban Hỗn hợp Pháp - Nhật nhằm giải quyết những khó khăn trong mối quan hệ giữa hai đế quốc Trong thực tế, Nhật Bản trở thành kẻ ra lệnh, còn Pháp buộc phải tuân theo Hồ Chí Minh đã nhận xét sắc sảo về tình hình này, cho rằng người Nhật trở thành chủ nhân thực sự, trong khi người Pháp chỉ là nô lệ được tôn trọng Người dân Đông Dương phải chịu cảnh nô lệ kép, vừa phục tùng Nhật Bản vừa phụ thuộc vào Pháp Thời kỳ này, phát xít Nhật đã biến Pháp thành công cụ phục vụ cho mình, thể hiện qua các Hiệp ước bất bình đẳng mà Pháp phải ký với Nhật trong các lĩnh vực kinh tế, quân sự và chính trị.
Vào ngày 6 tháng 5 năm 1941, Hiệp định Tôkiô được ký kết, đánh dấu sự công nhận quyền lợi kinh tế của Nhật Bản tại Đông Dương, biến nơi đây thành thị trường độc quyền của Nhật Nhật yêu cầu Pháp nhường 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu, khiến hầu hết hàng hóa xuất nhập khẩu của Đông Dương đều hướng về Nhật Ngoài ra, Nhật kiểm soát hệ thống đường sắt và yêu cầu Pháp cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm và tài chính Từ năm 1940 đến 1945, Pháp phải nộp cho Nhật một khoản tiền lớn, tăng dần theo từng năm: 6 triệu đồng năm 1940, 58 triệu đồng năm 1941, 86 triệu đồng năm 1942, 363 triệu đồng năm 1944 và 90 triệu đồng năm 1945.
4 năm 6 tháng, chính quyền thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786 nghìn đồng” [26; 24-25]
Vào ngày 29 tháng 7 năm 1941, Pháp đã ký kết Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương với Nhật Bản, cho phép quân Nhật vào Sài Gòn và chiếm giữ các vị trí chiến lược ở Nam Bộ, nhằm tạo điều kiện cho kế hoạch xâm chiếm khu vực này.
Vấn đề đặt ra trong quan hệ quốc tế của Đảng
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương đối mặt với nhiều khó khăn do sự áp bức từ đế quốc và phát xít Nhật - Pháp Nhân dân Đông Dương bị đè nén bởi hai tầng áp bức nô lệ và phong trào cách mạng bị đàn áp tàn bạo Việt Nam trở thành mục tiêu trong các mưu đồ của các cường quốc tư bản như Mỹ, Anh, và Pháp, với những tham vọng xâm chiếm hoặc thiết lập ảnh hưởng trong khu vực Các thế lực này không chỉ tranh giành quyền kiểm soát mà còn tìm kiếm liên minh để bảo vệ lợi ích riêng, đồng thời hợp tác đàn áp phong trào cách mạng tại bán đảo Đông Dương.
Đảng Cộng sản Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã đưa ra những chủ trương và sách lược linh hoạt để đối phó với các thế lực đế quốc, vượt qua nhiều thử thách Đảng đã xác định rõ kẻ thù chính cần tiêu diệt, đồng thời xây dựng mối quan hệ với các nước Đồng minh và lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam được khẳng định là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nhấn mạnh rằng cách mạng Việt Nam là một phần của phong trào cách mạng thế giới Đảng Cộng sản Đông Dương đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc tế cộng sản, cùng nhau thành lập Mặt trận chung chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đế quốc, dẫn đến việc thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương giữa Việt Nam, Lào và Campuchia.
Hồ Chí Minh trở về nước trong bối cảnh cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh mẽ đến vận mệnh dân tộc Nhân dân Việt Nam phải chịu đựng áp bức nặng nề từ phát xít và thực dân Pháp, Nhật Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh đế quốc, trở thành con cờ trong tay các nước thực dân Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã được triển khai theo tư tưởng của Người.
Trong quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, với sự nhận thức rõ ràng về tác động của quan hệ quốc tế đến tiến trình cách mạng Người nhấn mạnh vai trò quyết định của các yếu tố nội tại, đồng thời coi trọng sự hỗ trợ từ bên ngoài Trong tư tưởng ngoại giao giai đoạn 1941 - 1946, Hồ Chí Minh chú trọng phát hiện bạn - thù, từ đó đề ra các chủ trương và biện pháp nhằm tranh thủ đồng minh và phân hóa, cô lập kẻ thù để đạt hiệu quả cao nhất Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh cũng phân tích mâu thuẫn giữa các nước đế quốc để khai thác sâu thêm những mâu thuẫn đó.
Trong quá trình xây dựng chiến lược cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến chính sách đối ngoại Trong bối cảnh Việt Nam thời điểm đó, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương Thời kỳ 1941 - 1945, các hoạt động quốc tế của Đảng đã thể hiện tài năng ngoại giao xuất sắc của Hồ Chí Minh, khi Người biết cách nhận thức bản thân, đối thủ và thời thế, đồng thời biết dừng lại và thay đổi chiến lược Người cũng khéo léo phát hiện và khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tìm cách kết bạn và giảm thù, mở rộng hòa hiếu.
Hoạt động quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương trong thời kỳ 1941 -
Năm 1945, việc tìm kiếm đồng minh và sự công nhận quốc tế cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam là cực kỳ quan trọng, nhằm đạt được mục tiêu "thêm bạn bớt thù" Các hoạt động quốc tế này không chỉ giúp tranh thủ điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà còn là nỗ lực thu hút sự hỗ trợ từ bên ngoài, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám Những chủ trương đối ngoại của Đảng đã đóng vai trò quyết định trong sự thành công rực rỡ của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm chia rẽ hệ thống tư bản chủ nghĩa thành hai phe đối kháng, dẫn đến một cuộc chiến tranh thảm khốc nhằm giành giật thị trường toàn cầu Các quốc gia thuộc địa và phụ thuộc cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc chiến này.
Trong bối cảnh Việt Nam là thuộc địa của Pháp, đất nước này phải đối mặt với những tác động nặng nề từ cuộc chiến tranh, đặc biệt là sự xâm lược của phát xít Nhật vào Đông Dương, bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia Dưới sự cấu kết của đế quốc Pháp và phát xít Nhật, nhân dân Việt Nam rơi vào tình cảnh nô lệ kép Thời kỳ trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Nam trở thành điểm nóng tranh chấp giữa các nước đế quốc Trong cuộc chiến, Việt Nam đã chứng kiến những hậu quả nghiêm trọng từ cuộc tấn công của quân đội Nhật nhằm chiếm đóng Do sức mạnh quân sự yếu kém, Pháp buộc phải đầu hàng và trở thành công cụ cho Nhật trong việc thống trị Việt Nam và Đông Dương, nhưng không thể từ bỏ vùng đất giàu có và xinh đẹp này mà họ đã khai thác trong nhiều năm.
Pháp đang âm thầm chuẩn bị lực lượng để chờ thời cơ tấn công Nhật Bản, trong bối cảnh cả hai đế quốc đều mâu thuẫn và khao khát chiếm lĩnh Việt Nam và Đông Dương Cuối cùng, phát xít Nhật đã giành chiến thắng trước đế quốc Pháp trong cuộc tranh chấp này.
Việt Nam là điểm nóng cho các đế quốc thể hiện tham vọng, với sự đối lập giữa các cường quốc trong hệ thống tư bản chủ nghĩa Phát xít Nhật có ý định xâm lược, trong khi Anh - Pháp muốn duy trì quyền kiểm soát của Pháp tại Việt Nam, và Mỹ - Tưởng tìm cách thiết lập ảnh hưởng Các đế quốc thường nhượng bộ và thỏa hiệp nhằm đối phó với chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc Đối với phát xít Nhật, chiếm lĩnh Việt Nam và Đông Dương là thiết yếu cho tham vọng bá chủ khu vực châu Á và mở rộng chiến tranh ở châu Á - Thái Bình Dương Ngược lại, Pháp xem Việt Nam và Đông Dương là thuộc địa chiến lược mang lại lợi ích lớn, vì vậy họ sẽ không dễ dàng từ bỏ quyền kiểm soát.
Do không thể đánh bại quân Nhật, Pháp buộc phải thỏa hiệp và tìm kiếm sự hỗ trợ từ Đồng minh Khi chiến tranh gần kết thúc và chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, Pháp ráo riết khẳng định quyền lực tại Việt Nam và Đông Dương Để không bị cô lập, Pháp liên minh với Anh nhằm chống lại chính sách “ủy trị quốc tế” của Mỹ, trong khi Anh, đồng minh thân cận của Pháp, cũng mạnh mẽ phản đối chính sách này.
Mỹ đã bênh vực và hỗ trợ Pháp trong việc xác lập chủ quyền ở Việt Nam và Đông Dương, nhằm bảo vệ lợi ích của mình tại Đông Nam Á và Trung Đông, đồng thời chống lại ảnh hưởng ngày càng lớn của Mỹ trên toàn cầu Đế quốc Mỹ, với sức mạnh kinh tế và quân sự, tìm cách mở rộng ảnh hưởng đến khu vực này thông qua chính sách “ủy trị quốc tế”, lên án chủ nghĩa thực dân cũ và gạt bỏ ảnh hưởng của Pháp Để thực hiện ý đồ này, Mỹ đã sử dụng lực lượng Tưởng, một thế lực quân phiệt Trung Hoa Dân quốc, nhằm chiếm lĩnh Việt Nam Được sự đồng ý và hỗ trợ của Mỹ, gần 200.000 quân Tưởng đã tiến vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật Tuy nhiên, khi chiến tranh thế giới gần kết thúc, Mỹ đã công nhận Việt Nam và Đông Dương thuộc về Pháp và tích cực hỗ trợ Pháp tái chiếm khu vực này.
Trước những thách thức từ các cường quốc tư bản, cách mạng Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn Đảng Cộng sản Đông Dương nhận thấy hoạt động quốc tế là cần thiết để gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, tìm kiếm đồng minh và nhận sự hỗ trợ từ bên ngoài Đảng đã xác định rõ kẻ thù cần phải phân hóa, cô lập và tiêu diệt Qua đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thể hiện vai trò lãnh đạo, đề ra những chủ trương đối ngoại kịp thời và đúng đắn, góp phần giúp cách mạng Việt Nam vượt qua thử thách và đạt được những thắng lợi lớn.