1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Báo cáo tốt nghiệp HÌNH THÀNH và PHÁT TRIỂN NHO GIÁO ở VIỆT NAM

62 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hình Thành và Phát Triển Nho Giáo Ở Việt Nam
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Lịch Sử Tư Tưởng
Thể loại báo cáo tốt nghiệp
Năm xuất bản 2023
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 62
Dung lượng 479,87 KB

Cấu trúc

  • Chửụng 1 KHÁI QUÁT NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIV (6)
    • 1.1. Tiền đề về kinh tế (6)
    • 1.2. Tiền đề chính trị – xã hội (9)
    • 1.3. Tiền đề về văn hóa giáo dục (13)
    • 1.4. Một số nhà Nho tiêu biểu trong thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV (17)
  • Chửụng 2 KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIV (26)
    • 2.1. Những quan niệm của vua quan và các nho sĩ ở thời kỳ này về đạo trị nước, yêu dân của Nho giáo (26)
      • 2.1.1. Quan niệm “Thiên mệnh”, “Đạo trời” (26)
      • 2.1.2. Quan ủieồm “nhaõn trũ”, “nhaõn chớnh”, “thaõn daõn” (31)
    • 2.2. Sự phát triển của Nho giáo trong việc biên soạn luật của nước ta trong thời kỳ này (40)
    • 2.3. Sự xung đột và đấu tranh chống lại Phật giáo của các Nho sĩ nước ta thế kyû XIV (44)
  • Chửụng 3 Ý NGHĨA VÀ CẢM NHẬN VỀ NHO GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY (51)
    • 3.1. Ý nghĩa của sự phát triển Nho giáo trong giai đoạn này (51)
    • 3.2. Cảm nhận về Nho giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay (54)
  • KẾT LUẬN (60)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (62)

Nội dung

CDV Tài chính – Ngân hàng là một ngành khá là rộng, liên quan đến tất cả các dịch vụ giao dịch, luân chuyển tiền tệ. Vì vậy có rất nhiều các lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ngành Tài chính – Ngân hàng chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau: Chuyên ngành Tài chính, chuyên ngành Ngân hàng, chuyên ngành Phân tích tài chính, Quỹ tín dụng…

KHÁI QUÁT NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIV

Tiền đề về kinh tế

Từ thế kỷ X đến XIII, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế tại Việt Nam, với phần lớn ruộng đất là công điền, công thổ của làng xã, cùng với ruộng quốc khố và ruộng của nhà chùa Bắt đầu từ thế kỷ XIII, nền kinh tế chuyển sang phương thức sản xuất Châu Á nhờ chính sách khuyến khích mua bán, trao đổi ruộng đất, trong khi các nhà nước phong kiến vẫn chú trọng vào sản xuất nông nghiệp Nhà nước bảo vệ sức lao động của nông dân và sức kéo từ trâu bò, đồng thời khuyến khích việc khẩn hoang và quản lý công trình thủy lợi để ngăn lũ lụt, nhận được sự ủng hộ từ nhân dân Nhiều đoạn đê quan trọng ở lưu vực sông Hồng và các sông lớn tại Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã được xây dựng và bảo trì trong thời kỳ Lý – Trần Chính quyền cũng đã đặt ra các chức vụ như Hà đê chánh sứ để quản lý đê điều và thủy lợi Việc khai khẩn đất hoang được đẩy mạnh từ thời Lý và đặc biệt trong thời kỳ Trần, trong khi lễ cày ruộng hàng năm vào đầu tháng Giêng, gọi là lễ tịnh điền, được tổ chức để cổ vũ ý thức trọng nông trong nhân dân Chính sách “ngụ bình ư nông” từ thời Lý đã kết hợp xây dựng quân đội với bảo vệ sản xuất nông nghiệp.

Thời kỳ nhà Trần, nông nghiệp được coi là chủ đạo, với chính sách bán ruộng đất giá rẻ nhằm khuyến khích dân cày và ngăn tình trạng bỏ hoang Năm 1254, nhà Trần cho phép bán công điền và thành lập điền trang vào năm 1266, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp Mặc dù nông nghiệp được ưu tiên, nhưng thủ công nghiệp cũng có những tiến bộ đáng kể, với các nghề như dệt lụa, nung gạch, làm đồ gốm, luyện kim phát triển mạnh mẽ Hàng thủ công đạt chất lượng cao, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và tạo ra sự phân chia thành làng nghề ở Thăng Long Sự phát triển này không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà còn thúc đẩy thương mại, dẫn đến sự gia tăng trao đổi hàng hóa và củng cố vai trò của tầng lớp địa chủ trong xã hội, ảnh hưởng đến cả kinh tế và chính trị.

Vào năm 1266, Nhà Trần đã cho lập điền trang, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa chủ Điều này dẫn đến xu hướng các địa chủ càng ngày càng rút về để củng cố và phát triển điền trang của mình.

Với nguồn sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp phong phú, việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài đã diễn ra, trong đó các nước láng giềng sử dụng thuyền, bè để mua sắm và vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam về nước họ.

Quang cảnh mua bán nhộn nhịp tại Thăng Long và các thị trấn cảng Vân Đồn thể hiện sự phát triển thương mại sôi động Triều đình phong kiến đã mở rộng nhiều tuyến đường giao thông và hệ thống trạm dịch trên biển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa Hệ thống đường thủy bộ, đặc biệt là dọc các con sông và bờ biển, đã thúc đẩy hoạt động buôn bán, với thuyền bè tấp nập qua lại.

Thời kỳ này đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế Đại Việt, đạt được trình độ cao trong bối cảnh của một nhà nước phong kiến.

Kinh tế hưng thịnh là một điều kiện rất thuận lợi để triều đình phát triển hơn về mặt chính trị hay tư tưởng văn hóa nước nhà.

Chuyển biến kinh tế, đặc biệt là sự chuyển giao quyền sở hữu ruộng đất từ công điền sang tư điền, cùng với sự thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Nho giáo thâm nhập vào xã hội trong thời kỳ này.

Tiền đề chính trị – xã hội

Nho giáo Việt Nam đã bị ảnh hưởng bởi các thế lực phong kiến phương Bắc, góp phần vào chính sách đồng hóa dân tộc và làm mất đi bản sắc văn hóa của nhân dân.

Vào những năm 940, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã kết thúc thời kỳ Bắc thuộc, đánh dấu chiến thắng hoàn toàn với chiến công của Ngô Quyền tại sông Bạch Đằng vào năm 938 Sự thành lập của vương triều Ngô đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, khi Việt Nam bắt đầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc độc lập Để củng cố vị thế thống trị, các triều đại cần một hệ tư tưởng phản ánh lợi ích giai cấp, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đã sớm được du nhập và góp phần vào sự phát triển xã hội.

Sau khi đất nước đạt được độc lập và thống nhất, việc xây dựng một hệ tư tưởng cơ bản trở nên cần thiết để duy trì sự ổn định Đặc biệt trong giai đoạn đầu, tình hình chính trị và xã hội rất phức tạp, đòi hỏi các công cụ sắc bén để quản lý và thống nhất đất nước.

Các triều đại đầu tiên như Ngô, Đinh, Tiền Lê tồn tại ngắn ngủi, chưa đủ thời gian để xây dựng trật tự kỷ cương và thể chế chính trị Trong khi đó, các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần không theo mẫu phương Bắc mà phát triển theo những tập tục riêng biệt, không hoàn toàn phụ thuộc vào Nho giáo.

Do vậy, Nho giáo cũng chưa có điều kiện dựa vào triều đình để phát triển vị trí và ảnh hưởng của mình.

Bước vào thế kỷ XI, vương triều Lý đã khẳng định vai trò quan trọng của tư tưởng chính trị xã hội trong đời sống tư tưởng Việt Nam Trong bối cảnh này, Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ, nhưng không phải là đạo trị nước chủ yếu Thay vào đó, những tư tưởng chính trị xã hội mang tính chất chiến đấu và thể hiện chủ nghĩa yêu nước, anh hùng dân tộc, nổi bật trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm Nho giáo, với tư tưởng tôn quân và đề cao trật tự xã hội, đã được giai cấp phong kiến Việt Nam coi trọng về mặt chính trị, phù hợp với thực tiễn lịch sử Như giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận định, điều này cho thấy sự giao thoa giữa các hệ tư tưởng trong bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước.

Trung Quốc có những nhà sư đóng vai trò quan trọng trong quân sự, hỗ trợ cho các nhà vua thông qua những sáng kiến mang đậm tinh thần Phật giáo, mặc dù giáo lý Phật giáo không đề cập đến chính trị.

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV là thời kỳ tư tưởng chính trị và xã hội nước ta đã có những chuyển biến quan trọng.

Thời kỳ nhà Lý, chính trị Việt Nam ổn định kéo dài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố chính quyền và duy trì trật tự xã hội phong kiến Sự phát triển của Nho giáo cũng được thúc đẩy nhờ nhu cầu đào tạo và tuyển lựa quan lại.

Dưới thời nhà Lý, Phật giáo phát triển mạnh mẽ nhưng không cung cấp giải pháp cho việc củng cố nhà nước phong kiến, như quân quyền và cơ cấu hành chính Trong khi đó, Nho giáo với lý thuyết chặt chẽ và kinh nghiệm trị nước đã giúp giai cấp phong kiến Việt Nam xây dựng và củng cố trật tự xã hội.

Trên tiến trình lịch sử, những mốc quan trọng như “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, và tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn đã khẳng định vai trò của các giai cấp trong việc dựng nước và giữ nước Tất cả các tầng lớp xã hội đều phải đối mặt với nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước trong những thời kỳ khó khăn.

Trần Văn Giàu trong tác phẩm "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" nhấn mạnh rằng nhiệm vụ giữ nước đã khơi dậy tinh thần chiến đấu kiên cường của các giai cấp và tầng lớp nhân dân trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở thế kỷ X, XI và XIII Quân và dân Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ này qua những chiến công lừng lẫy, góp phần làm giảm bớt mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến thống trị và nhân dân, khi họ cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù chung.

Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, Việt Nam chứng kiến những biến động quan trọng trong sinh hoạt và cơ cấu chính trị, phản ánh sự phát triển của cuộc đấu tranh chống xâm lược và áp bức, cùng với sự trưởng thành của giai cấp địa chủ và tầng lớp nho sĩ Sự chuyển đổi từ chế độ đại điền trang sang chế độ tư hữu ruộng đất đã làm thay đổi lớn trong bộ máy nhà nước phong kiến, đặc biệt là từ nhà Lý sang nhà Trần Trần Thủ Độ đã khéo léo chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần, đồng thời củng cố quyền lực nhà nước và tổ chức cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo lý quân thần và trật tự xã hội.

Nho giáo đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tạo ra một tầng lớp nho sĩ trở thành lực lượng xã hội quan trọng Trong giai đoạn này, Nho giáo bắt đầu được áp dụng vào thực tiễn chính trị trong nước, đồng thời cũng trải qua sự cải biến, với nhiều khái niệm mang tính dân tộc và nhân dân hơn.

Tiền đề về văn hóa giáo dục

Nho giáo phát triển mạnh mẽ ở xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV nhờ vào các yếu tố kinh tế và chính trị, cùng với nền văn hóa giáo dục đặc sắc của đất nước trong thời kỳ này.

Từ thế kỷ X, quốc gia phong kiến Đại Việt đã phát triển một nền văn hóa lâu đời, đặc biệt dưới triều đại Lý Sự thịnh vượng của đất nước không chỉ dựa vào kinh tế và chính trị ổn định mà còn cần phát triển tư duy trí tuệ thông qua giáo dục Nền giáo dục Nho học thế tục được nhà nước quản lý trong thời kỳ Lý đã khác biệt với giáo dục của nhà chùa, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đội ngũ trí thức và tuyển chọn nhân viên cho bộ máy quan liêu Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan, quy phạm chính trị và đạo đức của người dân.

Hệ thống giáo lý Phật giáo không đáp ứng được yêu cầu lịch sử, trong khi Nho giáo với lý thuyết giáo dục và khoa cử đầy đủ đã tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhân tài mà còn tác động sâu sắc đến thế giới quan và nhân sinh quan của con người Hơn nữa, nó dẫn đến những biến đổi trong phong cách tư duy, sáng tác văn học nghệ thuật và nhu cầu thị hiếu của xã hội.

Trong thập kỷ 70 của thế kỷ XVI, nhà lý luận Văn Miếu (1070) đã mở khoa thi đầu tiên mang tên “Thi minh kinh bác học” (1075) và “Nho học tam trường”, đánh dấu sự khởi đầu của Nho giáo ở Việt Nam Năm 1076, Quốc Tử Giám được thành lập tại kinh thành, tuyển chọn những người có học vấn Các khoa thi tiếp theo được tổ chức vào các năm 1086, 1152, 1193, 1195, mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam kéo dài hơn 800 năm, góp phần tuyển chọn nhân tài cho bộ máy cai trị và nâng cao vị trí của Nho học Thời Trần, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ và xây dựng đất nước, số lượng khoa thi được mở ra nhiều hơn so với thời Lý, đồng thời bổ nhiệm các học quan quản lý việc học Năm 1227, nhà Trần cũng tổ chức khoa thi Tam giáo, tạo điều kiện cho các khoa thi diễn ra thường xuyên Về văn học, thời Lý chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tác phẩm thơ văn, trong đó nổi bật là “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, phản ánh công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Thời kỳ nhà Trần chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động văn học, với sự tham gia không chỉ của các nhà sư mà còn của các nho sĩ Chủ đề thơ trong thời kỳ này không chỉ tập trung vào Phật giáo mà còn mở rộng sang Nho giáo, đặc biệt là phản ánh đời sống thực tế của con người.

Trong thời kỳ nhà Trần, chữ viết đã có sự chuyển đổi từ chữ Hán sang chữ Nôm, một hệ thống chữ viết độc đáo của người Việt, mang đậm bản sắc dân tộc Việc sở hữu chữ viết riêng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và sáng tác văn học Nhiều tác phẩm nổi bật bằng chữ Nôm thời Trần, như “Cư Trần lạc đạo” và bài phú “Đắc thú lâm tuyền hành đạo” của Trần Nhân Tông, thể hiện sự phát triển phong phú của văn hóa và nghệ thuật trong giai đoạn này.

Trong kháng chiến chống Nguyên – Mông, văn học thời Trần nổi bật với những tác phẩm thể hiện chủ nghĩa yêu nước và tinh thần anh hùng của dân tộc Bên cạnh đó, thời kỳ này còn chứng kiến sự phong phú về thể loại văn học, đặc biệt là việc chữ Nôm được sử dụng rộng rãi, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của dân tộc.

Trong thời kỳ Lý – Trần, nghệ thuật và sân khấu ca vũ nhạc đã có những bước tiến quan trọng, với sự xuất hiện của các loại hình ca kịch như hát ả đào, hát tuồng và hát chèo.

Trong thời kỳ này, bên cạnh các hoạt động nghệ thuật, sử học cũng bắt đầu phát triển Công việc viết sử đã được khởi xướng từ thời Lý và được củng cố mạnh mẽ hơn trong thời Trần Đặc biệt, bộ “Đại Việt Sử Ký” của Lê Văn Hữu là một trong những tác phẩm quan trọng trong lĩnh vực sử học.

Các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi Nho giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Nho giáo trong giai đoạn này.

Nho giáo ở thế kỷ X đến XIV có đầy đủ tiền đề phát triển, bao gồm các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa giáo dục Để một tư tưởng phát triển bền vững, cần có những điều kiện này; thiếu một trong số đó sẽ cản trở sự phát triển Giai đoạn này, Nho giáo khác biệt rõ rệt so với thời kỳ Bắc thuộc, khi mà nó từng được sử dụng như công cụ đồng hóa dân tộc dưới ách xâm lược Trong thời kỳ độc lập, với nền kinh tế phát triển và sự chú trọng vào nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, Nho giáo có điều kiện thuận lợi để phát triển Mặc dù xã hội đề cao Phật giáo và Đạo giáo, nhưng hai hệ thống này không can thiệp vào việc trị nước, tạo cơ hội cho Nho giáo chiếm ưu thế hơn Sự ổn định chính trị và phát triển văn hóa giáo dục càng làm gia tăng vai trò của Nho giáo trong việc duy trì bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc và nề nếp gia đình Do đó, để củng cố chế độ phong kiến trong mối quan hệ văn hóa với Trung Quốc, nhà Lý ngày càng dựa vào Nho giáo.

Một số nhà Nho tiêu biểu trong thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV

Để Nho giáo phát triển, cần có những tiền đề vững chắc và những người kế thừa tư tưởng này Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào ghi chép đầy đủ về các Nho gia tiêu biểu trong thời kỳ này, khiến khái niệm Nho gia chưa được thống nhất Khác với Trung Quốc, nơi các nhà Nho được phong danh rõ ràng, Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc chỉ xác định được một số nhân vật như Tích Quang, Chu Diên, Lý Thiên, Sĩ Nhiếp đã truyền bá Nho giáo Trong "Đại việt sử ký toàn thư", Sĩ Nhiếp được ca ngợi vì tài năng và đức độ vượt trội so với các lãnh đạo chính trị đương thời Tuy nhiên, vẫn chưa có sự đồng thuận về ai thực sự là Nho gia trong thời kỳ này, vì nhiều người xuất thân từ Nho gia nhưng lại đảm nhận vai trò quan võ hoặc ngược lại.

Trần Văn Giàu trong tác phẩm "Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng 8 – 1945" đã chỉ ra rằng nhiều người, trong suốt cuộc đời, thường tập trung vào việc nghiên cứu sách thánh hiền Tuy nhiên, đến cuối đời, họ lại có xu hướng theo đuổi Phật giáo, Đạo giáo hoặc Thiền học.

Trong giai đoạn này ở nước ta, có thể nhắc đến một số nhà Nho tiêu biểu, những người đã học hỏi từ kinh điển của Nho giáo và có ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng Nho giáo.

Lý Công Uẩn (974 - 1028), hay còn gọi là vua Lý Thái Tổ (1010 – 1028), là người sáng lập triều Lý và có công lớn trong việc cải cách quản lý đất nước, chia đất thành 24 lộ Xuất thân từ làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Hà Bắc), ông được nuôi dạy bởi các nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, nhờ đó trở thành nhân tài xuất sắc về văn và võ Sau khi Lê Ngọa Triều qua đời, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu Thuận Thiên, giữ quốc hiệu là Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lử làm kinh đô.

Tác phẩm tiêu biểu thể hiện tư tưởng Nho giáo của ông:

“Thiên đô chiếu” (Chiếu dời đô).

“Chinh hoàn quá Biện Khẩu, ngộ bạo phong sâu vũ, đảo vu thiên” (đánh trận về qua Biện Khẩu, gặp sóng to gió lớn, cầu khấn trời ).

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một nhân vật lịch sử nổi bật, quê quán tại làng An Xá, huyện Quảng Đức, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, sau đó ông chuyển về phường Thái Hòa, huyện Gia Lâm Ông có tên thật là Ngô Tuấn, nhưng được ban quốc tính, đổi tên thành Lý Thường Kiệt Ông không chỉ là một nhà lãnh đạo quân sự tài ba mà còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị, phản ánh sâu sắc tư tưởng và tri thức của mình.

“Thiên mệnh” được thể hiện rõ:

“Nam Quốc Sơn Hà” và “phạt Tống lộ bố Văn” (bài văn viết treo dọc đường đi đánh nhà Tống).

Lê Văn Thịnh là người đầu tiên trong lịch sử thi cử Nho học tại Việt Nam vào năm 1075, xuất thân từ làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay thuộc huyện Gia Lương, Bắc Ninh) Ông từng giữ chức vụ quan trọng, thăng tiến đến chức Thái Sư, nhưng sau đó bị nghi ngờ có mưu phản và bị đày đến Thao Giang (thuộc Phú Thọ), nơi ông qua đời Lê Văn Thịnh để lại nhiều tác phẩm nổi bật, trong đó tư tưởng Nho giáo được thể hiện rõ nét qua "Kí Hùng Bản thư" và "Dữ Tống sử tranh biện".

Trần Thái Tông (1218 - 1277), vua đầu tiên của triều đại Trần, là một vị vua am hiểu Tam giáo và đã mở trường thi Tam giáo Ông là con trai thứ của Trần Thừa, nổi bật với trí tuệ và đức độ trong Nho giáo Vua áp dụng pháp luật và thuế theo tư tưởng của Hàn Phi, dựa trên lời dạy của Minh Luân đại sư Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Khóa hư lục” và “kiến trung thường lệ” phản ánh tâm huyết của ông trong việc xây dựng đất nước.

5 quyển), “Quốc triều thông chế” (Những chế định của nhà Trần Sách goàm 20 quyeồn).

Trần Hoảng (1240 – 1290) cũng tức vua Trần Thánh Tông (1258 –

Thánh Tông, con thứ hai của triều Trần, nổi bật với lòng nhân từ và sự chăm lo cho đất nước Ông khuyến khích khai khẩn đất hoang và mở rộng điền trang, giúp đỡ người nghèo lưu lạc an cư lạc nghiệp Đồng thời, nhà vua cũng thúc đẩy việc học hành bằng cách mở rộng khoa thi, từ đó lựa chọn và trọng dụng nhân tài, trong đó có Mạc Đĩnh Chi - người đạt “Lưỡng quốc Trạng nguyên” Ngoài ra, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam mang tên “Đại việt sử ký”.

Vào thời điểm đó, nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống và chuẩn bị xâm lược Đại Việt Họ đã cử sứ giả sang phong Vương cho vua Trần Thánh Tông, đồng thời yêu cầu nước ta ba năm một lần phải cống nạp Nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số cùng với ba nghệ nhân giỏi mỗi loại, cùng các sản vật quý giá như sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác Ngoài ra, họ còn yêu cầu đặt quan Chưởng ấp để giám sát các châu quận của Đại Việt, nhằm chuẩn bị cho kế hoạch xâm lược.

Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện một chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên quyết nhằm bảo vệ danh dự và độc lập của Tổ quốc Ông cũng chú trọng đến việc luyện tập quân sĩ và tích trữ lương thực, vũ khí để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai Ngoài ra, các tác phẩm của ông, được tham khảo từ Nho giáo, bao gồm “Cơ cầu lục” (về nối nghiệp), “Di Hậu Lục” (về di sản để lại cho hậu thế), và “Hoàng Tông ngọc điệp” (gia phả nhà Trần).

Trần Khâm (1258 – 1308), cũng tức là vua Trần Nhân Tông (1278 –

Trần Nhân Tông, vua thứ ba của Triều Trần, lên ngôi với niên hiệu Thiệu Bảo Ông nổi bật với tính cách nhân từ, hòa nhã và quyết tâm vì dân, dẫn dắt đất nước qua hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông trong suốt 14 năm trị vì Vua không chỉ am hiểu Nho học mà còn sáng tác nhiều tác phẩm, dù chưa thành tập Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến lần thứ ba, ông đã tổ chức lễ dâng thắng trận tại Chiêu Lăng, trong đó có bài thơ thể hiện lòng tri ân đối với các tướng lĩnh bị bắt.

“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kìm ân”.

Nghĩa là: (Xã tắc hai phen bọn ngựa đá

Non sông ngàn thuở vững ân vàng) Các tác phẩm của Trần Nhân Tông được người đời sau tập hợp lại thành “Trần Nhân Tông thi tập”.

Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300), hay còn gọi là Hưng Đạo Đại Vương, là một danh tướng vĩ đại và là linh hồn của những chiến công lừng lẫy trong lịch sử thời Trần Ông nổi bật với trí thông minh và kiến thức rộng rãi, có tài năng cả về văn và võ Trần Quốc Tuấn đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu các tác phẩm quân sự cổ điển và viết nên những tác phẩm quan trọng như “Binh thư yếu lược”, “Vạn kiếp tông”, “Bí truyền thư” và “Hịch tướng sĩ”, nhằm hướng dẫn các tướng lĩnh trong việc chiến đấu và khơi dậy lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.

Người luôn đặt lợi ích của nhân dân và đất nước lên trên lợi ích cá nhân, đồng thời không ngừng vun đắp khối đoàn kết giữa dân tộc nhà Trần Điều này đã tạo nên sức mạnh vững chắc cho đất nước, giúp đè bẹp quân thù nguy hiểm.

Là người anh hùng dân tộc trong kháng chiến chống Nguyên – Mông.Đến lúc cuối đời người trăn trối những lời tâm huyết, sâu sắc cho vua Trần

Anh Tông là; “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước” 1

Lê Văn Hưu (1230 – 1320) là người Đông Sơn, Thanh Hóa, nổi bật với việc đậu Bảng Nhãn năm 1247, trở thành vị Bảng Nhãn đầu tiên trong lịch sử thi cử Nho học ở Việt Nam Vào tháng giêng năm Nhâm Thân (1272), dưới triều đại vua Trần Nhân Tông, ông đã hiến dâng bộ “Quốc sử”, ghi dấu ấn quan trọng trong nền sử học nước nhà.

“Đại Việt sử ký” Đây là bộ sử đầu tiên ở nước Đại Việt ta gồm 30 quyển.

Nguyễn Sĩ Cố: Là quan thời Trần Thánh Tông, đỗ trạng nguyên năm

Năm 1266, vua đã bổ nhiệm ông vào chức Thiên Chương Các Học Sĩ, phụ trách giảng dạy Ngũ Kinh Theo sử sách, Nguyễn Sĩ Cố nổi bật với khả năng sáng tác thơ Nôm Tác phẩm của ông được ghi lại trong "Toàn Việt thi lục".

“Tùng giá Tây chinh yết Tản Viên từ” và “Tùng giá Tây chinh yết Hy Hiền Vương từ”.

KHÁI QUÁT NỘI DUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIV

Những quan niệm của vua quan và các nho sĩ ở thời kỳ này về đạo trị nước, yêu dân của Nho giáo

2.1.1 Quan niệm “Thiên mệnh”, “Đạo trời” Để củng cố vương quyền đối với thần dân trong nước, Nho giáo đề ra thuyết Thiên mệnh, theo đó, vua là người nhận mệnh lệnh của trời cai trị và giáo hóa muôn dân Vua là người có quyền cao nhất là người thay mặt trời, là con trời “Thiên tử” đễ bảo ban, chăm dân, chăm lo cuộc sống cho dân cho nước Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng đó, các vua ViệtNam thường lấy niên hiệu có chữ “Thiên” và các vua quan trong giai đoạn này cũng vậy Thời Lê có Lê Đại Hành hoàng đế lấy niên hiệu là ThiênPhúc Các vua thời Lý như: Lý Nam Đế lấy niện hiệu là Thiên Đức, LýThái Tông lấy niên hiệu là Thiên Thành, Thiên Cảm là niênn hiệu của vuaLý Anh Tông, Thiên Tự là niên hiệu của vua Lý Thánh Tông, Thiên Phù là niên hiệu của vua Lý Nhân Tông, Thuận Thiên là của vua Lý ThầnTông và niên hiệu Thiên Gia là của vua Lý Cao Tông.

Trong quan niệm của các vua nước ta, mọi sự kiện xảy ra trong nước, như thiên tai hay dịch bệnh, đều được coi là sự trừng phạt từ trời, phản ánh lỗi lầm của chính mình Do đó, các vua thường cảm thấy cần phải sửa đổi chính trị, như giảm thuế, lắng nghe lời can gián, phê phán nịnh thần, và hạn chế quyền lực của ngoại thích Họ cũng thực hiện các hành động tích cực hơn, như thả bớt phi tần và tổ chức lễ tạ lỗi với trời đất.

Quan niệm của Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách trị nước của vua và quan trong thời kỳ phong kiến Việt Nam Khi soạn thảo các văn kiện hành chính như chiếu, chế, biểu, hịch, các nhà lãnh đạo không tìm thấy cơ sở lý luận từ giáo lý Phật giáo, mà thay vào đó, Nho giáo đã cung cấp những nguyên tắc và khuôn mẫu cần thiết cho quản lý nhà nước Do đó, Nho giáo đã sớm hiện diện trên chính trường Việt Nam, với các khái niệm như "Thiên mệnh" và "Đạo trời" được thể hiện rõ ràng trong những văn bản hành chính.

Trang bài “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn thể hiện rõ tầm quan trọng của việc chọn lựa địa điểm cho kinh đô Ông dẫn chứng các vua Bàn Canh và Thành Vương từ thời tam đại, nhấn mạnh rằng việc dời đô không phải là hành động tùy tiện mà nhằm phục vụ cho sự nghiệp lớn lao, chọn nơi ở thuận lợi cho con cháu Lý Công Uẩn chỉ trích hai triều đại Đinh, Lê đã không theo mệnh trời và truyền thống, dẫn đến sự suy vong Ông ca ngợi thành Đại La với vị trí địa lý lý tưởng, giữa trung tâm đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi, và đất đai phì nhiêu, là nơi hội tụ quan yếu cho muôn đời Cuối cùng, ông bày tỏ mong muốn định cư tại nơi này và kêu gọi các quan viên suy nghĩ về quyết định này.

Vua Lý Công Uẩn, người sáng lập triều Lý, đã áp dụng tư tưởng mệnh trời khi dời đô về Thăng Long để “mưu toan nghiệp lớn” và “tính kế lâu dài cho con cháu” Ông lựa chọn vị trí “trung tâm trời đất”, phù hợp với ngũ hành và là nơi “tụ hội trọng yếu của bốn phương” Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng việc này phải “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”, thể hiện sự gắn bó giữa mệnh trời và lòng dân trong tư tưởng Nho giáo Điều này phản ánh quan niệm rằng chỉ khi thuận theo đạo trời, tức là làm theo ý nguyện của dân, đất nước mới có thể đạt được sự bình yên, thịnh trị và phát triển bền vững Vua Lý Thánh Tông cũng đã thể hiện quan điểm tương tự khi đề cao “Thiên mệnh” trong triều đại của mình.

Nguyễn Hùng Hậu trong tác phẩm "Đại cương lịch sử triết học Việt Nam" đã chỉ ra rằng, trong thời kỳ Đường Ngu, xã hội được coi là mẫu mực với sự tuân thủ mệnh trời Vị vua đã bày tỏ sự khiêm tốn khi thừa nhận chưa đạt được đức hạnh như Đường Nghiêu và Ngu Thuấn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc trị nước Điều này cho thấy các vua thời Lý đã nắm vững kinh điển Nho gia, đặc biệt là kinh thư, mà các nhà Nho coi là nền tảng vững chắc cho triết lý quản lý xã hội.

Tư tưởng “mệnh trời” trong “Chiếu dời đô” cũng như trong bài

“Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt cũng đã rất liên quan đến

Mệnh trời trong Nho giáo được Lý Thường Kiệt khai thác và nâng tầm thành "Thiên thư", nhằm khẳng định rằng sông núi nước Nam thuộc quyền cai quản của hoàng đế nước Nam, điều này đã được ghi chép rõ ràng trong sách trời.

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

"Thiên mệnh" là lý luận cốt lõi của triết học Nho giáo, đóng vai trò quan trọng trong chính trị phong kiến Trung Quốc, được củng cố bởi Đổng Trọng Thư qua thuyết "Thiên nhân tương cảm" Các nhà Lý học đã lý giải khái niệm này để cai trị đất nước, mặc dù vẫn mang tính chất duy tâm thần bí Thời kỳ này, Nho giáo đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam, với "Thiên mệnh" được các vua triều đại phong kiến áp dụng Khái niệm này gắn liền với nhân tâm, thể hiện rõ trong tư duy của vua Lý Thái Tổ, người đã khai thác tính chất duy lý và hợp lý từ tư tưởng của Khổng Mạnh.

“Với sự thuận tiện thì làm” trong chiếu dời đô của Lý Công Uẩn thể hiện được quan niệm hợp lý trong Nho học Khổng Mạnh.

Nho giáo đã đóng vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị và xã hội thời Lý, cung cấp cho giai cấp phong kiến một hệ thống lý thuyết và bài học kinh nghiệm về tổ chức nhà nước và quản lý xã hội Điều này đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của sự phát triển xã hội Việt Nam, củng cố chế độ phong kiến và xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền mạnh mẽ Đến thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo càng trở nên sâu sắc, như Trần Quốc Tuấn đã nhấn mạnh về sự đoàn kết giữa vua và tôi, góp phần vào chiến thắng trước kẻ thù.

Chẳng những thế quan niệm của quan lại thời Trần cũng tuân theo

"Thiên mệnh" trong công việc phản ánh sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, đặc biệt qua hình ảnh vua Trần Thái Tông, người sáng lập triều Trần và cũng là một thiền học nổi tiếng Ông đã thừa nhận rằng phương tiện để mở lòng mê là rất quan trọng.

Trong tác phẩm "Lịch sử tư tưởng Việt Nam" của Huỳnh Công Bá, ông nhấn mạnh rằng đường lối soi rõ sống chết chính là đại giáo của đức Phật Bên cạnh đó, việc giữ gìn cán cân để làm mức cho hậu thế và nêu khuôn phép cho tương lai là trách nhiệm nặng nề của Tiên thánh, tức Tiên Nho.

Như vậy Nho giáo trong giai đoạn này nó đã góp phần vào tư tưởng trị nước, yêu dân của dân tộc ta.

2.1.2 Quan ủieồm “nhaõn trũ”, “nhaõn chớnh”, “thaõn daõn”

Trong tư tưởng Nho giáo nguyên thủy, đạo trị nước được thể hiện qua bốn khái niệm "tu, tề, trị, bình" cùng với các quy tắc đạo đức nhằm điều chỉnh xã hội theo lý tưởng Nho giáo Vào thế kỷ XIV, Việt Nam đã xuất hiện một lớp Nho sĩ tích cực tham gia vào chính trị, nỗ lực hiện thực hóa những lý tưởng này.

Trong thời kỳ này, nhiều nhà Nho xuất sắc như Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên, Mạc Đĩnh Chi, và Nguyễn Phi Khanh đã phò vua giúp nước Bên cạnh đó, các tướng tài kiêm văn võ như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, và Phạm Ngũ Lão cũng đóng góp quan trọng cho đất nước.

Những Nho gia coi trọng việc giữ gìn ổn định đất nước bằng cách đảm bảo cuộc sống ấm no cho nhân dân và tạo sự yên lòng cho họ Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thân dân và quản lý bằng đức Theo đó, phẩm hạnh của nhà vua được xem là điều kiện tiên quyết để xây dựng một đất nước thịnh trị.

Ngay sau khi giành độc lập, Khúc Hao áp dụng triết lý “khoan, giản, an lạc” để trị dân, mang lại sự an vui cho nhân dân Ngô Quyền tiếp tục xây dựng nền móng vững chắc cho vương triều Thời Đinh - Tiền Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo với tư tưởng “vô vi cư điện các sứ”, nhưng vẫn duy trì việc xưng đế và nối nghiệp theo “phúc trời” Đến thời Trần, một nhà Nho nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “tu thân, tề gia trị quốc bình thiên hạ”, cho rằng gốc của thiên hạ nằm ở nước, gốc nước ở nhà, và gốc nhà ở bản thân Ông cho rằng chỉ khi giáo dục được con cái trong gia đình thì mới có thể dạy dỗ người dân trong nước, và sự thịnh trị của đời Đường Ngu cũng bắt nguồn từ nguyên tắc này.

Sự phát triển của Nho giáo trong việc biên soạn luật của nước ta trong thời kỳ này

ta trong thời kỳ này

Trong lịch sử, tổ tiên chúng ta đã xây dựng chính quyền dựa vào tập tục, đặc biệt là sau các cuộc khởi nghĩa vũ trang thời Bắc thuộc và trong giai đoạn đầu của các triều đại độc lập Tập tục đã được xã hội chấp nhận và tuân thủ qua nhiều thế hệ, tạo ra những nguyên tắc quan trọng trong đời sống cộng đồng Tuy nhiên, khi đất nước phát triển và mở rộng, các mối quan hệ trở nên phức tạp hơn, việc áp dụng các tập tục cũ trong quản lý nhà nước trở nên không còn phù hợp.

Trong thời kỳ này, Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong chính trị và tư tưởng của đất nước, góp phần xây dựng phép tắc trị nước, khiến các vị vua rất coi trọng Tuy nhiên, Phật giáo chỉ cung cấp giới luật, tức những khuyên răn mà không thể thay thế cho các luật cần thiết trong quản lý nhà nước Tính chất từ bi, bác ái của Phật giáo khiến những tư tưởng này không thể can thiệp vào thể chế chính trị Cuộc sống cần cả lời khuyên và sự răn đe; cần tôn vinh đấng đạo hạnh nhưng cũng cần nghiêm trị kẻ xấu Do đó, giới luật của Phật giáo trở nên bất lực trước những yêu cầu cứng rắn và nghiêm khắc trong quản lý xã hội Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng từ đường lối cai trị của Trung Quốc, và các nhà chính trị cùng Nho gia Việt Nam đã áp dụng những chủ trương này.

“Ngoại Nho, nội pháp” thể hiện sự tiếp nhận tự nhiên của triết lý cai trị dựa trên pháp luật của phái pháp gia, mặc dù không nhận thức rõ ràng Tuy nhiên, họ vẫn giữ vững đường lối đạo đức, coi trọng việc trị nước bằng đức hạnh và nhân chính, xem đây là yếu tố quan trọng nhất trong quản lý xã hội.

Sau khi đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập năm 1002, Lê Đại Hành đã ban hành “định luật lệnh” Đến năm 1042, triều đại Lý đã cho ra mắt bộ “Hình thư” gồm 3 quyển, đánh dấu công trình pháp điển đầu tiên ở Việt Nam dưới thời vua Lý Thái Tông Bộ luật này quy định các hình phạt, cách tra xét và có quy định ân giảm cho người già, trẻ em, ngoại trừ các tội nặng như mưu phản và nổi loạn Theo “Đại Việt Sử Ký toàn thư”, trước đây, việc kiện tụng thường phức tạp và gây oan uổng cho nhiều người Vua đã cảm thương và chỉ đạo quan Trung Thư soạn thảo luật lệnh phù hợp với thời thế, chia thành các loại và điều khoản dễ hiểu Khi bộ luật hoàn thành, vua đã ban hành và dân chúng cảm thấy thuận lợi, giúp việc xử án trở nên minh bạch, rõ ràng, dẫn đến việc đổi niên hiệu thành Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo.

Khi biên soạn Hình thư, các quan Trung Thư triều Lý Thái Tông đã tham khảo các bộ luật của Trung Quốc nhưng không lệ thuộc vào đó, mà linh hoạt và sáng tạo trong việc kế thừa có chọn lọc Họ đã “châm chước cho thích hợp với thời thế”, kết hợp hài hòa giữa tư tưởng Nho giáo với niềm tự tôn và hào khí dân tộc Điều này tạo nên tính ưu việt sâu xa, giúp Hình thư nhanh chóng được chấp nhận Triều Lý không chỉ phổ biến luật lệ mà còn ban hành những quy định quan trọng về luật pháp.

Để nâng cao Hình thư, cần khuyến khích mọi người tham gia đóng góp và phát triển Đồng thời, việc chuyên nghiệp hóa đội ngũ pháp quan sẽ giúp nâng cao năng lực xét xử của họ.

Ba hình luật được đặt ra trong nhiều trường hợp, thể hiện sự tôn trọng quyền xét xử của pháp quan từ triều đình Một trong những người có công lớn trong việc bổ sung cho hình thư là bà Ỷ Lan, một phụ nữ xuất thân từ nông thôn, đã hiểu rõ nhu cầu của nông dân và đề xuất các điều luật phù hợp Thời kỳ Lý cũng ghi nhận sự xuất hiện của những pháp quan xuất sắc như Tô Hiến Thành, đồng thời triều Lý đã cho phép xử án cả Hoàng Thái Tử và Lý Long Xưởng, thể hiện sự tiến bộ trong hệ thống pháp luật.

Hình thư thời Lý thể hiện sự pháp chế hóa quyền lực theo tư tưởng Nho giáo, trong đó tư tưởng tôn quân và triết lý tam cương, ngũ thường được đề cao Đây không chỉ là tri thức và đạo lý mà còn là pháp lý, tạo nên một quá trình hòa quyện sâu sắc với màu sắc Nho giáo trong quản lý nhà nước.

Dưới thời nhà Trần, việc xây dựng luật pháp thành văn đã có nhiều đóng góp quan trọng, đặc biệt từ hai nhà Nho nổi bật là Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1341, triều đình đã chỉ định Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn hai bộ sách quan trọng là Hoàng triều đại điển và Hình thư Hình thư thời Trần đã tiếp thu những đặc điểm nổi bật từ Hình thư nhà Lý.

Ngày nay, các bộ Hình thư từ thời Lý và Trần đã bị thất lạc, nhưng vẫn được ghi chép trong sử cũ Qua những ghi chép này, có thể thấy Nho giáo đã khéo léo tích hợp tư tưởng chính trị và đạo đức của mình vào nội dung pháp luật, cho thấy quá trình Nho giáo tiến vào vũ đài chính trị diễn ra nhanh chóng.

Nho giáo trong thời kỳ này đã phát triển mạnh mẽ và chiếm giữ vị trí quan trọng trong xã hội Đặc biệt, Nho giáo đã đảm nhận vai trò biên soạn luật pháp, khéo léo chuyển hóa một số tư tưởng về quản lý nhà nước của Nho gia thành các quy định pháp luật xã hội.

Sự xung đột và đấu tranh chống lại Phật giáo của các Nho sĩ nước ta thế kyû XIV

Vào cuối thế kỷ XIV, Nho giáo trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần và giáo dục của Đại Việt, với tầng lớp Nho sĩ đông đảo tham gia vào chính trị và phát triển quan điểm về đạo đức Tuy nhiên, xã hội phong kiến Việt Nam cũng đối mặt với khủng hoảng do sự phát triển quá mức của Phật giáo, dẫn đến những hệ lụy như quý tộc lợi dụng tôn giáo để xây chùa, chiếm đất đai, và số lượng tăng ni gia tăng đáng kể Mặc dù Nho giáo đã xuất hiện từ thời Lý như một hệ thống quan điểm bổ sung cho Phật giáo, nhưng vào thời điểm này, các Nho sĩ bắt đầu chỉ trích Phật giáo mạnh mẽ, phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội phong kiến giữa tầng lớp quý tộc và những người tài năng từ ngoại tộc Đàm Dĩ Mông đã lên tiếng chỉ trích Phật giáo, cho rằng số lượng sư sãi gần bằng số phu dịch, và chỉ ra nhiều tệ nạn trong giới tăng lữ, làm ảnh hưởng đến phong tục và giáo lý.

Cuối thời Lý, mặc dù có những tiếng nói bài xích và công kích Đàm Dĩ Mông, nhưng chúng chỉ là những ý kiến lẻ loi, không đủ sức mạnh để chống lại tư tưởng đã được các vua chúa và phần lớn trí thức triều Lý tôn sùng Phật giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đặc biệt với phái Thảo Đường thời Lý và Trúc Lâm Yên Tử thời Trần Tuy nhiên, đến thế kỷ XIV, trào lưu chống Phật giáo bắt đầu gia tăng, với tiếng nói của các Nho sĩ trở nên phong phú và thuyết phục hơn.

Trương Hán Siêu, một nhân vật Nho sĩ nổi bật, đã mạnh mẽ phản đối Phật giáo với quan điểm rằng việc xây dựng chùa chiền không phải là ý chí của ông Ông cho rằng việc khắc bia mà không truyền đạt được ý nghĩa thực sự là vô nghĩa Hiện nay, ông nhấn mạnh rằng các thánh hiền muốn truyền bá văn hóa cho nhà vua nhằm loại bỏ những phong tục xấu xa và mê tín, đồng thời phục hưng thánh đạo Ông khẳng định rằng vai trò của kẻ sĩ đại phu không thể thiếu sự minh bạch và không thể đi ngược lại với đạo lý Nghiêu Thuấn.

Khổng Mạh không trước thuật Thế mà cứ bo bo, lải nhải chuyện Phật, ta định lừu ai đây?”

Lê Văn Hưu, một nhà viết sử nổi tiếng, đã chỉ trích Lý Thái Tổ trong “Đại Việt Sử Ký toàn thư”, cho rằng việc vua xây dựng nhiều chùa và làm sư trong khi chưa hoàn thiện các công trình thiết yếu như nhà thờ tổ tiên và đài xã tắc là lãng phí sức lực và tiền bạc của dân Ông đặt câu hỏi về việc liệu có thể gọi đó là tu sửa phúc đức khi mà chính sách này chỉ làm hao tổn tài sản và sức lực của nhân dân Lê Văn Hưu nhấn mạnh rằng sự lãng phí này có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực, khiến con cháu trở nên lười biếng và phung phí, đồng thời làm xấu đi cả đời sống và văn hóa của người dân.

Quan điểm của Lê Văn Hưu cho thấy ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tống Nho độc tôn, khi ông chỉ trích Phật giáo và khẳng định rằng giáo lý cùng phép tắc của Khổng Nho mới là chính nghĩa Quan niệm “chính danh” của ông được thu hẹp vào tiêu chuẩn giá trị tuyệt đối của Khổng Nho, dẫn đến chủ trương “Tử viết” như “Kim thoa ngọc luật” là bất khả xâm phạm Ngoài Lê Văn Hưu, nhiều Nho sĩ khác như Trương Hán Siêu và Lê Quát cũng tham gia phê phán Phật giáo Trong bài văn bia “Chùa thiện phúc”, Lê Quát đã lên án việc nhà chùa lợi dụng điều họa phúc để mê hoặc lòng người, trong khi Trương Hán Siêu trong bài ký “Tháp Linh Tế” đã mạt sát tín đồ Phật giáo, cho rằng giáo lý của họ chỉ là sự mê hoặc đối với chúng sinh.

Trong bối cảnh này, tiếng nói của các Nho sĩ chống lại Phật giáo ngày càng mạnh mẽ hơn Họ chỉ trích việc tiêu tốn nhân lực và tài lực của Phật giáo, đồng thời lên án các tệ nạn trong chùa chiền, nơi chứa chấp những người "không cày mà có ăn, không dệt mà có mặc" và trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước, gây tổn hại đến thánh đạo Nho phong.

Cuối thời Trần, Nho sĩ đã khẳng định được vị trí quan trọng trong xã hội, có đủ sức mạnh để công khai phản đối những đặc quyền của quý tộc và thậm chí tấn công vào Phật giáo, tôn giáo của vua.

Lê Văn Hưu đã chỉ ra rằng, sau khi Nùng Tồn Phúc làm phản và bị trừng phạt, con trai của ông, Trí Cao, tiếp tục gây rối thì tội lỗi càng nặng nề hơn Mặc dù Thái Tông đã tha tội và ban thưởng cho Trí Cao, nhưng điều này dẫn đến sự không minh bạch trong thưởng phạt và tạo ra mối lo ngại cho châu Quảng Nguyên Hành động đưa quân cứu trợ cho xứ láng giềng được ví như thả hổ về rừng, có thể gây hại cho người dân Sự đắm chìm trong lòng nhân ái của nhà vua đã khiến ông quên đi trách nhiệm đối với quốc gia.

1 Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng 8 – 1945, tập 1, Nxb Tp Hoà Chí Minh, 1993, tr 69.

2 Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1992, tr 23 – 24.

Cao trào công kích Phật giáo của các Nho sĩ tôn sùng Nho giáo nhằm mục đích tạo điều kiện cho Nho giáo chiếm ưu thế trong tư tưởng của nhân dân Sự bài xích này phản ánh nỗ lực của Tống Nho trong việc khẳng định vị trí chủ đạo của Nho giáo trong đời sống tinh thần.

Trong bối cảnh việc chống lại Phật giáo ngày càng gia tăng, Nho giáo đã có những bước tiến mạnh mẽ và sâu sắc hơn Các Nho sĩ như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, và đặc biệt là Lê Văn Hưu, đã thể hiện quan điểm cực đoan, chịu ảnh hưởng từ Tống Nho và phê phán Phật giáo, đồng thời thiên về chủ nghĩa công lợi thực tiễn Các vua Minh Tông và Nghệ Tông đã coi những Nho sĩ này là “bạch diện thư sinh” Trần Minh Tông từng cảnh báo rằng, mỗi quốc gia đều có hiến pháp riêng, và nếu nghe theo những Nho sĩ này, có thể dẫn đến loạn lạc.

Từ thời kỳ nhà Lý, Đàm Dĩ Mông đã công kích Phật giáo, khiến Lý Thường Kiệt nhận thấy sự loạn lạc của đất nước Ông cảnh báo rằng khi Nho gia bài xích Phật giáo, sẽ dẫn đến tranh giành quyền lợi và xung đột Sự kiện Đàm Mông sa thải tăng già đã mở đường cho Trần Thủ Độ tàn sát họ Lý Cuối đời Trần, Nho học thịnh hành với những nhân vật như Trương Hán Siêu và Lê Quát chỉ trích đạo Phật, cho thấy sự biến chuyển trong tư tưởng thời đại.

1 Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 5, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1992, tr 31.

Hồ Quý Ly đã sát hại họ Trần, trong khi Trần Thủ Độ và Hồ Quý Ly thực hiện những hành động này với mục đích thi hành chính trị, mong muốn thể hiện lòng bác ái và từ bi của Phật.

Lý Thường Kiệt đã đưa ra những kết luận mang tính khái quát cao, nhưng chúng ta cần nhận thức rằng những hậu quả tiêu cực không phải do Nho học chân chính theo khuynh hướng của Khổng Mạnh, như các nhân vật như Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Mạc Đĩnh Chi hay Nguyễn Biểu thực hiện Thay vào đó, sự chia rẽ này chỉ xuất phát từ những người theo Nho học công lợi và nhị nguyên duy lý của Tống Nho.

Từ vấn đề này, chúng ta nhận thấy ảnh hưởng của Tống Nho đối với Nho học Việt Nam, nhưng tư tưởng Nho giáo chân chính đã phản đối lại Ý nghĩa sâu xa của việc lập quốc thể hiện tinh thần khai phóng tâm linh của tam giáo trong thời kỳ Lý và Trần, cùng với sự ảnh hưởng của Nho giáo chân chính từ Khổng Tử và Mạnh Tử.

Cuộc đấu tranh của Phật giáo không chỉ khẳng định vị trí của Nho giáo trong đời sống tư tưởng – văn hóa, mà còn chuẩn bị cho tầng lớp Nho sĩ tham gia vào chính trị, đồng thời phản ánh sự suy yếu của Phật giáo cả về thực tế lẫn tư tưởng Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của Nho giáo, mở đường cho sự thịnh vượng và ăn sâu hơn trong xã hội sau này Sự củng cố vị thế của Nho giáo càng giúp nó phát triển hơn trong tương lai.

Ý NGHĨA VÀ CẢM NHẬN VỀ NHO GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngày đăng: 15/09/2021, 10:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Huỳnh Công Bá, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. Thuận Hóa, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử tư tưởng Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Thuận Hóa
2. Doãn Chính – Phạm Thị Loan, Tạp chí triết học, số 12, tháng 12 – 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí triết học
3. Doãn Chính – Nguyễn Sinh Kế, Tạp chí triết học, số 9, tháng 9 – 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí triết học
4. Phạm Đại Doãn (chủ biên), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb.Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam
Nhà XB: Nxb.Chính trị Quốc gia Hà Nội
5. Quang Đạm, Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hóa Hà Nội,1994 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho giáo xưa và nay
Nhà XB: Nxb. Văn hóa Hà Nội
6. Trần Hồng Đức – Hà Văn Thư, Tóm tắt niêm biểu lịch sử Việt Nam, Nxb.Văn hóa – thông tin Hà Nội, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tóm tắt niêm biểu lịch sử Việt Nam
Nhà XB: Nxb.Văn hóa – thông tin Hà Nội
7. Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương lịch sử tư tưởng triết học ViệtNam
Nhà XB: Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội
8. Lê Văn Hưu, Đại việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại việt sử ký toàn thư
Nhà XB: Nxb. Khoa học xã hội HàNội
9. Vũ Khiêu, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho giáo và phát triển ở Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Khoa học xã hội HàNội
10. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Phú Quốc Khanh đặc trách văn hóa, 1969 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử tư tưởng Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Phú QuốcKhanh đặc trách văn hóa
11. Phạm Khắc Thuần, Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2000 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
12. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử tư tuởng Việt Nam, tập 1, Nxb.Khoa học xã hội Hà Nội, 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử tư tuởng Việt Nam
Nhà XB: Nxb.Khoa học xã hội Hà Nội
13. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam – Viện văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội, 1978 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thô vaên Lyù – Traàn
Nhà XB: Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w