PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1: Lý do chọn đề tài – Mục tiêu – Nhiệm vụ – Giới hạn – Lịch sử nghiên cứu của đề tài 1.1 Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của đề tài
Đề tài hướng nhằm hướng tới một số mục tiêu sau:
- Đánh giá tình hình quản lý, hiện trạng sử dụng đất, những tồn tại, nguyên nhân và giải pháp thực hiện
Điều chỉnh chỉ tiêu sử dụng đất là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành nghề, phục vụ mục đích dân sinh và thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo an ninh quốc phòng cho tỉnh.
- Làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất của các ngành, các cấp hành chính trong tỉnh
Để phát triển và sử dụng đất bền vững, cần đảm bảo sử dụng tài nguyên đất một cách đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả Đồng thời, việc cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái cũng rất quan trọng trong quá trình này.
Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, đồng thời gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu lao động và đầu tư Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Sử dụng đất đúng mục đích và hiệu quả là rất quan trọng để bảo vệ môi trường và cải tạo đất, từ đó tăng độ phì nhiêu Việc phát triển kết cấu hạ tầng không chỉ làm tăng giá trị đất mà còn góp phần vào đa dạng sinh học và tạo ra hệ sinh thái bền vững.
Để đảm bảo an ninh lương thực, cần phát triển đất lúa nước hợp lý và duy trì độ che phủ rừng đạt 50% vào năm 2010 Đặc biệt, việc bảo vệ nghiêm ngặt diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đầu nguồn là rất quan trọng để bảo vệ môi trường.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp hàng hóa, cần tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp Việc này phải phù hợp với cơ chế thị trường và quy hoạch vùng nguyên liệu cho ngành công nghiệp.
Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn, cần tạo điều kiện cho nông dân sử dụng đất theo quy hoạch, từ đó phát triển quy mô sản xuất hợp lý.
Để phát triển bền vững, cần sử dụng đất hợp lý nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời chỉnh trang các khu dân cư hiện có Việc xây dựng khu dân cư mới hiện đại và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng đất.
Bố trí quỹ đất cho mục đích quốc phòng và an ninh là một nhiệm vụ quan trọng, cần kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với các yêu cầu quốc phòng theo quy hoạch của nhà nước Đồng thời, cần giải quyết cơ bản và đầy đủ đất đai cho các chương trình 132/TTg và 134/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đắk Lắk là tỉnh được tách ra từ tỉnh Đắk Lắk cũ vào ngày 1 tháng 4 năm 2004, cùng với tỉnh Đắk Nông Việc đánh giá phân hạng đất tại đây vẫn chưa được thực hiện, và tài nguyên đất chủ yếu được đánh giá dựa trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 do Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp xây dựng trước khi tách tỉnh Mặc dù tỉnh đã phát triển quy hoạch sử dụng đất từ năm 2004, nhưng do vẫn dựa vào kết quả đánh giá cũ, một số điểm trong quy hoạch chưa thực sự hợp lý.
“Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 – 2010 tỉnh Đắk Lắk”.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bài viết tập trung vào việc nghiên cứu định hướng sử dụng đất tại tỉnh Đắk Lắk, nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 5 năm đến năm 2010 Nghiên cứu sẽ dựa trên việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất và khả năng thích nghi của đất đai trong khu vực này.
Các số liệu thống kê được lấy từ năm 2000 đến 2005.
Nội dung của đề tài
Định hướng sử dụng đất gồm 4 nội dung chính sau:
• Khái quát về môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk có liên quan đến sự hình thành và phát triển đất
• Tìm hiểu đặc điểm và hiện trạng sử dụng đất của tỉnh
• Đánh giá khả tiềm năng đất đai của tỉnh
• Định hướng và đề xuất hướng sử dụng nguồn tài nguyên đất một cách hợp lý và bền vững.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 2.1 Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu – tài liệu
Thu thập các số liệu, tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội từ các cơ quan ban ngành
Trên cơ sở các tài liệu đã thu thập, tiến hành xử lý các số liệu theo nội dung đề tài
2.1.2 Phương pháp biểu đồ - bản đồ:
Bản đồ đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu Địa Lý, giúp thể hiện rõ ràng các đặc điểm của hiện tượng địa lý mà không cần nhiều lời giải thích Ngoài ra, việc sử dụng biểu đồ cũng giúp cụ thể hóa và làm rõ hơn những nội dung cần truyền đạt.
2.1.3 Phương pháp phân tích – tổng hợp:
Dựa trên các đặc điểm và số liệu về đất đai cũng như tình trạng sử dụng đất hiện nay, cần tiến hành phân tích, giải thích và chứng minh để làm rõ những vấn đề tồn tại Sau đó, áp dụng phương pháp tổng hợp nhằm rút ra những kết luận cần thiết, phục vụ cho mục đích của đề tài.
2.1.4 Phương pháp đánh giá đất đai của FAO (1976):
Phương pháp đánh giá đất đai do FAO đề xuất vào năm 1976 cung cấp những quan điểm và nguyên tắc cơ bản cho việc đánh giá tài nguyên đất Trong nghiên cứu này, phương pháp này được áp dụng để đánh giá khả năng thích nghi của đất đối với các loại hình sử dụng khác nhau.
Phương pháp này nhằm đánh giá nhu cầu sử dụng đất và khả năng đáp ứng của tỉnh trong tương lai, từ đó đề xuất các hướng sử dụng đất phù hợp.
2.2 TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
- Từ 2/2007 đến 3/2007: Hình thành ý tưởng, xây dựng đề cương luận văn
- Từ 3/2007 đến 3/2008: Sưu tầm tài liệu
- Từ 3/2007 đến 5/2008: Viết bài, chỉnh sửa luận văn
- Từ 5/2008 đến 6/2008: Hoàn chỉnh luận văn
- Từ 6/2008 đến 7/2008: In ấn và nộp luận văn.
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Dựa trên các đặc điểm và số liệu về đất đai cũng như tình trạng sử dụng đất, cần tiến hành phân tích và giải thích để nhận diện rõ ràng những vấn đề tồn tại Sau đó, áp dụng phương pháp tổng hợp sẽ giúp rút ra những kết luận cần thiết nhằm đạt được mục tiêu của đề tài.
2.1.4 Phương pháp đánh giá đất đai của FAO (1976):
Phương pháp đánh giá đất đai do FAO đề xuất năm 1976 cung cấp những quan điểm cơ bản và nguyên tắc thực hiện đánh giá tài nguyên đất Trong nghiên cứu này, phương pháp này được áp dụng để đánh giá khả năng thích nghi của đất đối với các hình thức sử dụng khác nhau.
Phương pháp này giúp đánh giá nhu cầu sử dụng đất và khả năng đáp ứng của tỉnh trong tương lai, từ đó đề xuất các hướng sử dụng đất hợp lý.
2.2 TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
- Từ 2/2007 đến 3/2007: Hình thành ý tưởng, xây dựng đề cương luận văn
- Từ 3/2007 đến 3/2008: Sưu tầm tài liệu
- Từ 3/2007 đến 5/2008: Viết bài, chỉnh sửa luận văn
- Từ 5/2008 đến 6/2008: Hoàn chỉnh luận văn
- Từ 6/2008 đến 7/2008: In ấn và nộp luận văn.
Phương pháp dự báo
Phương pháp này nhằm đánh giá nhu cầu sử dụng đất và khả năng đáp ứng của tỉnh trong tương lai, từ đó đề xuất các hướng sử dụng đất hợp lý.
Tiến độ thực hiện đề tài
- Từ 2/2007 đến 3/2007: Hình thành ý tưởng, xây dựng đề cương luận văn
- Từ 3/2007 đến 3/2008: Sưu tầm tài liệu
- Từ 3/2007 đến 5/2008: Viết bài, chỉnh sửa luận văn
- Từ 5/2008 đến 6/2008: Hoàn chỉnh luận văn
- Từ 6/2008 đến 7/2008: In ấn và nộp luận văn.
Cơ sở lý luận 3.1 Khái niệm về đất
Khái niệm đơn vị đất đai
Theo FAO (1976), đơn vị bản đồ đất đai được định nghĩa là một vùng đất có sự đồng nhất tương đối về các yếu tố tự nhiên và có sự phân biệt với các vùng lân cận Mỗi đơn vị đất đai mang chất lượng riêng, phù hợp với các loại hình sử dụng đất nhất định, và là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá và quy hoạch sử dụng đất (Atega, 1992).
Quan điểm và nguyên tắc phân loại đất theo FAO/UNESCO
Việc phân loại đất cần dựa vào các đặc điểm tự nhiên của nó, vì những đặc điểm này là kết quả của các yếu tố và quá trình hình thành đất Các biểu hiện hình thái và lý hóa học của đất chứa đựng thông tin về sự hình thành của chúng Do đó, các yếu tố và quá trình hình thành đất không nên được sử dụng làm tiêu chuẩn phân loại, mà chỉ các đặc điểm hình thái cụ thể và một số chỉ tiêu lý hóa học mới có giá trị phân biệt.
3.3.2 Nguyên tắc và phương pháp phân loại:
Phân loại đất diễn ra theo thứ tự từ cấp phân vị cao nhất đến thấp nhất Tại mỗi cấp, các loại đất được sắp xếp theo nguyên tắc ưu tiên, đảm bảo rằng mỗi loại đất chỉ được xếp vào một vị trí duy nhất trong từng cấp phân vị.
Việc xác định tên đất dựa vào sự xuất hiện các tiêu chuẩn đoán trong khoảng 0 – 125 cm của cột đất Nếu một phẫu diện đất có nhiều tầng chuẩn đoán, tầng B phía trên sẽ được sử dụng để phân loại, trừ tầng B cambic Ở cấp phân vị thứ nhất, tên đất dựa trên các đặc trưng từ quá trình thổ nhưỡng cơ bản, trong khi ở cấp phân vị thứ hai, tên đất dựa vào các đặc điểm do quá trình hình thành đất thứ cấp Những đặc điểm đất có ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng đất cũng được xem xét Tên đất ở các cấp thấp không được trùng lặp hay mâu thuẫn với tên đất ở các cấp cao hơn.
Khái niệm hệ thống sử dụng đất trong nông nghiệp
Hệ thống là một tổng thể có trật tự, bao gồm các yếu tố khác nhau có mối quan hệ và tác động lẫn nhau Nó có thể được xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc thuộc tính liên kết thông qua nhiều mối tương tác.
Hệ thống sử dụng đất là hình thức quản lý và khai thác đất đai trong một điều kiện tự nhiên nhất định, có thể được xem như một đơn vị đất đai Nó bao gồm các yếu tố như đầu tư, cải tạo đất và tiềm năng thu nhập từ việc sử dụng đất hiệu quả.
Quan niệm về đánh giá đất và hiện trạng sử dụng đất
Đánh giá đất là quá trình xác định khả năng thích nghi của đất đai cho các mục đích sử dụng như nông nghiệp, lâm nghiệp, thiết kế thủy lợi và quy hoạch sử dụng đất Mục tiêu của việc đánh giá này là cung cấp thông tin về những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng đất, từ đó làm cơ sở cho các quyết định liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả.
Hiện trạng sử dụng đất phản ánh hoạt động của con người đối với tài nguyên đất đai, là kết quả của quá trình sử dụng và chọn lọc kéo dài qua hàng thế kỷ Các hình thức sử dụng đất hiện tại đã được chấp nhận vì phù hợp với đặc trưng tự nhiên và có hiệu quả xã hội Do đó, việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất là cần thiết để xác định ưu nhược điểm trong quá trình sử dụng, từ đó làm cơ sở khoa học cho quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất trong tương lai.
Phương pháp đánh giá khả năng sử dụng đất
Để đánh giá khả năng sử dụng đất thì thông thường chúng ta đánh giá ở 2 khía cạnh:
- Đánh giá khả năng thích nghi của đất
Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất bao gồm hai khía cạnh chính Thứ nhất, chúng ta xem xét khả năng thích nghi của đất đai thông qua việc so sánh các đặc tính cơ bản của từng đơn vị đất với yêu cầu sinh thái của các loại hình sử dụng đất, từ đó xác định mức độ phù hợp Thứ hai, đánh giá hiệu quả kinh tế dựa trên bốn tiêu chí: năng suất trung bình, tổng thu, tổng chi và thu nhập thuần trên một đơn vị diện tích Kết quả đánh giá sẽ phản ánh các cấp độ hiệu quả kinh tế từ rất thấp đến rất cao, tạo cơ sở cho việc xây dựng bản đồ phân cấp hiệu quả kinh tế cho từng loại hình sử dụng đất.
Dựa trên việc đánh giá khả năng sử dụng đất, chúng ta có thể đề xuất hướng sử dụng đất hợp lý, nhằm bảo vệ môi trường đất và tự nhiên, đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Quy hoạch sử dụng đất
Việc đánh giá tiềm năng đất và nước một cách có hệ thống là rất quan trọng, nhằm đưa ra các phương án sử dụng đất hiệu quả Điều này bao gồm việc xác định các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết để lựa chọn phương án sử dụng đất tối ưu nhất.
Mục đích lập quy hoạch sử dụng đất:
Kiểm kê và đánh giá thực trạng cũng như tiềm năng đất đai tại các cấp tỉnh, huyện và xã là cần thiết để xây dựng kế hoạch và phương án đầu tư, sử dụng đất một cách hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Quy hoạch sử dụng đất là cơ sở quan trọng giúp Ủy ban nhân dân tỉnh và huyện thực hiện quyền giao đất, thu hồi đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất Qua đó, công tác quy hoạch hỗ trợ các huyện quản lý quỹ đất một cách khoa học và hiệu quả.
Quy hoạch sử dụng đất là tài liệu kết hợp giữa khoa học và pháp lý, bao gồm các biện pháp kỹ thuật, kinh tế và xã hội Nó được xây dựng thông qua phương pháp phân tích tổng hợp để tạo ra các phương án, sau đó thực hiện lựa chọn và so sánh nhằm tuân thủ các quy định của Nhà Nước.
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống giải pháp thiết yếu cho phát triển kinh tế xã hội địa phương, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng đất hiện tại và tương lai của các ngành trong huyện Đồng thời, quy hoạch cũng đảm bảo nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng một cách tiết kiệm, khoa học và hiệu quả.
PHAÀN 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chương 4: Khái quát môi trường tự nhiên và kinh tế – xã hội tỉnh Đắk Lắk 4.1 Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và cảnh quan môi trường
Vũ trớ ủũa lyự
Tỉnh Đắk Lắk có diện tích 13.125,37 km 2 , nằm trên địa bàn Tây Nguyên, trong khoảng toạ độ địa lý từ 107 o 28’57” - 108 o 59’37” độ kinh Đông và từ
- Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai
- Phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng
- Phía Đông giáp tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa
Phía Tây Đắk Lắk giáp Campuchia và tỉnh Đăk Nông, với đường biên giới dài 70 km, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng biên và bảo vệ an ninh quốc phòng nhờ có quốc lộ 14C chạy dọc theo biên giới Thành phố Buôn Ma Thuột, trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh, cũng là điểm giao cắt quan trọng giữa quốc lộ 14, 26 và 27, kết nối các khu vực trong Tây Nguyên.
Đắk Lắk, với vị trí chiến lược gần các thành phố Nha Trang, Đà Lạt và Pleiku, sẽ trở thành đầu mối giao lưu quan trọng trong tương lai Khi đường Hồ Chí Minh được xây dựng và hệ thống hàng không được nâng cấp, Đắk Lắk sẽ kết nối hiệu quả các trung tâm kinh tế lớn như Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
Minh Đây là động lực lớn, thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh cũng như toàn vùng Taây Nguyeân
Hình 4.1: Bản đồ hành chính tỉnh Đắk Lắk
Đặc điểm môi trường tự nhiên
Giữa đá mẹ – mẫu chất và lớp phủ thổ nhưỡng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, điều đó thể hiện rất rõ qua bảng 4.1
Lớp phủ thổ nhưỡng trên đá bazơ, các đất được hình thành có tầng dày, tơi xốp, độ phì cao
Lớp phủ thổ nhưỡng trên đá axít biến chất, đá cát và phù sa cổ tạo ra đất có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, thường có độ phì kém hơn.
Thành phần cơ giới của các loại đất phụ thuộc vào nguồn gốc hình thành: đất trên đá macma axít có cát pha thịt nhẹ, đất trên đá biến chất và phiến sét chủ yếu là sét, trong khi đất hình thành từ phù sa cổ hoặc phù sa mới có sự kết hợp giữa cát, thịt nhẹ và sét Đặc biệt, đất trên đá bazan nổi bật với tính chất vật lý tơi xốp, thoát nước nhanh và khả năng ngậm nước, giữ nước hiệu quả.
Đất hình thành từ đá bazan trên cao nguyên Buôn Ma Thuột có độ phì cao, với pH/H2O từ trung tính đến ít chua và hàm lượng đạm, lân tổng số khá Sự đồng nhất giữa độ phì nhiêu tự nhiên và thực tế của các nhóm đất tại đây rất cao Cao nguyên này có độ cao dao động từ gần 800m ở phía Bắc, 400m ở phía Nam, và chỉ còn 300m về phía Tây, với bề mặt chủ yếu bằng phẳng, chỉ xuất hiện một vài đồi núi.
Tỉnh có nhiều loại đá mẹ, bao gồm đá mắcma trung tính và bazơ, đá biến chất, và trầm tích phù sa, tất cả đều tạo ra sản phẩm phong hóa chất lượng cao với tầng đất dày, mang lại nguồn tài nguyên quý giá Tuy nhiên, bên cạnh các loại đá mẹ tốt, đất đai của tỉnh cũng được hình thành từ một số loại đá mẹ khác như mắcma axit, đá cát, và phù sa cổ, mà đặc tính của chúng không thể so sánh được với các loại đất chất lượng cao hơn.
Bảng 4.1 trình bày mối quan hệ giữa đá mẹ, mẫu chất và các loại đất phát sinh Đá mắcma trung tính và bazơ tạo ra các loại đất như đất nâu tím, đất nâu đỏ, đất nâu vàng và đất đen Trong khi đó, đá mắcma axít như granit và riolite dẫn đến sự hình thành đất mùn vàng đỏ trên núi, cũng như đất vàng đỏ, vàng nhạt, đất xám và đất xám bạc màu Cuối cùng, đá biến chất như phiến mica và đá phiến thạch sét cũng góp phần vào sự đa dạng của các loại đất.
Đất đỏ vàng, đất xói mòn trơ sỏi đá và đá cát (sa thạch) là những loại đất phổ biến Đất vàng nhạt và đất xám cũng đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái Mẫu chất phù sa cổ bao gồm đất nâu vàng và đất xám, trong khi mẫu chất phù sa chủ yếu là đất phù sa ít chua, giàu mùn và glây có đặc tính phù sa Ngoài ra, các khu vực núi đá, ao, hồ, sông và suối đều có sự hiện diện của núi đá không có rừng cây, tạo nên cảnh quan đa dạng.
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường Đắk Lắk
4.1.2.2 ẹũa hỡnh: Đại bộ phận diện tích của tỉnh nằm ở phía Tây Trường Sơn, có hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc Địa hình đa dạng đồi núi xen kẽ bình nguyên và thung lũng, khái quát có thể chia thành các dạng địa hình chính sau: ẹũa hỡnh vuứng nuựi:
Vùng núi cao Chư Yang Sin nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đắk Lắk, có diện tích gần bằng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh Khu vực này tạo thành ranh giới giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột và cao nguyên Lâm Viên (Lâm Đồng), nổi bật với nhiều dãy núi cao trên 1500m, trong đó đỉnh Chư Yang Sin cao nhất đạt 2445m với địa hình hiểm trở, đỉnh nhọn và dốc đứng Đây là vùng sinh thủy lớn nhất, là nguồn gốc của các con sông lớn như Krông Ana và Krông Knô, đồng thời sở hữu thảm thực vật rừng thường xanh quanh năm.
Vùng núi thấp và trung bình Chư Dơ Jiu nằm ở phía Tây Bắc tỉnh, với độ cao trung bình từ 600 đến 700m, đỉnh Chư Dơ Jiu đạt 1103m Địa hình nơi đây chủ yếu bị bào mòn và xâm thực, với thực vật đặc trưng gồm cây tái sinh, rừng thưa và đất canh tác nông nghiệp Cao nguyên của tỉnh chiếm phần lớn diện tích tự nhiên, có địa hình bằng phẳng, trong đó Quốc Lộ 14 đóng vai trò là đỉnh phân thủy, cao ở giữa và thấp dần về hai phía, từ Đông Bắc xuống Tây Nam Tỉnh có hai cao nguyên lớn, tạo nên cảnh quan đa dạng và phong phú.
Cao nguyên Buôn Ma Thuột là một vùng cao nguyên rộng lớn trải dài 90 km từ Bắc xuống Nam và 70 km từ Đông sang Tây, với độ cao phía Bắc gần 800m và phía Nam 400m, dần thoải xuống còn 300m về phía Tây Khu vực này có địa hình tương đối bằng phẳng, với độ dốc trung bình từ 3 đến 8 độ Đặc biệt, phần lớn diện tích của cao nguyên được bao phủ bởi đất đỏ Bazan màu mỡ, chủ yếu đã được khai thác và sử dụng.
Cao nguyên M’Drăk, nằm ở phía Đông tỉnh, tiếp giáp với tỉnh Khánh Hòa, có độ cao trung bình từ 400 đến 500m, với địa hình gồ ghề và các dãy núi cao ở phía Đông và Nam Khu vực trung tâm là lòng chảo cao, với đất granit chiếm ưu thế và thảm thực vật rừng thường xanh ở núi cao cùng trảng cỏ ở núi thấp Bán bình nguyên Ea Súp ở phía Tây tỉnh có địa hình bằng phẳng, độ cao trung bình 180m, với đất xám và rừng khộp rụng lá vào mùa khô Vùng bằng trũng Krông Pắc – Lăk nằm ở Đông Nam tỉnh, giữa cao nguyên Buôn Ma Thuột và dãy núi Chư Yang Sin, có độ cao trung bình từ 400 đến 500m, là thung lũng của lưu vực sông Srêpôk, nơi hình thành các vùng bằng trũng chạy theo các con sông Krông Pắc và Krông Ana, với cánh đồng Lăk – Krông Ana rộng khoảng 20.000 ha, thường xuyên bị lũ lụt vào tháng 9 và tháng 10 hàng năm.
Địa hình tỉnh Đắk Lắk chủ yếu gồm các bề mặt bằng phẳng trong bối cảnh của vùng đồi núi và cao nguyên, với độ dốc không lớn như những khu vực núi khác ở Việt Nam Điều này dẫn đến các quá trình xói mòn và rửa trôi diễn ra với cường độ yếu hơn Tuy nhiên, địa hình ở đây vẫn khá phức tạp và bị chia cắt mạnh, khiến cho các hiện tượng xói mòn và rửa trôi thường xuyên xảy ra, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tính chất của đất.
Tỉnh Đắk Lắk có khí hậu đặc trưng do vị trí địa lý và địa hình, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa và khí hậu cao nguyên mát dịu Khí hậu chủ yếu bị chi phối bởi khu vực Tây Trường Sơn, với nhiệt độ trung bình không cao, mùa hè có mưa nhiều và ít nắng do gió mùa Tây Nam, trong khi mùa đông mưa ít hơn Các huyện M’Drăk, Ea Kar, Krông Năng ở phía Đông và Đông Bắc có khí hậu trung gian, chịu tác động từ cả khí hậu Tây và Đông Trường Sơn.
Thời tiết tại khu vực này được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với gió Tây Nam, trong đó tháng 7, 8 và 9 là thời gian có lượng mưa lớn nhất, chiếm 80-90% tổng lượng mưa năm Đặc biệt, vùng phía Đông do ảnh hưởng của Đông Trường Sơn có mùa mưa kéo dài đến tháng 11 Ngược lại, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, không khí trở nên khô hạn với độ ẩm giảm và gió Đông Bắc thổi mạnh, gây ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.
Các đặc trưng khí hậu:
Nhiệt độ : đặc điểm nổi bật của chế độ nhiệt ở Tây Nguyên là hạ thấp theo độ cao tăng lên Nhiệt độ trung bình ở độ cao 500 – 800m dao động từ 22 –
Nhiệt độ trung bình ở các vùng có độ cao thấp như Buôn Ma Thuột là 23,7°C và M’Drăk là 24°C Tổng nhiệt độ năm giảm dần theo độ cao; ở độ cao dưới 800m, tổng nhiệt độ đạt từ 8000 đến 9500°C, trong khi ở độ cao trên 800m, tổng nhiệt độ chỉ còn từ 7500 đến 8000°C Biên độ nhiệt trong ngày có thể lớn, có ngày lên tới 20°C, nhưng biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm không quá lớn Tháng Giêng ghi nhận nhiệt độ trung bình thấp nhất, với Buôn Ma Thuột là 18,4°C và M’Drăk là 20°C, trong khi tháng Tư là tháng có nhiệt độ cao nhất, với Buôn Ma Thuột đạt 26,2°C và Buôn Hòa 27,2°C.
Chế độ mưa : lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1600 –
Các nguồn tài nguyên
Theo kết quả điều tra đất của Viện QH & TKNN năm 1980 và chuyển đổi sang hệ thống phân loại đất quốc tế FAO - UNESCO năm 1995, cùng với kết quả phân loại lại theo phương pháp World Reference Base (WRB) vào năm 1999, Đắk Lắk đã được chia thành 11 nhóm và 84 đơn vị đất ủai.
- Nhóm đất phù sa (Fluvisols): ký hiệu - P
- Nhóm đất Gley (Gleysols): ký hiệu - GL
- Nhóm đất đen (Luvisols): ký hiệu R
- Nhóm đất xám (Acrisols): ký hiệu - X
- Nhóm đất đỏ (Ferralsols): ký hiệu - Fđ
- Nhóm đất nâu (Lixisols): ký hiệu XK
- Nhóm đất nâu thẩm (Phaeozems: ký hiệu PH
- Nhóm đất có tầng sét chặt, cơ giới phân dị (Planols): ký hiệu PL
- Nhóm đất mới biến đổi (Cambisols): ký hiệu CM
- Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols): ký hiệu E
- Nhóm đất nứt nẻ (Vertisols): ký hiệu VR
Đắk Lắk sở hữu nguồn tài nguyên đất đa dạng, bao gồm nhiều nhóm đất đặc trưng của Việt Nam, trong đó đất Bazan nổi bật với khả năng phát triển cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là cà phê Robusta với năng suất cao và chất lượng tốt Ngoài ra, các loại đất khác cũng thích hợp cho nhiều loại cây trồng như cây ăn quả, mía, bông vải, đậu, ngô và lúa nước, mang lại năng suất cao Tiềm năng đất đai của Đắk Lắk cho phép phát triển nông nghiệp toàn diện, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời có kết cấu tốt cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở cả đô thị và nông thôn.
Tỉnh Đắk Lắk hàng năm nhận tổng lượng nước mặt lên tới 15,23 tỷ m³ từ các lưu vực chính như Srêpok, Ea H’Leo và sông Ba Mặc dù tài nguyên nước mặt phong phú, nhưng sự phân bố không đồng đều dẫn đến mùa mưa kéo dài gây ngập úng và mùa khô hạn hán nghiêm trọng Do đó, công tác thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm thủy điện, sản xuất và đời sống Hiện tại, tỉnh có 441 hồ chứa và 63 đập dâng.
Nước ngầm ở Đắk Lắk có vai trò quan trọng do được cung cấp chủ yếu từ nước mưa và khả năng giữ nước của các thành tạo địa chất Tuy nhiên, tài nguyên nước trong vùng đang bị mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt vào mùa khô khi các hồ tự nhiên và nhân tạo gây ra hiện tượng bốc hơi lớn Lượng nước sử dụng, chủ yếu cho nông nghiệp, không được tái sử dụng và mất đi khoảng 20% trong mùa khô Tại những khu vực mất rừng, các con suối trở nên cạn kiệt, mực nước ngầm giảm sâu, khiến cho các giếng đào và khoan phải được thực hiện ở độ sâu lớn hơn để tìm nước.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Địa chất và Trung tâm tư vấn Công nghệ Môi trường, tài nguyên nước ngầm ở Đắk Lắk chủ yếu tập trung tại khối Bazan Buôn Ma Thuột – Krông Búk, trong khi các khối bazan khác có trữ lượng nhỏ hơn Tại những khu vực này, nước có thể được khai thác phục vụ sinh hoạt, kinh tế vườn và tưới cây qua giếng đào, giếng khoan Tuy nhiên, ở một số khu vực như M’Đrắk, Krông Bông, Ea Kar và phía đông huyện Ea H’Leo, lượng nước ngầm rất hạn chế, đòi hỏi nguồn kinh phí lớn cho việc khai thác.
Bảng 4.2: Trữ lượng khai thác tiềm năng nước trong tỉnh Đắk Lắk
Trữ lượng tĩnh tự nhiên (trieọu m 3 )
Trữ lượng động tự nhiên (nghìn m 3 )
Trữ lượng khai thác tieàm naêng (nghìn m 3 )
Cao nguyên Buôn Ma Thuột 25.000 170,7 944,6
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Địa chất
Nước ngầm trong cấu thành Bazan là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, trong khi các nguồn nước khác không phong phú Tuy nhiên, biến động thời tiết và việc khai thác tài nguyên không hợp lý, như suy giảm diện tích rừng và khoan khai thác không đúng cách, đã dẫn đến ô nhiễm, suy giảm trữ lượng và độ sâu của nguồn nước ngầm.
Theo kết quả kiểm kế đất đai năm 2005 và số liệu diễn biến rừng theo Quyết định số 24/2005/QĐ-UB ngày 24/3/2005 của UBND tỉnh Đắk Lắk
Tổng diện tích đất có rừng: 618.227,8 ha, trong đó:
Diện tích rừng tự nhiên ở Đắk Lắk chủ yếu tập trung ở phía Nam vùng núi Chư Yang Sin và phía Tây huyện Ea Sup, Buôn Đôn, bao gồm vườn Quốc gia Yok Đôn Mặc dù tình trạng chặt phá rừng đã giảm, khai thác lâm sản trái phép vẫn diễn ra, dẫn đến suy giảm cả về diện tích và chất lượng rừng Các khu vực rừng còn lại thường nằm ở địa hình dốc, không thuận lợi cho nông nghiệp Toàn tỉnh có độ che phủ rừng đạt 46,1%, trong đó huyện Buôn Đôn có độ che phủ cao nhất với 84,8%, tiếp theo là Ea Sup 75,7% và Krông Bông 66%.
Tổng trữ lượng gỗ tại Việt Nam khoảng 59 - 60 triệu m³, trong đó gỗ rừng thường xanh chiếm 36,3 triệu m³, rừng khộp 21,2 triệu m³, rừng hỗn giao 1 triệu m³ và rừng trồng 0,3 triệu m³ Diện tích rừng tự nhiên đã giảm từ 686,7 nghìn ha năm 1995 xuống còn 599,5 nghìn ha năm 2004, trung bình mỗi năm giảm 9,7 nghìn ha Đắk Lắk là tỉnh có diện tích rừng lớn nhất nước, giúp duy trì cân bằng sinh thái và bảo vệ độ màu mỡ của đất Tuy nhiên, sự gia tăng dân số và di cư tự do đã làm tăng nhu cầu về đất sản xuất và đất ở, góp phần vào sự suy giảm diện tích rừng Tình trạng khai thác gỗ lậu và săn bắt động vật hoang dã cũng đã làm giảm đa dạng sinh học và chất lượng rừng, ảnh hưởng đến sự thoái hóa của đất.
4.1.3.4 Tài nguyên khoáng sản: Đắk Lắk có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản, nhất là khoáng sản vật liệu xây dựng Các khoáng sản chủ yếu là:
Fenspat: trữ lượng dự báo 4.154.500 tấn quặng, trong đó trữ lượng cấp
C2=1.554.100 tấn thuộc địa bàn xã Ea Sô, huyện Ea Kar Đá vật liệu xây dựng cao cấp : (đá ốp lát) là đá Granit ở Ea H’Leo, Krông
Bông và đá Bazan, cùng với các loại đá khác, được khai thác rộng rãi tại các huyện trong tỉnh nhằm phục vụ cho xây dựng cầu đường, công trình dân dụng và các ngành công nghiệp khác.
Than bùn phân bố không đồng đều tại một số huyện, với trữ lượng hạn chế, chủ yếu được khai thác để sản xuất phân bón Các mỏ than bùn tiêu biểu bao gồm Ea Pok, Buôn Ja Wăm, Cuôr Đăng (Cư Mgar) và Ea K’Tur (Kroâng Ana).
Sét gạch ngói : khá phong phú trên địa bàn các huyện Krông Ana, Krông
Pắc, Ea Kar, M’Đrắc, Ea H’Leo… được khai thác nhiều năm đang để sản xuất gạch ngói
Ngoài vàng, chì và kẽm, còn nhiều loại khoáng sản khác Để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này, cần thực hiện nghiên cứu thăm dò chi tiết hơn.
Thực trạng cảnh quan môi trường
Đắk Lắk, một tỉnh miền núi cao nguyên, sở hữu cảnh quan môi trường phong phú và đa dạng với nhiều điểm đến hấp dẫn như thác nước hùng vĩ, khu bảo tồn thiên nhiên, sông hồ tự nhiên và rừng nguyên sinh Nơi đây còn nổi tiếng với các địa danh gắn liền với truyền thống, như Buôn Đôn, nổi bật với nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng Sự phát triển của các khu dân cư và đô thị với kiến trúc đặc trưng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch tại địa phương.
Trong giai đoạn 1990 - 2005, sự phát triển kinh tế xã hội thiếu cân đối đã dẫn đến tình trạng gia tăng dân số cơ học nhanh chóng, cùng với sự phát triển ồ ạt của cây cà phê tại hầu hết các huyện trong tỉnh Việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp không theo kế hoạch đã làm suy giảm cả về diện tích lẫn chất lượng rừng, đồng thời đa dạng sinh học cũng bị giảm sút Tình trạng đất đai bị xói mòn, canh tác không hợp lý và việc sử dụng quá nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu đã khiến môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, cảnh quan bị tàn phá Hệ quả là tình trạng hạn hán và lũ lụt xảy ra thường xuyên, nhiều khu vực trong tỉnh thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô.
Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, các nguồn tài nguyên và cảnh quan môi trường
Vị trí địa lý của khu vực này rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhờ vào hệ thống giao thông đường bộ và đường không kết nối với các trung tâm lớn trong cả nước Thêm vào đó, với 70 km đường biên giới giáp Campuchia, khu vực này cũng đóng vai trò chiến lược quan trọng trong lĩnh vực an ninh quốc phòng.
Diện tích tự nhiên rộng lớn và tài nguyên đa dạng, bao gồm tài nguyên rừng chiếm 47% diện tích tự nhiên, cùng với hơn 300.000 ha đất đỏ ba zan quý giá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các cây công nghiệp lâu năm Ngoài ra, tiềm năng thủy điện và tài nguyên cảnh quan du lịch cũng góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường.
Khí hậu thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp đa dạng đã tạo điều kiện cho nền nông nghiệp phát triển với năng suất và chất lượng cao Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu các sản phẩm đặc trưng như cà phê, cao su, ca cao, hồ tiêu, bông và nhiều loại cây lương thực, thực phẩm giá trị khác.
Vị trí địa lý nằm sâu trong đất liền, xa cảng biển nên việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước sẽ gặp không ít khó khăn
Vùng này có khí hậu và thủy văn phức tạp, chịu ảnh hưởng lớn từ thiên tai như hạn hán và lũ lụt Địa hình phức tạp và mức độ chia cắt mạnh đã tạo ra nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông.
Thực trạng kinh tế – xã hội
Nông lâm nghiệp Công nghiệp-xây dựng Dịch v ụ
Nguồn tài nguyên khoáng sản chưa được thăm dò, khảo sát đánh giá đầy đủ, hạn chế khả năng đầu tư khai thác
4.2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI:
Trong những năm qua, nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình cả nước, tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo Từ 2001 đến 2005, GDP bình quân hàng năm đạt 8,05%, tăng 1,47 lần so với năm 2000 Ngành công nghiệp xây dựng tăng trưởng 21,3%, ngành dịch vụ 17%, và nông - lâm - ngư nghiệp 4,1% Đến năm 2005, GDP đạt 7.815 tỷ đồng, với GDP bình quân đầu người đạt 4,55 triệu đồng, vượt 10% kế hoạch đề ra.
4.2.2 Chuyeồn dũch cụ caỏu kinh teỏ:
Cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp
Biểu 4.1: Biểu đồ so sánh tỷ trọng các ngành kinh tế qua 2 năm 2000 & 2005
Từ năm 2000 đến 2005, tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp đã giảm từ 77,5% xuống 64,3%, trong khi ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 7,2% lên 12,9% và ngành dịch vụ tăng từ 15,2% lên 22,7% Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp cũng tăng từ 17% lên hơn 19%, trong khi lao động nông nghiệp giảm từ 83% xuống còn 81% vào năm 2005.
4.2.3 Thực trạng phát triển các ngành kinh tế:
4.2.3.1 Khu vực kinh tế nông nghiệp:
Trong giai đoạn 2001-2005, nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có sự phát triển toàn diện, góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mặc dù gặp khó khăn về giá cả, thời tiết và dịch bệnh, nông nghiệp tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng bình quân 4,1% mỗi năm Cơ cấu cây trồng và vật nuôi ngày càng đa dạng, đồng thời ngành công nghiệp và dịch vụ nông thôn cũng bắt đầu phát triển, thu hút lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cư dân nông thôn.
Trồng trọt tại các vùng chuyên canh đang phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa gắn liền với thị trường, đặc biệt là các loại cây như mía đường, lúa lai, ngô lai, sắn cao sản và điều ghép Năm 2005, sản lượng lương thực đạt 750 ngàn tấn, vượt kế hoạch 500 ngàn tấn, trong đó cây ngô lai phát triển nhanh chóng với năng suất cao, chiếm gần 66% tổng sản lượng lương thực của tỉnh.
Chăn nuôi đã phát triển theo hướng công nghiệp, với quy mô lớn và tập trung, nâng tỷ trọng trong sản xuất nông nghiệp từ 5,8% năm 2000 lên 9,7% năm 2005 Các mô hình chăn nuôi công nghiệp và trang trại áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật về giống và thức ăn, giúp tăng nhanh số lượng, trọng lượng và chất lượng đàn gia súc, gia cầm Công tác phòng, chống dịch bệnh và kiểm dịch động vật được chú trọng, đảm bảo sản phẩm chăn nuôi không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh mà còn xuất khẩu ra ngoài với số lượng lớn.
Sản xuất lâm nghiệp đang chuyển hướng xã hội hóa, đặc biệt trong việc giao đất và rừng cho hộ gia đình và cộng đồng Việc trồng rừng nguyên liệu đã thu hút nhiều thành phần kinh tế, hình thành vùng nguyên liệu tập trung trên 15 ngàn ha Chương trình trồng 5 triệu ha rừng đã đạt được những kết quả khả quan Khai thác gỗ rừng tự nhiên giảm, trong khi chế biến lâm sản hướng tới xuất khẩu và tiêu thụ nội địa với chất lượng cao, dần thay thế nguyên liệu gỗ rừng tự nhiên bằng gỗ rừng trồng.
4.2.3.2 Khu vực kinh tế công nghiệp :
Trong giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 21,3%, với số lượng đơn vị sản xuất tăng lên 6.300, tăng 1.200 so với năm 2000 Sản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng, chất lượng và mẫu mã được cải thiện Khu công nghiệp Hòa Phú đang được xây dựng, cùng với các nhà máy như bê tông dự ứng lực, chế biến cà phê Trung Nguyên, và chế biến nông sản tại các huyện Đặc biệt, nhiều nhà máy thủy điện đã được khởi công trên sông Srepok với công suất lớn, tạo điều kiện cho ngành xây dựng và thu hút lao động Ngành chế biến nông sản, đặc biệt là cà phê, đã cho ra đời nhiều sản phẩm như cà phê bột và hòa tan, góp phần vào thị trường nội địa và xuất khẩu, đồng thời tạo ra thương hiệu nổi tiếng như Cà phê Trung Nguyên và cà phê Victory Ngành cao su cũng đã phát triển với sản phẩm chế biến mủ kem, mang lại giá trị kinh tế cao.
4.2.3.3 Khu vực kinh tế dịch vụ :
Ngành dịch vụ đã thích ứng với kinh tế thị trường, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội Tổng mức bán lẻ hàng hóa giai đoạn 2001 - 2005 đạt 21.731 tỷ đồng, với mức tăng trưởng bình quân 16%/năm, gấp 1,4 lần so với giai đoạn 1996 - 2000 Thị trường hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch mua bán của người dân Các mô hình thương mại hiện đại như trung tâm thương mại và cửa hàng tự chọn đã ra đời Xuất nhập khẩu cũng có nhiều tiến bộ, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1.164 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 64,6 triệu USD; thị trường truyền thống được củng cố và phát triển thêm, bổ sung nhiều mặt hàng xuất khẩu như hạt điều, tinh bột sắn, cà phê bột và đồ mộc.
Tiềm năng du lịch sinh thái và văn hóa đang được khai thác và đầu tư mạnh mẽ, dẫn đến sự gia tăng số lượng du khách Doanh thu du lịch trong giai đoạn 2001-2005 đã gấp đôi so với giai đoạn 1996-2000 Hoạt động xúc tiến thương mại được chú trọng, góp phần tích cực vào việc nâng cao khả năng dự báo và thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp.
Dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông và ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô và chất lượng, với nhiều phương thức kinh doanh mới Mạng lưới thông tin phát triển nhanh chóng, hiện đã có 100% số xã có điện thoại, trung bình cứ 100 dân có 8,6 máy điện thoại, gấp gần 3 lần so với chỉ tiêu đề ra Ngành Ngân hàng tiếp tục mở rộng với 95 chi nhánh và phòng giao dịch, tốc độ cho vay bình quân tăng 13,28% hàng năm, tổng dư nợ đạt 7.650 tỷ đồng vào năm 2005, và hầu hết các dịch vụ ngân hàng hiện đại đã được triển khai.
4.2.4 Dân số, lao động việc làm và thu nhập:
Dân số trung bình tỉnh Đắk Lắk năm 2005 đạt 1.719.174 người, trong đó dân số đô thị chiếm 22,7% và nông thôn 77,3% Cộng đồng dân cư đa dạng với người Kinh chiếm 72% và các dân tộc ít người như Êđê, M’Nông, Thái, Tày chiếm 28% Các dân tộc ít người sống tại 125/170 xã và có nhiều người di cư từ miền Bắc và Trung vào, mang theo kinh nghiệm sản xuất kinh doanh Mật độ dân số toàn tỉnh là 131 người/km², với thành phố Buôn Ma Thuột có mật độ cao nhất 835 người/km² Một số huyện như Krông Búk, Krông Pắc, Ea Kar, và Krông Ana cũng có mật độ dân số tập trung, trong khi các huyện như Ea Sup, Buôn Đôn, M’Đrăk có mật độ thấp hơn Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm là 1,99%, trong khi dân số Đắk Lắk gần đây tăng cơ học do di cư tự do, tạo áp lực lên đất đai và dẫn đến tình trạng lấn chiếm, chặt phá rừng để làm nông nghiệp, gây phức tạp trong trật tự xã hội.
Từ năm 2000 đến 2005, số lao động trong độ tuổi tại tỉnh tăng từ 803.000 người lên 890.000 người, chiếm 51% dân số Mặc dù nguồn lao động trẻ dồi dào là lợi thế cho sự phát triển, nhưng cũng đặt ra áp lực về đào tạo và giải quyết việc làm Tỷ lệ lao động thất nghiệp đã giảm từ 6,2% năm 2000 xuống còn 5,5% năm 2005.
Chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam vào năm 2005 chủ yếu được đánh giá qua trình độ học vấn và đào tạo chuyên môn kỹ thuật Tỷ lệ lao động được đào tạo đạt khoảng 26,3% vào năm 2004, trong đó lao động qua đào tạo nghề chiếm 19% Tại tỉnh Đắk Lắk, có khoảng 17.400 cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ từ đại học trở lên, bao gồm 39 Tiến sĩ và 3 Phó giáo sư Tuy nhiên, nguồn nhân lực này phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung ở thành phố Buôn Ma Thuột.
Ma Thuột và các khu vực nông thôn đang thiếu hụt cán bộ khoa học kỹ thuật, trong khi lao động nông nghiệp chiếm tới 81,3% tổng số lao động, lao động công nghiệp xây dựng chỉ chiếm 6,9%, và lao động trong khu vực dịch vụ là 11,8% Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 27% vào năm 2000 xuống còn 10% vào năm 2005, nhưng sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng vẫn lớn, với khu vực đô thị có thu nhập cao hơn nông thôn, và vùng trồng cây công nghiệp dài ngày có thu nhập cao hơn vùng trồng lúa Đặc biệt, đời sống của người dân ở vùng sâu vùng xa, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn còn nhiều khó khăn.
Bảng 4.3: So sánh các chỉ tiêu kinh tế – xã hội của tỉnh Đắk Lắk so với cả nước và Tây Nguyên
So với vuứng Taây Nguyeân (%)
1 Diện tích tự nhiên km 2 329.297,00 54.475,00 13.125 4 24,1
3 Mật độ dân số ng/km 2 249 85 131 52,6 154,1
4.GDP (giá hh) tỷ đồng 713.071,00 20.092,40 6.518,00 0,9 32,4
7 Gớa trũ xuaỏt khaồu Tr USD 26.003,00 541,5 280 1,1 51,7
Nguồn: Số liệu thống kê 64 tỉnh, thành phố của TCTK, niên giám thống kê và báo kế hoạch 2004 của các tỉnh vùng Tây Nguyên
4.2.5 Thực trạng phát triển đô thị và các khu dân cư nông thôn:
4.2.5.1 Thực trạng phát triển đô thị:
Tỉnh hiện có 14 đô thị, trong đó bao gồm thành phố Buôn Ma Thuột và 13 thị trấn thuộc các huyện Cụ thể, huyện Krông Pách có 2 thị trấn, huyện Ea Kar cũng có 2 thị trấn, trong khi huyện Buôn Đôn chưa thành lập thị trấn nào.