1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Chủ nghĩa tam dân của tôn trung sơn và ảnh hưởng của nó đến các nhà yêu nước việt nam cuối thế kỷ xix đầu thế kỷ xx

89 36 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chủ Nghĩa Tam Dân Của Tôn Trung Sơn Và Ảnh Hưởng Của Nó Đến Các Nhà Yêu Nước Việt Nam Cuối Thế Kỷ XIX Đầu Thế Kỷ XX
Tác giả Lê Văn Duẩn
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 89
Dung lượng 677,33 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (6)
  • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (7)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn (9)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (10)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (10)
  • 6. Cái mới của luận văn (10)
  • 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn (11)
  • 8. Kết cấu của luận văn (11)
    • 1.2. Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Tam dân (25)
    • 1.3. Một vài nhận xét về Chủ nghĩa Tam dân (42)
  • Chương II: Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến các nhà yêu nước Việt (13)
    • 2.1. Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến các phong trào yêu nước (45)
    • 2.2. Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến phong trào yêu nước do Nguyễn Aùi Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo (59)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (84)

Nội dung

Tình hình nghiên cứu đề tài

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã có ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào cách mạng ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, và đã được phân tích qua các khía cạnh triết học, chính trị và pháp quyền Tại Việt Nam, Chủ nghĩa Tam dân đã được dịch sang tiếng Việt, với công trình nổi bật trước năm 1975 của dịch giả Ngô Xuân Lý mang tên "Tam dân chủ nghĩa" (Nxb Sài Gòn, 1963) Sau năm 1975, công trình "Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân" được Viện Thông tin Khoa học Xã hội Hà Nội dịch và xuất bản vào năm 1995, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về tư tưởng này.

Một trong những công trình nghiên cứu giá trị về Tôn Trung Sơn là "Tôn Dật Tiên người giải phóng Trung Hoa" của tác giả Henny Dond Restarich, do Nguyễn Sinh dịch, xuất bản năm 2000 Công trình này phân tích sự phát triển của tư tưởng Việt Nam và Chủ nghĩa Tam dân từ góc độ ý thức hệ Ngoài ra, trong "Đại cương triết học Trung Quốc" do Doãn Chính chủ biên, tác giả cũng đã đặt tư tưởng của Tôn Trung Sơn trong bối cảnh cách mạng Trung Quốc, phác họa thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Tam dân.

Chủ nghĩa Tam dân đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà yêu nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, điều này được phân tích thông qua các tác phẩm nguyên bản như Hồ Chí Minh toàn tập (Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000), Phan Bội Châu toàn tập (Nxb Thuận Hóa, 1990) và Phan Chu Trinh tuyển tập (Nxb Đà Nẵng, 1995) Ngoài ra, nhiều tác giả như Nguyễn Phan Quang, Phan Văn Hoàng, Nguyễn Anh Tịnh, Chương Thâu và Nguyễn Văn Dương cũng đã đóng góp vào việc phân tích các phong trào yêu nước Việt Nam, cung cấp cái nhìn sâu sắc về bối cảnh lịch sử và tư tưởng yêu nước thời kỳ này.

Nguyễn Ái Quốc, hay Hồ Chí Minh, là một nhân vật lịch sử có nguồn tài liệu phong phú Chúng tôi xin giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu, trong đó nổi bật là tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, do Võ Nguyên Giáp chủ biên, xuất bản bởi Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

2000), Danh nhân Việt Nam (Thành Duy chủ biên)…

Các tác giả nước ngoài như Daniel Hemery, E Côbêlép và Furuta Motoo đã viết về các nhà yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, đồng thời nghiên cứu sự chuyển biến tư tưởng của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác – Lênin.

Luận văn này sẽ phân tích một cách hệ thống Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ảnh hưởng của nó đến các nhà yêu nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhằm làm nổi bật giá trị của Chủ nghĩa Tam dân trong bối cảnh cách mạng Việt Nam hiện nay.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là làm rõ những tư tưởng cơ bản của Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, tập trung vào ba trụ cột: Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa dân quyền và Chủ nghĩa dân sinh Luận văn cũng nêu bật ảnh hưởng của những tư tưởng này đến tư tưởng của các nhà yêu nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Để đạt được mục tiêu này, luận văn đề ra và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể nhằm phân tích sâu sắc các khía cạnh của Chủ nghĩa Tam dân và tác động của nó.

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, xã hội Trung Quốc trải qua nhiều biến động lịch sử, với sự suy yếu của triều đại phong kiến và áp lực từ các thế lực phương Tây Trong bối cảnh này, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn ra đời, nhấn mạnh ba nguyên tắc cơ bản: dân tộc, dân quyền và dân sinh Chủ nghĩa này không chỉ phản ánh khát vọng độc lập và tự do của người dân Trung Quốc mà còn chỉ ra những hạn chế trong việc thực hiện các nguyên tắc này do tình hình chính trị và xã hội phức tạp Việc phân tích giá trị và hạn chế của Chủ nghĩa Tam dân giúp hiểu rõ hơn về những bước tiến và thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt trong quá trình hiện đại hóa.

Hai là, làm sáng tỏ ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến tư tưởng của các nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX, sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa Tôn Trung sơn và Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài luận văn, chúng tôi áp dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp như lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, và so sánh để làm rõ tư tưởng của Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn cùng với ảnh hưởng của nó đến các nhà yêu nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Cái mới của luận văn

Tác giả hệ thống hóa và phân tích các giá trị nổi bật của chủ nghĩa Tam dân trong bối cảnh chủ nghĩa Dân tộc, Dân quyền và Dân sinh từ góc độ triết học, dựa trên các nguồn tài liệu nghiên cứu đa dạng.

Chủ nghĩa Tam dân đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của các nhà yêu nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Tuy nhiên, tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện sự khác biệt nguyên tắc so với chủ nghĩa này, phản ánh sự phát triển và điều chỉnh phù hợp với bối cảnh lịch sử và nhu cầu của dân tộc.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng Việt Nam Những tiêu chí Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc cùng với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng nhân loại Điều này được thực hiện trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã nhận thức rõ giá trị của tư tưởng chính trị Tôn Trung Sơn, đặc biệt là “chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta.” Trong đánh giá về Chủ nghĩa Tam dân và cuộc cách mạng Tân Hợi, Lênin nhấn mạnh rằng “Chủ nghĩa dân chủ trung thực và chiến đấu thấm sâu vào từng dòng chữ trong cương lĩnh đó” và khẳng định rằng cuộc cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đã trở thành “Một nhân tố tiến bộ lớn đối với Châu Á và đối với loài người.”

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, tư tưởng triết học Việt nam.

Kết cấu của luận văn

Nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Tam dân

Chủ nghĩa Tam dân, lần đầu tiên được nêu ra vào năm 1905 trên tờ Dân Báo của Trung Quốc, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử khi Tôn Trung Sơn thành lập hội đồng minh cách mạng và đặt tên cho Trung Hoa Dân Quốc Tư tưởng cốt lõi của Chủ nghĩa Tam dân đã được trình bày một cách có hệ thống vào năm 1924, thông qua các bài giảng của Tôn Trung Sơn được ghi chép lại.

Chủ nghĩa Tam dân, được Tôn Trung Sơn định nghĩa là “Chủ nghĩa cứu nước”, bao gồm ba phần chính: Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa dân quyền và Chủ nghĩa dân sinh.

Khi bàn về Chủ nghĩa dân tộc, Tôn Trung Sơn đã định nghĩa

Chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc hiện nay dường như đã bị thay thế bởi Chủ nghĩa gia tộc và Chủ nghĩa tông tộc, cho thấy sự thiếu vắng của Chủ nghĩa quốc tộc Điều này đặt ra câu hỏi liệu Chủ nghĩa dân tộc có còn tồn tại hay đã bị mai một trong bối cảnh xã hội hiện tại.

Tôn Trung Sơn đã phân tích các yếu tố cấu thành dân tộc, gọi là những lực lượng, nhằm phân biệt giữa các dân tộc khác nhau.

Huyết thống là yếu tố quan trọng kết nối cá nhân trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tạo nên sức mạnh dân tộc và lưu truyền qua các thế hệ Như tác giả đã chỉ ra, “Huyết thống của mỗi tổ tiên sẽ mãi mãi được di truyền qua thế hệ người trong một dân tộc, do đó huyết thống có sức mạnh rất lớn.” Bên cạnh đó, lối sống của mỗi dân tộc cũng được hình thành từ hoàn cảnh và điều kiện vật chất của xã hội, dẫn đến sự đa dạng trong phương thức mưu sinh Tác giả nhấn mạnh rằng “Phương thức mưu sinh khác nhau thì dân tộc được hình thành cũng khác nhau.”

Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, và khi bị xâm lăng, việc đồng hóa ngôn ngữ trở thành một hình thức xâm lăng văn hóa Tác giả nhấn mạnh rằng nếu các dân tộc ngoại lai học được ngôn ngữ của chúng ta, họ sẽ dễ dàng bị cảm hóa và đồng hóa thành dân tộc chúng ta Bên cạnh đó, tôn giáo và niềm tin tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết con người, tạo nên sự đoàn kết Tác giả cho rằng những người cùng thờ phụng một vị chúa hay tin theo một tổ tông có thể hình thành một dân tộc Cuối cùng, phong tục tập quán thể hiện bản sắc dân tộc nhưng cũng tạo ra sự ràng buộc, khiến con người phải tuân thủ Tác giả chỉ ra rằng nếu con người có phong tục tập quán tương đồng, họ có khả năng kết thành một dân tộc.

Theo Tôn Trung Sơn, sự kết hợp của năm lực lượng tạo thành một dân tộc là "sự tiến hóa tự nhiên, không phải chinh phục bằng vũ lực" Tác giả nhấn mạnh rằng "tự nhiên" ở đây mang ý nghĩa tất yếu, cho thấy rằng không ai có thể tự ý thay đổi quy luật này.

Cách đặt vấn đề của tác giả nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc đang bị tổn thương Ông chỉ ra rằng Việt Nam hiện đang là một trong những nước nghèo và yếu nhất thế giới, với vị thế thấp trên trường quốc tế, như "người là dao thớt, ta là thịt cá", cho thấy sự nguy hiểm của địa vị hiện tại Do đó, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đề xướng Chủ nghĩa dân tộc để kết hợp sức mạnh dân tộc.

400 triệu người thành một dân tộc kiên cố, Trung Quốc sẽ có nguy cơ mất nước, diệt chủng” [59, 56]

Cần thiết khôi phục Chủ nghĩa dân tộc để mọi người nhận thức rõ nguy cơ đối với dân tộc và cùng nhau đoàn kết thực hiện mục tiêu chung, đó là cứu nước.

Chủ nghĩa dân tộc của Tôn Trung Sơn dựa trên học thuyết của Malthus để giải thích sự thịnh suy của một dân tộc Ông coi dân số là yếu tố quyết định cho sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội, thay vì tập trung vào phương thức sản xuất hay hoàn cảnh địa lý.

“Các dân tộc hưng vong phần lớn là do sự tăng giảm dân số” [59,

Tôn Trung Sơn đã nhấn mạnh rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với ba sức ép lớn: dân số, kinh tế và chính trị.

Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của Chủ nghĩa dân tộc trong việc khôi phục lòng tự trọng của dân tộc, chỉ ra sự nhục nhã của việc sống trong tình trạng "nửa thuộc địa" Ông chỉ trích tình hình tệ hại tại Việt Nam, Indonesia và khẳng định rằng điều này cần phải kích thích người dân đoàn kết chống lại Chủ nghĩa đế quốc và thực hiện cách mạng điền địa Trong bối cảnh lịch sử khó khăn, Tôn Trung Sơn phân tích những cơ hội mà Trung Quốc đã mất và khẳng định rằng Chủ nghĩa dân tộc là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển của quốc gia Ông viết: “Chủ nghĩa dân tộc là thứ bảo bối giúp một quốc gia phát triển và một dân tộc sinh tồn”, nhấn mạnh rằng khi mất đi bảo bối này, Trung Quốc cũng đánh mất cơ hội của mình.

Tôn Trung Sơn, với tâm huyết và trí tuệ hướng về dân tộc, đã tìm hiểu nguyên nhân mất Chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc Ông chỉ ra rằng nguyên nhân quan trọng nhất là sự chinh phục của các dị tộc.

“Phàm một dân tộc chinh phục một dân tộc khác, đương nhiên không thể cho dân tộc đó có tư tưởng độc lập” [59, 96]

Tôn Trung Sơn luôn khẳng định rằng trong mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, lợi ích của dân tộc phải được đặt lên hàng đầu Ông nhấn mạnh rằng "dân tộc trước, quốc tế sau" và cho rằng không thể nghĩ đến vấn đề quốc tế khi dân tộc chưa độc lập Quan điểm này không chỉ thể hiện tính thực dụng mà còn cho thấy rằng lợi ích của dân tộc và nhân loại luôn gắn liền với nhau, nhưng lợi ích của dân tộc vẫn là ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia.

Tôn Trung Sơn, sinh ra trong một gia đình nông dân, đã có cơ hội du học tại nhiều quốc gia từ nhỏ, nhờ đó ông nhận thấy những ưu điểm và nhược điểm của người Trung Quốc so với người Châu Âu Ông đã tiến hành phân tích những điểm mạnh của người Trung Quốc.

Quốc cần phát huy đó là:

Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến các nhà yêu nước Việt

Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến các phong trào yêu nước

Để thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng trung quân truyền thống, đặc biệt là tư tưởng Nho gia, nhiều nhà yêu nước Việt Nam đã hướng tới tư tưởng dân chủ như một phương tiện để định hướng cho mục tiêu giải phóng dân tộc và cải cách thể chế chính trị.

Rút kinh nghiệm từ những thất bại trước đây, một bộ phận nhà Nho ưu tú Việt Nam đã khởi xướng phong trào chống Pháp nhằm giải phóng dân tộc và tìm kiếm thể chế chính trị phù hợp với xã hội Các phong trào như Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo, Duy Tân của Phan Chu Trinh, và Trường Đông Kinh Nghĩa Thục với Lương Văn Can đã lần lượt xuất hiện ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, đánh dấu sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam chống Pháp Đỉnh cao của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản là hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo với phương châm: “Không thành công cũng thành nhân”.

Phong trào Đông Du, do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo, mở đầu cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản Sau những thất bại của các phong trào trước, Phan Bội Châu thành lập Duy Tân Hội để tập hợp sĩ phu yêu nước, với mục tiêu khôi phục độc lập cho Việt Nam Nhiệm vụ quan trọng là phát triển nhân lực và tài chính, chuẩn bị cho cuộc bạo động và tìm kiếm sự viện trợ từ nước ngoài Ông tin rằng sau khi Duy Tân thành công, dân trí sẽ được nâng cao, dân khí sẽ mạnh mẽ, và vận mệnh dân tộc sẽ nằm trong tay nhân dân.

Phan Bội Châu hướng đến một chế độ quân chủ lập hiến kiểu Anh, với nghị viện gồm thượng và hạ nghị viện, dưới sự lãnh đạo của vua và các quan Sau thất bại của phong trào Đông Du và sự thành công của Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, ông đã từ bỏ lập trường quân chủ để đề xuất nghị án dân chủ, thành lập Việt Nam Quang Phục hội Tổ chức này nhanh chóng lập ra Quang Phục quân và chính phủ theo chế độ cộng hòa dân chủ, với mục tiêu đánh đuổi thực dân Pháp và khôi phục quốc quyền Ông nhấn mạnh việc xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, coi đó là nguyên nhân dẫn đến mất nước, và khẳng định rằng xây dựng chính thể cộng hòa là điều tốt đẹp, với quyền lực thuộc về nhân dân Việt Nam sẽ trở thành một dân tộc hùng cường, với quốc kỳ năm sao, hoàn toàn tự do và độc lập.

Trong tác phẩm “Phan Bội Châu niên biểu”, tác giả đã diễn tả sự chuyển biến tư tưởng của mình sau khi đến Nhật Bản, nơi ông nghiên cứu nguyên nhân các cuộc cách mạng và các chính thể tốt đẹp Đông Tây Tiếp xúc với các tư tưởng gia Trung Hoa và tiếp thu lý luận của JJ.Rousseau, ông dần từ bỏ quan điểm về chế độ quân chủ và dân chủ lập hiến, thay vào đó là sự ủng hộ cho chế độ dân chủ Ông nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Dân chủ đã được hình thành trong tư tưởng của mình từ lâu, nhưng trước đây ông vẫn giữ quan điểm ủng hộ quân chủ Giờ đây, khi cục diện đã thay đổi, ông mạnh dạn đề xuất chuyển từ quân chủ sang dân chủ.

Phan Bội Châu, sau thất bại của Việt Nam Quang Phục hội, đã chuyển hướng tư tưởng theo các chính sách tiến bộ của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là ba chính sách "Thân Nga, Liên cộng, phù trợ công nông" Nhận thấy cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và hướng tới cuộc cách mạng thế giới, ông quyết định cải tổ Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam quốc dân Đảng, dựa trên mô hình Quốc Dân Đảng Trung Quốc Với lòng yêu nước, Phan Bội Châu tiếp thu tri thức mới, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao hiểu biết và nhận ra những hạn chế của bản thân, đồng thời đặt nhiều kỳ vọng vào Nguyễn Ái Quốc Sự chuyển biến tư tưởng của ông trải qua các giai đoạn quân chủ, quân chủ lập hiến, dân chủ và cuối cùng là xã hội chủ nghĩa, tất cả đều hướng tới mục tiêu cứu nước, đuổi giặc, thực hiện độc lập, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời khơi dậy tinh thần đoàn kết và phát triển trí tuệ cho dân tộc Việt Nam.

Phan Bội Châu là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, nổi bật với vai trò là nhà yêu nước, tư tưởng và văn hóa Ông là cầu nối giữa phong trào dân tộc do các nhà văn yêu nước lãnh đạo và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân Phong trào yêu nước của Phan Bội Châu được xem là phong trào chống Pháp đầu tiên xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, mang đậm ảnh hưởng của nhiều tư tưởng, đặc biệt là Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn.

Phan Bội Châu đã có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều người, kích thích các phong trào yêu nước trong nước và để lại dấu ấn lớn lao cho các thế hệ sau Ông được kính trọng bởi các bậc sứ giả nước ngoài, với những nhận xét thể hiện sự cảm thông và tôn trọng đối với những nỗ lực của ông trong việc phản ánh thực trạng đau thương của dân tộc Tác phẩm của ông không chỉ là kết quả của sự đấu tranh mà còn là tiếng nói mạnh mẽ về quyền tự do và bình đẳng Phan Bội Châu nắm vững nguyên tắc ngộ biến tùng quyền, hành động linh hoạt nhằm mục tiêu cứu nước và giành độc lập, thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng từ nông đến sâu, kết hợp giữa Nho giáo và tư tưởng dân chủ tiến bộ.

Phan Bội Châu là biểu tượng của ý chí và nghị lực, nhưng ông cũng gặp phải một số hạn chế do bối cảnh lịch sử.

Phan Bội Châu thể hiện sự mâu thuẫn trong tư tưởng khi viết bài "Pháp Việt đề huề chính kiến thư" năm 1918, kêu gọi người Việt Nam không coi Pháp là kẻ thù để ngăn chặn âm mưu xâm lược của Nhật Bản Ông nhấn mạnh rằng người Anh, Pháp và Việt Nam cần hợp tác, đồng thời yêu cầu người Pháp ngừng xem người Việt như súc vật Quan niệm "kẻ thù của kẻ thù là bạn" của ông đã đi ngược lại với chủ trương chống Pháp triệt để bằng bạo động.

Phan Bội Châu đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi quá tin tưởng vào việc cầu viện Nhật Bản để đánh Pháp, điều này đã được lịch sử chống xâm lược chứng minh Đồng thời, ông cũng có nhận thức mơ hồ về cuộc cách mạng xã hội ở Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản Trong một bức thư gửi Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp, ông đã bày tỏ sự lo ngại khi chứng kiến những hình ảnh đau thương của những con người khốn cùng và những đoàn phụ nữ, trẻ em bị đẩy vào cái chết, đồng thời chỉ trích những người tự xưng là cộng sản mà không hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa này.

Phan Chu Trinh, một trong những lãnh tụ của phong trào Duy Tân, đã nỗ lực vượt qua những ảnh hưởng lạc hậu của Nho giáo phong kiến để chuyển sang tư tưởng dân chủ tư sản Ông mạnh dạn đề ra chủ thuyết dân quyền và kêu gọi những người Pháp có lương tâm giúp đỡ nhân dân An Nam chống lại cường quyền Phan Chu Trinh đã lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến và tích cực đề xuất các yêu cầu như khai dân trí, chấn dân khí và hậu dân sinh, điều này cũng được Phan Bội Châu đồng tình Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai ông nằm ở chỗ Phan Chu Trinh kiên trì theo đuổi cải cách dân chủ thông qua sự hỗ trợ của Pháp, nhằm lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và xây dựng dân quyền tự do Tư tưởng này là chủ đề xuyên suốt trong các tác phẩm chính luận của ông, và ông luôn theo đuổi phương châm không bạo động, khác với Phan Bội Châu, người đã từng dựa vào Nhật Bản để chống lại kẻ thù.

Tư tưởng và chủ trương của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh có nhiều điểm trái ngược Phan Bội Châu, gắn bó với phong trào Cần Vương, luôn nung nấu ý chí khôi phục độc lập cho đất nước bằng bạo lực Ngược lại, Phan Chu Trinh không tin vào phong trào này và cho rằng cần phải có học thuyết, mở mang dân trí, tạm thời dựa vào Pháp để tiêu diệt quân thù Ông bác bỏ kế hoạch dựa vào Nhật để đánh Pháp và khẳng định rằng tình hình thế giới đã thay đổi, không còn chỗ cho việc dùng vũ lực để chống lại thực dân Sự khác biệt này được Phan Bội Châu thừa nhận khi ông sang Nhật Bản và viết trong tự phán của mình.

Phan Chu Trinh muốn sử dụng Pháp để lật đổ quân chủ và xây dựng nền tảng dân quyền, trong khi tôi lại cho rằng cần đánh đổ thực dân Pháp trước, sau đó mới bàn đến các vấn đề khác Trong cuộc chiến chống Pháp, ông cho rằng cần lợi dụng quân chủ Tuy nhiên, khi gặp Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh không đồng tình với phương pháp cách mạng của ông, cho rằng nó không hiệu quả và chỉ là lãng phí công sức.

Phan Chu Trinh đã khuyên Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam sớm để hoạt động cách mạng, nhằm truyền bá rộng rãi Chủ nghĩa Mác - Lênin đến các chí sĩ trong nước và đạt được thành công Cả Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đều thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, tiếp nối truyền thống của cha ông và góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân đến phong trào yêu nước do Nguyễn Aùi Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo

Năm 1911, cách mạng Tân Hợi thành công, đánh dấu sự ra đời của nền dân chủ tư sản đầu tiên ở Châu Á, được xem là "một nhân tố tiến bộ lớn đến với Châu Á và đối với loài người" Thế kỷ XX tại Việt Nam chứng kiến những biến đổi to lớn và sâu sắc, là thời kỳ đấu tranh gian nan, oanh liệt của nhân dân giành lại độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phá vỡ chế độ thuộc địa gần một thế kỷ và xóa bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, một người con của dân tộc Việt Nam, biểu trưng cho sự hòa quyện giữa các giá trị văn hóa Đông - Tây và tư tưởng Mác - Lênin, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng vững chắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc, sinh ra tại Việt Nam, một quốc gia với truyền thống kiên cường trong việc chinh phục thiên nhiên và chống lại kẻ thù xâm lược, đã phát triển mạnh mẽ qua thời gian Dân tộc Việt Nam không chỉ giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống mà còn tích cực học hỏi và tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại Tinh thần giao lưu và hội nhập văn hóa là đặc điểm nổi bật của dân tộc, đặc biệt trong giai đoạn cận hiện đại, khi văn hóa Việt Nam tiếp nhận và kế thừa nhiều giá trị tư tưởng khác nhau, bao gồm tư tưởng “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Trung Sơn.

Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé ở Đông Dương, bên cạnh Trung Quốc với nền triết học phong phú và sâu sắc, đã chịu ảnh hưởng lớn từ những tư tưởng chính trị của nước láng giềng này Nền triết học Trung Quốc không chỉ nhằm ổn định trật tự xã hội mà còn hướng tới việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Lão giáo, Đạo giáo và Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Việt Nam, phản ánh sự tương đồng về điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán Nho giáo, tồn tại song song với chế độ phong kiến Việt Nam hàng nghìn năm, đã ăn sâu vào tâm thức người dân, định hình các mối quan hệ xã hội dựa trên đạo đức Nho giáo Nguyễn Ái Quốc, sinh ra trong gia đình Nho sĩ tiến bộ, đã được trang bị tư tưởng và đạo đức tích cực từ các bậc thầy và người thân Tư tưởng phương Đông chính là một trong những nguồn ảnh hưởng lớn trong quá trình hình thành nhân cách và lý tưởng cứu nước của ông.

Năm 1897, ngọn lửa Hương Sơn tắt, đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử, trong đó tư tưởng Nho giáo của sĩ phu Việt Nam từng là biểu tượng cho phong trào yêu nước Tuy nhiên, tư tưởng này đã bộc lộ sự bất lực trước những yêu cầu mới của cuộc đấu tranh giành độc lập chống thực dân Pháp.

Nguyễn Ái Quốc, sau khi rút ra bài học từ các phong trào yêu nước trước, đã nghiên cứu về phương Tây với khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” và cuối cùng tìm đến Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Năm 1924, sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam thông qua Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã về Quảng Châu để thành lập tổ chức cách mạng nhằm truyền bá tư tưởng này vào Việt Nam, tiến tới việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc với Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, một tư tưởng mà ông đã nghe nói đến từ khi còn nhỏ qua các cuộc thảo luận giữa cha mình và những nhà yêu nước Việt Nam.

Khi Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc với Chủ nghĩa Tam dân, do Quốc dân Đảng Trung Quốc dẫn dắt, Tôn Trung Sơn đang thực hiện chính sách cải cách "Thân Nga, Liên cộng, phù trợ công nông" Trong bài viết "Đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc", Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao Tôn Trung Sơn, người được xem là "cha đẻ của cách mạng Trung Quốc" và luôn trung thành với các nguyên lý của mình, ngay cả trong những thời điểm khó khăn Cương lĩnh của Quốc dân Đảng, dưới sự lãnh đạo của ông, là một cương lĩnh cải cách rõ ràng với các điều khoản chống đế quốc và quân phiệt, đồng thời tuyên bố đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, thể hiện sự đồng tình với cách mạng Nga.

Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu những đánh giá của quốc tế cộng sản về Tôn Trung Sơn, thể hiện qua lời kêu gọi gửi đến công nhân, nông dân và nhân dân lao động Trung Quốc vào ngày Tôn Trung Sơn qua đời (14-3-1925) Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của Tôn Dật Tiên, người đã đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc thế giới, và khẳng định rằng tên tuổi của ông vô cùng quý giá đối với giai cấp vô sản toàn cầu và các dân tộc bị áp bức ở phương Đông đang nỗ lực giành lại tự do.

Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội II Quốc dân Đảng Trung Quốc và đã trải qua những hệ lụy từ những phần tử phản bội lý tưởng của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là sau cuộc binh biến của Tưởng Giới Thạch vào tháng 4 năm 1927.

Nguyễn Ái Quốc đã thấy ở chủ nghĩa Tam dân và chính sách

Tôn Trung Sơn với tư tưởng "Thân Nga, Liên cộng, phù trợ công nông" đã đưa ra những quan điểm tiến bộ có thể áp dụng vào cách mạng Việt Nam Tuy nhiên, theo Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn chủ yếu vẫn mang tính chất dân chủ tư sản do bối cảnh lịch sử - xã hội Vì vậy, khi Phan Bội Châu muốn chuyển Việt Nam Quang Phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo cương lĩnh của Tôn Trung Sơn, Nguyễn Ái Quốc đã khuyên rằng cần phải đi xa hơn nữa chứ không chỉ dừng lại ở chủ trương của Việt Nam Quốc dân Đảng.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và bổ sung nhiều luận điểm mới phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam, dựa trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin Sự kế thừa tư tưởng của Tôn Trung Sơn trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét qua các quan điểm cách mạng, góp phần định hình con đường giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, đây là cốt lõi và sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Người.

Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh đều có điểm chung trong việc vượt qua tư duy truyền thống để hướng tới tư tưởng tiến bộ Cả hai đã cống hiến trọn đời cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Tuy nhiên, trong khi Tôn Trung Sơn chỉ tập trung vào cách mạng dân chủ tư sản, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự nhạy bén chính trị khi chuyển từ Chủ nghĩa yêu nước truyền thống sang Chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ nghĩa cộng sản Theo Người, “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là Chủ nghĩa Mác – Lênin.”

Ngày đăng: 14/09/2021, 20:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Phan Bội Châu ( 1990), Toàn tập, Tập 1, Nxb Thuận Hoá, Huế Khác
[2]. Phan Bội Châu ( 1990), Toàn tập, Tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế Khác
[3]. Phan Bội Châu ( 1990), Toàn tập, Tập 3, Nxb Thuận Hoá, Huế Khác
[4]. Phan Bội Châu ( 1990), Toàn tập, Tập 4, Nxb Thuận Hoá, Huế Khác
[5]. Phan Bội Châu ( 1978), Thiên Hồ! Đế Hồ, Nxb KHXH Hà Nội Khác
[6]. Phan Bội Châu ( 1957), Phan Bội Châu niên biểu, NXb Văn Sử địa Hà Nội Khác
[7]. Cô – bê – lép . E (1985), Đồng Chí Hồ Chí Minh, Nxb Tiến bộ Mátxcơva Khác
[8]. Doãn Chính chủ biên (1997), Đại cương Triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Khác
[9]. Cù Văn Chước chủ biên (1995), Thư mục về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà nội Khác
[11]. Nguyễn Văn Dương (1995), Phan Chu Trinh tuyển tập, Nxb Đà Nẵng Khác
[12]. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Khác
[16]. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb TP. HCM Khác
[17]. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, tập 3, Nxb TP. HCM Khác
[18]. Trần Văn Giàu (1988), Triết học và tư tưởng, Nxb TP. Hồ Chí Minh Khác
[19]. Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Sự Thật Hà Nội Khác
[20]. Henry, Nguyễn Trọng Cẩn dịch ( 2001), Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Nxb Lao Động Hà Nội Khác
[21]. Đỗ Quang Hưng (1990), Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, Nxb Lao Động Hà Nội Khác
[26]. V. I. Lênin (1980), Toàn tập, Tập 21, Nxb Tiến Bộ Mátxcơva Khác
[27]. V. I. Lênin (1980), Toàn tập, Tập 23, Nxb Tiến Bộ Mátxcơva Khác
[28]. V. I. Lênin (1980), Toàn tập, Tập 29, Nxb Tiến Bộ Mátxcơva Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w