1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008

153 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Đầu Tư Trực Tiếp Của Nhật Bản Ở Thành Phố Hồ Chí Minh Từ Năm 1988 Đến Năm 2008
Tác giả Nguyễn Văn Tiến
Người hướng dẫn PGS.TS. Vế Xuân Đàn
Trường học Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 153
Dung lượng 1,59 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Lược sử vấn đề nghiên cứu (9)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (13)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 5. Những đóng góp của luận văn (15)
  • 6. Kết cấu của luận văn (15)
  • Chương 1.................................................................................................................17 (17)
    • 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách thu hút đầu tư nước ngồi (17)
      • 1.1.1. Cơ sở lý luận (17)
      • 1.1.2. Cơ sở thực tiễn (19)
    • 1.2 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thu hút đầu tư nước ngoài (22)
  • Chương 2.................................................................................................................30 (30)
    • 2.1 Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Tp.HCM (30)
      • 2.1.1 Chính sách và môi trường thu hút đầu tư nước ngoài của thành phố (30)
      • 2.1.2. Những đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Tp.HCM (38)
    • 2.2. Phân tích quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Thành phố Hồ Chí Minh từ 1988 đến 2008 (42)
      • 2.2.1. Thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1991 (42)
      • 2.2.2. Thời kỳ từ năm 1992 đến năm 1996 (43)
      • 2.2.3. Thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2008 (52)
      • 2.3.1 Trên lĩnh vực kinh tế (79)
      • 2.3.2 Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội (84)
  • Chương 3.................................................................................................................90 (90)
    • 3.1 Cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của Thành phố Hồ Chí Minh (90)
      • 3.1.1 Những định hướng của Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thu hút FDI từ Nhật Bản . 90 (90)
      • 3.1.2 Một số đánh giá cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản của TP.HCM (92)
      • 3.1.2. Triển vọng trong quan hệ đầu tư trực tiếp giữa Nhật Bản – Thành phố Hồ Chí Minh 105 3.2. Nhận định về những khó khăn, tồn tại và bài học kinh nghiệm (105)
      • 3.2.1. Năng lực thu hút FDI từ Nhật Bản còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển Thành phố (108)

Nội dung

Lược sử vấn đề nghiên cứu

Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về luận văn, nhưng việc tìm hiểu đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được chú trọng đúng mức Thông tin và số liệu liên quan đến vấn đề này thường rải rác trong các nghiên cứu về đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam cũng như trong các tài liệu về quan hệ hợp tác Việt - Nhật Do đó, cần có thêm nghiên cứu sâu hơn để làm rõ tầm quan trọng của đầu tư Nhật Bản ở thành phố Hồ Chí Minh.

Giáo sư kinh tế học Trần Văn Thọ, trong tác phẩm “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam” xuất bản năm 2005, đã nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại Việt Nam Mặc dù chỉ đề cập sơ lược về xu hướng chung của FDI Nhật Bản ở Việt Nam, công trình này vẫn mang lại cái nhìn quan trọng về mối quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia.

Tác giả Trần Xuân Tùng với công trình nghiên cứu “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”, NXB Chính trị Quốc gia,

Vào năm 2005, tác giả đã chia sẻ kinh nghiệm hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên chưa đề cập đến việc hỗ trợ đặc biệt dành cho các nhà đầu tư Nhật Bản.

Tác phẩm “30 năm hợp tác hữu nghị Việt Nam- Nhật Bản” của Công ty cổ phần Thông tin kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2003, đã nêu bật những điểm chính về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, tác phẩm chưa đi sâu phân tích một cách toàn diện về vấn đề này.

Viện Nghiên cứu Xã hội TP.HCM đã thực hiện và phối hợp thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu nhằm tổng hợp và phân tích thành tựu cũng như triển vọng trong quan hệ đối ngoại của TP.HCM, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - xã hội Một trong những đề tài đáng chú ý là tổng quan về ASEAN và tiềm năng của TP.Hồ Chí Minh trong tiến trình hội nhập, được xuất bản bởi Nxb Tổng hợp TP.HCM vào năm

Năm 2004, các tác giả Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh và Đoàn Thanh Hương đã xuất bản bộ sách "Thành phố Hồ Chí Minh tự giới thiệu" gồm 3 tập, do tiến sĩ Trần Nhu làm chủ biên, với các năm phát hành lần lượt là 1998, 2000 và 2002 Đặc biệt, trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và TP.HCM, đề tài "Quan hệ giữa TP.HCM và Nhật Bản trên lĩnh vực kinh tế - văn hóa: Tiềm năng và triển vọng" do Hồ Thị Minh Trâm làm chủ nhiệm vào năm 2005 đã được nghiên cứu sâu sắc.

Nhiều nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và TP.HCM đã được thực hiện bởi Viện Kinh tế TP.HCM và Thời báo Kinh tế Sài Gòn, bao gồm các đề tài như “Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ chuyển dịch cơ cấu TP.HCM” của Thạc sĩ Nguyễn Văn Quang (2007), “Đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn TP.HCM” của ThS Cao Văn Quang và ThS Cao Ngọc Thành (2005), và “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trên địa bàn TP.HCM trong điều kiện hội nhập” của ThS Nguyễn Thiềng Đức (2007) Ngoài ra, Trần Tô Tử (1996) cũng đã nghiên cứu về “Vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội TP.HCM” Các tài liệu khác liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, như phân tích lợi thế cạnh tranh của các ngành nghề chính tại TP.HCM và quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, cũng được Viện Kinh tế TP.HCM thực hiện.

Kenichi Ohno, tác giả cuốn sách “Phát triển kinh tế của Nhật Bản”, đã có những đóng góp quan trọng cho diễn đàn phát triển Việt Nam (VDI) từ năm 2004 Ông là tác giả và đồng tác giả của nhiều tác phẩm về kinh tế phát triển, bao gồm “Phát triển kinh tế Đông Á” (1997) và “Người Nhật nhìn về phát triển kinh tế” (1998) Với hơn 13 năm tư vấn cho chính sách phát triển Việt Nam, Ohno đã hỗ trợ xây dựng các kế hoạch phát triển công nghiệp và thảo luận về các vấn đề xã hội trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của đất nước Cuốn sách đề cập đến các vấn đề cụ thể liên quan đến kinh tế Nhật Bản và những bài học cho Việt Nam, tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung vào giai đoạn phát triển trước thập niên 1990, điều này có thể hạn chế so sánh và nhận định về các giai đoạn khác.

Vào năm 2006, với sự hỗ trợ từ tổ chức VDF và Nhà xuất bản Lao động Xã hội Hà Nội, tác giả Kenichi Ohno đã xuất bản cuốn sách "Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản" Cuốn sách chủ yếu tập trung vào phương pháp hoạch định chính sách công nghiệp của Việt Nam, đồng thời rút ra nhiều bài học quý giá từ các quốc gia như Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản.

Vào tháng 8 năm 2007, Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDI) đã xuất bản tài liệu liên quan đến một số chính sách trong tương lai, được cụ thể hóa thông qua Hiệp định đối tác kinh tế Nhật Bản - Việt Nam, đặc biệt trong ngành công nghiệp thép.

“Công nghiệp gang thép Việt Nam: một giai đoạn phát triển và chuyển đổi chính sách mới” của tác giả Nozomu Kawabata

Trong kỷ yếu “Hội nghị 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”, có đề cập đến mối quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản thông qua JETRO Kỷ yếu này tập trung vào các vấn đề chung, như xu hướng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam và cách nhìn nhận của các nhà đầu tư Nhật Bản về thị trường Việt Nam.

Trong tác phẩm “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng” của tác giả Vũ Văn Hà, xuất bản năm 2000, đã trình bày tổng quan về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam, nêu rõ thực trạng, các nhân tố ảnh hưởng, triển vọng và giải pháp để tăng cường đầu tư Tuy nhiên, tác phẩm còn hạn chế khi chưa khai thác sâu về những đặc điểm riêng của đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh.

Sách "Kinh tế Việt Nam giai đoạn kinh tế chuyển đổi" của tác giả Trần Du Lịch, xuất bản bởi Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh và Sài Gòn Times Group vào năm 1996, cùng với tác phẩm “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và TP.HCM” do Viện Kinh tế Thế giới xuất bản năm 2002, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ chuyển mình.

Bài viết đề cập đến nhiều công trình khác nhau liên quan đến thu hút đầu tư của Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù chưa đi sâu vào chi tiết Những công trình này gợi ý rõ nét về lịch sử phấn đấu và sự sáng tạo của các doanh nghiệp Nhật Bản, từ những cơ sở kinh tế nhỏ đến các tập đoàn sản xuất kinh doanh vững mạnh, vượt ra ngoài biên giới quốc gia Ngoài ra, bài viết cũng nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính "tiền tệ" ở Châu Á và những hậu quả của nó.

Bài viết "Kinh tế chính trị của sự phát triển của Nhật Bản và Châu Á" khám phá ảnh hưởng của lịch sử và văn hóa đối với ý thức lao động của người Nhật, đồng thời cung cấp kinh nghiệm quản trị qua sách "Hệ thống quản trị kinh doanh Nhật Bản trong môi trường quốc tế" Nghiên cứu cũng đề cập đến chính sách công nghiệp của Nhật Bản từ góc độ kinh tế, đánh giá toàn diện và chính xác thông qua các hội thảo và ý kiến phản biện từ các chuyên gia trong sách "Chính sách công nghiệp của Nhật Bản" Thêm vào đó, bài viết giúp độc giả hiểu những hành vi kinh doanh đặc trưng của người Nhật, cung cấp kinh nghiệm hợp tác hiệu quả qua "Hiểu và làm việc với thế giới thương mại của Nhật Bản" Kinh nghiệm của Nhật Bản trong huy động và sử dụng vốn cho công nghiệp hóa sẽ hữu ích cho Việt Nam, như được trình bày trong "Vốn trong quá trình tăng trưởng kinh tế cao ở Nhật sau chiến tranh" Cuối cùng, bài viết cũng nêu bật kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần qua "Phân hóa giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản từ 1945 đến nay".

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử, kết hợp giữa phương pháp lịch sử và lô gích, để phân tích quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Tp.Hồ Chí Minh Nghiên cứu được đặt trong bối cảnh lịch sử của đất nước qua từng giai đoạn, nhằm làm rõ những thành tựu, hạn chế và tác động của FDI Nhật Bản đối với phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Đồng thời, luận văn cũng rút ra bài học kinh nghiệm cho việc thu hút và phát triển nguồn vốn FDI từ Nhật Bản trong hiện tại.

Ngoài phương pháp lịch sử, luận văn hiện nay đã áp dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, bao gồm các phương pháp định lượng và định tính để thu thập số liệu thống kê và so sánh Các phương pháp điền dã, phỏng vấn nhân chứng, cùng với việc sử dụng kết quả nghiên cứu từ các ngành khoa học liên quan như kinh tế và quan hệ quốc tế, giúp rút ra những kết luận khách quan về quá trình thu hút và phát triển nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản Điều này diễn ra trong bối cảnh đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.

Những đóng góp của luận văn

Bài viết này tổng hợp và hệ thống hóa tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau liên quan đến nghiên cứu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là đặc điểm FDI từ Nhật Bản và những nỗ lực thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại TP Hồ Chí Minh Thông qua đó, bài viết cung cấp thông tin cần thiết về quá trình và xu hướng đầu tư của Nhật Bản trong khu vực này.

Bài viết phân tích các giai đoạn thu hút và phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, nêu bật những đặc điểm chính Đồng thời, bài viết cũng đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình này, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu để nâng cao hiệu quả thu hút FDI Nhật Bản trong bối cảnh hiện tại.

Luận văn sẽ bổ sung những khía cạnh còn thiếu về xúc tiến đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản, định hướng đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao và quy hoạch phát triển ngành công nghiệp phụ trợ tại TP.HCM Điều này nhằm thu hút FDI từ Nhật Bản, đồng thời khẳng định vai trò của TP.HCM như một trung tâm thu hút FDI quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần dẫn luận, kết luận và phụ lục minh hoạ, luận văn được chia làm ba chương:

Chương 1 tập trung vào việc trình bày các cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Mục tiêu là giải quyết những vấn đề trọng tâm của đề tài, giúp làm rõ vai trò và tác động của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.

Chương 2 sẽ khám phá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là phân tích và đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Sự gia tăng đầu tư Nhật Bản không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần cải thiện hạ tầng và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân địa phương Thông qua việc đánh giá các dự án đầu tư, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng ảnh hưởng tích cực của nguồn vốn này đối với các lĩnh vực như công nghiệp, dịch vụ và công nghệ.

Chương 3: Đánh giá cơ hội thu hút FDI từ Nhật Bản tại TP.HCM cho thấy tiềm năng lớn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản Thành phố có nhiều lợi thế cạnh tranh, bao gồm vị trí địa lý thuận lợi, hạ tầng phát triển và môi trường đầu tư hấp dẫn Những triển vọng về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại TP.HCM hứa hẹn sẽ đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế địa phương, tạo ra nhiều việc làm và thúc đẩy chuyển giao công nghệ.

Hồ Chí Minh đã chỉ ra những khó khăn và tồn tại trong việc thu hút phát triển FDI từ Nhật Bản, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm quý báu để áp dụng hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện tại Việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng hạ tầng và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Nhật Bản là những yếu tố quan trọng cần được chú trọng.

Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách thu hút đầu tư nước ngồi

Trong quá trình phát triển kinh tế, nguồn vốn nội tại của quốc gia kết hợp với nguồn vốn từ bên ngoài đóng vai trò quan trọng Đầu tư quốc tế không chỉ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần vào sự vận hành của nền kinh tế toàn cầu Mối quan hệ giữa bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư là tương hỗ, mang lại lợi ích cho cả hai phía.

Theo các lý thuyết phát triển kinh tế, có thể xác định một số khái niệm về đầu tư nước ngoài như sau:

- Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Official Development Asistance – ODA)

- Nguồn vốn tín dụng thương mại (chủ yếu là hỗ trợ cho lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia)

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời Đầu tư quốc tế chủ yếu diễn ra dưới hai phương thức: đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp Đầu tư gián tiếp bao gồm việc bỏ vốn vào các hoạt động như cổ phiếu, chứng khoán, hay gửi tiết kiệm mà không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh Ngược lại, đầu tư trực tiếp là khi nhà đầu tư không chỉ bỏ vốn mà còn tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được định nghĩa bởi Tổ chức Thương mại Thế giới là hoạt động mà nhà đầu tư từ một quốc gia có được tài sản tại một quốc gia khác và nắm quyền quản lý tài sản đó FDI thường liên quan đến việc nhà đầu tư và tài sản quản lý là các cơ sở kinh doanh, trong đó nhà đầu tư được gọi là “công ty mẹ” và tài sản là “công ty con” hoặc “chi nhánh công ty” Đây là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hoặc công ty từ nước này vào nước khác thông qua việc thiết lập cơ sở sản xuất và kinh doanh, với quyền quản lý thuộc về nhà đầu tư nước ngoài.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được định nghĩa là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất, trong đó nhà đầu tư từ một quốc gia đưa vốn vào một quốc gia khác để đầu tư Đồng thời, họ trực tiếp tham gia quản lý và điều hành tổ chức sản xuất, nhằm tận dụng các lợi thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để thu lợi nhuận.

Về mặt hình thức, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân thành 2 dạng thức:

Đầu tư trực tiếp theo chiều ngang (horizontal FDI) là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư tập trung vào ngành nghề mà họ đã có lợi thế cạnh tranh.

Đầu tư trực tiếp theo chiều dọc (vertical FDI) nhằm mục đích khai thác nguồn lợi từ tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu vào như lao động giá rẻ, đất đai, tài nguyên và khoáng sản.

Xét về hình thức sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm các hình thức sau:

Doanh nghiệp liên doanh là hình thức hợp tác giữa hai hoặc nhiều pháp nhân, tạo ra một thực thể độc lập Mỗi bên tham gia đều giữ vai trò riêng biệt trong mối quan hệ kinh tế, góp phần vào sự phát triển chung của doanh nghiệp liên doanh.

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là loại hình doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài Chủ đầu tư có quyền điều hành và quản lý toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh bằng nguồn vốn của mình Doanh nghiệp này hoạt động theo pháp nhân tại Việt Nam và tuân thủ các quy định của Luật đầu tư nước ngoài.

Hợp tác kinh doanh dựa trên hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trực tiếp, trong đó hai hoặc nhiều bên ký kết hợp đồng Mỗi bên tham gia hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Ngoài ba hình thức đầu tư cơ bản, còn tồn tại nhiều hình thức đầu tư khác nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nội tại và các yếu tố liên quan đến sự phát triển.

- Hình thức Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)

- Hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO)

- Hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT)

Sau hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngày

30 tháng 4 năm 1975, nước ta hoàn toàn độc lập và thống nhất Từ đây, cả nước cùng thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

Sau hai cuộc chiến tranh, Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức kinh tế cần giải quyết khẩn trương Miền Bắc cần tiếp tục ổn định và phát triển kinh tế, trong khi miền Nam phải nhanh chóng xây dựng nền kinh tế mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Để đạt được mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế sau chiến tranh, cần có sự nỗ lực của toàn dân và tranh thủ sự ủng hộ từ các nước xã hội chủ nghĩa Nền kinh tế cần được cải tạo theo phương hướng kế hoạch hóa tập trung, mang tính chất chỉ huy và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngay sau giải phóng năm 1977, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhận thức rõ nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển sản xuất, từ đó nhanh chóng xác định chủ trương thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài Ngày 19 tháng 4 năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị định 115/CQ về Điều lệ đầu tư nước ngoài, đánh dấu bước khởi đầu cho quá trình này và khẳng định vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài Điều 1 của Điều lệ năm 1977 nêu rõ: “Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh việc đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam và hai bên cùng có lợi.”

Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, đặc biệt là sự đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ, Việt Nam đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ cấm vận của Mỹ và tình hình bất ổn tại biên giới phía Bắc và Tây Nam Những yếu tố này đã dẫn đến sự điều chỉnh trong Điều lệ Đầu tư năm 1977, làm cho quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa gần như khép lại, gây khó khăn cho quá trình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Sự ủng hộ mạnh mẽ từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, đã đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn cho phát triển kinh tế đất nước Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V năm 1981 nhấn mạnh chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, khuyến khích mở rộng hợp tác với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế theo hướng liên kết xã hội chủ nghĩa Đồng thời, cần nỗ lực tối đa để tận dụng sự giúp đỡ quý báu từ Liên Xô và các nước anh em, sử dụng hiệu quả nguồn hỗ trợ này, đồng thời thực hiện nghĩa vụ của mình dựa trên nguyên tắc hợp tác có đi có lại, không được ỷ lại.

Tháng 7 năm 1978, Việt Nam chính thức gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là SEV) vào kỳ họp thứ 32 Hầu như toàn bộ nền kinh tế của nước ta lúc bấy giờ đã thiết lập mối quan hệ kinh tế với khu vực các nước xã hội chủ nghĩa anh em

Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc thu hút đầu tư nước ngoài

Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được hình thành trong bối cảnh lịch sử của quan hệ quốc tế và sự phát triển của cơ chế quản lý kinh tế.

Kể từ khi giành độc lập vào tháng 8 năm 1945, miền Bắc Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các nước XHCN như Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, kinh tế Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào viện trợ và hợp tác từ khối SEV, trong khi việc thu hút đầu tư từ các nước tư bản chủ nghĩa rất hạn chế do cấm vận của Mỹ và ảnh hưởng của chiến tranh lạnh giữa hai phe TBCN và XHCN.

Vào những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam đối mặt với khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cùng với sự cấm vận và chống phá từ các thế lực thù địch Tình hình khó khăn của các nước thuộc khối SEV càng làm trầm trọng thêm tình hình, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Việt Nam, với nền kinh tế còn kém phát triển và chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cuộc chiến tranh, đang gặp khó khăn trong việc tích lũy vốn trong nước Quỹ tiêu dùng và quỹ tích lũy chủ yếu phải phụ thuộc vào vay nợ và viện trợ từ nước ngoài.

Xuất phát từ đường lối Đổi mới của Đảng, Nghị quyết Đại hội VI năm 1986 đã đề ra chủ trương quan trọng nhằm thoát khỏi khủng hoảng và ổn định kinh tế – xã hội Đảng nhấn mạnh cần mở rộng xuất, nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, đồng thời vận dụng nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại.

Hà Nội, 1987, tr.84) Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và xuất khẩu, đã được công bố Cùng với luật đầu tư, cần có các chính sách hỗ trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều hợp tác kinh doanh Đây là những quan điểm mang tính bước ngoặt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, giúp giải quyết khó khăn kinh tế trước mắt và định hướng lâu dài cho đường lối Đổi mới, tạo động lực phát triển cho đất nước.

Vào kỳ họp Quốc hội thứ 2 ngày 29 tháng 12 năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được thông qua, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư duy quản lý và phát triển kinh tế Bộ luật này bao gồm 6 chương và 42 điều khoản, chính thức cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thông qua 3 hình thức khác nhau.

- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng

- Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài

Việc Quốc hội thông qua bộ luật thu hút đầu tư vốn nước ngoài đã nhận được phản hồi tích cực từ cộng đồng quốc tế, khẳng định quan điểm Đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Cuối những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn do khủng hoảng hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự gia tăng nợ nước ngoài Tuy nhiên, với chủ trương "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới," nước ta đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác kinh tế, nhằm thu hút nguồn vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để phát triển đất nước.

Bộ luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã bộc lộ nhiều nhược điểm không đáp ứng nhu cầu phát triển hiện tại Để khắc phục điều này, vào ngày 30 tháng 6 năm 1990, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài, sửa đổi 15 trong số 42 điều khoản, nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi hơn Những thay đổi này cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân hợp tác trực tiếp với nước ngoài và mở rộng các quy định ưu đãi theo hướng bình đẳng hơn.

Trong bối cảnh quốc tế biến động, Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế Tại Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng khẳng định cần nhạy bén trong việc nhận thức và dự báo các diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, đồng thời đề ra chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất Quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần nhấn mạnh vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài như một phần của kinh tế tư bản nhà nước Nghị quyết cũng chỉ rõ cần mở rộng và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, giữ vững độc lập và chủ quyền, đồng thời đảm bảo quan hệ kinh tế phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, khai thác tối đa nguồn lực và lợi thế bên trong.

Vào ngày 23 tháng 12 năm 1992, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật sửa đổi, bổ sung năm 1992 nhằm thể chế hóa đường lối đối ngoại và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn lực từ bên ngoài Luật sửa đổi này cho phép doanh nghiệp tư nhân Việt Nam tham gia đầu tư với nước ngoài, khẳng định chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong hợp tác đầu tư Đồng thời, luật cũng quy định một số hình thức đầu tư mới như BOT và khu chế xuất Điều 25 của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và quyền lợi khác Việc quy định này thể hiện đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, xu thế toàn cầu hóa đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam Việc phát triển quan hệ kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ thúc đẩy công nghiệp hóa mà còn giúp nền kinh tế hội nhập với thế giới Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thông qua vào ngày 12 tháng 11 năm 1996, thể hiện tinh thần "mở cửa" và bao gồm nhiều ưu đãi tài chính cũng như hình thức đầu tư mới Đặc biệt, lần đầu tiên Luật phân cấp thẩm quyền cấp phép đầu tư cho các UBND tỉnh, thành, đánh dấu bước ngoặt trong thu hút đầu tư nước ngoài Sự nhanh chóng trong việc sửa đổi luật cho thấy sự nhạy bén của Đảng và Nhà nước trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế.

Trước tình hình biến động của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đầu tư nước ngoài vào tháng 6 năm 2000 nhằm đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thực tiễn và hoàn thiện quy định thu hút đầu tư nước ngoài Đáng chú ý, chỉ sau một tháng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2000/NĐ-CP vào ngày 1 tháng 7 năm 2000 để hướng dẫn thi hành luật này.

Sau hơn mười lăm năm thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001 nhấn mạnh vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài, khuyến khích phát huy nội lực và tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển bền vững Đảng và Nhà nước đã xác định rằng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, cần được khuyến khích phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và công nghệ cao Hướng chủ đạo trong thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai là tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng hạ tầng và cải thiện môi trường pháp lý Đại hội cũng xác định nhiệm vụ xây dựng "Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài", khẳng định tầm quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Khái quát tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Tp.HCM

2.1.1 Chính sách và môi trường thu hút đầu tư nước ngoài của thành phố

Chính sách thu hút vốn FDI là một kế hoạch hành động toàn diện, bao gồm các nguyên tắc và biện pháp nhằm tối ưu hóa nguồn lực và khai thác lợi thế quốc gia Mục tiêu của chính sách này là tạo ra một vị thế độc đáo và có giá trị, giúp chính phủ chủ động trong việc thu hút vốn FDI hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển cụ thể.

Từ những năm 1990, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố, ngành đầu tư đã chủ động khai thác và phát huy các lợi thế địa phương, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường.

2.1.1.1 Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Thành phố

Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút một số dự án đầu tư từ các nước xã hội chủ nghĩa và các nguồn vốn vay từ Ấn Độ, Nhật Bản Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngoài này vẫn còn hạn chế, dẫn đến tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố không đáng kể Tổng vốn đầu tư nước ngoài mà Thành phố nhận được từ sau ngày giải phóng cho đến khi có Luật đầu tư nước ngoài vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng.

Thành phố Hồ Chí Minh, với bề dày lịch sử phát triển kinh tế từ 1954-1975, đã trở thành nơi tiên phong trong việc thử nghiệm các mô hình phát triển kinh tế mới Trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 12-1986, Đại hội IV của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra các mục tiêu phát triển cho giai đoạn 1986-1990, bao gồm việc tập trung đầu tư, tháo gỡ vướng mắc cho sản xuất, phát triển kinh tế đối ngoại, và cải thiện đời sống người dân thông qua việc tăng cường sản xuất và giải quyết việc làm Những mục tiêu này thể hiện sự phù hợp với chủ trương đổi mới và mở cửa phát triển kinh tế của cả nước.

Sau Đại hội đổi mới của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh đã được Chính phủ cho phép triển khai một số dự án đầu tư nước ngoài mang tính thử nghiệm, như dự án ROUSSEL và RHONE-POULAND Điều này thể hiện vai trò quan trọng và sự năng động của Thành phố trong việc thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước Những dự án thử nghiệm này đã góp phần quan trọng vào việc đưa Thành phố trở thành địa phương đầu tiên có dự án nước ngoài đăng ký hoạt động sau khi Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực.

Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố là tạo nguồn vốn phát triển sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề cho người lao động thông qua thiết bị và kỹ thuật từ các nhà đầu tư nước ngoài Đồng thời, việc này cũng nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lý dự án trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và giải quyết tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng trong khu vực.

Giai đoạn từ 1986 đến 1990 đánh dấu sự phát triển kinh tế đầy biến động của Thành phố, với nhiều chương trình cải cách và văn bản luật được ban hành nhằm hỗ trợ nền kinh tế Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của đổi mới, nền kinh tế Thành phố chưa thể bắt kịp với cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, và kinh nghiệm quản lý kinh tế của cán bộ còn yếu kém Mặc dù có sự quan tâm từ nhiều nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm cả các nhà đầu tư Nhật Bản và ASEAN, số lượng dự án đăng ký hoạt động vẫn còn hạn chế.

Bước sang năm 1991, trước Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VII (10-1991), Đại hội Đảng bộ Đảng Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ

V (1991) đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế trong 5 năm 1991-1996 là:

Thành phố đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, phát triển các ngành kinh tế dựa trên vị trí, tiềm năng và thế mạnh của mình, đồng thời gắn liền với cơ cấu kinh tế đồng bộ của vùng Nam bộ, với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam làm trung tâm Trong đó, Thành phố đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thương mại - dịch vụ, khoa học - kỹ thuật và văn hóa Hiện nay, cơ cấu kinh tế của Thành phố chủ yếu phát triển theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

Trong giai đoạn hiện nay, Thành phố tập trung vào chính sách ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt chú trọng vào sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ.

Năm 1991, Chính phủ cho phép thành lập khu chế xuất đầu tiên tại Thành phố, Tân Thuận, và tiếp theo là khu chế xuất Linh Trung vào năm 1992 Sự ra đời của các khu chế xuất này đã thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng nhanh chóng của khu vực trong giai đoạn 1991-1995.

Tháng 5 năm 1996, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ

Trong giai đoạn 1996-2000, Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định rõ phương hướng phát triển kinh tế với mục tiêu hiện đại hóa công nghiệp và dịch vụ, đồng thời công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn Thành phố tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp mũi nhọn như cơ khí, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới, đồng thời xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung để thu hút đầu tư Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực vào năm 1997 đã ảnh hưởng đến sự phát triển, nhưng các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Thành phố vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong những năm tiếp theo.

Bước vào thế kỷ XXI, Thành phố cùng cả nước tích cực hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu Là trung tâm kinh tế lớn, Thành phố đặt mục tiêu trở thành một đô thị văn minh, hiện đại với 7 triệu dân, trình độ học vấn và văn hóa cao, GDP đầu người đạt 3.000 USD vào năm 2010 Hệ thống giao thông, mạng lưới thông tin và các công trình phúc lợi đô thị cần đạt tiêu chuẩn phát triển như các nước trong khu vực Để đạt được những mục tiêu này, phương hướng phát triển kinh tế cho giai đoạn 2001-2005 đã được xác định trong Đại hội Đảng bộ Thành phố.

Hồ Chí Minh nhiệm kỳ VII, đó là: tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa

GDP bình quân hàng năm đạt trên 11%, trong đó công nghiệp và xây dựng tăng ít nhất 13%, dịch vụ - thương mại tăng ít nhất 9,5%, và nông - lâm - ngư nghiệp tăng khoảng 2% Cơ cấu kinh tế của Thành phố vào năm 2005 bao gồm dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp Thành phố ưu tiên thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao như điện tử - viễn thông và ứng dụng công nghệ sinh học, đồng thời khuyến khích đổi mới công nghệ trong các ngành có lợi thế cạnh tranh lớn, như chế biến lương thực, thực phẩm, hóa chất, cao su, plastic, dệt - da, may, và sản phẩm cơ khí, kim loại Những ngành này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn tạo việc làm cho người lao động Trong lĩnh vực dịch vụ, Thành phố tập trung phát triển tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, và các dịch vụ viễn thông, tin học, công nghệ phần mềm.

Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy những kết quả đối ngoại và kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài, tạo ra môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng so với các địa phương lân cận Cuối năm 2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ VIII đã diễn ra, nhìn lại thành tựu 30 năm giải phóng và 20 năm đổi mới, đồng thời đề ra giải pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ trong giai đoạn 2006-2010 Trong bối cảnh hội nhập mới, Thành phố xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, trong khi phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, từ đó xây dựng các chính sách kinh tế, xã hội phù hợp với điều kiện trong và ngoài nước.

Thành phố Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việc ưu tiên các dự án và khu vực cụ thể trong từng giai đoạn nhằm thúc đẩy nhanh chóng những lĩnh vực quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố.

2.1.1.2 Điểm mạnh của TP.Hồ Chí Minh trong thu hút FDI từ Nhật Bản

Phân tích quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Thành phố Hồ Chí Minh từ 1988 đến 2008

Dựa trên các dấu ấn và cột mốc ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, cùng với xu hướng đầu tư hiện tại giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Nhật Bản, chúng tôi nhằm xây dựng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản Mục tiêu là phát huy tiềm năng và hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế thành phố Bài viết phân tích quá trình hợp tác đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh qua các giai đoạn: 1988-1991, 1992-1996 và từ 1997 đến nay.

2.2.1 Thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1991

Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực, các nhà đầu tư Nhật Bản đã bắt đầu tìm kiếm cơ hội tại Việt Nam, đặc biệt là ở Thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, trong giai đoạn này, các dự án đầu tư vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào việc thăm dò và nghiên cứu thị trường.

Theo Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, trong thời gian này, Nhật Bản đã cấp phép đầu tư cho một số dự án, bao gồm công ty Isuzu Việt Nam (1989) và một công ty liên hợp chuyên sản xuất rượu - thực phẩm, đánh dấu sự tiên phong trong đầu tư tại thành phố Tuy nhiên, các nhà đầu tư Nhật Bản chưa nắm vững thị trường nội địa và chính sách ưu tiên đầu tư, dẫn đến việc họ chọn hình thức liên doanh Trong giai đoạn này, Nhật Bản là nhóm nước vừa nhận đầu tư lớn vừa bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng do tình hình kinh tế Việt Nam và các mối quan hệ đối ngoại, đặc biệt là lệnh cấm vận của Mỹ, mức độ đầu tư vẫn còn thấp.

Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975, mối quan hệ Việt – Nhật có tiềm năng phát triển dựa trên ngoại giao và hợp tác kinh tế Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực đã cản trở sự phát triển này Do đó, trong giai đoạn này, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có số lượng dự án ít ỏi và vốn đầu tư hạn chế.

2.2.2 Thời kỳ từ năm 1992 đến năm 1996 Đây là thời kỳ phát triển của đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại Việt Nam cũng như tại Thành phố Hồ Chí Minh Nguyên nhân là do quan hệ chính trị và ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản trở nên thuận lợi hơn, đặc biệt là sau chuyến thăm Nhật Bản của thủ tướng Võ Văn Kiệt, năm 1992 Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản ngày càng nhiều và thân thiện hơn

Tháng 7-1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức ASEAN, nên quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã chuyển sang một giai đoạn mới Đồng thời, cũng trong thời gian này, Nhật Bản quan tâm đẩy mạnh chương trình hợp tác với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư Đây là điều kiện thuận lợi cho Nhật Bản tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt Nam

Ngoài ra, việc Mỹ dỡ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam (tháng 2-

Năm 1993, quan hệ giữa hai nước đã được thiết lập, mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm cả các nhà đầu tư Nhật Bản, tiếp cận thị trường Việt Nam.

Việt Nam đã xây dựng một cơ sở pháp lý vững chắc cho đầu tư nước ngoài thông qua Luật đầu tư và các hiệp định hợp tác với Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh Với kinh nghiệm trong việc thu hút đầu tư, Việt Nam chủ động hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài Sau các lần sửa đổi Luật đầu tư vào các năm 1990 và 1992, Luật đầu tư nước ngoài tiếp tục được cập nhật vào năm 1996 Cùng năm đó, Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập nhiều khu công nghiệp với hạ tầng hoàn chỉnh, nhằm thu hút thêm đầu tư nước ngoài.

Từ năm 1992 đến 1996, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Thành phố Hồ Chí Minh đã gia tăng nhanh chóng cả về số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư Sự phát triển này đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong hoạt động FDI của Nhật Bản tại khu vực sau năm 1991.

Nhật Bản đã trở thành một đối tác quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh, trong nhiều lĩnh vực, bao gồm đầu tư Tỉ trọng đầu tư của Nhật Bản vào Thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò thiết yếu trong chiến lược và mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố này đến năm 2010.

Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản đang hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Nhật Thành phố Hồ Chí Minh có hàng trăm văn phòng đại diện và công ty hàng đầu của Nhật Bản, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối hàng hóa giữa hai thị trường.

Từ năm 1994, Thành phố Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc trong việc thu hút đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Nhật Bản đã đóng góp lớn cho tăng trưởng các ngành công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng của thành phố, nhờ vào các chính sách hợp tác thương mại và viện trợ ODA hiệu quả.

Trước năm 2000, Thành phố Hồ Chí Minh chưa phát triển đầy đủ cơ sở hạ tầng và các biện pháp hỗ trợ cho đầu tư Nhật Bản, dẫn đến việc các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu tập trung vào ngành công nghệ cao Kết quả là, các dự án đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại thành phố chỉ đứng thứ hai sau Đài Loan, và quy mô đầu tư ngày càng giảm Theo thống kê năm 2001, Nhật Bản có 13 dự án với tổng vốn đầu tư chỉ 9,3 triệu USD tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi tổng số dự án trên toàn quốc là 103 với vốn đầu tư 701,9 triệu USD Điều này cho thấy đầu tư của Nhật Bản tại thành phố vẫn còn khiêm tốn so với các nước khác như Đài Loan và Hồng Kông.

Bảng 2.3: Dự án có vốn đầu tư nước ngoài (phân theo nước đầu tư)

Vốn đầu tư (triệu USD)

Vốn pháp định (triệu USD) Đài Loan 184 1.967,20 856,4

(Nguồn: Niên giám thống kê Thành phố Hồ Chí Minh 2001)

Dựa trên số liệu từ "Danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác trong giai đoạn 2001-2005" theo quyết định số 62, có thể thấy sự quan tâm đáng kể của các nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án tại thành phố này Các dự án này không chỉ tạo ra cơ hội việc làm mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương Sự hợp tác giữa các nhà đầu tư và chính quyền địa phương là yếu tố then chốt trong việc tối ưu hóa nguồn vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên.

17/5/2002 của Thủ tướng Chính phủ)” cho thấy, các lĩnh vực mà Thành phố

Hồ Chí Minh kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp như dầu khí, điện - điện tử, phần mềm và dệt may; nông lâm ngư nghiệp và chế biến thực phẩm; viễn thông; xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa, y tế và giáo dục; cùng với du lịch và dịch vụ.

Ngày đăng: 14/09/2021, 20:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
13. Nguyễn Duy Dũng và Nguyễn Thanh Hiền (chủ biên) (2003), Nhật Bản năm 2003:Cuộc cải cách vẫn tiếp tục, Nxb Thống Kê, Hn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhật Bản năm 2003:Cuộc cải cách vẫn tiếp tục
Tác giả: Nguyễn Duy Dũng, Nguyễn Thanh Hiền
Nhà XB: Nxb Thống Kê
Năm: 2003
15. Vũ Văn Đình (2003), Doanh nghiệp trước ngưỡng cửa hội nhập, Nxb Lao động xã hội. H à nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Doanh nghiệp trước ngưỡng cửa hội nhập
Tác giả: Vũ Văn Đình
Nhà XB: Nxb Lao động xã hội
Năm: 2003
16. Ths. Đặng Văn Được- Ths. Ngô Quỳnh Hoa (2008), Cơ chế cụ thể khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, Nxb Tư Pháp.Hn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế cụ thể khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài
Tác giả: Ths. Đặng Văn Được, Ths. Ngô Quỳnh Hoa
Nhà XB: Nxb Tư Pháp
Năm: 2008
17. Ngyễn Bình Giang (1999), Bất ổn định tài chính ở Nhật Bản: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Viện Kinh tế Thế Giới, Hn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất ổn định tài chính ở Nhật Bản: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
Tác giả: Ngyễn Bình Giang
Nhà XB: Viện Kinh tế Thế Giới
Năm: 1999
18. Vũ Văn Hà(chủ biên) (2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong cơ chế toàn cầu hóa. Nxb KHXH, Hà Nội.230tr Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Nhật Bản trong cơ chế toàn cầu hóa
Tác giả: Vũ Văn Hà
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 2003
19. TS. Nguyễn Minh Hằng (2002), “Các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc: vài gợi ý cho Việt Nam”, Những vấn đề kinh tế Việt Nam- Thử thách của hội nhập, NXB TP HCM- Trung Tâm Kinh Tế Châu Á- Thái Bình Dương (VAPEC)- Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc: vài gợi ý cho Việt Nam
Tác giả: TS. Nguyễn Minh Hằng
Nhà XB: NXB TP HCM- Trung Tâm Kinh Tế Châu Á- Thái Bình Dương (VAPEC)- Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Năm: 2002
20. Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng (chủ biên)(2003), Điều chỉnh chính sách kinh tế của Nhật Bản, Nxb CTQG, Hn. 236tr Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều chỉnh chính sách kinh tế của Nhật Bản
Tác giả: Dương Phú Hiệp, Nguyễn Duy Dũng
Nhà XB: Nxb CTQG
Năm: 2003
21. Dương Phú Hiệp, Phạm Hồng Thái (chủ biên), 2004, Nhật Bản trên đường cải cách, Nxb KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhật Bản trên đường cải cách
Tác giả: Dương Phú Hiệp, Phạm Hồng Thái
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 2004
22. Dương Phú Hiệp chủ biên (2001), Triển vọng kinh tế Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triển vọng kinh tế Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI
Tác giả: Dương Phú Hiệp
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 2001
23. Dương Phú Hiệp, Ngô Xuân Bình chủ biên (1999), 25 năm quan hệ Việt Nam-Nhật Bản 1973-1998, Nxb KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 25 năm quan hệ Việt Nam-Nhật Bản 1973-1998
Tác giả: Dương Phú Hiệp, Ngô Xuân Bình
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 1999
24. TS. Vũ Văn Hà (2000) Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng”, Nxb Khoa học xã hội. Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng
Tác giả: TS. Vũ Văn Hà
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2000
26. Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh, Đoàn Thanh Hương (2004), Tổng quan về ASEAN và tiềm năng Tp.Hồ Chí Minh trong tiến trình hội nhập. Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng quan về ASEAN và tiềm năng Tp.Hồ Chí Minh trong tiến trình hội nhập
Tác giả: Nguyễn Quốc Lộc, Nguyễn Công Khanh, Đoàn Thanh Hương
Nhà XB: Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM
Năm: 2004
30. Võ Đại Lược; Trần Văn Thọ (1991), Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế trong khu vực và kinh tế Việt Nam, Viện KTTG, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế trong khu vực và kinh tế Việt Nam
Tác giả: Võ Đại Lược, Trần Văn Thọ
Nhà XB: Viện KTTG
Năm: 1991
31. PGS. TS. Trần Quang Lâm- TS. An Như Hải (2006), Kinh Tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh Tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: PGS. TS. Trần Quang Lâm, TS. An Như Hải
Nhà XB: NXB Chính Trị Quốc Gia
Năm: 2006
32. Trịnh Thanh Huyền (1999), Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản: Nguyên nhân, giải pháp và các vấn đề nảy sinh, Viện nghiên cứu tài chánh, Bộ tài chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản: Nguyên nhân, giải pháp và các vấn đề nảy sinh
Tác giả: Trịnh Thanh Huyền
Nhà XB: Viện nghiên cứu tài chánh
Năm: 1999
33. Nguyễn Thúy Hương(2008), Dự báo khả năng thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài, năm 2008, Cục đầu tư nước ngoài, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự báo khả năng thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài, năm 2008
Tác giả: Nguyễn Thúy Hương
Nhà XB: Cục đầu tư nước ngoài
Năm: 2008
35. Trần Nhu -chủ biên(1998), Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu, Tập1, Nxb Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu
Tác giả: Trần Nhu
Nhà XB: Nxb Tp.HCM
Năm: 1998
36. Trần Nhu -chủ biên(2000), Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu, Tập2, Nxb Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu
Tác giả: Trần Nhu
Nhà XB: Nxb Tp.HCM
Năm: 2000
37. Trần Nhu -chủ biên(2002), Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu, Tập3, Nxb Tp.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành phố Hồ Chí minh tự giới thiệu
Tác giả: Trần Nhu
Nhà XB: Nxb Tp.HCM
Năm: 2002
39. Trần Thị Nhung (2002), Tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Nxb KHXH, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay
Tác giả: Trần Thị Nhung
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 2002

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình thức đầu tư GI có vai trò quan trọng trong quâ trình tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hănh CNH-HĐH đất nước - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Hình th ức đầu tư GI có vai trò quan trọng trong quâ trình tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hănh CNH-HĐH đất nước (Trang 41)
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp của nước ngoăi được cấp phĩp từn ăm 1988- 2006 của 10 đối tâc - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.2 Đầu tư trực tiếp của nước ngoăi được cấp phĩp từn ăm 1988- 2006 của 10 đối tâc (Trang 41)
Bảng 2.3: Dự ân có vốn đầu tư nước ngoăi (phđn theo nước đầu tư) - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.3 Dự ân có vốn đầu tư nước ngoăi (phđn theo nước đầu tư) (Trang 45)
Bảng 2.4: FDI của Nhật phđn theo ngănh, 1988-2005 (chỉ tính câc dự - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.4 FDI của Nhật phđn theo ngănh, 1988-2005 (chỉ tính câc dự (Trang 55)
Qua số liệu bảng trín cho thấy Thănh phố Hồ Chí Minh luôn lă địa phương dẫn đầu về số dự ân đầu tư: tính đến năm 2005, có 199 dự ân, với  vốn phâp định lă 440.178.000 USD [7: tr.164], tổng số vồn đầu tư trín 1 tỷ  USD, chiếm khoảng 22% tổng vốn FDI của Nh - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
ua số liệu bảng trín cho thấy Thănh phố Hồ Chí Minh luôn lă địa phương dẫn đầu về số dự ân đầu tư: tính đến năm 2005, có 199 dự ân, với vốn phâp định lă 440.178.000 USD [7: tr.164], tổng số vồn đầu tư trín 1 tỷ USD, chiếm khoảng 22% tổng vốn FDI của Nh (Trang 58)
Gần đđy, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoăi lại đang được câc nhă đầu tư Nhật Bản ngăy căng quan tđm - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
n đđy, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoăi lại đang được câc nhă đầu tư Nhật Bản ngăy căng quan tđm (Trang 59)
Bảng 2.7: Cơ cấu FDI của Nhật Bản văo TP.HCM theo ngănh, 2004-2005 - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.7 Cơ cấu FDI của Nhật Bản văo TP.HCM theo ngănh, 2004-2005 (Trang 66)
Qua bảng số liệu 2.6, chúng ta có thể thấy, năm 2004-2005 lă giai đoạn bùng nổ của câc dự ân đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoăi - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
ua bảng số liệu 2.6, chúng ta có thể thấy, năm 2004-2005 lă giai đoạn bùng nổ của câc dự ân đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoăi (Trang 69)
Biểu 2.2 Tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản văo Thănh phố Hồ - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
i ểu 2.2 Tình hình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản văo Thănh phố Hồ (Trang 75)
Bảng 2.10: Đầu tư của Nhật Bản văo Thănh phố Hồ Chí Minh từ ngăy - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.10 Đầu tư của Nhật Bản văo Thănh phố Hồ Chí Minh từ ngăy (Trang 76)
Nguồn: Tổng hợp bâo câo tình hình đầu tư của câc doanh nghiệp Nhật Bản từ năm 1988 - 31/07/2006 - Sở Kế hoạch Đầu tư TP.HCM, năm 2006 - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
gu ồn: Tổng hợp bâo câo tình hình đầu tư của câc doanh nghiệp Nhật Bản từ năm 1988 - 31/07/2006 - Sở Kế hoạch Đầu tư TP.HCM, năm 2006 (Trang 76)
Bảng 2.11 Đóng góp của khu vực FDI văo tăng trưởng của Thănh phố - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 2.11 Đóng góp của khu vực FDI văo tăng trưởng của Thănh phố (Trang 83)
Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI lă tích cực. Nhiều doanh nghiệp FDI Nhật Bản trín địa băn Thănh phố  Hồ Chí Minh đê triển khai thực hiện dự ân ngay sau khi được cấp giấy  chứng nhận đầu tư - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
h ìn chung, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI lă tích cực. Nhiều doanh nghiệp FDI Nhật Bản trín địa băn Thănh phố Hồ Chí Minh đê triển khai thực hiện dự ân ngay sau khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư (Trang 84)
Bảng 1.10 So sânh cơ sở hạ tầng của câc nước trong ASEAN - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
Bảng 1.10 So sânh cơ sở hạ tầng của câc nước trong ASEAN (Trang 110)
Số liệu trong bảng trín được tính toân trín cơ sở phđn tích câc yếu tố của môi trường đầu tư về cơ sở hạ tầng, câc điều kiện luật phâp, chính  sâch với thang điểm từ 1 – 5 - Quá trình đầu tư trực tiếp của nhật bản ở thành phố hồ chí minh từ năm 1988 đến năm 2008
li ệu trong bảng trín được tính toân trín cơ sở phđn tích câc yếu tố của môi trường đầu tư về cơ sở hạ tầng, câc điều kiện luật phâp, chính sâch với thang điểm từ 1 – 5 (Trang 111)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN