Đà Nẵng trong cuộc vận động giải phóng dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp (1939 - 1954)
Đà Nẵng trong cuộc vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa năm 1945
Sau cuộc đảo chính của Nhật đối với Pháp vào ngày 9-3-1945, Đà Nẵng chứng kiến sự khống chế của quân Nhật đối với lực lượng Pháp Nhật Bản đã cử Tôn Thất Gián và Nguyễn Khoa Phong giữ chức Tỉnh trưởng Quảng Nam và Đốc lý Đà Nẵng, nhanh chóng thiết lập bộ máy hành chính, quân sự và các tổ chức xã hội ủng hộ Nhật.
Các đảng phái chính trị như Cao Đài, Đại Việt… cũng nhảy ra chính trường hoạt động
Sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng không điều kiện vào ngày 15-8-1945, lực lượng quân Nhật từ Bình Định đến Quảng Nam đã tập trung về Đà Nẵng với số lượng lên đến 5.000 người Đây là một mối lo ngại lớn cho cuộc khởi nghĩa, mặc dù lực lượng cách mạng ở cả nội thành và ngoại thành đều khá mạnh.
Viên tư lệnh quân Nhật đã tìm cách gặp đại diện của Việt Minh để đảm bảo an toàn cho quân đội của họ Ông Lê Văn Hiến được giao nhiệm vụ thương lượng, yêu cầu quân Nhật giữ yên, không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Minh Đổi lại, Việt Minh sẽ liên lạc với lực lượng cách mạng ở Quảng Ngãi, đề nghị ngừng tấn công để Nhật có thời gian thu dọn thương binh và xác lính Nhờ vào chiến lược phân hóa và trung lập quân Nhật, việc giành chính quyền tại Đà Nẵng chủ yếu dựa vào sức mạnh chính trị của quần chúng thông qua các cuộc mít tinh ra mắt Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời mà không cần biểu dương lực lượng rầm rộ.
Ông Lê Văn Hiến trở về muộn do gặp trục trặc trong việc thảo luận với các lãnh đạo cách mạng tại Quảng Ngãi về cách đảm bảo an toàn, nhằm giữ cho quân Nhật "án binh bất động".
Vào lúc 8 giờ sáng ngày 26-8-1945, khi tiếng còi thành phố vang lên, các toán Việt Minh đã nhanh chóng đột nhập vào các cơ sở, nhà máy, treo cờ và giăng biểu ngữ Họ tập hợp công nhân, viên chức để đọc lệnh khởi nghĩa và tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ.
Vào lúc 9 giờ sáng, cờ đỏ sao vàng được treo khắp thành phố, đánh dấu sự trở về của mảnh đất "nhượng địa" với Tổ quốc Việt Nam độc lập Các đội tự vệ được phân công canh gác và bảo vệ các trụ sở, thiết lập trật tự mới cho cách mạng.
Tại Tòa đốc lí, ông Lê Văn Hiến, đại diện Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố, đã tiếp nhận con dấu và hồ sơ từ đại diện chính quyền bù nhìn Nguyễn Khoa Phong với sự hộ tống của lực lượng vũ trang Lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên thay thế cho lá cờ quẻ ly, đánh dấu thời điểm lịch sử khi thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam hoàn thành cuộc nổi dậy khởi nghĩa, giành lại chính quyền.
Vào sáng ngày 28-8-1945, gần ba vạn người dân Đà Nẵng đã tập trung tại sân vận động thành phố, chỉnh tề trong đội ngũ với cờ và băng, tham gia cuộc mít tinh trọng thể để chúc mừng độc lập và lễ ra mắt Ủy ban Nhân dân lâm thời của thành phố.
Nội dung và minh chứng hiện vật, hình ảnh Tòa Đốc lí tại Bảo Tàng
Tại Tòa đốc lý, ông Lê Văn Hiến, đại diện Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố, đã tiếp nhận con dấu và hồ sơ từ đại diện chính quyền bù nhìn Nguyễn Khoa Phong, đánh dấu sự chuyển giao quyền lực cho chính quyền cách mạng Lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên, thay thế cho lá cờ quẻ ly, biểu thị cho sự thành công của cuộc nổi dậy khởi nghĩa tại thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.
Vào ngày 28-8-1945, gần ba vạn người dân Đà Nẵng đã tham gia mít tinh mừng độc lập và lễ ra mắt Ủy ban Nhân dân lâm thời tại sân vận động thành phố Tại Bảo Tàng, vẫn còn lưu giữ hình ảnh Tòa Đốc lý, công trình quan trọng xây dựng vào năm 1945 tại khu vực Quai Courbet, nơi tập trung các cơ quan hành chính và kinh tế Mặc dù chưa có tài liệu chi tiết về việc xây dựng Tòa Đốc lý, tác giả Võ Văn Dật trong cuốn "Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975)" đã ghi nhận rằng nhà thầu xây dựng là ông Nghè Giá, một người Việt Nam.
Đà Nẵng trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp (12 – 1946 đến tháng 1-1947)
Năm 1945, sau Cách mạng Tháng Tám, quân Pháp tái xâm lược Việt Nam, bắt đầu từ ngày 23-9 khi chúng chiếm Nam Bộ Sau Hiệp định sơ bộ 6-3, quân Pháp đổ bộ vào Đà Nẵng để thiết lập căn cứ quân sự, chuẩn bị tấn công các tỉnh miền Trung và tiến vào Lào Quảng Nam-Đà Nẵng trở thành một trong những chiến trường chính Đáp lại lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, lực lượng vũ trang Đà Nẵng nhanh chóng chuẩn bị chiến đấu, với Trung đoàn 96 triển khai các vị trí chiến lược từ trụ sở Ủy ban hành chính đến khu vực chợ Mới.
Tiểu đoàn 18 đã chiếm lĩnh khu vực cầu Vồng, nhà ga và ngã ba Cai Lang, trong khi Tiểu đoàn 17 phong tỏa cụm quân địch tại sân bay Tiểu đoàn 19 giữ vững khu vực Nghi An và đèo Hải Vân Trung đoàn bộ đóng tại ngã tư Yên Khê, và Trung đoàn 93 đã hoàn tất việc triển khai đội hình chiến đấu tại tuyến phòng thủ phía nam sông Cẩm Lệ, từ Non Nước, Cẩm Lệ đến Thanh Quýt, Vĩnh Điện, sẵn sàng chiến đấu và hỗ trợ Trung đoàn 96 tại Đà Nẵng.
Không khí chiến đấu tại Đà Nẵng đang rất khẩn trương Thành phố kiên cường này, từng gây sóng gió cho quân Pháp vào năm 1858, giờ đây lại cùng cả nước đứng lên chiến đấu với tinh thần quyết tử Đất anh hùng này một lần nữa sẵn sàng hy sinh, thể hiện qua câu thơ: “Thành Thái Phiên tắm mình trong máu lửa”.
Ngày 19-12-1946, sau khi nhận được điện của Thường vụ Trung ương Đảng và điện của
Vào lúc 6 giờ 30 ngày 20-12, Tư lệnh Quân khu 5 đã ra lệnh nổ súng, đánh dấu phát súng đầu tiên của Trung đoàn 96 Cùng lúc, hệ thống loa truyền thanh phát lại lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành mệnh lệnh thiêng liêng để quân dân thành phố quyết tâm chiến đấu vì sự sống còn của Tổ quốc.
Đội tự vệ của Nhà máy điện đã ngay lập tức cho nổ bom để phá hoại nhà máy, trong khi Trung đoàn 93 tiến hành nổ mìn phá sập các cầu Cẩm Lệ và Phong Lệ Công binh cũng đã sử dụng địa lôi để phá cầu Thủy Tú Những hành động này đánh dấu sự khởi đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Đà Nẵng.
Vào ngày 20-12, cuộc chiến diễn ra ác liệt khi các lực lượng Pháp đối mặt với sự kháng cự mạnh mẽ từ bộ đội, du kích và tự vệ trên toàn thành phố Lực lượng ta kiên cường bám chắc vào công sự và trận địa, chiến đấu với tinh thần sáng tạo, mưu trí và dũng cảm, giành giật từng căn nhà, góc phố, đồng thời tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực của địch.
Các đơn vị bộ đội và tự vệ, dù quân số ít và trang bị thô sơ, đã kiên cường chiến đấu với hàng trăm lính Pháp đến viên đạn cuối cùng Tại khu vực cầu Vồng, chợ Cồn và nhà ga, các chiến sĩ đã sử dụng dao găm, mã tấu, chai cháy và quả khói để đánh giáp lá cà với quân Pháp và xe tăng Ở khu đông, lực lượng tự vệ đã tiêu diệt quân Pháp đổ bộ tại cảng I-ốt và thiêu rụi 14 chiếc thủy phi cơ.
Cuộc chiến diễn ra ngày càng ác liệt ở Ủy ban hành chính thành phố, Nha thuế quan, Nhà bưu điện, Cổ viện Chàm, chợ Mới, ngã ba Cai Lang
Từ ngày 21 đến 24-12, quân Pháp đã tập trung lực lượng bộ binh, xe tăng và pháo để tấn công vào trận địa của ta, nhưng đã phải chịu tổn thất nặng nề Các tiểu đoàn 17, 18, 19 cùng với lực lượng tự vệ và du kích đã chiến đấu quyết liệt, thực hiện các cuộc tập kích và phản kích, phá hủy các công trình quan trọng, khiến quân địch hoang mang và buộc phải phân tán lực lượng để đối phó.
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, quân ta đã rút ra và lập vòng vây thứ hai tại ngã tư Yên Khê, sân bay Đà Nẵng, tiếp tục tấn công tiêu diệt địch nhằm làm rối loạn hậu cứ của chúng Mặc dù địch có ưu thế về lực lượng và vũ khí, chúng vẫn chỉ chiếm được nội thành, nhưng đó chỉ còn là “thành phố chết” với cái giá phải trả là hơn 500 tên xâm lược bị tiêu diệt.
Ngay sau khi rút ra, quân ta lại tổ chức tuyến phòng thủ mới từ Đò Xu, Cẩm Lệ đến Hòa
Mỹ và Phước Tường đã kiên cường chiến đấu để ngăn chặn sự mở rộng chiếm đóng của quân Pháp, đồng thời tổ chức nhiều đợt tấn công chủ động gây thiệt hại lớn cho địch Trong suốt gần một tháng, quân Pháp bị bao vây và cô lập trong thành phố, khiến cho kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của họ bị chặn đứng.
Ngày 17-1-1947, quân Pháp dùng 2 tiểu đoàn cùng 12 tàu chiến đổ bộ lên Nam Ô và Lăng
Cô đã kiên quyết mở đường đèo Hải Vân nhằm giải vây cho đồng bọn ở Huế Trận chiến diễn ra ác liệt trong hai ngày, dẫn đến việc 200 lính Âu-Phi bị tiêu diệt và hàng trăm người khác bị thương Cuối cùng, quân Pháp đã chiếm được đèo Hải Vân.
Quân đội ta đã nhận lệnh rút lui nhằm bảo toàn lực lượng, trong khi thắng lợi của quân và dân Đà Nẵng được đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ, trao tặng lá cờ thêu hai chữ.
Mặt trận Đà Nẵng được công nhận là một trong những lực lượng mạnh mẽ và kiên cường nhất cả nước, thể hiện tinh thần kháng chiến của quân và dân nơi đây Họ đã thực hiện đúng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định quyết tâm: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".
2.1 Nội dung và minh chứng hiện vật tại Bảo Tàng Ở bảo tàng hiện còn trưng bày nguyên vẹn lá cờ biểu dương tinh thần của Đồng chí Phạm Văn Đồng lá cờ thêu hai chữ “Giữ vững” với lời biểu dương: “So sánh với toàn quốc, Mặt trận Đà Nẵng được liệt vào hạng đánh mạnh nhất và dẻo dai nhất” Quân và dân Đà Nẵng đã thực hiện đúng như lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
Xưởng vũ khí Nho Bán, được thành lập vào ngày 15-4-1946, là xưởng vũ khí đầu tiên của Đà Nẵng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp Tên gọi Nho Bán nhằm tưởng nhớ sự hy sinh anh dũng của hai đồng chí Nguyễn Ngọc Nho và Trần Bán trong quá trình thử nghiệm sản xuất lựu đạn Địa điểm ban đầu của xưởng nằm tại Thanh Chiêm, thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975) và thời kì xây dựng đất nước từ sau 1975 đến nay
Phong trào đấu tranh đòi thi hành hiệp định Geneve, đòi quyền dân sinh, dân chủ (1954 – 1956}
Từ cuối năm 1954 đến năm 1956, nhân dân các xã Hòa Hải, Hòa Long, Hòa Lân, Hòa Phụng và Bắc Mỹ An đã tích cực tham gia phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, thể hiện sự đồng lòng và quyết tâm trong việc khẳng định thắng lợi của 9 năm kháng chiến Họ tổ chức hội họp để thảo luận về hòa bình và tự giác viết lên tường những điều cơ bản của Hiệp định Giơnevơ như một cách đấu tranh pháp lý Khi chính quyền thiết lập, nhân dân đã phải đối mặt với yêu cầu xóa bỏ các khẩu hiệu trên tường, nhưng họ đã sử dụng nhiều lý lẽ để tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi của mình Ngày 1.8.1954, cuộc đấu tranh của nhân dân đã chính thức nổ ra.
Vào những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Đà Nẵng, đặc biệt là các xã Hòa Vang như Hòa Phụng và Hòa Lân, đã tổ chức đấu tranh mạnh mẽ tại đồn Võ Tánh, yêu cầu thả những người bị bắt và chấm dứt chiến tranh Họ đã thể hiện sức mạnh đoàn kết bằng việc xé cờ địch, treo cờ đỏ sao vàng, và đốt xe cùng kho quân trang của địch Cuộc đấu tranh này không chỉ dừng lại ở việc chống lại sự áp bức mà còn kêu gọi mở hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, dù chính quyền miền Nam từ chối Nhân dân đã tổ chức học tập Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phát động nhiều sáng kiến đấu tranh, bao gồm việc rải truyền đơn và ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu thực hiện Hiệp định Giơnevơ Dù bị đàn áp và theo dõi, phong trào vẫn không ngừng phát triển, với nhiều người dân dũng cảm đứng lên chống lại sự quản lý của chính quyền địch.
Trước sức mạnh của cuộc đấu tranh từ nhân dân, chính quyền Hòa Vang đã phải xin lỗi và cam kết sẽ xử lý những kẻ gây ra tội ác Kết quả của cuộc đấu tranh này đã tạo ra niềm tin vững chắc trong cộng đồng.
Vào đầu năm 1955, chính quyền Diệm thực hiện chính sách điền địa, nhằm xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất mà nhân dân đã giành được trong kháng chiến, đồng thời khôi phục quyền lực cho giai cấp địa chủ Trước những thủ đoạn này, nhân dân đã phản kháng bằng cách không kê khai ruộng đất hoặc giấu diện tích, kéo dài thời gian kê khai Họ cũng đã gửi đơn và tập trung lên Hội đồng xã để kiến nghị không cho xáo trộn ruộng đất đang canh tác Qua đó, nhân dân nhận ra sự xảo trá trong âm mưu phục thù giai cấp và đàn áp lao động của chính quyền Diệm.
Phong trào đấu tranh của nhân dân kéo dài đến năm 1956, giúp họ giữ được ruộng đất canh tác Giữa năm 1955, địch bắt dân đi "dinh điền" lập khu kinh tế mới, thực chất là cô lập những gia đình nông dân tham gia kháng chiến Nhân dân phản đối, khẳng định không thể bỏ quê hương, mồ mã tổ tiên Một số người thẳng thắn tuyên bố trước ngụy quyền: "Có chết thì chết ở đây, chứ nhất định không đi đâu hết" Dù bọn địch cố gắng đưa một số cơ sở lên Tây Nguyên, nhưng với sự hướng dẫn của cán bộ, nhân dân kiên quyết không chịu đi Anh Hai Trà đã tuyên bố mạnh mẽ rằng "nếu chết thì chết tại đây", khiến bọn địch phải rút lui trước sự cương quyết của họ.
Mỹ Diệm đã tổ chức cuộc "Trưng cầu dân ý" nhằm lật đổ Bảo Đại, người đại diện cho Pháp, và tự đưa mình lên làm tổng thống miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt đất nước Để đối phó với âm mưu này, Huyện ủy Hòa Vang đã quyết định tập trung lực lượng để đấu tranh và phá vỡ kế hoạch của kẻ thù.
Trưng cầu dân ý đã vạch trần bộ mặt tay sai bán nước của Diệm, khi đoàn công tác cánh Đông phân công cán bộ bí mật về từng thôn xóm để phổ biến chủ trương và lãnh đạo nhân dân phá cuộc bầu cử Các chi bộ đảng cùng tổ chức cơ sở bí mật tại Hòa Long, Hòa Hải, Hòa Lân, Hòa Phụng và Bắc Mỹ An đã lên phương án xây dựng lực lượng cốt cán nhằm ngăn chặn cuộc trưng cầu dân ý này.
Cán bộ đã phát động chiến dịch tuyên truyền nhằm vạch trần dã tâm của chính quyền Mỹ Diệm, đồng thời tổ chức các hoạt động như mít tinh, biểu tình và treo tranh cổ động cho cuộc bầu cử Địch vận động cử tri theo khẩu hiệu "Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ thùng", trong khi ta khuyến khích nhân dân "Xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ túi quần" Vào sáng ngày 23.10.1955, lực lượng dân vệ và các bọn tề thôn xã được huy động để bảo vệ các điểm đặt thùng phiếu Tại Hòa Long, thùng phiếu được đặt tại nhà thờ Huỳnh Bá ở Khái Đông, nơi mà địch đã bắt dân đi bỏ phiếu Tuy nhiên, nhân dân đã tìm mọi cách để trì hoãn, và khi bị buộc phải bỏ phiếu, họ đã phản ứng bằng cách bấm thủng hình ảnh của Diệm trước khi bỏ vào thùng Ở Hòa Hải, thùng phiếu được đặt tại nhà thờ phái năm Tộc Phạm gần cồn Ông Qui, thôn Trà.
Vào lúc 3 giờ sáng, lực lượng địch đã xâm nhập vào xóm để buộc người dân đi bỏ phiếu, trong khi nhiều người vẫn đang ngủ hoặc chuẩn bị bữa sáng Mặc dù địch muốn kết thúc sớm cuộc bầu cử, nhưng nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, người dân đã đưa ra nhiều lý do để trì hoãn, khiến cuộc bầu cử kéo dài đến giữa trưa.
Khi lực lượng địch chuẩn bị mang thùng phiếu đi, quần chúng thôn An Nông và Trà Lộ bất ngờ tấn công, giật thùng phiếu và hô khẩu hiệu đả đảo Ngô Đình Diệm Sự phẫn nộ của nhân dân đối với chế độ Mỹ ngụy thể hiện rõ nét, khiến địch hoảng loạn bỏ chạy Những người nông dân như bà Nguyễn Thị Chước và ông Phạm Tá đã dũng cảm xé cờ địch và phá hủy thùng phiếu Nhân dân từ các vùng lân cận đã hợp sức cứu những người bị bắt, bất chấp sự đe dọa từ địch Trong khi đó, ở Hòa Lân và Hòa Phụng, dân chúng tìm cách trì hoãn cuộc bỏ phiếu Tại Mân Quang, hình ảnh của Ngô Đình Diệm bị chế giễu, và nhân dân đã xé bỏ ngay trước mặt địch Các hoạt động phản đối diễn ra mạnh mẽ, với nhiều người bị bắt và tra tấn, nhưng tinh thần đấu tranh của nhân dân vẫn không bị dập tắt Cuộc đấu tranh chính trị kéo dài đến năm 1956.
Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân các xã diễn ra quyết liệt, đặc biệt là phong trào đòi Hiệp thương thống nhất đất nước và chống trưng cầu dân ý Máu của những người dân vô tội đã đổ ngay từ những ngày đầu thi hành Hiệp định, khi Mỹ và Diệm đi ngược lại lợi ích của dân tộc, gieo vào lòng dân sự căm thù Các phong trào này thể hiện tinh thần quật cường của người nông dân lao động chăm chỉ ở vùng cát Ngũ Hành Sơn, đồng thời làm nổi bật lòng yêu nước và sự trung thành vô hạn của nhân dân đối với Đảng và cách mạng.
Hình ảnh nhân dân Hòa Hải đập thùng phiếu đã ghi dấu ấn lịch sử tại Hòa Vang và Quảng Nam Đà Nẵng, tạo nên một phong trào vang dội trong toàn tỉnh Tuy nhiên, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân giai đoạn 1954 - 1956 tại các xã vẫn còn khuyết điểm, khi cán bộ chưa lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù, dẫn đến việc không che giấu lực lượng và thiếu sự tin tưởng.
Vào năm 1955, Mỹ Diệm bắt đầu thực hiện chiến dịch "tố cộng" nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và xóa sạch ảnh hưởng của Đảng trong dân Địch thành lập Ban chỉ đạo tố cộng ở các quận, huyện, mở nhiều chiến dịch như "Phan Châu Trinh" và "Trịnh Minh Thế" để đánh phá phong trào kháng chiến Tại vùng Đông Hòa Vang và Bắc Mỹ An, nơi có hoạt động du kích mạnh, Mỹ Diệm tập trung tấn công quyết liệt để tiêu diệt mầm mống cộng sản Địch lập trại tố cộng tại nhiều địa điểm, sử dụng bộ máy ngụy quân, ngụy quyền và các phương pháp tuyên truyền để khủng bố tinh thần nhân dân Họ buộc người dân phải học tài liệu xuyên tạc về Đảng Cộng sản và viết tường thuật về các hoạt động kháng chiến, đồng thời ép buộc khai báo thông tin về cán bộ và kho tàng Những ai không tuân thủ sẽ bị xem là phản quốc, và địch sử dụng nhiều thủ đoạn để dụ dỗ, mua chuộc cán bộ, đảng viên rời bỏ Đảng.
Mỹ Diệm đã thể hiện sự thâm độc, gây ảnh hưởng lớn đến tinh thần của cán bộ, làm nảy sinh sự chia rẽ và nghi ngờ giữa các cán bộ, giữa cán bộ với nhân dân, cũng như trong các gia đình cách mạng.
Hiện vật cánh cửa nhà tù Con Gà và dụng cụ tra tấn có tại Bảo Tàng
Hệ thống nhà tù này do người Pháp xây dựng nhằm giam giữ các tù phạm đặc biệt nguy hiểm đối với chế độ thực dân, bao gồm tù phạm chính trị và tử tù Trong thời kỳ Pháp thuộc, nơi đây đã giam giữ nhiều nhân vật cộng sản và những người yêu nước chống lại chính phủ.
25 thuộc địa, và sau đó lại được Mỹ sử dụng để giam cầm tù binh trong cuộc chiến chống
Mỹ Và Ngô Đình Diệm đã sử dụng công cụ tra tấn tàn khốc nhất đó là chiếc máy chém
Sử gia Edwart Miller mô tả trong cuốn sách "Liên minh sai lầm- Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ, và số phận Nam Việt Nam" như sau ;
Chế độ Ngô Đình Diệm nổi bật với hình ảnh khát máu thông qua việc sử dụng máy chém, một công cụ tử hình thời thuộc địa Các thành viên tòa án di chuyển khắp đất nước với "phiên bản di động" của máy chém, điều này đã được các tuyên truyền viên của đảng Cộng sản khai thác để lên án các phiên tòa Luật 10/59, với việc kết án nhiều cư dân nông thôn nhầm là Cộng sản và nhấn mạnh vào sự trừng phạt công khai, đã làm gia tăng nỗi sợ hãi của người dân đối với chính quyền Diệm và các đại diện của nó.
Từ năm 1957 đến 1959, hơn 2.000 người bị nghi ngờ là Việt Cộng đã bị hành quyết bằng máy chém với tội danh nổi loạn hoặc ủng hộ chủ nghĩa cộng sản.
Trong một cuốn sách khác, McNamara tả lại một vụ chặt đầu mà ông chứng kiến:
Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều vụ hành quyết công khai, điều mà nhiều người phương Tây vẫn phủ nhận Tuy nhiên, Diệm không giấu diếm sự thật này; các vụ hành quyết được công khai và có hình ảnh minh chứng, như những bức ảnh chụp đầu người bị chặt bởi máy chém Vào năm 1959, tôi đã chứng kiến cảnh quân đội Diệm chặt đầu những người mà họ coi là Cộng sản, treo đầu người ngay trước cổng các tiền đồn, thậm chí còn cắm thuốc lá vào mũi để tạo dáng chụp ảnh Những binh lính này rất tự hào về hành động của mình.
Sau khi Luật 10/59 được ban hành, nhiều cuộc biểu tình nổ ra với sự tổ chức chặt chẽ Phụ nữ thành lập đội hình đối đầu với lực lượng chức năng, trong khi trẻ em và người cao tuổi ở nhà đảm nhận việc hậu cần và tổ chức tang lễ cho các nạn nhân Người biểu tình mang thi thể những người bị hành quyết đến trụ sở tỉnh để phản đối Cuối cùng, chính quyền Sài Gòn đã phải đối thoại với đoàn biểu tình, chấp nhận xin lỗi, bồi thường và chuyển công tác những nhân viên chính phủ liên quan.
Đà Nẵng trong cuộc tổng tiến công và nội dậy xuân 1975
Vào thời điểm đầu năm 1975, Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai của miền Nam Việt
Nam với dân số gần một triệu người Đây không chỉ là trung tâm kinh tế - chính trị của vùng
Quân khu I Quân lực Việt Nam Cộng hòa là căn cứ quân sự liên hợp hải - lục - không quân lớn nhất miền Nam, với 4 cảng lớn, trong đó có cảng Sơn Trà là cảng nước sâu hiện đại Đà Nẵng và Nước Mặn là hai sân bay, trong đó Đà Nẵng là sân bay quốc tế Hệ thống kho tàng tại đây có khả năng chứa hàng chục vạn tấn bom đạn, vũ khí, phương tiện chiến tranh, quân trang quân dụng, xăng dầu, lương thực và thực phẩm Ngoài ra, còn có căn cứ radar đa chức năng tại Sơn Trà, do quân đoàn 3 dã chiến của Hoa Kỳ quản lý trước đây và đã được bàn giao cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau Hiệp định Paris.
Sau khi mất Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã gửi công điện số 015/TT/CĐ vào ngày 25 tháng 3 cho các tư lệnh quân khu.
Vào năm 1975, một chỉ thị quan trọng được ban hành yêu cầu tất cả các tỉnh và vùng đất còn lại của Việt Nam Cộng hòa phải kiên quyết bảo vệ đến cùng cho đến ngày 25-3-1975 Các chỉ huy ở mọi cấp phải tận dụng mọi sáng kiến và phương tiện sẵn có để thực hiện các hoạt động phản công Ngày 26 tháng 3, những hành động cụ thể đã được triển khai nhằm thực hiện lệnh này.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng nỗ lực tập hợp các đơn vị còn lại, với tổng quân số khoảng 75.000 người, để thiết lập phòng thủ thành hai tuyến xung quanh Đà Nẵng.
Tuyến ngoại vi được bảo vệ bởi Lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến (thiếu) và Liên đoàn bảo an 914, đảm nhiệm khu vực từ Hải Vân đến Liên Chiểu Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến cùng với trung đoàn 57 (sư đoàn 3) chịu trách nhiệm bảo vệ Đại Lộc và Đồng Lâm Một phần lực lượng của lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến (khoảng 1 tiểu đoàn) và Bộ tư lệnh sư đoàn thủy quân lục chiến giữ sân bay Nước Mặn Trung đoàn 56 (sư đoàn bộ binh 3) bảo vệ Vĩnh Điện, trong khi trung đoàn 2 (sư đoàn 3) đóng ở Ninh Quế Liên đoàn 15 biệt động quân đảm nhiệm khu vực Bà Rén.
Tuyến tử thủ tại Phước Tường - Hòa Mỹ do Liên đoàn 912 bảo an đảm nhiệm, cùng với các đơn vị từ thiết đoàn 11 và 20 Ba tiểu đoàn còn lại thuộc sư đoàn 1 cũng tham gia vào công tác phòng thủ khu vực này.
Hai bộ binh cùng với liên đoàn 12 biệt động quân và 3.000 tân binh từ trại huấn luyện Hòa Cầm đang đảm nhiệm việc phòng thủ khu vực từ căn cứ Hòa Cầm đến căn cứ Nước Mặn, trong khi các tiểu đoàn bảo an độc lập được bố trí làm lực lượng dự bị cơ động trong nội đô.
Tướng Trưởng hiện đang nắm giữ 12 tiểu đoàn pháo binh, bao gồm 4 tiểu đoàn đã được tái trang bị, cùng với Sư đoàn 1 Không quân được bố trí tại các sân bay Đà Nẵng và Nước Mặn Đây là những đơn vị gần như chưa bị tổn thất, có nhiệm vụ yểm hộ cho các tuyến phòng thủ.
Ngay từ khi các chiến dịch Trị Thiên 1975 và Nam-Ngãi chưa kết thúc, Tổng Quân ủy đã thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Đà Nẵng, giao nhiệm vụ cho trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, chỉ huy Vào ngày 25 tháng 3, Bộ Tư lệnh chiến dịch Đà Nẵng đã nhanh chóng triển khai kế hoạch tấn công thành phố từ bốn hướng khác nhau.
Hướng Bắc, lực lượng sử dụng sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95) cùng 1 tiểu đoàn xe tăng và 1 tiểu đoàn pháo binh, tiến hành tấn công dọc theo đường số 1 Mục tiêu là chiếm sở chỉ huy quân đoàn I và sư đoàn 1 không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại sân bay Đà Nẵng, sau đó mở rộng kiểm soát đến bán đảo Sơn Trà.
Hướng Tây Bắc, lực lượng gồm trung đoàn 9 bộ binh (sư đoàn 304), một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn cao xạ, sẽ theo trục đường 14B để đánh chiếm Sở chỉ huy sư đoàn.
3 Quân lực Việt Nam Cộng hoà ở Phước Tường, phát triển đến sân bay Đà Nẵng
Hướng Nam và Đông Nam, lực lượng tham gia bao gồm sư đoàn 2 (Quân khu 5), trung đoàn bộ binh 36, một tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn cao xạ, và một đại đội tên lửa chống tăng B-72, sẽ tiến hành tấn công sân bay Đà Nẵng và Bộ tư lệnh Quân đoàn I theo trục quốc lộ 1, đồng thời phát triển vào nội đô thành phố Các trung đoàn bộ binh 3 và 68 sẽ đóng vai trò lực lượng dự bị.
Quân đoàn 2 đã điều động sư đoàn 304 (thiếu trung đoàn 9) tiến hành tấn công các vị trí của lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến trên tuyến Thượng Đức - Ái Nghĩa - Hiếu Đức, mở rộng đến sân bay nước mặn Đồng thời, một cánh quân (trung đoàn 24) cũng đã đánh vào căn cứ Hòa Cầm, phát triển hướng đến tòa thị chính Đà Nẵng.
Vào sáng ngày 29/3/1975, các lực lượng quân đội đã đồng loạt tấn công thành phố theo kế hoạch, phối hợp với quần chúng nhân dân để chiếm Bộ tư lệnh quân đoàn I Ngụy và chiếm lĩnh tòa thị chính vào lúc 11h30.
3.1 Hình ảnh tòa thị chính, hiện vật tại Bảo Tàng Đà Nẵng
Niềm vui và xúc động của nhân dân khi thấy lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc Tòa Thị chính thành phố thật khó diễn tả Đặc biệt, Bảo Tàng còn lưu giữ con dấu đầu tiên của Uỷ ban quân quản thành phố, ghi dấu ấn lịch sử quan trọng.
Đà Nẵng từ năm 1975 đến nay
Hình ảnh minh họa tại Bảo tàng
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của địa phương vượt trội hơn mức trung bình cả nước Giá trị sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và thủy sản phát triển mạnh mẽ, cùng với đó là sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu Các ngành du lịch, thương mại và dịch vụ cũng có những chuyển biến tích cực.
Chợ Cồn tại Công viên phần mềm Đà Nẵng là một trong ba trung tâm bưu chính lớn nhất Việt Nam, cung cấp dịch vụ hiện đại như điện thoại cố định, di động, Internet và chuyển phát nhanh Mạng lưới viễn thông tại đây bao gồm 2 tổng đài chính và 12 tổng đài vệ tinh với khả năng phục vụ hơn 40.000 số, nhờ vào công nghệ tiên tiến như mạng Viba số PDH và cáp quang SDH Đà Nẵng cũng đang triển khai nhiều dự án du lịch với tổng vốn đầu tư hàng tỷ USD, đồng thời đầu tư vào y tế và giáo dục để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân Hiện tại, thành phố có 18 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa, 11 bệnh viện quận huyện, cùng 47 trạm y tế xã phường.
Đà Nẵng đã xây dựng 900 phòng khám chữa bệnh tư và đưa vào hoạt động Bệnh viện Phụ nữ, đồng thời kêu gọi sự đóng góp từ nhiều thành phần xã hội để đầu tư cho bệnh viện Ung thư Điều này giúp giảm gánh nặng chi phí chữa bệnh cho người dân thành phố và khu vực lân cận, đặc biệt là những căn bệnh hiểm nghèo Ngoài ra, sự hình thành của trường đại học Y Dược và trường Đại học Kỹ thuật Y tế tại Đà Nẵng đang hướng tới mục tiêu biến thành phố thành trung tâm y tế của miền Trung – Tây Nguyên và cả nước, cung cấp nguồn nhân lực và dịch vụ y tế chất lượng cao, góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Hình ảnh cầu quay sông Hàn Đà Nẵng đã thay đổi đáng kể, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Đà Nẵng đã thực hiện các kế hoạch cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, nhằm tạo ra một môi trường đô thị mới Việc khai thác những lợi thế sẵn có đã giúp Đà Nẵng có những biến đổi rõ rệt về nhịp độ và khí thế phát triển trong những năm qua.
1.https://baomoi.com/da-nang-thanh-dien-hai-duoc-cong-nhan-la-di-tich-quoc-gia-dac- biet/c/24424382.epi
2 http://hoahiepbac.danang.gov.vn/web/guest/-/khoi-nghia-cach-mang-thang-8-nam-1945- o-%C4%91a-nang
3 http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Tong-khoi-nghia-Thang-81945-o-cac-dia-phuong-trong-ca- nuoc-post170133.gd
4.Lịch sử lớp 9 – NXB Giáo Dục