1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019

63 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 1,24 MB

Cấu trúc

  • PHẦN 1. TỔNG QUAN (12)
    • I. Khái quát về Cảnh giác Dược (12)
      • 1.1. Một số thuật ngữ về Cảnh giác Dược (12)
      • 1.2. Tầm quan trọng của hoạt động theo dõi và giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR) (13)
      • 1.3. Hoạt động cảnh giác dược ở Việt Nam (14)
    • II. Ví trí, vai trò của Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong hệ thống Cảnh giác Dược (17)
      • 2.1. Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm (17)
      • 2.2. Trách nhiệm của DNKDDP trong hệ thống Cảnh giác dược (0)
    • III. Các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động báo cáo ADR của các (18)
      • 3.1. Báo cáo an toàn thuốc đơn lẻ xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam (18)
      • 3.2. Báo cáo an toàn thuốc định kỳ (20)
    • IV. Phát hiện tín hiệu thuốc – ADR và điểm thay đổi về số lượng trong cơ sở dữ liệu DNKDDP (0)
      • 4.1. Định nghĩa quản lý tín hiệu an toàn thuốc (20)
      • 4.2. Các phương pháp phát hiện tín hiệu thuốc ADR (22)
    • V. Hoạt động nghiên cứu đã tiến hành trên dữ liệu báo cáo ADR từ DNKDDP trên thế giới và tại Việt Nam (23)
  • PHẦN 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (26)
    • I. Đối tượng nghiên cứu (26)
    • II. Địa điểm nghiên cứu (26)
    • III. Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 3.1. Thiết kế nghiên cứu (26)
      • 3.2. Thu thập số liệu (26)
      • 3.3. Tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ (26)
      • 3.4. Phương pháp nghiên cứu (26)
      • 3.5. Xử lí số liệu (27)
    • IV. Nội dung nghiên cứu và các chỉ số nghiên cứu: ............................................. 18 4.1. Mục tiêu 1: Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh (27)
      • 4.2. Mục tiêu 2: Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019 (29)
  • PHẦN 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (30)
    • I. Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh (30)
      • 1. Số lượng và xu hướng báo cáo ADR của DNKDDP trong giai đoạn 2010 – 2019 (30)
      • 2. Cơ cấu báo cáo ADR của DNKDDP giai đoạn 2010 – 2019 (32)
    • II. Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019 (40)
      • 1. Tín hiệu ROR của cặp thuốc - AE trong giai đoạn 2010 – 2019 (40)
      • 2. Tín hiệu ROR của cặp thuốc – sử dụng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt (42)
  • PHẦN 4. BÀN LUẬN (43)
    • I. Đặc điểm và xu hướng của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP (43)
      • 1. Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR (43)
      • 2. Điểm thay đổi trong số lượng báo cáo (44)
    • II. Cơ cấu của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP (45)
      • 1. Cơ cấu doanh nghiệp tham gia báo cáo (45)
      • 2. Cơ cấu về mức độ nghiêm trọng của báo cáo (46)
    • III. Đóng góp của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP (47)
      • 1. Tỷ trọng thuốc nghi ngờ (47)
      • 2. Tỷ trọng AE được báo cáo (48)
      • 3. Tín hiệu phát hiện trong dữ liệu về cặp thuốc – AE (49)
    • IV. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu (52)
  • PHẦN 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT (53)
    • I. Kết luận (53)
      • 1. Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh (53)
      • 2. Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019 (54)
    • II. Đề xuất (54)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (55)

Nội dung

TỔNG QUAN

Khái quát về Cảnh giác Dược

1.1 Một số thuật ngữ về Cảnh giác Dược:

Cảnh giác Dược, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), được định nghĩa là môn khoa học và các hoạt động nhằm phát hiện, đánh giá, hiểu và phòng ngừa tác dụng phụ hoặc các vấn đề liên quan đến thuốc.

Nhìn chung, hoạt động Cảnh giác Dược tập trung vào các mục tiêu chính sau đây [45]:

➢ Cải thiện sự an toàn của bệnh nhân và tăng cường sự chăm sóc trong việc sử dụng thuốc, bao gồm các can thiệp y tế

➢ Cải thiện sức khỏe cộng đồng và an toàn liên quan đến việc sử dụng thuốc

Hỗ trợ các chương trình y tế công cộng bằng cách cung cấp thông tin đáng tin cậy, giúp đánh giá hiệu quả và hồ sơ lợi ích rủi ro của thuốc.

➢ Góp phần đánh giá lợi ích, công dụng, tác dụng không mong muốn, hiệu quả và nguy cơ của thuốc

➢ Khuyến khích sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả (bao gồm cả chi phí hiệu quả)

➢ Thúc đẩy giáo dục, hiểu biết và đào tạo lâm sàng về Cảnh giác Dược

1.1.2 Biến cố bất lợi (AE) và phản ứng có hại của thuốc (ADR):

Biến cố bất lợi trong nghiên cứu lâm sàng là những dấu hiệu, triệu chứng, tình trạng bệnh tật hoặc kết quả xét nghiệm xấu xảy ra trong quá trình thử thuốc, ảnh hưởng đến người tham gia Những biến cố này có thể có hoặc không liên quan đến thuốc thử nghiệm.

Theo Luật Dược (2016), phản ứng có hại của thuốc (ADR) được định nghĩa là những phản ứng không mong muốn gây hại cho sức khỏe, có khả năng xảy ra ngay cả khi sử dụng thuốc ở liều lượng bình thường.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ADR (phản ứng có hại với thuốc) được định nghĩa là phản ứng độc hại không mong muốn xảy ra khi sử dụng thuốc ở liều thông thường nhằm phòng bệnh, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh, cũng như thay đổi chức năng sinh lý Định nghĩa này không bao gồm các phản ứng do sử dụng thuốc sai cách, sai liều hoặc liều lượng không phù hợp.

4 cao, có chủ định hoặc vô tình [16]

Phân loại: Có thể phân loại ADR theo nhiều cách nhưng 2 cách sau đây hay được sử dụng nhất:

Theo tần suất gặp, phản ứng có hại (ADR) được phân loại như sau: Rất thường gặp khi tỷ lệ ADR lớn hơn 1/10, và thường gặp khi tỷ lệ ADR từ 1/100 đến 1/10.

> 1/100; Ít gặp: 1/1 000 < ADR < 1/100; Hiếm gặp: ADR < 1/1 000; Rất hiếm gặp: ADR < 1/10 000

➢ Theo typ: Có 2 typ chính là A và B

Typ A là loại phản ứng bất lợi thường phụ thuộc vào liều lượng thuốc, thường xuất hiện ở các thuốc có phạm vi điều trị hẹp Các biểu hiện của phản ứng này liên quan trực tiếp đến tác dụng dược lý của thuốc, nhưng cường độ của chúng lại vượt quá mức cần thiết.

Typ B là loại phản ứng thuốc không phụ thuộc vào liều lượng, không liên quan đến các đặc tính dược lý đã biết mà phụ thuộc vào yếu tố di truyền hoặc miễn dịch Những phản ứng này có tính chất đặc ứng và thường khó dự đoán.

1.2 Tầm quan trọng của hoạt động theo dõi và giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR):

ADR (phản ứng có hại do thuốc) đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khỏe Theo ước tính, ADR là nguyên nhân gây tử vong thứ tư tại Hoa Kỳ và Canada, chỉ sau các bệnh lý tim mạch, ung thư và đột quỵ Một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy hơn 180.000 người Mỹ có thể tử vong do ADR, trong khi hơn một triệu người có thể gặp phải tổn thương liên quan Tỷ lệ này tác động đến khoảng 2,4-30% bệnh nhân trong thời gian điều trị nội trú.

ADR trung bình làm tăng thời gian nằm viện thêm 1,74 ngày và chi phí điều trị khoảng 2013 USD Mặc dù gây gánh nặng nghiêm trọng về sức khỏe và kinh tế cho bệnh nhân và hệ thống y tế, thống kê cho thấy đến 70% các ADR có thể được phòng tránh.

Để phát hiện các tác dụng phụ không mong muốn (ADR) mới và hiếm gặp, báo cáo ADR là phương pháp cơ bản nhất Hệ thống báo cáo ADR đóng vai trò nền tảng trong thực hành Cảnh giác dược của mỗi quốc gia Trung tâm Uppsala Monitoring Centre, được thành lập vào năm 1978 tại Uppsala, Thụy Điển, hoạt động như một Trung tâm Hợp tác của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) về Giám sát Thuốc toàn cầu, với nhiệm vụ triển khai các khía cạnh kỹ thuật và khoa học của mạng lưới Cảnh giác Dược toàn cầu của WHO.

Việc báo cáo đầy đủ tất cả các phản ứng phụ không mong muốn (ADR) trong quá trình điều trị là rất quan trọng Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, việc báo cáo ADR trở nên tối cần thiết.

ADR không định trước (unexpected) là những phản ứng bất lợi không được dự đoán trước, bao gồm cả những phản ứng có thể xảy ra dựa trên kinh nghiệm y khoa hoặc đã được ghi nhận trong các thuốc cùng nhóm tác dụng hoặc có cấu trúc hóa học tương tự, nhưng chưa được đề cập trong tờ tóm tắt thông tin sản phẩm.

ADR nghiêm trọng (phản ứng bất lợi nghiêm trọng do thuốc) được định nghĩa theo tiêu chuẩn của Hội nghị đồng thuận quốc tế ICH Một ADR sẽ được coi là nghiêm trọng nếu nó đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí sau đây.

• Đòi hỏi người bệnh phải nhập viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện

• Gây tàn phế hoặc mất khả năng vĩnh viễn, hoặc những trường hợp tạm thời nhưng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống người bệnh

• Gây dị tật hoặc khuyết tật bẩm sinh

Biến cố y khoa này là một tình huống nghiêm trọng, đe dọa đến sức khỏe của bệnh nhân và có thể yêu cầu can thiệp y tế để ngăn ngừa các hậu quả nghiêm trọng.

1.3 Hoạt động Cảnh giác Dược ở Việt Nam:

Ví trí, vai trò của Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong hệ thống Cảnh giác Dược

2.1 Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm:

DNKDDP bao gồm nhiều loại cơ sở liên quan đến ngành dược, như sản xuất, xuất nhập khẩu thuốc và nguyên liệu làm thuốc Các cơ sở này cũng cung cấp dịch vụ bảo quản, bán lẻ thuốc, bao gồm nhà thuốc, quầy thuốc và các cơ sở chuyên bán dược liệu Ngoài ra, DNKDDP còn liên quan đến dịch vụ kiểm nghiệm thuốc, thử thuốc lâm sàng và thử tương đương sinh học Các công ty trong lĩnh vực này phải có giấy phép hoạt động tại Việt Nam để đảm bảo chất lượng và an toàn cho sản phẩm.

2.2 Trách nhiệm của Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong hệ thống Cảnh giác dược:

Doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm (DNKDDP) có vai trò rất quan trọng trong hệ thống Cảnh giác dược, thông qua thực hiện các vai trò [3]:

➢ Tổ chức theo dõi về chất lượng, an toàn, hiệu quả của thuốc khi đưa thuốc ra lưu hành trên thị trường

Cơ sở sản xuất, đăng ký lưu hành, pha chế, chế biến và kinh doanh thuốc/sinh phẩm có trách nhiệm báo cáo và cập nhật thông tin về các biến cố bất lợi hoặc phản ứng sau tiêm chủng liên quan đến sản phẩm của mình Thông tin này cần được gửi đến Trung tâm Quốc gia và Trung tâm khu vực về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc theo quy định hiện hành.

Cập nhật thông tin về chất lượng, an toàn và hiệu quả của thuốc do cơ sở sản xuất, đăng ký lưu hành, pha chế và kinh doanh là trách nhiệm quan trọng đối với Cục Quản lý Dược, đặc biệt khi các thông tin này chưa được ghi nhận trong hồ sơ đăng ký thuốc đang lưu hành trên thị trường theo quy định hiện hành.

Khi thuốc đã có Giấy đăng ký lưu hành tại Việt Nam và được phép lưu hành ở các quốc gia khác, cần thiết phải cập nhật các thay đổi mới về quản lý thuốc liên quan đến an toàn Điều này bao gồm thông tin trên nhãn, giới hạn tiếp cận thuốc, rút giấy đăng ký lưu hành và thu hồi sản phẩm theo yêu cầu của cơ quan quản lý dược phẩm nước ngoài gửi đến Cục Quản lý Dược theo quy định hiện hành.

Xây dựng và triển khai kế hoạch quản lý nguy cơ cho các thuốc có nguy cơ cao là nhiệm vụ quan trọng của cơ sở sản xuất, đăng ký lưu hành, pha chế, chế biến và kinh doanh Cần tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành để giảm thiểu rủi ro liên quan đến những loại thuốc này.

➢ Thực hiện các trách nhiệm quy định tại Điều 76, 77, 78 của Luật Dược [5].

Các quy định hiện hành liên quan đến hoạt động báo cáo ADR của các

3.1 Báo cáo an toàn thuốc đơn lẻ xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam:

➢ Các trường hợp phải báo cáo [3]:

Tất cả các trường hợp phản ứng có hại của thuốc, sai sót liên quan đến thuốc, nghi ngờ về thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng, cũng như các thuốc không có hoặc không đạt hiệu quả điều trị, đều xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam và liên quan đến các cơ sở sản xuất, đăng ký hoặc phân phối thuốc.

Yêu cầu của báo cáo [3]:

Báo cáo cần được gửi ngay sau ngày số không, ngay cả khi thông tin chưa đầy đủ, gọi là báo cáo ban đầu Nếu có thêm thông tin, cần gửi báo cáo bổ sung.

• Báo cáo ban đầu: bao gồm tối đa các thông tin hiện có, trong đó cần có

10 các thông tin tối thiểu đủ để xác định rõ người bệnh, người báo cáo, phản ứng xảy ra và thuốc nghi ngờ

Báo cáo bổ sung là quá trình cập nhật và chỉnh sửa thông tin chưa đầy đủ, chưa chính xác hoặc chưa có trong báo cáo ban đầu Điều này liên quan đến các yếu tố như thông tin về người bệnh, phản ứng xảy ra, thuốc nghi ngờ, người báo cáo, thuốc dùng đồng thời, cách xử trí phản ứng, cũng như đánh giá của bác sĩ điều trị hoặc người báo cáo.

➢ Biểu mẫu báo cáo: sử dụng một trong các mẫu báo cáo sau [3]:

• Mẫu báo cáo phản ứng có hại của Bộ Y tế dành cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Phụ lục 1)

• Mẫu báo cáo của Hội đồng các tổ chức quốc tế về khoa học y học (mẫu báo cáo CIOMS I) (Phụ lục 2)

Mẫu báo cáo bất thường về chất lượng thuốc được áp dụng trong trường hợp nghi ngờ thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng, tuy nhiên không gây ra biến cố bất lợi cho bệnh nhân.

• Mẫu báo cáo tai biến nặng sau tiêm chủng (chỉ áp dụng cho trường hợp biến cố bất lợi liên quan đến vắc xin hoặc tiêm chủng)

• ADR nghiêm trọng gây tử vong hoặc đe dọa tính mạng người bệnh: báo cáo ban đầu gửi trong thời gian sớm nhất có thể nhưng không muộn hơn

Trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày số không, cần phải hoàn thành báo cáo bổ sung Báo cáo này nên được nộp trong thời gian sớm nhất có thể, nhưng không được muộn hơn 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông tin bổ sung.

Báo cáo về các phản ứng có hại nghiêm trọng (ADR) không gây tử vong hoặc đe dọa tính mạng người bệnh cần được gửi trong thời gian sớm nhất, không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện Đối với báo cáo bổ sung, thời hạn cũng là 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được thông tin bổ sung.

Báo cáo về sự kiện ADR không nghiêm trọng cần được gửi trong thời gian sớm nhất, không muộn hơn 30 ngày kể từ ngày số không Các báo cáo bổ sung cũng phải được nộp trong thời gian sớm nhất, nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được thông tin bổ sung.

• Trường hợp sai sót liên quan đến thuốc dẫn đến xảy ra biến cố bất lợi

Phát hiện tín hiệu thuốc – ADR và điểm thay đổi về số lượng trong cơ sở dữ liệu DNKDDP

Trong trường hợp nghi ngờ về thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng gây ra biến cố bất lợi cho bệnh nhân, cũng như khi thuốc không có hoặc không đạt hiệu quả điều trị, thời hạn báo cáo sẽ được áp dụng tương tự như đối với báo cáo ADR và sẽ được quyết định dựa trên mức độ nghiêm trọng của sự cố.

Trong trường hợp có sai sót liên quan đến thuốc mà không gây ra biến cố bất lợi cho bệnh nhân, hoặc khi nghi ngờ về thuốc giả hoặc thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng nhưng không gây ra biến cố bất lợi, thời hạn báo cáo sẽ được áp dụng tương tự như đối với báo cáo phản ứng bất lợi nghiêm trọng (ADR) không nghiêm trọng.

3.2 Báo cáo an toàn thuốc định kỳ:

Tất cả các trường hợp nghi ngờ xảy ra phản ứng có hại với thuốc (ADR) cần được báo cáo, bao gồm cả những trường hợp xảy ra trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, liên quan đến các loại thuốc do cơ sở sản xuất, đăng ký hoặc phân phối tại Việt Nam.

➢ Biểu mẫu báo cáo: cơ sở cần sử dụng một trong các mẫu báo cáo sau [3]:

Báo cáo định kỳ về tính an toàn của thuốc (PSUR) hoặc Báo cáo đánh giá định kỳ về hiệu quả và tính an toàn của thuốc (PBRER) phải được thực hiện theo Hướng dẫn E2C của Hội nghị hòa hợp quốc tế (ICH) Báo cáo này có thể được viết bằng tiếng Anh hoặc tiếng Việt và cần phải nộp kèm với báo cáo tóm tắt về hiệu quả và tính an toàn của thuốc bằng tiếng Việt.

• Báo cáo an toàn, hiệu quả của thuốc sau khi lưu hành theo quy định hiện hành về đăng ký thuốc

Thời hạn gửi báo cáo là trong vòng 90 ngày sau khi kết thúc chu kỳ báo cáo Thông tin trong báo cáo được tổng hợp theo chu kỳ cho từng sản phẩm, chu kỳ này do cơ sở kinh doanh Dược lựa chọn và đăng ký khi nộp báo cáo ADR định kỳ lần đầu Hướng dẫn khuyến khích thực hiện báo cáo hàng năm kể từ ngày sinh quốc tế của thuốc.

IV Phát hiện tín hiệu an toàn thuốc trong cơ sở dữ liệu báo cáo từ Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm:

4.1 Định nghĩa quản lý tín hiệu an toàn thuốc:

Phát hiện tín hiệu và đánh giá các tín hiệu này là hoạt động quan trọng nhất

Theo định nghĩa của WHO, tín hiệu là thông tin báo cáo về mối quan hệ nhân quả giữa tác dụng phụ và thuốc, trong đó mối quan hệ này có thể chưa được biết hoặc ghi chép không đầy đủ Một số báo cáo nhất định sẽ thể hiện tín hiệu và được gửi đến các trung tâm Cảnh giác Dược khu vực, sau đó là các trung tâm Quốc gia Tất cả các báo cáo trường hợp này sẽ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu tại các Trung tâm Quốc gia và được chuyển đến Trung tâm Hợp tác của WHO về Giám sát Thuốc Quốc tế, cụ thể là Trung tâm Giám sát Upsala.

Tín hiệu là thông tin ghi nhận từ nhiều nguồn, cho thấy những phản ứng có hại mới liên quan đến thuốc hoặc các khía cạnh mới của phản ứng đã biết Những khía cạnh này có thể bao gồm thay đổi về tần suất, phân bố theo tuổi, giới tính, quốc gia, thời gian xuất hiện, mức độ nặng và hậu quả của phản ứng Đánh giá tín hiệu là quá trình xác định mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và các biến cố mới hoặc thay đổi nguy cơ đã biết, sử dụng dữ liệu lâm sàng và phi lâm sàng, đảm bảo xem xét toàn diện các nguồn thông tin.

Quản lý tín hiệu là quy trình đánh giá dựa trên dữ liệu hiện có, bao gồm báo cáo đơn lẻ, nghiên cứu, chương trình giám sát và thông tin từ y văn Mục tiêu của quản lý tín hiệu là xác định sự xuất hiện của các nguy cơ mới hoặc thay đổi đối với các nguy cơ đã biết Quy trình này bao gồm ba bước chính: phát hiện tín hiệu, đánh giá tín hiệu và thực hiện các biện pháp truyền thông cùng quản lý nguy cơ Từ đó, các khuyến cáo và đề xuất biện pháp truyền thông sẽ được đưa ra để theo dõi và quản lý hiệu quả.

Phát hiện tín hiệu là bước quan trọng trong Cảnh giác Dược, giúp nhận diện nguy cơ tiềm ẩn từ thuốc và sản phẩm y tế Việc này dựa trên các nguồn dữ liệu khác nhau, đặc biệt khi nguy cơ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, nhằm thực hiện các biện pháp can thiệp thích hợp.

Một mạng lưới Cảnh giác Dược toàn diện cần thực hiện các hoạt động đánh giá định kỳ về dữ liệu an toàn thuốc, bao gồm báo cáo ADR tự nguyện và các nghiên cứu giám sát chủ động các vấn đề an toàn thuốc nghiêm trọng Hệ thống theo dõi thụ động đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập thông tin và đảm bảo an toàn cho người sử dụng thuốc.

Báo cáo ADR tự nguyện đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và đánh giá các tín hiệu an toàn thuốc một cách định tính, với mối quan hệ nhân quả được xác lập trong từng báo cáo cụ thể Sự lặp lại về số lượng và chất lượng báo cáo giúp củng cố những phát hiện này Ngược lại, hệ thống giám sát chủ động cho phép định lượng tỷ lệ gặp phải các biến cố bất lợi thông qua nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, chẳng hạn như theo dõi biến cố thuần tập.

Hệ thống giám sát CEM, cùng với hệ thống đăng ký và các nghiên cứu thuần tập tại các cơ sở điều trị trọng điểm, đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn hậu mại (pha IV) Các nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu bệnh chứng và nghiên cứu quan sát giúp cung cấp bằng chứng cần thiết cho các chương trình y tế quốc gia, đặc biệt là trong phòng chống HIV/AIDS, lao, sốt rét và chương trình tiêm chủng mở rộng Những dữ liệu này hỗ trợ việc lựa chọn thuốc mới, vắc xin mới, phác đồ điều trị mới hoặc điều chỉnh hướng dẫn điều trị.

4.2 Các phương pháp phát hiện tín hiệu thuốc ADR: Đối với cơ sở dữ liệu báo cáo tự nguyện, một số phương pháp phát hiện tín hiệu được sử dụng hiện nay là:

➢ Phương pháp chuyên gia: các báo cáo ADR được gửi tới các chuyên gia, sau đó được đánh giá cho từng ca hoặc chuỗi các ca

Phương pháp khai phá dữ liệu là các kỹ thuật giúp phát hiện tín hiệu ADR bằng cách tận dụng khả năng tính toán và phân tích trên tập dữ liệu lớn Các phương pháp này đều dựa vào bảng 2x2 để phát hiện tín hiệu hiệu quả.

Biến cố bất lợi Y Không biến cố bất lợi Y

PRR được tính theo công thức sau:

𝑃𝑅𝑅 = a ⁄ (a + b) c ⁄ (c + d)Kiểm định khi bình phương:

Tín hiệu hình thành đối với một thuốc được xác định khi thỏa mãn ba điều kiện sau: có ít nhất ba báo cáo liên quan đến thuốc trong khoảng thời gian đánh giá, giá trị kiểm định khi bình phương lớn hơn hoặc bằng 4 (𝜒² ≥ 4), và giá trị PRR lớn hơn hoặc bằng 2 (PRR ≥ 2).

ROR được tính theo công thức sau:

𝑐/𝑑 Khoảng tin cậy 95% của ROR được tính theo công thức:

Tín hiệu được hình thành khi thỏa mãn 2 điều kiện là số báo cáo của cặp thuốc-

AE lớn hơn 3 và cận dưới khoảng tin cậy 95% của ROR lớn hơn 1 [46]

Trong tần suất phương pháp có hai thuật toán được sử dụng là PRR và ROR

Hoạt động nghiên cứu đã tiến hành trên dữ liệu báo cáo ADR từ DNKDDP trên thế giới và tại Việt Nam

Các nghiên cứu về báo cáo ADR của DNKDDP trên thế giới rất đa dạng về quy mô và phương pháp Một nghiên cứu tại Hàn Quốc vào năm 2016 đã so sánh cơ sở dữ liệu báo cáo giữa bệnh viện, DNKDDP, dược sĩ và người sử dụng thuốc, với tổng cộng 228,939 báo cáo được phân tích Nghiên cứu này cũng khảo sát cơ cấu nhân chủng học liên quan đến giới tính và tuổi tác, đồng thời đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa AE và thuốc, cũng như chất lượng của các báo cáo.

Bài viết này trình bày 15 phương pháp toán học dựa trên sự hoàn thiện của báo cáo ADR, được tính toán hàng tháng trong nghiên cứu Nghiên cứu cũng so sánh hệ thống Cảnh giác dược của ba quốc gia Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan, nhằm mô tả đặc điểm của hệ thống báo cáo nguyện, phương pháp phát hiện tín hiệu và cơ sở dữ liệu quan sát tại các quốc gia này Các chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm số lượng báo cáo trong ba năm 2007.

Nghiên cứu về hệ thống Cảnh giác Dược từ năm 2008 đến 2009 cho thấy tỷ trọng báo cáo phân loại theo người gửi khác nhau như DNDP, CSKCB, dược sĩ và người sử dụng thuốc Một nghiên cứu tại Hàn Quốc đã đánh giá vai trò của các cơ sở dữ liệu trong hệ thống này, trong khi một nghiên cứu so sánh giữa ba quốc gia đã chỉ ra những ưu điểm và hạn chế ở mức độ vĩ mô mà nghiên cứu Hàn Quốc không thực hiện được Hai nghiên cứu mô tả đặc điểm của hệ thống Cảnh giác Dược, trong khi một số nghiên cứu khác đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến xu hướng báo cáo Tại Nhật Bản, nghiên cứu về xu hướng dữ liệu báo cáo ADR của năm thuốc mới ra thị trường cho thấy sự ảnh hưởng của việc ra mắt thuốc mới đến số lượng báo cáo ADR trong vòng hai năm, cùng với tỷ lệ mức độ nghiêm trọng của các báo cáo.

Tại Việt Nam, hai nghiên cứu nổi bật về báo cáo ADR của đơn vị kinh doanh dược phẩm (DNKDDP) là “Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của đơn vị kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 – 2015” và “Khảo sát thực trạng báo cáo phản ứng có hại (ADR) của đơn vị kinh doanh thuốc tại Trung tâm DI & ADR Việt Nam trong giai đoạn 2010-2017” Các nghiên cứu này phân tích xu hướng và cơ cấu dữ liệu báo cáo của DNKDDP thông qua các chỉ số như số lượng báo cáo, phân loại mức độ nghiêm trọng, công ty gửi báo cáo, và nhóm thuốc được báo cáo Đánh giá chất lượng báo cáo được thực hiện dựa trên khuyến cáo năm 2013 của Trung tâm WHO-UMC (phương pháp vigiGrade) Thêm vào đó, hai nghiên cứu còn so sánh cơ sở dữ liệu của DNKDDP với cơ sở dữ liệu của cơ sở khám chữa bệnh (CSKCB) để làm rõ vai trò của các cơ sở dữ liệu trong hệ thống báo cáo ADR.

Nghiên cứu “Khảo sát thực trạng báo cáo phản ứng có hại (ADR) của đơn vị kinh doanh thuốc tại Trung tâm DI & ADR Việt Nam trong giai đoạn 2010-2017” đã tiến hành phân tích tín hiệu của cặp thuốc ADR thông qua chỉ số ROR.

“Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của đơn vị kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 –

Năm 2015, nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá tác động của truyền thông nguy cơ liên quan đến vaccine 5 trong 1 (Quivnaxem) Hai đề tài này cung cấp cái nhìn toàn diện về hệ thống báo cáo của DNKDDP, đồng thời làm nổi bật vai trò và đóng góp của cơ sở dữ liệu DNKDDP cho hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia.

Nghiên cứu này tiếp tục từ hai nghiên cứu trước, tập trung phân tích cơ sở dữ liệu của DNKDDP trong giai đoạn 2010 – 2019 Mục tiêu là xác định xu hướng báo cáo và cơ cấu trong 10 năm qua, với lượng cơ sở dữ liệu lớn nhằm khái quát đặc điểm của hệ thống báo cáo Đồng thời, nghiên cứu khảo sát xu hướng báo cáo trong giai đoạn này để làm rõ sự phát triển của cơ sở dữ liệu và vai trò của Hướng dẫn Cảnh giác dược, Trung tâm.

Bài viết này phân tích sự thay đổi tín hiệu ROR trong hệ thống báo cáo tự nguyện DI & ADR Quốc gia từ năm 2010 đến 2019, nhằm quan sát sự xuất hiện của tín hiệu ADR Nghiên cứu này mở rộng thời gian và góc nhìn so với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp phù hợp để cải thiện hoạt động báo cáo ADR tại nước ta.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu bao gồm các báo cáo ADR của các DNKDDP đã gửi tới Trung tâm DI & ADR Quốc trong giai đoạn từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/12/2019.

Địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Bộ môn Quản lý – Kinh tế dược thuộc trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả, không can thiệp thu thập thông tin thông qua hồi cứu dữ liệu

Dữ liệu trong nghiên cứu này được thu thập từ cơ sở nhập liệu báo cáo của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch (DNKDDP) gửi tới Trung tâm DI & ADR Quốc gia, với thời gian nhận dữ liệu từ ngày 1/1/2010 đến 31/12/2019.

➢ Nguồn dữ liệu: Cơ sở dữ liệu nhập liệu báo cáo ADR từ DNKDDP của

Trung tâm DI & ADR Quốc gia

3.3 Tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ:

Tất cả các báo cáo ADR từ các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm được ghi nhận bởi Trung tâm DI & ADR Quốc gia trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2010 đến ngày 31/12/2019 là tiêu chuẩn lựa chọn.

➢ Tiêu chuẩn loại trừ: Các báo cáo không có thông tin về thuốc nghi ngờ hoặc không có thông tin mô tả về biến cố bất lợi

Mẫu báo cáo được hoàn thành dựa trên mẫu báo cáo phản ứng có hại của Bộ

Y tế Việt Nam hoặc mẫu báo cáo CIOMS và mẫu báo cáo cho các CSKCB (trình bày trong Phụ lục 1,2)

Hoạt chất nghi ngờ được phân loại theo hệ thống ATC của WHO Mã AE được dịch sang tiếng Anh và chuẩn hóa theo mã PT trong bộ thuật ngữ MedDRA.

Mã biểu hiện AE/phản ứng tương ứng cũng được phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (SOC)

Thời gian gửi báo cáo được xác định từ lần gửi đầu tiên Mức độ nghiêm trọng được ghi nhận trực tiếp từ nội dung báo cáo Đối với các báo cáo có nhiều mức độ nghiêm trọng, quy ước nghiên cứu sẽ chọn mức độ cao nhất.

Tín hiệu của cặp thuốc – AE dựa vào chỉ số ROR (Reporting Odd Ratios) ROR được tính toán theo công thức:

➢ Khoảng tin cậy 95% của ROR được tính theo công thức:

➢ Trong đó a, b, c, d của mỗi thuốc X và biến cố bất lợi Y được mô tả trong 2x2 sau đây:

Biến cố bất lợi Y Không biến cố bất lợi Y

Tín hiệu được hình thành khi thỏa mãn 2 điều kiện là số báo cáo của cặp thuốc-

AE lớn hơn 3 và cận dưới khoảng tin cậy 95% của ROR lớn hơn 1 [46]

Phần mềm Excel phiên bản 365 được sử dụng để thu thập, chuẩn hóa và xử lí số liệu, vẽ biểu đồ

Phần mềm R studio phiên bản 1.4.1103, Package “PhViD” được sử dụng để tính ROR Package “Changepoint” được sử dụng để xác định điểm cắt thay đổi theo thời gian.

Nội dung nghiên cứu và các chỉ số nghiên cứu: 18 4.1 Mục tiêu 1: Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh

4.1 Mục tiêu 1: Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019:

➢ Xu hướng báo cáo ADR của DNKDDP trong giai đoạn 2010 – 2019

- Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR của các DNKDDP trong dữ liệu

19 chung về báo cáo ADR trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng báo cáo theo từng năm của DNKDDP

• Số lượng báo cáo theo từng năm của DNKDDP và CSKCB

• Tỷ trọng báo cáo của DNKDDP trên tổng số lượng báo cáo

- Đặc điểm xu hướng báo cáo của DNKDDP được đánh giá theo số lượng báo cáo từng năm, số lượng DNDP trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng báo cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng DNKDDP tham gia báo cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019

- Số lượng báo cáo ADR theo từng tháng và điểm thay đổi về xu hướng báo cáo trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng báo cáo theo từng tháng giai đoạn 2010 – 2019

• Điểm thay đổi được xác định trong giai đoạn 2010 – 2019

➢ Cơ cấu báo cáo ADR của DNKDDP giai đoạn 2010 – 2019:

- Cơ cấu báo cáo theo số lượng báo cáo của các Doanh nghiệp dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng báo cáo của các DNKDDP tham gia báo cáo nhiều nhất giai đoạn 2010 – 2019

• Tỷ trọng về số lượng báo cáo của các DNKDDP tham gia báo cáo nhiều nhất giai đoạn 2010 – 2019

- Cơ cấu báo cáo phân loại theo mức độ nghiêm trọng trong giai đoạn

• Số lượng và tỷ trọng báo cáo phân loại theo mức độ nghiêm trọng của ADR giai đoạn 2010 – 2019

- Cơ cấu báo cáo phân loại theo nhóm thuốc nghi ngờ trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng và tỷ trọng các nhóm thuốc phân loại theo mã ATC (bậc 1 và bậc 3) giai đoạn 2010 – 2019

- Số lượng hoạt chất được báo cáo trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng và tỷ trọng của 10 hoạt chất được báo cáo nhiều nhất giai đoạn 2010 – 2019

- Tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi Nhà sản xuất/phân phối trong giai đoạn

• Tỷ lệ được báo cáo bởi Nhà sản xuất/phân phổi của 6 thuốc có số lượng báo cáo nhiều nhất giai đoạn 2010 – 2019

- Cơ cấu AE phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (SOC) trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng và tỷ trọng AE phân loại theo mã SOC giai đoạn 2010 – 2019

- Cặp thuốc – Biến cố bất lợi (AE) trong giai đoạn 2010 – 2019

• Số lượng và tỷ trọng của 20 cặp thuốc AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019

4.2 Mục tiêu 2: Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019:

➢ Tín hiệu ROR của cặp thuốc - AE trong giai đoạn 2010 – 2019

- Số lượng của 9 cặp thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn

- Giá trị ROR của 9 cặp thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất theo thời gian trong giai đoạn 2010 – 2019

➢ Tín hiệu ROR của các cặp Thuốc – dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt trong giai đoạn 2010 – 2019

- Số lượng và giá trị ROR của các cặp thuốc – dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt trong giai đoạn 2010 – 2019

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Mô tả đặc điểm và xu hướng của báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh

1 Số lượng và xu hướng báo cáo ADR của DNKDDP trong giai đoạn 2010 – 2019:

1.1 Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR của các DNKDDP trong dữ liệu chung về báo cáo ADR:

Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR của các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm (DNKDDP) so với tổng số báo cáo, bao gồm báo cáo của cơ sở khám chữa bệnh (CSKCB) và DNKDDP, như được trình bày trong bảng 3.1.

Bảng 3.1 Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR hàng năm của DNKDDP trong tổng số báo cáo giai đoạn 2010 – 2019

Năm Số lượng báo cáo từ DNKDDP Tổng số báo cáo

% trên tổng số báo cáo

Trong giai đoạn 2010 – 2019, các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm đã đóng góp trung bình 10,29% vào tổng số báo cáo về an toàn thuốc tại Việt Nam Tỷ trọng báo cáo của các doanh nghiệp này đã tăng dần từ 1,79% lên 14,45% trong giai đoạn 2010 – 2016, nhưng sau đó đã giảm xuống còn 11,27% trong giai đoạn 2016 – 2019.

1.2 Đặc điểm xu hướng báo cáo của DNKDDP được đánh giá theo số lượng báo cáo từng năm, số lượng DNDP:

Trong giai đoạn 2010 – 2019, hình 3.1 minh họa rõ xu hướng báo cáo, bao gồm số lượng báo cáo và số doanh nghiệp tham gia.

Nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng báo cáo của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ pháp lý (DNKDDP) đã tăng mạnh qua các năm, từ 33 báo cáo vào năm 2010 lên 1725 báo cáo vào năm 2019, tương ứng với mức tăng 52 lần Số lượng DNKDDP tham gia vào công tác báo cáo ADR cũng gia tăng đáng kể, từ 6 DN năm 2010 lên 44 DN vào năm 2019 Giai đoạn này ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong hoạt động báo cáo.

2015 – 2016, từ 702 lên đến 1599 báo cáo (2,28 lần)

Hình 3.1: Số lượng Doanh nghiệp Dược phẩm tham gia báo cáo và số lượng báo cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019

1.3 Số lượng báo cáo ADR theo từng tháng và điểm thay đổi về xu hướng báo cáo:

Giai đoạn này ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng trong số lượng báo cáo ADR, với dữ liệu báo cáo được phân tích theo từng tháng Hình 3.2 minh họa rõ sự thay đổi đáng kể trong số lượng báo cáo trong thời gian này.

Trong giai đoạn 2010 – 2019, cơ sở dữ liệu của DNKDDP đã xác định rằng tháng 8/2015 là thời điểm quan trọng nhất trong xu hướng báo cáo, khi có sự gia tăng rõ rệt về số lượng báo cáo Bên cạnh đó, số lượng báo cáo trong các tháng cuối năm thường cao hơn so với giai đoạn đầu năm.

Số lượng báo cáo Số lượng DN tham gia báo cáo

Hình 3.2: Điểm thay đổi về số lượng báo cáo trong hệ thống báo cáo giai đoạn 2010 - 2019

2 Cơ cấu báo cáo ADR của DNKDDP giai đoạn 2010 – 2019:

2.1 Cơ cấu báo cáo theo số lượng báo cáo của các Doanh nghiệp dược phẩm:

Bảng 3.2: Các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019

STT DNKDDP gửi báo cáo Số lượng Tỷ lệ % (N = 8426)

3 Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd 1071 12,71

4 Merck Sharp & Dohme (Asia) Ltd 845 10,03

6 Bayer (South East Asia) Pte Ltd 373 4,43

Các Doanh nghiệp tham gia báo cáo có số lượng báo cáo nhiều nhất được thể hiện trong bảng 3.2

Theo thống kê về các đơn vị gửi báo cáo ADR, 10 công ty hàng đầu chủ yếu là các công ty đa quốc gia có văn phòng đại diện hoặc cơ sở sản xuất tại Việt Nam, chiếm 87,94% tổng số báo cáo Trong giai đoạn 2010 – 2019, Hoffmann La Roche Ltd dẫn đầu với 29,42% số báo cáo, tiếp theo là Novartis Pharma Services AG với 14,55% và Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd với 12,71%.

2.2 Cơ cấu báo cáo phân loại theo mức độ nghiêm trọng:

Số lượng và tỷ lệ báo cáo phân loại theo mức độ nghiêm trọng được thể hiện ở bảng 3.3

Bảng 3.3: Mức độ nghiêm trọng của các biến cố bất lợi được ghi nhận trong giai đoạn 2010 – 2019

Phân loại báo cáo theo mức độ nghiêm trọng Số lượng

Tử vong 1009 11,98 Đe dọa tính mạng 254 3,01

Nhập viện/kéo dài thời gian nhập viện 1588 18,85

Nghiêm trọng và có ý nghĩa y khoa 1594 18,92

Gây dị tật/tàn tật 13 0,15

Không có thông tin về mức độ nghiêm trọng 3212 38,12

Trong giai đoạn 2010 – 2019, có 8.426 báo cáo ADR được gửi bởi DNKDDP, trong đó 11,98% trường hợp dẫn đến tử vong và 3,01% đe dọa tính mạng người bệnh Số lượng báo cáo nghiêm trọng khác là 3.195, chiếm 37,92%, trong khi báo cáo không nghiêm trọng chiếm 8,972% Đặc biệt, tỷ lệ báo cáo không có thông tin về mức độ nghiêm trọng lên tới 38,12%.

2.3 Cơ cấu báo cáo phân loại theo nhóm thuốc nghi ngờ gây AE:

Danh mục các nhóm thuốc nghi ngờ gây ADR phân loại theo nhóm dược lý (ATC bậc 1) được trình bày trong bảng 3.4

Kết quả cho thấy, nhóm thuốc chống ung thư và điều hòa miễn dịch (L) được báo cáo nhiều nhất với 3.822 báo cáo, chiếm 45,36% Tiếp theo là nhóm thuốc tác dụng trên máu và cơ quan tạo máu (B) với 18,79%, và nhóm thuốc kháng khuẩn dùng toàn thân (J) chiếm 10,81% Nhóm thuốc ít được báo cáo hơn là

25 báo cáo là nhóm thuốc cho hệ hô hấp (R) (1,02%), nhóm thuốc tác dụng lên cơ quan cảm thụ (S) (0,45%), nhóm thuốc kháng kí sinh trùng và côn trùng (P) (0,42%)

Bảng 3.4: Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019

STT Mã ATC Nhóm dược lý Số lượng

1 L Thuốc chống ung thư và điều hòa miễn dịch 3822 45,36

2 B Thuốc dùng cho máu và cơ quan tạo máu 1583 18,79

3 J Kháng khuẩn dùng toàn thân 911 10,81

5 A Thuốc dùng cho đường tiêu hóa và chuyển hóa 460 5,46

6 M Thuốc dùng cho hệ cơ - xương 400 4,75

8 N Thuốc trên hệ thần kinh 290 3,44

9 H Các chế phẩm hormon dùng đường toàn thân, trừ hormon sinh dục và insulin 241 2,86

10 G Thuốc trên hệ sinh dục tiết niệu và các hormon sinh dục 183 2,17

11 D Chế phẩm dùng cho da 127 1,51

12 R Thuốc dùng trên hệ hô hấp 86 1,02

14 S Thuốc tác động lên cơ quan cảm thụ 38 0,45

15 P Thuốc kháng ký sinh trùng và côn trùng 35 0,42

Danh mục các nhóm thuốc được báo cáo nhiều nhất (phân loại theo mã ATC bậc 4) được trình bày trong bảng 3.5

Trong cơ sở dữ liệu của DNKDDP, thuốc điều trị ung thư (L01X) chiếm ưu thế với 2.683 báo cáo, tương đương 31,84% Tiếp theo là dịch truyền tĩnh mạch với 12,79% và thuốc ức chế miễn dịch đạt 6,66% Trong số 10 họ dược lý được báo cáo nhiều nhất, thuốc điều trị ung thư dẫn đầu rõ rệt.

Báo cáo ADR của các DNDP ghi nhận sự đa dạng về các nhóm dược lý, bao gồm 4 nhóm thuốc điều trị ung thư và điều hòa miễn dịch (L01X, L04A, L01B, L01C), 2 nhóm thuốc liên quan đến máu và cơ quan tạo máu (B05B, B01A), cùng với các nhóm thuốc cho hệ tim mạch (V08A), hệ cơ xương (M05B) và thuốc kháng sinh (J01D).

Bảng 3.5: Các nhóm dược lý (ATC bậc 4) được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019

STT ATC bậc 3 Nhóm Số lượng Tỷ lệ %

1 L01X Thuốc điều trị ung thư khác 2683 31,84

3 L04A Thuốc ức chế miễn dịch 561 6,66

5 L01C Alkaloid thực vật và các chất tương tự 362 4,30

7 V08A Thuốc cản quang chứa iod 258 3,06

8 C09C Thuốc chẹn thụ thể angiotensin II (ARB) 233 2,77

9 M05B Thuốc tác động lên cấu trúc xương và khoáng hóa 231 2,74

10 J01D Kháng sinh nhóm beta-lactam 203 2,41

2.4 Số lượng hoạt chất được báo cáo:

Bảng 3.6: Các hoạt chất được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019

STT Hoạt chất Số lượng Tỷ lệ % (N = 8426)

1 Dung dịch thẩm phân phúc mạc 1059 12,57

Các hoạt chất nghi ngờ được báo cáo nhiều nhất được trình bày ở bảng 3.6 Dung dịch thẩm phân màng bụng và erlotinib là 2 thuốc có tần suất gặp ADR

Trong số 27 loại thuốc được báo cáo, có 12,57% và 9,20% tổng số báo cáo liên quan đến hai loại thuốc cao nhất Đặc biệt, 6 trong 10 thuốc nghi ngờ gây tác dụng phụ (ADR) nhiều nhất là thuốc chống ung thư, bao gồm erlotinib (9,20%), imatinib (6,78%), bevacizumab (6,63%), rituximab (3,05%), tocilizumab (1,96%) và sorafenib (1,91%) Tổng tỷ lệ báo cáo của 10 nhóm thuốc đầu tiên chiếm đến 49,86%.

2.5 Tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi Nhà sản xuất/phân phối:

Hình 3.3 Số lượng và tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi nhà sản xuất/phân phối của thuốc đó trong giai đoạn 2010 – 2019

Tại thị trường Việt Nam, thuốc có thể được báo cáo bởi nhà sản xuất hoặc phân phối, cũng như bởi các doanh nghiệp khác khi có sự tương tác với thuốc của họ Nghiên cứu đã khảo sát số lượng thuốc và tỷ lệ báo cáo từ nhà sản xuất hoặc phân phối trong giai đoạn 2010 – 2019, với dữ liệu được trình bày trong hình 3.3.

Trong cơ sở dữ liệu của DNKDDP, hầu hết các thuốc được báo cáo bởi chính công ty sản xuất hoặc phân phối, với tỷ lệ cao như dung dịch thẩm phân màng bụng (99,72%), erlotinib (99,87%) và bevacizumab (97,69%) Chỉ một phần nhỏ báo cáo đến từ các đơn vị không phải nhà sản xuất hoặc phân phối Đặc biệt, imatinib và capecitabin hoàn toàn được báo cáo bởi nhà sản xuất/phân phối với tỷ lệ 100%.

2.6 Cơ cấu AE phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (SOC):

Dung dịch thẩm phân màng bụng

Erlotinib Imatinib Bevacizumab Capecitabin Rituximab

Số lượng báo cáo Tỷ lệ báo cáo từ NSX

Theo bảng 3.7, các ADR (phân loại theo tổ chức cơ thể chịu tổn thương dựa vào mã SOC tương ứng) có số lượng báo cáo cao nhất từ dữ liệu DNKDDP.

Phân tích sự hình thành tín hiệu trong dữ liệu về báo cáo ADR của các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019

1 Tín hiệu ROR của cặp thuốc - AE trong giai đoạn 2010 – 2019:

Trong giai đoạn 2010 – 2013, các cặp thuốc – AE có số lượng báo cáo cao nhất không có dữ liệu tín hiệu, bao gồm cả trường hợp không có tín hiệu hay tín hiệu không có ý nghĩa, với số lượng cặp thuốc AE ghi nhận ≤ 3 Do đó, những cặp thuốc này không được trình bày trong bảng 3.9.

Báo cáo DNKDDP nghiên cứu sự hình thành tín hiệu của các cặp thuốc – tác dụng phụ (AE), loại bỏ những AE không liên quan đến tác dụng dược lý của thuốc như chất lượng thuốc và sai sót trong sử dụng Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và biến cố bất lợi Kết quả trong bảng 3.9 chỉ ra 9 cặp thuốc – ADR có số lượng báo cáo cao nhất và tính toán ROR từ năm 2014 đến 2019.

Dữ liệu nghiên cứu cho thấy tín hiệu từ "dung dịch thẩm phân phúc mạc" liên quan đến biến cố suy nhược và rối loạn tiêu hóa đã duy trì ổn định từ năm 2014 đến 2019, với biến cố suy nhược tăng từ 16,42 lên 132,03 và rối loạn tiêu hóa từ 9,71 lên 26,5 Ngược lại, tín hiệu cho biến cố viêm phúc mạc chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian ngắn, cụ thể là vào năm 2016 với ROR 1745,97, và tăng huyết áp ghi nhận vào năm 2017 và 2018 Đối với erlotinib, tín hiệu liên quan đến biến cố tử vong đã hình thành trong ba năm gần nhất.

Từ năm 2017 đến 2019, tín hiệu liên quan đến phát ban không ổn định, với sự xuất hiện vào các năm 2014, 2016 và 2017 Trong khi đó, tín hiệu của thuốc imatinib duy trì ổn định trong toàn bộ giai đoạn Tín hiệu liên quan đến kháng thuốc cũng duy trì ổn định, ngoại trừ năm 2015 Đặc biệt, tín hiệu liên quan đến ung thư ác tính được duy trì từ năm 2014 đến 2017.

Bảng 3.9: ROR của các cặp Thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019

STT Thuốc – AE Số lượng 2014 2015 2016 2017 2018 2019

1 Dung dịch thẩm phân phúc mạc – Viêm phúc mạc 548 - - 1745,97

2 Dung dịch thẩm phân phúc mạc – Rối loạn tiêu hóa 186 - 9,71

4 Dung dịch thẩm phân phúc mạc – Suy nhược 137 16,42

7 Dung dịch thẩm phân phúc mạc – Tăng huyết áp 110 - - - 4,72

9 Imatinib – Ung thư ác tính 81 78,19

“-“ : Không có tín hiệu hoặc tín hiệu không có ý nghĩa (cận dưới CI95% < 1)

2 Tín hiệu ROR của cặp thuốc – sử dụng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt trong giai đoạn 2010 – 2019:

Trong những năm gần đây, việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt đã gia tăng và có nhiều báo cáo liên quan Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tín hiệu về các cặp thuốc AE liên quan đến việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định trong giai đoạn 2010 – 2019, như được thể hiện trong bảng 3.10.

Bảng 3.10: ROR của các cặp thuốc – biến cố “dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt” trong giai đoạn 2010 – 2019

STT Thuốc – AE (Dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt)

Số lượng Giá trị ROR

Trong giai đoạn 2010 - 2019, có 10 cặp thuốc liên quan đến việc sử dụng thuốc ngoại chỉ định, trong đó 9 thuốc thuộc nhóm điều trị ung thư và 1 thuốc điều trị tăng huyết áp (lisinopril/amlodipin) Bevacizumab dẫn đầu về số lượng báo cáo sử dụng ngoài chỉ định với 292 trường hợp và có giá trị ROR là 6,38 [1,71 – 23,84] Tiếp theo là carboplatin với ROR là 6,65 [1,64 – 26,97] và paclitaxel có ROR là 4,92 [1,31 – 18,50].

BÀN LUẬN

Đặc điểm và xu hướng của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP

1 Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR:

Trong giai đoạn từ năm 2010 – 2019, báo cáo ADR đến từ các Doanh nghiệp

Trong lĩnh vực kinh doanh dược, chúng tôi ghi nhận sự gia tăng đáng kể về số lượng báo cáo và doanh nghiệp tham gia, với số lượng báo cáo năm 2019 tăng 52 lần so với năm 2010 Giai đoạn 2015-2016 chứng kiến sự bùng nổ khi số lượng báo cáo tăng 2,28 lần và tỷ trọng tăng 1,9 lần Tỷ lệ báo cáo (số báo cáo/năm/triệu dân) là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá Hệ thống Cảnh giác dược.

Năm 2019, Việt Nam ghi nhận 16.338 báo cáo về phản ứng có hại của thuốc, tương đương 172,6 báo cáo/1 triệu dân, vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực như Singapore (2.621,3 báo cáo/triệu dân), Thái Lan (1.327,1 báo cáo/triệu dân) và Malaysia (378,1 báo cáo/triệu dân) Hệ thống Cảnh giác Dược Việt Nam cho thấy nhiều hạn chế khi tỷ lệ báo cáo/triệu dân chưa đạt tiêu chuẩn hiệu quả của Tổ chức Y tế Thế giới (200 báo cáo/1 triệu dân) Tỷ trọng báo cáo từ các doanh nghiệp dược chỉ chiếm 10,29% tổng số báo cáo ADR tại Việt Nam, thấp hơn nhiều so với các nước APEC như Hàn Quốc (26,0%) và Đài Loan (19,1%) Việt Nam gia nhập hệ thống Cảnh giác Dược của WHO vào năm 1999, muộn hơn so với các quốc gia Đông Nam Á khác như Singapore (1995), Thái Lan (1984) và Malaysia.

Sự gia tăng số lượng báo cáo và doanh nghiệp dược phẩm theo thời gian cho thấy một xu hướng tích cực trong ngành Số lượng báo cáo trung bình của mỗi doanh nghiệp dược phẩm đã tăng từ 5,5 báo cáo vào năm 2010 lên 48,45 báo cáo vào năm 2016 Việc tham gia vào hệ thống báo cáo đã thúc đẩy các doanh nghiệp xây dựng bộ phận nhân sự chuyên trách cho báo cáo ADR, từ đó nâng cao chuyên môn và gia tăng số lượng báo cáo Đặc biệt, giai đoạn 2015 chứng kiến sự bùng nổ trong số lượng báo cáo, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực này.

Trong giai đoạn từ 2016 đến 2018, số lượng báo cáo về Cảnh giác Dược có xu hướng giảm nhẹ, từ 1669 báo cáo vào năm 2016 xuống còn 1545 báo cáo vào năm 2018 Mặc dù vậy, số lượng doanh nghiệp tham gia báo cáo lại tăng đều trong cùng thời gian này mà không ghi nhận sự giảm sút nào Sự thay đổi trong số lượng báo cáo không chỉ phụ thuộc vào số lượng doanh nghiệp mà còn vào nhiều yếu tố khác như loại thuốc, chương trình giám sát và sự thay đổi địa bàn phân phối, ví dụ như việc chuyển giao từ bệnh viện này sang bệnh viện khác.

2 Điểm thay đổi trong số lượng báo cáo:

Trong giai đoạn 2010 – 2019, nhiều văn bản pháp luật đã tác động đáng kể đến số lượng và chất lượng báo cáo trong cơ sở dữ liệu Luật Dược ban hành đã quy định rõ về Cảnh giác Dược, đánh giá lợi ích - nguy cơ và quản lý rủi ro liên quan đến thuốc Quyết định số 68/QĐ-TTg cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả, đồng thời đề xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách về Cảnh giác Dược Tháng 8/2015, Hướng dẫn Quốc gia về Cảnh giác Dược được ban hành, tạo điều kiện cho các DNKDDP thực hiện các hoạt động giám sát và báo cáo ADR, từ đó thúc đẩy hệ thống Cảnh giác Dược tại Việt Nam.

Cơ cấu của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP

1 Cơ cấu doanh nghiệp tham gia báo cáo:

Theo thống kê, chỉ có 62 trong số 897 doanh nghiệp dược phẩm ở Việt Nam tham gia vào hệ thống báo cáo ADR, chiếm tỷ lệ 6,91% Đây là con số khá thấp, mặc dù vai trò và nhiệm vụ của các doanh nghiệp này trong hoạt động báo cáo đã được quy định rõ trong Hướng dẫn Quốc Gia về Cảnh giác Dược.

Nghiên cứu cho thấy 10 doanh nghiệp có số lượng báo cáo nhiều nhất đều là các công ty đa quốc gia, chiếm tới 87,94% tổng số báo cáo Tại Hội nghị tổng kết đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”, thuộc chuỗi hoạt động kỷ niệm 10 năm cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Y tế tổ chức, tỷ lệ giá trị sử dụng thuốc trong nước tại tuyến huyện đã tăng lên 76,62%, trong khi tại tuyến tỉnh đạt 57,03% vào năm 2018.

Khoảng 50% các tỉnh tại Việt Nam đạt tỷ lệ sử dụng thuốc nội địa từ 50% trở lên Tuy nhiên, sự chênh lệch này cho thấy ý thức trách nhiệm của các công ty trong nước về việc giám sát an toàn trong quá trình sử dụng thuốc vẫn chưa tương xứng với tỷ trọng sử dụng thuốc nội địa.

Các thuốc trong dữ liệu của DNKDDP được báo cáo bởi chính các nhà sản xuất và phân phối tại Việt Nam Trước khi được phê duyệt, sản phẩm thuốc được đánh giá trên một số lượng bệnh nhân hạn chế và trong môi trường kiểm soát, không hoàn toàn phản ánh điều kiện thực tế, như phụ nữ mang thai, người cao tuổi và bệnh nhi Vì vậy, một số phản ứng có hại của thuốc chỉ được phát hiện khi sản phẩm được sử dụng trên một quần thể lớn bệnh nhân hoặc trong cộng đồng.

Thông qua các hoạt động Cảnh giác Dược, doanh nghiệp dược phẩm có thể phát hiện rủi ro bất lợi khi sử dụng thuốc, so sánh sản phẩm mới với các lựa chọn hiện có, cập nhật hướng dẫn lâm sàng cho các nhóm quần thể, và tuân thủ các yêu cầu quy định Tuy nhiên, việc tự báo cáo của doanh nghiệp có thể dẫn đến yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo, với tỷ lệ báo cáo đầy đủ thông tin chỉ đạt 0,74% trong giai đoạn 2013 – 2015.

Năm 2017, có 1067 báo cáo (chiếm 20,6% tổng số báo cáo DNKDDP) được đánh giá có chất lượng tốt với điểm hoàn thành trên 0,8 Tuy nhiên, thông tin trong báo cáo ADR thường thiếu sót do các doanh nghiệp phải bảo mật thông tin của bệnh nhân và đảm bảo quá trình marketing thuốc không bị ảnh hưởng Hơn nữa, thông tin từ báo cáo DNKDDP chủ yếu được thu thập gián tiếp từ cơ sở dữ liệu điều trị, dẫn đến nhiều trường thông tin quan trọng như biểu hiện, diễn biến, mức độ nghiêm trọng và kết quả sau xử trí không thể được thu thập đầy đủ.

2 Cơ cấu về mức độ nghiêm trọng của báo cáo:

Mức độ nghiêm trọng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá thông tin an toàn của báo cáo ADR, với tỷ lệ báo cáo thiếu thông tin về mức độ nghiêm trọng lên đến 52,91% Đối với báo cáo ADR của DNKDDP, thông tin thường được thu thập qua nhân viên y tế từ các cơ sở khám chữa bệnh, thay vì trực tiếp từ người bệnh Điều này gây khó khăn trong việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của báo cáo, nếu chỉ dựa vào các triệu chứng.

Báo cáo về phản ứng có hại của thuốc (ADR) từ DNKDDP cho thấy 37,92% tổng số báo cáo là nghiêm trọng, chủ yếu tập trung vào các trường hợp nặng nề Điều này phản ánh khả năng tiếp cận thông tin hạn chế của công ty, khi chỉ thu thập dữ liệu trong các tình huống nghiêm trọng hoặc liên quan đến các loại thuốc có chương trình giám sát chặt chẽ như thuốc tim mạch và ung thư Do đó, cơ sở dữ liệu thiếu thông tin về các ADR có mức độ nghiêm trọng thấp.

Đóng góp của hệ thống báo cáo ADR của DNKDDP

1 Tỷ trọng thuốc nghi ngờ:

Cảnh giác Dược đóng vai trò quan trọng trong việc đối phó với những thách thức từ sự gia tăng của các loại thuốc, vốn tiềm ẩn nguy cơ gây hại không thể tránh khỏi và đôi khi không thể đoán trước Khi xuất hiện các tác dụng không mong muốn và độc tính, đặc biệt là những biến cố chưa được ghi nhận, việc báo cáo và phân tích đầy đủ là rất cần thiết Các tổ chức toàn cầu như CIOMS và ICH đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho hệ thống Cảnh giác Dược trên toàn thế giới.

Một nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Thuốc và Thiết bị Y tế Liên bang Đức từ 1978 đến 2016 trên 345.662 báo cáo cho thấy thuốc tác động trên hệ thần kinh (N) chiếm tỷ trọng cao nhất (23,1%), tiếp theo là thuốc tác động trên hệ tim mạch (C) (13,0%) và thuốc điều trị ung thư (L) (12,4%) Ngược lại, tại Việt Nam, báo cáo cho thấy thuốc kháng khuẩn tác dụng toàn thân (J) chiếm tới 62,9%, trong khi thuốc trên hệ thần kinh chỉ đạt 8,46% Mặc dù tỷ trọng báo cáo của DNKDDP thấp (10,29% giai đoạn 2010-2019), nhưng nhóm thuốc chống ung thư và điều hòa miễn dịch lại chiếm tới 45,36%, cho thấy sự không đồng đều trong dữ liệu báo cáo Sự khác biệt này có thể ảnh hưởng đến khả năng phân tích và đánh giá an toàn của các nhóm thuốc.

Một nghiên cứu so sánh hệ thống Cảnh giác Dược giữa Việt Nam và Pháp cho thấy kháng sinh (J) là nhóm thuốc được báo cáo nhiều nhất, với 65% số báo cáo ADR tại Việt Nam, trong khi Pháp có sự phân bố đồng đều hơn giữa các nhóm thuốc Dữ liệu tại Việt Nam chủ yếu dựa vào báo cáo từ bệnh viện (khoảng 90%), trong khi báo cáo từ doanh nghiệp mặc dù còn khiêm tốn nhưng đã giúp đa dạng hóa các biến cố bất lợi và các nhóm thuốc nghi ngờ Dữ liệu từ CSKCB và DNKDDP cho thấy sự đóng góp khác nhau giữa các nhóm thuốc, với CSKCB tập trung vào kháng khuẩn và DNKDDP ghi nhận nhiều thuốc ung thư như erlotinib (9,20%), imatinib (6,78%) và bevacizumab (6,63%) Mặc dù tỷ trọng báo cáo của DNKDDP còn nhỏ, nhưng cấu trúc báo cáo của họ đa dạng hơn CSKCB, khẳng định rằng DNKDDP cũng đóng góp vào việc xây dựng hệ thống Cảnh giác Dược quốc gia.

2 Tỷ trọng AE được báo cáo:

Hệ thống Cảnh giác Dược vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở các nước đang phát triển, với chỉ 2-4% các phản ứng có hại và 10% các ADR nghiêm trọng được báo cáo toàn cầu Các báo cáo ADR từ các DNKDDP cho thấy các AE dễ phát hiện qua biểu hiện lâm sàng như rối loạn toàn thân (36,10%), rối loạn hệ tiêu hóa (14,84%), và rối loạn da và mô dưới da (16,50%) chiếm tỷ lệ cao hơn so với các AE yêu cầu chuyên môn sâu Dữ liệu từ CSKCB có cấu trúc tương tự với DNKDDP, nhưng DNKDDP có xu hướng đồng đều hơn Sự không tương đồng về tỷ lệ báo cáo giữa các biểu hiện ADR dễ phát hiện là một vấn đề cần được xem xét.

Các báo cáo về phản ứng có hại của thuốc (ADR) từ doanh nghiệp dược phẩm thường được chọn lọc từ nhiều nguồn và có quy trình chuẩn hóa, dẫn đến yêu cầu trình độ chuyên môn cao Ngược lại, trong hệ thống cơ sở y tế, chất lượng báo cáo ADR phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện vật chất, nhân lực và kinh nghiệm của cán bộ y tế Do đó, dữ liệu từ doanh nghiệp dược phẩm thường đồng đều hơn so với dữ liệu từ cơ sở y tế.

3 Tín hiệu phát hiện trong dữ liệu về cặp thuốc – AE:

Trong số các thuốc được báo cáo nhiều nhất, Dung dịch thẩm phân màng bụng, erlotinib và imatinib là những cái tên nổi bật Dung dịch thẩm phân màng bụng hiện đang được theo dõi về tần suất tác dụng không mong muốn, với các biến cố bất lợi như viêm phúc mạc, rối loạn tiêu hóa, và tăng huyết áp đã được ghi nhận Mặc dù tỷ lệ suy nhược cao (6,50%) và tín hiệu ROR gia tăng trong các năm 2014 (16,42) và 2019 (132,03), nhưng vẫn chưa được công nhận là tác dụng phụ Erlotinib ghi nhận tỷ lệ tử vong cao (1,44%) và có sự gia tăng ROR từ năm 2017 đến 2019 Imatinib cũng có báo cáo liên quan đến kháng thuốc (1,39%) với giá trị ROR ổn định trong giai đoạn 2014-2019 Các báo cáo ADR từ DNKDD đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện ADR mới và theo dõi thuốc sau khi ra thị trường.

Việc đánh giá mối quan hệ giữa tác dụng phụ (AE) và thuốc nghi ngờ là rất quan trọng, trong đó tín hiệu ROR đóng vai trò chủ chốt Ví dụ, cặp erlotinib với biến cố mệt mỏi có 47 báo cáo nhưng không tạo thành tín hiệu, tương tự như dung dịch thẩm phân màng bụng với 84 báo cáo Ngược lại, levofloxacin lại tạo ra tín hiệu có ý nghĩa chỉ với 4 báo cáo Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của dữ liệu báo cáo ADR và tín hiệu ROR trong việc phát hiện các ADR hiếm gặp chưa được ghi nhận.

Trong số 41 thuốc được báo cáo nhiều nhất, các xu hướng khác nhau đã được hình thành Biến cố viêm phúc mạc liên quan đến dung dịch thẩm phân màng bụng chiếm số lượng báo cáo cao nhất (548 báo cáo), nhưng tín hiệu chỉ xuất hiện vào năm 2016 Tương tự, tăng huyết áp cũng chỉ ghi nhận tín hiệu trong giai đoạn 2017 - 2018 Ngược lại, các phản ứng bất lợi như rối loạn tiêu hóa và suy nhược lại cho thấy tín hiệu ổn định trong giai đoạn 2014 – 2019 Nguyên nhân có thể là do Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd đã tập trung báo cáo biến cố viêm phúc mạc vào năm 2016, dẫn đến sự gia tăng số lượng báo cáo Điều này cho thấy rằng trong quá trình báo cáo ADR, vẫn tồn tại yếu tố chủ quan, ảnh hưởng đến chất lượng và độ chính xác của cơ sở dữ liệu.

Sử dụng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt (OLDU) là việc sử dụng dược phẩm đã được FDA chấp thuận cho mục đích không được phê duyệt, và đây là một thực hành y tế phổ biến và hợp pháp tại Hoa Kỳ Ví dụ về OLDU bao gồm việc kê đơn một loại thuốc đã được phê duyệt cho một bệnh nhưng lại được sử dụng để điều trị một bệnh khác, kê đơn thuốc theo cách khác với cách đã được phê duyệt, chẳng hạn như sử dụng dưới dạng viên nang thay vì kem bôi, hoặc kê đơn với liều lượng khác so với liều đã được phê duyệt.

Trong 20 cặp thuốc được ghi nhận, nhóm thuốc liên quan đến OLDU xuất hiện 6 lần, bao gồm bevacizumab, rituximab, erlotinib, carboplatin, capecitabin và paclitaxel Theo dữ liệu từ DNKDDP, OLDU thuộc nhóm SOC “Chấn thương, ngộ độc và sai sót trong quy trình khám bệnh”, với mã SOC tổng thể, trong đó AE dùng thuốc ngoài chỉ định chiếm tỷ lệ 14,68% và 8,97%.

Tỷ lệ OLDU (sử dụng thuốc ngoài chỉ định) hiện vẫn ở mức cao, với 756 báo cáo liên quan đến AE (biến cố không mong muốn), trong khi dữ liệu từ CSKCB cho thấy chỉ 0,05% (28 báo cáo) liên quan đến "Chấn thương, ngộ độc và sai sót trong quy trình khám bệnh" Một nghiên cứu tại Pháp chỉ ra rằng tỷ lệ OLDU lên tới 42,35%, bao gồm việc sử dụng thuốc ngoài các chỉ định, liều dùng, lứa tuổi và đường dùng Mặc dù việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định có thể mang lại lợi ích như phát hiện tác dụng mới của thuốc, nhưng quy trình xin phê duyệt bổ sung từ FDA cho một loại thuốc đã được phê duyệt thường tốn kém và mất thời gian, và doanh thu từ chỉ định mới có thể không đủ để bù đắp chi phí.

Tại Việt Nam, theo Thông tư 40/2014/TT-BYT, quỹ bảo hiểm y tế không chi trả cho thuốc không phù hợp với chỉ định đã đăng ký Điều này có nghĩa là những loại thuốc không nằm trong danh sách chỉ định trong hướng dẫn sử dụng sẽ không được quỹ bảo hiểm thanh toán Hiện tại, vẫn chưa có quy định cụ thể nào liên quan đến OLDU.

Trong nghiên cứu, bevacizumab là thuốc có số lượng báo cáo liên quan đến OLDU cao nhất và được sử dụng trong nhãn khoa như một OLDU Bevacizumab là kháng thể đơn dòng chống lại tất cả các dạng đồng dạng có hoạt tính sinh học của yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF-A) Ban đầu, kháng thể này được thiết kế và nghiên cứu với tác dụng chống tạo mạch để điều trị nhiều loại khối u rắn.

Bevacizumab đã được chấp thuận và sử dụng để điều trị các bệnh về nhãn khoa Paclitaxel (Taxol), một trong những thuốc chống ung thư quan trọng, tác động lên chu kỳ tế bào và gây chết tế bào bằng cách ổn định vi ống và can thiệp vào quá trình phân chia tế bào Gần đây, paclitaxel liều thấp cho thấy triển vọng trong điều trị các bệnh không phải ung thư như rối loạn da, xơ gan thận, viêm và tái tạo động mạch vành Cisplatin là một loại thuốc quan trọng trong điều trị các khối u rắn và khối u máu ác tính, thuộc nhóm tác nhân alkyl hóa Nó được sử dụng trong điều trị ung thư di căn, ung thư giai đoạn nặng và các loại ung thư khó chữa như ung thư hạch Hodgkin, u lympho không Hodgkin, và ung thư đầu và cổ.

Mặc dù OLDU mang lại lợi ích, nhưng nó cũng gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực Thói quen tự sử dụng thuốc không qua chỉ định của bác sĩ hoặc dược sĩ, đặc biệt là các thuốc không cần kê đơn, lên tới 80% Số lượng biến cố bất lợi liên quan đến việc sử dụng thuốc ngoài nhãn thực tế có thể cao hơn nhiều Một nghiên cứu tại Quebec, Canada cho thấy 7,6% bệnh nhân gặp phải các biến cố bất lợi Đặc biệt, khi thuốc được kê đơn ngoài nhãn, tỷ lệ tác dụng không mong muốn tăng cao hơn 44% so với khi thuốc được sử dụng theo mục đích đã được phê duyệt.

Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu

Nghiên cứu hồi cứu dựa trên cơ sở dữ liệu báo cáo ADR tự nguyên gặp một số hạn chế, bao gồm thiếu thông tin quan trọng như thông tin bệnh nhân và mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu Chất lượng báo cáo cũng gây khó khăn trong việc phân tích xu hướng và cấu trúc báo cáo Thông tin lấy từ mô tả trên báo cáo ADR có thể không chính xác như đánh giá lâm sàng trực tiếp Ngoài ra, một số phân tích bổ sung chưa được thực hiện do giới hạn thời gian, chẳng hạn như các cặp thuốc phản ứng thuộc loại typ A liên quan đến tính chất dược lý Đề tài không đánh giá được mối quan hệ nhân quả giữa AE và thuốc, do đó việc khai thác dữ liệu chỉ cung cấp tín hiệu ban đầu mà chưa thực hiện phân tích sâu hay nghiên cứu dịch tễ Dược học chuyên biệt.

Mặc dù còn tồn tại những hạn chế tuy nhiên nghiên cứu cũng có những ưu điểm nhất định:

Nghiên cứu dựa trên cơ sở dữ liệu lớn trong 10 năm, sử dụng dữ liệu từ Trung tâm DI & ADR, nhằm đánh giá tình hình và xu hướng báo cáo ADR của DNKDDP Bài viết mô tả đặc điểm và cơ cấu của cơ sở dữ liệu, đồng thời phát hiện một số tín hiệu đặc biệt trong giai đoạn này.

Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành Dược và hệ thống Cảnh giác Dược, nghiên cứu đã khẳng định vai trò quan trọng của cơ sở dữ liệu DNKDDP Các nghiên cứu chỉ ra rằng DNKDDP đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả của hệ thống Cảnh giác Dược, giúp cải thiện an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng thuốc.

Chỉ số ROR từ giai đoạn 2010 – 2019 cung cấp những tín hiệu quan trọng, mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ giữa thuốc và ADR Bên cạnh đó, bài viết cũng thực hiện phân tích sơ bộ về việc sử dụng thuốc ngoài chỉ định, nêu rõ ưu điểm và hạn chế của OLDU.

Ngày đăng: 15/09/2021, 16:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lương Anh Tùng Vũ Đức Hoàn, Đặng Bích Việt, Cao Thị Thu Huyền, Vũ Đình Hòa, Võ Thị Thu Thủy (2020), Biến cố bất lợi ghi nhận từ các đơn vị kinh doanh thuốc: Đặc điểm và vai trò trong phát hiện tín hiệu an toàn thuốc, Tạp chí Y Dược học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến cố bất lợi ghi nhận từ các đơn vị kinh doanh thuốc: Đặc điểm và vai trò trong phát hiện tín hiệu an toàn thuốc
Tác giả: Lương Anh Tùng Vũ Đức Hoàn, Đặng Bích Việt, Cao Thị Thu Huyền, Vũ Đình Hòa, Võ Thị Thu Thủy
Năm: 2020
4. Trần Việt Long (2016), Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của Đơn vị Kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 - 2015, Trường Đại học Dược Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát thực trạng báo cáo ADR của Đơn vị Kinh doanh thuốc giai đoạn 2014 - 2015
Tác giả: Trần Việt Long
Năm: 2016
6. Nguyễn Tuấn Sơn (2015), Phân tích các trường hợp phản vệ ghi nhận từ báo cáo ADR tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2013, Trường Đại học Dược Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích các trường hợp phản vệ ghi nhận từ báo cáo ADR tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2013
Tác giả: Nguyễn Tuấn Sơn
Năm: 2015
7. Vũ Minh Duy (2015), Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại bệnh viện phụ sản trung ương giai đoạn 2010 - 2014, Trường Đại học Dược Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại bệnh viện phụ sản trung ương giai đoạn 2010 - 2014
Tác giả: Vũ Minh Duy
Năm: 2015
10. Hội nghị tổng kết thực hiện đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam ” (2019), "Thông tin báo chí&#34 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam ” (2019)
Tác giả: Hội nghị tổng kết thực hiện đề án “Người Việt Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam ”
Năm: 2019
11. DS. Lương Anh Tùng ThS. Trần Ngân Hà (2019), Tổng kết công tác báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2019, Trung tâm DI &amp; ADR Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng kết công tác báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2019
Tác giả: DS. Lương Anh Tùng ThS. Trần Ngân Hà
Năm: 2019
12. "Tổng quan về ngành Dược Việt Nam" (01/04/2021). Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng quan về ngành Dược Việt Nam
13. D. C. Classen, et al., "Adverse drug events in hospitalized patients. Excess length of stay, extra costs, and attributable mortality". 277(0098-7484), pp.301–306 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Adverse drug events in hospitalized patients. Excess length of stay, extra costs, and attributable mortality
15. Munir Pirmohamed, et al. (2004), "Adverse drug reactions as cause of admission to hospital: prospective analysis of 18 820 patients", BMJ.329(7456), pp. 15-19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Adverse drug reactions as cause of admission to hospital: prospective analysis of 18 820 patients
Tác giả: Munir Pirmohamed, et al
Năm: 2004
17. Tewodros Eguale, et al. (2016), "Association of Off-label Drug Use and Adverse Drug Events in an Adult Population", JAMA Internal Medicine Sách, tạp chí
Tiêu đề: Association of Off-label Drug Use and Adverse Drug Events in an Adult Population
Tác giả: Tewodros Eguale, et al
Năm: 2016
18. Salvatore Grisanti and Focke Ziemssen (2007), "Bevacizumab: Off-label use in ophthalmology", Indian journal of ophthalmology. 55, pp. 417-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bevacizumab: Off-label use in ophthalmology
Tác giả: Salvatore Grisanti and Focke Ziemssen
Năm: 2007
19. Shinichi Matsuda, et al. (2015), "Bias in Spontaneous Reporting of Adverse Drug Reactions in Japan", PLOS ONE. 10(5), p. e0126413 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bias in Spontaneous Reporting of Adverse Drug Reactions in Japan
Tác giả: Shinichi Matsuda, et al
Năm: 2015
20. Avais Raja. Joann M. Gold (27-5-2020.), Cisplatin, StatPearls Publishing, Treasure Island (FL) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cisplatin
21. Stephanie S. Park and Mitchell H. Grayson (2008), "Clinical research: Protection of the “vulnerable”?", Journal of Allergy and Clinical Immunology. 121(5), pp. 1103-1107 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Clinical research: Protection of the “vulnerable”
Tác giả: Stephanie S. Park and Mitchell H. Grayson
Năm: 2008
22. Jy Auid-Orcid Shin, et al., "Current status of pharmacovigilance regulatory structures, processes, and outcomes in the Asia-Pacific region: Survey results from 15 countries"(1099-1557) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Current status of pharmacovigilance regulatory structures, processes, and outcomes in the Asia-Pacific region: Survey results from 15 countries
23. Elisabetta Poluzzi, et al. (2012), "Data Mining Techniques in Pharmacovigilance: Analysis of the Publicly Accessible FDA Adverse Event Reporting System (AERS)", InTech Sách, tạp chí
Tiêu đề: Data Mining Techniques in Pharmacovigilance: Analysis of the Publicly Accessible FDA Adverse Event Reporting System (AERS)
Tác giả: Elisabetta Poluzzi, et al
Năm: 2012
24. In-Sun Oh, et al. (2019), "Differential completeness of spontaneous adverse event reports among hospitals/clinics, pharmacies, consumers, andpharmaceutical companies in South Korea", PLOS ONE. 14(2), p. e0212336 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Differential completeness of spontaneous adverse event reports among hospitals/clinics, pharmacies, consumers, and pharmaceutical companies in South Korea
Tác giả: In-Sun Oh, et al
Năm: 2019
25. Nguyen Khac-Dung, et al. (2018), Drug-induced anaphylaxis in the French and Vietnamese pharmacovigilance databases 2010-2015 : a socialpharmacological discussion Sách, tạp chí
Tiêu đề: Drug-induced anaphylaxis in the French and Vietnamese pharmacovigilance databases 2010-2015 : a social
Tác giả: Nguyen Khac-Dung, et al
Năm: 2018
26. Diana Dubrall, et al. (2018), "Frequent Adverse Drug Reactions, and Medication Groups under Suspicion", Deutsches Aerzteblatt Online Sách, tạp chí
Tiêu đề: Frequent Adverse Drug Reactions, and Medication Groups under Suspicion
Tác giả: Diana Dubrall, et al
Năm: 2018
27. Lise Aagaard, et al. (2012), "Global Patterns of Adverse Drug Reactions Over a Decade: Analyses of Spontaneous Reports to VigiBase™", Drug safety : an international journal of medical toxicology and drug experience.35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Global Patterns of Adverse Drug Reactions Over a Decade: Analyses of Spontaneous Reports to VigiBase™
Tác giả: Lise Aagaard, et al
Năm: 2012

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC (Trang 1)
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÍN HIỆU CỦA BÁO CÁO ADR TỪ CÁC (Trang 2)
Hình 1.1: Cơ cấu hệ thống cảnh giác dược tại Việt Nam. [55] - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 1.1 Cơ cấu hệ thống cảnh giác dược tại Việt Nam. [55] (Trang 15)
Tín hiệu được hình thành khi thỏa mãn 2 điều kiện là số báo cáo của cặp thuốc- thuốc-AE lớn hơn 3 và cận dưới khoảng tin cậy 95% của ROR lớn hơn 1 [46] - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
n hiệu được hình thành khi thỏa mãn 2 điều kiện là số báo cáo của cặp thuốc- thuốc-AE lớn hơn 3 và cận dưới khoảng tin cậy 95% của ROR lớn hơn 1 [46] (Trang 27)
Bảng 3.1. Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR hàng năm của DNKDDP trong tổng số báo cáo giai đoạn 2010 – 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.1. Số lượng và tỷ trọng báo cáo ADR hàng năm của DNKDDP trong tổng số báo cáo giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 30)
Hình 3.1: Số lượng Doanh nghiệp Dược phẩm tham gia báo cáo và số lượng báo cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.1 Số lượng Doanh nghiệp Dược phẩm tham gia báo cáo và số lượng báo cáo theo từng năm trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 31)
Bảng 3.2: Các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.2 Các Doanh nghiệp Kinh doanh Dược phẩm có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019 (Trang 32)
Hình 3.2: Điểm thay đổi về số lượng báo cáo trong hệ thống báo cáo giai đoạn 2010 - 2019   - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.2 Điểm thay đổi về số lượng báo cáo trong hệ thống báo cáo giai đoạn 2010 - 2019 (Trang 32)
Bảng 3.3: Mức độ nghiêm trọng của các biến cố bất lợi được ghi nhận trong giai đoạn 2010 – 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.3 Mức độ nghiêm trọng của các biến cố bất lợi được ghi nhận trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 33)
Bảng 3.4: Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.4 Các nhóm dược lý được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 - 2019 (Trang 34)
Bảng 3.6: Các hoạt chất được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.6 Các hoạt chất được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 35)
Hình 3.3. Số lượng và tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi nhà sản xuất/phân phối của thuốc đó trong giai đoạn 2010 – 2019   - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.3. Số lượng và tỷ lệ thuốc được báo cáo bởi nhà sản xuất/phân phối của thuốc đó trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 36)
Bảng 3.7: Số lượng ADR phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (SOC) giai đoạn 2010 – 2019   - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.7 Số lượng ADR phân loại theo hệ cơ quan chịu ảnh hưởng (SOC) giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 37)
Hình 3.4: Các biến cố được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019   - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Hình 3.4 Các biến cố được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 38)
Bảng 3.8: Cặp thuốc – Biến cố bất lợi có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.8 Cặp thuốc – Biến cố bất lợi có số lượng báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 39)
Bảng 3.9: ROR của các cặp Thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.9 ROR của các cặp Thuốc – AE được báo cáo nhiều nhất trong giai đoạn 2010 – 2019 (Trang 41)
Bảng 3.10: ROR của các cặp thuốc – biến cố “dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt” trong giai đoạn 2010 – 2019  STT Thuốc – AE (Dùng thuốc ngoài  - Phân tích đặc điểm và sự hình thành tín hiệu của báo cáo ADR từ các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm trong giai đoạn 2010 – 2019
Bảng 3.10 ROR của các cặp thuốc – biến cố “dùng thuốc ngoài chỉ định được phê duyệt” trong giai đoạn 2010 – 2019 STT Thuốc – AE (Dùng thuốc ngoài (Trang 42)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w