1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN Nhập môn năng lực thông tin SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2 1930) VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ (10 1930) CỦA ĐẢNG

30 62 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 58,34 KB

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

    • 1. Lý do chọn đề tài

    • 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài

    • 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

    • 6. Kết cấu của bài tiểu luận

  • PHẦN I:

    • 1.1. Bối cảnh quốc tế

    • 1.2. Tình hình trong nước

    • 1.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

  • PHẦN II:

    • 2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 - 1930)

    • 2.2. Luận cương chính trị của Đảng (10 - 1930)

  • PHẦN III

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

    • 1. Tài liệu tiếng Việt

    • 2. Tài liệu tiếng nước ngoài

Nội dung

MỤC LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề đề tài 3 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài 3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3.1. Mục tiêu nghiên cứu 3 3.2. Nhiện vụ nghiên cứu 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 4.1. Đối tượng nghiên cứu 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4 5.1. Cơ sở lý luận 4 5.2. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Kết cấu của bài tiểu luận 5 PHẦN I: BỐI CẢNH NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ 1930 6 1.1. Bối cảnh quốc tế 6 1.2. Hoàn cảnh trong nước 9 1.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam 12 PHẦN II: BẢN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (21930) VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ (101930) CỦA ĐẢNG 15 2.1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (21930) 15 2.2. Luận cương chính trị của Đảng (101930) 16 PHẦN III: SO SÁNH HAI BẢN VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG 19 KẾT LUẬN 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và mang tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt Nam ngày càng đổi mới sâu sắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng Đảng ta thật vĩ đại” 2, tr. 2. Từ đó, thấy được sự vĩ đại trong quá trình ra đời cũng như lãnh đạo của Đảng xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Và để có thể hiểu rõ hơn những quan điểm, đường lối của Đảng từ những ngày đầu thành lập, tôi lựa chọn đề tài So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên (21930) và Luận cương chính trị (101930) của Đảng cho bài tiểu luận của mình. 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam cùng với Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên (21930) đã đánh dấu một thời kì mới trong lịch sử Việt Nam thời kì của sự đấu tranh cách mạng kiên cường và anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm xóa bỏ chế độ thực dân, xây dựng một nhà nước Việt Nam phát triển và thịnh vượng. Trong quá trình lãnh đạo đó, Đảng đã có nhiều văn kiện quan trọng, một trong số đó là Luận cương chính trị của Đảng (101903). Hai văn kiện quan này của Đảng cũng là điều kiện để xác định đường lối cách mạng cho đất nước ta trong những năm tháng đầu sau khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Hai văn bản này tuy có thời điểm ra đời tương đối gần nhau những cũng đã có những sự khác biệt, cho thấy Đảng đã có những quyết sách khác nhau và phù hợp cho từng giai đoạn cụ thể trước những biến động ở cả xã hội trong nước cũng như quốc tế. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài đó là phân tích Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903). Từ đó làm rõ quá trình chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong thời kì 1930, cũng như để làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng một chính đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, bài tiểu luận bao gồm những nhiệm vụ sau: Chỉ ra và đánh giá tình hình trong nước cũng như quốc tế thời kì 1930 Làm rõ quá trình thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam Nghiên cứu Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903) So sánh và chỉ ra những điểm giống và khác nhau của hai văn bản trên Đánh giá và đưa ra kết luận. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của bài tiểu luận bao gồm Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903). Ngoài ra, cũng nghiên cứu sơ bộ về quá trình thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam và những ảnh hưởng cả trong nước và quốc tế tới quá trình ra đời của Đảng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: bài nghiên cứu tập trung vào tình hình xã hội và chính trị ở Việt Nam, nhưng cũng có chỉ ra một số vấn đề quốc tế có liên quan. Về thời gian: thời kì 1930 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Bài tiểu luận dựa trên cơ sở thực tiễn về lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cùng với đó là vận dụng những kết quả của các bài nghiên cứu khác về lịch sử ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong bài tiều luận này là phương pháp nghiên cứu lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu cũng như so sánh. Kết hợp với đó là sự vận dụng các lý luận về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để thực hiện nhiệm vụ đề ra của bài nghiên cứu. 6. Kết cấu của bài tiểu luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài nghiên cứu bao gồm ba phần: Phần I: Bối cảnh xã hội nước ta trong thời kì 1930 Phần II: Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên (21930) và Luận cương chính trị (101930) của Đảng Phần III: So sánh hai bản văn kiện của Đảng PHẦN I: BỐI CẢNH XÃ HỘI NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ 1930 1.1. Bối cảnh quốc tế Trong hoàn cảnh vị thế của các cường quốc tư bản chủ nghĩa ở phương tây được củng cố sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng vô sản đầu thế kỉ XX đã có thời điểm tưởng chừng như sẽ thoái trào. Khi đã đạt được sự phồn vinh về kinh tế, gánh nặng thất nghiệp trong xã hội được giảm bớt, đời sống của người dân tăng lên. Đã có những lúc những nhà xã hội chủ nghĩa ở phương tây tính toán đến việc hợp tác với chế độ tư sản để tích lũy của cải, đi qua con đường tư bản chủ nghĩa để đạt được chủ nghĩa xã hội một cách hòa bình. Tuy nhiên sự hòa bình và ổn định trong những năm 1924 – 1929 là không thật sự hiệu quả, trên thực tế đã không loại bỏ triệt để được những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa như mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với công nhân lao động, càng không khắc phục được những yếu kém, những nhược điểm vốn có của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế nổ ra ở nước Mĩ vào tháng 101929 và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. Mức sản xuất của toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa giảm tới 42%, trong đó về tư liệu sản xuất giảm 53% 3. Cuộc khủng hoảng đã chấm dứt thời kỳ “thăng bằng” và “ổn định” của các nước tư bản chủ nghĩa. Cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài từ năm 1929 đến năm 1933, diễn ra ở tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, … quan trọng của giới tư bản thời bấy giờ. Quá trình mậu dịch của thế giới cũng bị kéo theo giảm mạnh đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng này là do sức sản xuất của các quốc gia tư bản phát triển quá nhanh trong thời gian ổn định, nhưng nhu cầu và sức mua của người dân không tăng lên tương ứng, làm cho hàng hóa ngày càng bị mất giá và dần dần dẫn tới sự suy thoái trong sản xuất. Nước Mĩ là quốc gia có sự phát triển nhanh hơn trong thời kì ổn định cũng chính là quốc gia đầu tiên chịu sự ảnh hưởng của cuộc đại suy thoái. Và cũng chính nước Mĩ là nước phải chịu những hậu quả nghiêm trọng nhất trong cuộc khủng hoảng này. Cuộc đại suy thoái diễn ra ở gần như tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, tuy nhiên, ở các nước khác nhau, thời điểm xảy ra cũng như mức độ ảnh hưởng là không giống nhau. Ở châu Âu, Đức là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nền nhất khi có một nền kinh tế phải phụ thuộc vào Mĩ rất nhiều. Nước Anh tuy cũng phải chịu một số tác động, tuy nhiên ở mức độ nhẹ hơn và không gặp phải quá nhiều thiệt hại như Mĩ hay Đức. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 không những tàn phá nền kinh tế mà còn để lại những hậu quả vô cùng to lớn về chính trị và xã hội cho chủ nghĩa tư bản. Trong cuộc khủng hoảng này, số công nhân bị thất nghiệp trên toàn thế giới đã lên đến 50 triệu người. Hàng triệu người mất nhà cửa vì phải trả những khoảng nợ. Hàng triệu nông dân bị mất ruộng đất, phải sống trong cảnh nghèo đói. Công nhân không được trả lương. Ở nhiều nước không có hệ thống bảo hiểm xã hội và thất nghiệp, người lao động không được trả phụ cấp, hoặc nếu có thì cũng chỉ ở mức độ rất ít ỏi, không thể đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của các gia đình nghèo khổ. Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng thế giới đã có những biến chuyển quan trọng, từ tưởng như đã thoái trào tiến dần lên cao trào. Hàng nghìn cuộc biểu tình và những cuộc tuần hành của người thất nghiệp đã diễn ra, ở nhiều nơi đã xảy ra những cuộc đụng độ với cảnh sát và quân đội. Các cuộc đấu tranh, bãi công chống việc hạ thấp tiền lương đã nổ ra ở hầu khắp các nước. Trong khoảng thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở các nước tư bản đã lên tới 17 triệu người, số ngày bãi công lên tới 267 triệu 3. Sự phát triển không đồng đều, thậm chí có sự khác biệt nhau về hình thức thống trị giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành ngay từ những năm khủng hoảng kinh tế. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa ngày càng thiếu vốn, thiếu nguồn nguyên liệu và thị trường đã chuyển qua đi theo con đường phát xít hóa chế độ chính trị hòng cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước như Đức, Italia và Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Các nhà độc tài ở các nước này như Mussolini hay Hitler đã bắt đầu ráo riết triển khai, thi hành những chính sách cai trị đất nước và chuẩn bị cho chiến tranh. Ngay cả nước Đế quốc Nhật Bản ở châu Á cũng thi hành những chính sách quân phiệt và kí hiệp ước với các nước phát xít ở châu Âu, hình thành nên phe “trục”, những mầm mống cho một cuộc chiến tranh thế giới mới đã dần xuất hiện. Trong khi đó, các nước như Mĩ Anh, Pháp, … vì có nhiều thuộc địa, có nguồn vốn cũng như thị trường nên đã dễ dàng thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế xã hội một cách ôn hòa, cho nên chủ trương vẫn tiếp tục duy trì nền dân chủ đại nghị, duy trì nguyên trạng hệ thống trật tự Versailles Washington. Để thích nghị với những điều kiện mới, những nhà cải cách ở những nước này đều tiến tới cải cách vai trò Nhà nước cũng như sự kết hợp của nhà nước với các công ty tư bản lũng đoạn trong việc chi phối toàn bộ đời sống kinh tế đất nước. Một thời kỳ mới trong sự phát triển cua tư bản chủ nghĩa được mở ra: Thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn Nhà nước. Quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa vào thời kì 1930 đã có những sự chuyển biến hết sức phức tạp. Tác động của một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã hình thành nên hai khối đối lập, giữa một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối này báo hiệu cho một cuộc chiến tranh thế giới mới sẽ nổ ra trong thập niên tiếp theo. Tại nước Pháp, cuộc khủng hoảng kinh tế kéo đến muộn hơn, tuy nhiên lại diễn ra theo một chiều hướng mạnh mẽ và sâu sắc. Ơ nước Pháp, các cuộc khủng hoảng công nghiệp diễn ra xen kẽ với khủng hoảng nông nghiệp và tài chính. Sản lượng công nghiệp của Pháp giảm 13, nông nghiệp giảm 25, ngoại thương giảm 35 và thu nhập của người dân giảm tới 13. Cuộc khủng hoảng ảnh hưởng nghiêm trọng nhất tới ngành công nghiệp nhẹ. Trong suốt thời kì của cuộc khủng hoảng, có tới 130 xí nghiệp dệt vải bị phá sản, sản lượng tơ lụa và len năm 1934 giảm một nửa so với năm 1929. Sản xuất bị thu hẹp dẫn tới nạn thất nghiệp. Năm 1935, có trên nửa triệu người Pháp bị thất nghiệp, những người vẫn còn việc làm thì cũng không khá hơn bao nhiêu, khi mà tiền lương bị giảm từ 30 đến 40%. Không chỉ công nhân, các tầng lớp khác trong xã hội cũng bi ảnh hưởng sâu sắc trước tác động của cuộc khủng hoảng. Khoảng một vạn chủ xí nghiệp nhỏ, 10 vạn tiểu thương bị phá sản; thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần 3. Trước tình hình như vậy, giới cầm quyền nước Pháp đã quyết định trút bỏ gánh nặng kinh tế cũng như xã hội lên giai cấp công nhân, nông dân và người dân ở các quốc gia thuộc địa. 1.2. Tình hình trong nước Từ những năm cuối thập niên 20 của thế kỉ trước, nền kinh tế Việt Nam vốn đã bị phụ thuộc nặng nề vào kinh tế nước Pháp, nay lại phải gánh chịu những hậu quả khủng hoảng ở “chính quốc” nên lại càng suy sụp hơn và bước vào thời kỳ suy thoái, khủng hoảng theo xu thế chung của thế giới. Những sự khủng hoảng bắt đầu từ nông nghiệp. Lúa gạo, vốn là sản phẩm chính của Việt Nam mất giá nghiêm trọng. Năm 1929, giá 1 tạ gạo là 11 đồng, đến năm 1933, giảm xuống còn 3 đồng cho 1 tạ gạo. Ruộng đất thì bị bỏ hoang ngày càng nhiều, năm 1933, diện tích ruộng đất bỏ hoang đã lên tới 370.000 ha 4. Ngành công nghiệp khai khoáng cũng bị đình trệ, sản lượng khoáng sản, đặc biệt là than giảm mạnh. Về tài chính, chính quyền thực dân đã ép đồng bạc Đông Dương phá giá. Ngân sách Đông Dương phải chi trả cho bộ máy thống trị và góp vào quỹ nước Pháp, năm 1931 chi 77% và trả tiền vay nợ 3,5%. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam gây ra ảnh hưởng rất nặng nề so với các thuộc địa khác của Pháp, cũng như so với các nước khác trong khu vực. Hậu quả lớn nhất mà cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra đối với xã hội nước ta là làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. 13 số công nhân bị thất nghiệp. Riêng miền Bắc, 25.000 công nhân bị sa thải, những công nhân có việc làm thì bị giảm lương từ 30% đến 50%. Cuộc sống thợ thuyền ngày càng khó khăn. Nông dân cũng phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi. Một suất sưu năm 1929 thì bằng với giá của 50kg gạo, đến năm 1933 là bằng 300kg gạo. Nông phẩm làm ra thì phải bán với giá rất thấp. Ruộng đất thì cũng bị các địa chủ chiếm đoạt. Đời sống nhân dân càng ngày càng bị bần cùng hóa. Trong tác phẩm Nông dân đồng bằng Bắc Kỳ, P. Gourou viết: “Người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ” 12, tr. 574. Các tầng lớp lao động khác như tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, tri thức cũng phải chịu những tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế. Địa chủ nhỏ cũng sa sút. Môt số tư sản dân tộc bị phá sản, vỡ nợ. Trong xã hội Việt Nam thời kì này đã nổi lên những mâu thuẫn vô cùng gay gắt. Trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Chính vì vậy, trong những năm cuối thập niên 20, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia. Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đã có những sự phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một sự lãnh đạo thống nhất của một đảng cách mạng. Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, góp phần hình thành nên các tổ chức cộng sản ở VIệt Nam. Ngay từ năm 1928, thực hiện chủ trương Vô sản hóa của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều cán bộ của hội đã về cơ sở, đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền, vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế càng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở Bắc Kỳ, từ đó lan rộng ra và trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Đã nổ ra những cuộc đấu tranh, bãi công của công nhân ở nhiều nơi. Các cuộc bãi công không chỉ bó hẹp trong phạm vi một xưởng, một địa phương, một ngành mà đã bắt đầu có sự liên kết thành những phong trào chung. Một số cuộc bãi công tiêu biểu của công nhân như: cuộc bãi công của công nhân mỏ than Mạo Khê, đồn điền Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến Thủy, …đã làm cho phong trào cách mạng ở đây phát triển sôi nổi hơn. Từ những yếu tố đó, yêu cầu thành lập một đảng cộng sản để có thể lãnh đạo tầng lớp công nhân, nông dân và tri thức cũng xuất hiện sớm hơn. Cuối tháng 3 1929, một số nhà yêu nước tiên tiến đã họp ở tại nhà số 5D, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, bao gồm 7 đảng viên1, do Trần Văn Cung làm Bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một đảng cộng sản để thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 5 1929, tại Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) đã xảy ra những bất đồng giữa các đoàn đại biểu về vấn đề thành lập đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự dẫn đầu đã kiên quyết đấu tranh đòi thành lập ngay một đảng cộng sản. Yêu cầu này đã không được Đại hội chấp nhận, 1 Bao gồm: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kim Tôn

Lý do chọn đề đề tài

Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gắn liền với lịch sử dân tộc, thể hiện qua những thắng lợi chiến lược mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự vĩ đại của Đảng, cho thấy tầm quan trọng của Đảng trong quá trình phát triển của đất nước Để hiểu rõ hơn về quan điểm và đường lối của Đảng từ những ngày đầu, tôi lựa chọn đề tài So sánh Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

1930) và Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng cho bài tiểu luận của mình.

Tổng quan nghiên cứu đề tài

Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên vào tháng 2 năm 1930 đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử Việt Nam, đánh dấu cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ chế độ thực dân và xây dựng một nhà nước phát triển Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có Luận cương chính trị (10-1903), góp phần xác định đường lối cách mạng cho đất nước trong những năm đầu sau khi Đảng ra đời Mặc dù hai văn kiện này ra đời gần nhau, nhưng chúng thể hiện những quyết sách khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể trước những biến động của xã hội trong nước và quốc tế.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 2 năm 1930) và Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10 năm 1903) Qua đó, đề tài nhằm làm rõ quá trình chuyển biến của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930.

Nhiện vụ nghiên cứu

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, bài tiểu luận bao gồm những nhiệm vụ sau:

- Chỉ ra và đánh giá tình hình trong nước cũng như quốc tế thời kì 1930

- Làm rõ quá trình thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam

- Nghiên cứu Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2 -

1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1903)

- So sánh và chỉ ra những điểm giống và khác nhau của hai văn bản trên

- Đánh giá và đưa ra kết luận.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Bài tiểu luận này phân tích sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời ứng dụng các kết quả từ các nghiên cứu trước đó về lịch sử ra đời của Đảng.

Phương pháp nghiên cứu

Bài tiểu luận này áp dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh, đồng thời kết hợp lý luận về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để thực hiện mục tiêu nghiên cứu.

Kết cấu của bài tiểu luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài nghiên cứu bao gồm ba phần:

Phần I: Bối cảnh xã hội nước ta trong thời kì 1930 Phần II: Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930) và Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng

Phần III: So sánh hai bản văn kiện của Đảng

BỐI CẢNH NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ 1930

Bối cảnh quốc tế

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, vị thế của các cường quốc tư bản chủ nghĩa ở phương Tây được củng cố, khiến phong trào cách mạng vô sản đầu thế kỷ XX có lúc tưởng chừng sẽ thoái trào Sự phồn vinh kinh tế gia tăng, gánh nặng thất nghiệp giảm bớt và đời sống người dân cải thiện Trong bối cảnh này, một số nhà xã hội chủ nghĩa ở phương Tây đã xem xét khả năng hợp tác với chế độ tư sản để tích lũy của cải, nhằm đạt được chủ nghĩa xã hội một cách hòa bình thông qua con đường tư bản chủ nghĩa.

Mặc dù giai đoạn 1924 – 1929 có vẻ hòa bình và ổn định, nhưng thực tế không giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản, đặc biệt là giữa giai cấp tư sản và công nhân Những yếu kém của nền kinh tế tư bản vẫn tồn tại và không được khắc phục Cuộc đại khủng hoảng kinh tế bắt đầu ở Mỹ vào tháng 10-1929 đã nhanh chóng lan rộng toàn cầu, khiến sản xuất toàn cầu giảm 42%, trong đó tư liệu sản xuất giảm 53% Khủng hoảng này đã chấm dứt thời kỳ “thăng bằng” và “ổn định” của các nước tư bản chủ nghĩa.

Cuộc khủng hoảng kinh tế từ năm 1929 đến 1933 đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và tài chính của giới tư bản Nguyên nhân chính là do sức sản xuất tăng nhanh trong khi nhu cầu và sức mua của người dân không theo kịp, dẫn đến tình trạng hàng hóa mất giá và suy thoái sản xuất Mỹ, với sự phát triển vượt bậc trong thời kỳ ổn định, là quốc gia đầu tiên và cũng là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc đại suy thoái Mặc dù cuộc khủng hoảng lan rộng ra hầu hết các nước tư bản, nhưng mức độ và thời điểm ảnh hưởng lại khác nhau, trong đó Đức ở châu Âu là quốc gia chịu tác động nghiêm trọng nhất do nền kinh tế phụ thuộc vào.

Mỹ chịu ảnh hưởng nặng nề từ các tác động, trong khi đó nước Anh cũng bị tác động nhưng ở mức độ nhẹ hơn và không gặp phải thiệt hại nghiêm trọng như Mỹ hay Đức.

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến 50 triệu công nhân thất nghiệp và hàng triệu người mất nhà cửa do nợ nần Nông dân cũng chịu cảnh mất ruộng đất và đói nghèo, trong khi công nhân không nhận được lương và thiếu thốn bảo hiểm xã hội Tình hình này đã kích thích phong trào cách mạng, với hàng nghìn cuộc biểu tình và tuần hành của người thất nghiệp, nhiều nơi xảy ra đụng độ với cảnh sát Từ năm 1928 đến cuối năm 1933, có tới 17 triệu người tham gia bãi công tại các nước tư bản, với tổng số ngày bãi công lên tới 267 triệu.

Sự phát triển không đồng đều giữa các nước tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến những khác biệt trong hình thức thống trị từ những năm khủng hoảng kinh tế Các quốc gia thiếu thuộc địa, vốn và nguyên liệu, như Đức, Italia và Nhật Bản, đã chuyển sang chế độ phát xít hóa để đối phó với khủng hoảng Các nhà độc tài như Mussolini và Hitler đã thực hiện các chính sách cai trị quyết liệt và chuẩn bị cho chiến tranh Đế quốc Nhật Bản cũng áp dụng chính sách quân phiệt và ký kết hiệp ước với các nước phát xít châu Âu, tạo nên phe "trục" và dần hình thành những mầm mống cho một cuộc chiến tranh thế giới mới.

Các nước như Mỹ, Anh và Pháp, nhờ vào việc sở hữu nhiều thuộc địa, đã có nguồn vốn và thị trường rộng lớn, từ đó dễ dàng vượt qua khủng hoảng thông qua các cải cách kinh tế hiệu quả.

Xã hội đang hướng tới sự ổn định và tiếp tục duy trì nền dân chủ đại nghị, đồng thời giữ nguyên trạng hệ thống trật tự Versailles - Washington Để thích ứng với những điều kiện mới, các nhà cải cách ở những quốc gia này đang tiến hành cải cách vai trò của Nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với các công ty tư bản lũng đoạn, nhằm chi phối toàn bộ đời sống kinh tế Thời kỳ mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu: Thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn Nhà nước.

Vào thập niên 1930, quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra với nhiều biến động phức tạp do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu Sự phân chia thành hai khối đối lập: Đức, Italia, Nhật Bản và Anh, Pháp, Mĩ, đã dẫn đến các cuộc chạy đua vũ trang, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới sắp diễn ra.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Pháp diễn ra muộn nhưng mạnh mẽ, với sự kết hợp của khủng hoảng công nghiệp, nông nghiệp và tài chính Sản lượng công nghiệp giảm 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, và thu nhập của người dân giảm tới 1/3 Ngành công nghiệp nhẹ chịu ảnh hưởng nặng nề, với 130 xí nghiệp dệt vải phá sản và sản lượng tơ lụa, len giảm một nửa so với năm 1929 Tình trạng này dẫn đến nạn thất nghiệp, với hơn nửa triệu người Pháp không có việc làm vào năm 1935, trong khi những người còn lại cũng phải chịu mức lương giảm từ 30 đến 40% Không chỉ công nhân, mà cả các tầng lớp khác trong xã hội cũng bị tác động nặng nề, với khoảng 10.000 chủ xí nghiệp nhỏ và 100.000 tiểu thương phá sản, thu nhập của nông dân giảm 2,7 lần Đối mặt với tình hình nghiêm trọng này, chính quyền Pháp đã quyết định chuyển gánh nặng kinh tế và xã hội lên giai cấp công nhân, nông dân và người dân tại các quốc gia thuộc địa.

Vào cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, nền kinh tế Việt Nam đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự khủng hoảng ở Pháp, dẫn đến suy thoái kinh tế nghiêm trọng Nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa gạo, chịu tác động lớn khi giá gạo giảm mạnh từ 11 đồng năm 1929 xuống còn 3 đồng vào năm 1933, cùng với diện tích ruộng đất bỏ hoang tăng lên 370.000 ha Ngành công nghiệp khai khoáng cũng không khá hơn, với sản lượng than sụt giảm Hơn nữa, chính quyền thực dân đã ép đồng bạc Đông Dương phá giá, gây khó khăn cho ngân sách khi phải chi trả cho bộ máy thống trị và góp phần vào quỹ của Pháp.

1931 chi 77% và trả tiền vay nợ 3,5%.

Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam gây ra những tác động nặng nề hơn so với các thuộc địa khác của Pháp và các nước trong khu vực, làm trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo của người lao động Khoảng 1/3 số công nhân bị thất nghiệp, trong khi miền Bắc có 25.000 công nhân bị sa thải và những người còn làm việc phải chịu mức lương giảm từ 30% đến 50% Cuộc sống của thợ thuyền trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, trong khi nông dân phải đối mặt với thuế cao và nợ nần chồng chất Một suất sưu năm 1929 tương đương với giá 50kg gạo, cho thấy sự khốn khó của người dân trong bối cảnh này.

Năm 1933, nông dân chỉ nhận được 300kg gạo, trong khi giá nông phẩm bán ra rất thấp Ruộng đất bị các địa chủ chiếm đoạt, dẫn đến tình trạng bần cùng hóa ngày càng gia tăng trong đời sống nhân dân P Gourou trong tác phẩm "Nông dân đồng bằng Bắc Kỳ" đã khẳng định: “Người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ.”

Cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác động nặng nề đến các tầng lớp lao động như tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức và tri thức, khiến cho địa chủ nhỏ cũng gặp khó khăn Nhiều tư sản dân tộc rơi vào tình trạng phá sản và nợ nần Thời kỳ này, xã hội Việt Nam chứng kiến những mâu thuẫn gay gắt, nổi bật là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến.

Vào cuối thập niên 20, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, thu hút sự tham gia của nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội Đến năm 1929, sự phát triển này đòi hỏi một lãnh đạo thống nhất từ một đảng cách mạng, tạo ra áp lực cho các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực, từ đó góp phần hình thành các tổ chức cộng sản tại Việt Nam.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam

Phong trào dân tộc dân chủ tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, yêu cầu cần có sự lãnh đạo thống nhất từ một đảng cộng sản Việc ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng lẻ đã làm phân tán sức mạnh của phong trào cách mạng, điều này không phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản.

Ngày 27 - 10 - 1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ: “Việc thiếu một Đảng

Trong bối cảnh phong trào công nhân và nông dân đang phát triển mạnh mẽ, sự tồn tại của một đảng cộng sản duy nhất trở thành mối đe dọa lớn đối với tương lai cách mạng ở Đông Dương Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh rằng nhiệm vụ cấp bách nhất của các cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng Cộng sản quần chúng, mang tính chất giai cấp của vô sản, và phải là tổ chức cộng sản duy nhất tại khu vực này Tuy nhiên, tài liệu quan trọng này vẫn chưa được chuyển đến tay các cộng sản Việt Nam.

Vào thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc đang ở Xiêm tìm cách trở về nước và nhận được thông tin về sự phân chia của các tổ chức cộng sản trong nước Ông đã rời Xiêm sang Hương Cảng, Trung Quốc, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có quyền quyết định về phong trào cách mạng ở Đông Dương Tại đây, ông triệu tập đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng để tổ chức Hội nghị hợp nhất hai đảng, diễn ra vào ngày 6 tháng 1 năm 1930 Đại diện An Nam cộng sản Đảng gồm Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, trong khi đại biểu Đông Dương cộng sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh Tổng số đảng viên tham gia Hội nghị hợp nhất lên tới 310 đồng chí, phân bố ở các khu vực như Xiêm, Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Trung Quốc.

Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ trích các quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản riêng lẻ và trình bày chương trình Hội nghị Hội nghị đã nhất trí hợp nhất hai tổ chức Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện như Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng Nhân dịp này, Nguyễn Ái Quốc đã viết Lời kêu gọi kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh và các tầng lớp bị áp bức tham gia Đảng, đấu tranh chống lại đế quốc Pháp, chế độ phong kiến An Nam và tư sản phản cách mạng.

Hội nghị đã đề ra mục tiêu "làm cho nước An Nam được độc lập" và thiết lập kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, đồng thời thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.

Sau hội nghị hợp nhất vào ngày 8-2-1930, các đại biểu trở về nước để triển khai kế hoạch hợp nhất các cơ sở đảng Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập với Trịnh Đình Cửu làm trưởng ban cùng các thành viên như Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, và Nguyễn Phong Sắc Các xứ ủy cũng được thành lập, với Đỗ Ngọc Du là Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Nguyễn Phong Sắc là Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, và Ngô Gia Tự là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Ngày 24-2-1930, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Việc Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam, khẳng định sự trưởng thành của giai cấp vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam vào đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại mới Từ sau Hội nghị này, con đường cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, với đường lối cách mạng khoa học, tổ chức chặt chẽ và đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung, sẵn sàng hy sinh cho độc lập và tự do của dân tộc.

BẢN CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN (2-1930) VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ (10-1930) CỦA ĐẢNG

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2-1930)

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, tạo thành bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với những nội dung cơ bản.

Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam được xác định là thực hiện tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, nhằm tiến tới xây dựng xã hội cộng sản.

Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:

Chúng ta cần đánh bại đế quốc Pháp và các thế lực phong kiến để giành lại độc lập cho nước Nam, đồng thời xây dựng Chính phủ đại diện cho công nông và tổ chức một quân đội mạnh mẽ của công nông.

Chính phủ công nông binh sẽ tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, biến chúng thành tài sản công và phân chia cho nông dân nghèo Đồng thời, cần mở rộng ngành công nghiệp và nông nghiệp để hỗ trợ đời sống của dân cày nghèo, thực hiện luật làm việc tám giờ mỗi ngày.

Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa

Nhiệm vụ chính trong giai đoạn này là chống đế quốc để giành lại độc lập dân tộc, bên cạnh đó còn bao gồm việc bảo vệ nội dung dân tộc và dân chủ, cũng như đấu tranh chống lại phong kiến.

Đảng tập hợp lực lượng cách mạng chủ yếu từ giai cấp công nhân và nông dân, đặc biệt dựa vào tầng lớp dân cày nghèo để lãnh đạo cuộc cách mạng ruộng đất Đồng thời, đảng cũng lôi kéo tiểu tư sản, tri thức và trung nông tham gia vào phong trào vô sản Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng, cần phải lợi dụng để giữ họ trung lập Những bộ phận đã công khai chống lại cách mạng thì phải bị đánh đổ.

Chủ trương tập hợp lực lượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên lạc với các giai cấp Ông khuyến cáo cần cẩn trọng và không được nhượng bộ lợi ích của công nông để tránh rơi vào con đường thỏa hiệp.

Lãnh đạo cách mạng được xác định là giai cấp công nhân thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đảng đóng vai trò là đội tiền phong của giai cấp vô sản, với nhiệm vụ thu hút đại bộ phận giai cấp công nhân và đảm bảo rằng giai cấp này có thể lãnh đạo nhân dân.

Cách mạng Việt Nam là một phần quan trọng trong cuộc cách mạng toàn cầu, gắn bó chặt chẽ với các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trên khắp thế giới, đặc biệt là với giai cấp công nhân Pháp.

Luận cương chính trị của Đảng (10-1930)

Sau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ được bí mật phổ biến trong quần chúng, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Ban Chấp hành Trung ương lâm thời đã nhanh chóng đối mặt với thử thách lớn, đảm nhận vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh mới của dân tộc.

Năm 1930, trong bối cảnh phong trào cách mạng 1930-1931 đang diễn ra mạnh mẽ, Trần Phú trở về nước sau thời gian dài học tập ở Liên Xô để tham gia hoạt động cách mạng Vào tháng 7-1930, ông được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng, được giao nhiệm vụ cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Trong thời gian này, một số ủy viên Trung ương lâm thời bị địch bắt, dẫn đến việc bổ sung một số ủy viên mới.

Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Hương Cảng, Trung Quốc, do Trần Phú chủ trì Tại hội nghị, Đảng đã quyết định đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cùng với việc thảo luận bản Luận cương chính trị Ban Chấp hành Trung ương mới được thành lập với 6 ủy viên, trong đó Ban Thường vụ gồm Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, với Trần Phú giữ chức Tổng Bí thư.

Hội nghị đã đánh giá Chánh cương và Sách lược vắn tắt của Đảng, nhấn mạnh rằng việc chỉ tập trung vào phản đế mà bỏ quên lợi ích của giai cấp trong đấu tranh là một thiếu sót nghiêm trọng.

Ban Chấp hành Trung ương quyết định xây dựng cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng dựa trên nghị quyết của Quốc tế Cộng sản nhằm chỉnh đốn nội bộ Hội nghị đã thảo luận về Dự án Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong đó xác định những định hướng quan trọng cho sự phát triển của Đảng.

Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, với

“một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa” [8].

Luận cương chỉ rõ rằng cách mạng Đông Dương ban đầu mang tính chất “cách mạng tư sản dân quyền”, với đặc điểm thổ địa và phản đế Thời kỳ này được xem là giai đoạn chuẩn bị cho việc xây dựng một xã hội cách mạng Sau khi đạt được thắng lợi trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua giai đoạn tư bản để tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ các di tích phong kiến và chế độ bóc lột, đồng thời thực hiện cách mạng thổ địa một cách triệt để Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ: việc đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp sẽ giúp phá vỡ giai cấp địa chủ và đạt được thắng lợi trong cách mạng, trong khi việc xóa bỏ chế độ phong kiến là điều kiện cần thiết để đánh bại đế quốc chủ nghĩa Luận cương khẳng định rằng vấn đề thổ địa là cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền, đóng vai trò quan trọng trong việc Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản đóng vai trò lãnh đạo mạnh mẽ, còn nông dân là lực lượng đông đảo Các giai cấp khác như tư sản thương nghiệp thường đứng về phía đế quốc chống lại cách mạng, trong khi tiểu tư sản thể hiện sự do dự và không đồng tình với cuộc cách mạng Chỉ có những phần tử lao khổ ở đô thị như người bán hàng rong, thợ thủ công nhỏ, và tri thức thất nghiệp mới thực sự tham gia tích cực vào cách mạng.

Luận cương khẳng định rằng để đạt được thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương, cần thiết phải có một Đảng Cộng sản với đường lối chính trị đúng đắn, kỷ luật tập trung và gắn bó chặt chẽ với quần chúng Đảng Cộng sản phải là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, đại diện cho quyền lợi lâu dài của toàn bộ giai cấp vô sản ở Đông Dương Mục tiêu cuối cùng của Đảng là lãnh đạo giai cấp vô sản Đông Dương đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản.

Luận cương khẳng định rằng để đạt được mục tiêu đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền cho công nông, cần chuẩn bị quần chúng cho con đường “võ trang bạo động” Tùy theo tình hình, cần đặt khẩu hiệu “phần ít” và bắt đầu từ những vấn đề chủ yếu hàng ngày để dẫn dắt giai cấp vô sản và dân cày vào chiến trường cách mạng Khi có tình thế cách mạng, Đảng cần lập tức lãnh đạo quần chúng đánh đổ chính phủ địch và giành lấy chính quyền cho công nông Võ trang bạo động để giành chính quyền được coi là một nghệ thuật và phải tuân theo khuôn phép nhà binh.

Cách mạng Đông Dương là một phần quan trọng của cách mạng vô sản toàn cầu, đòi hỏi giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt là với giai cấp vô sản Pháp Đồng thời, cần thiết thiết lập mối liên hệ mật thiết với các phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, nhằm mở rộng và củng cố lực lượng cho cuộc đấu tranh cách mạng tại Đông Dương.

SO SÁNH HAI BẢN VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một tài liệu quan trọng, thể hiện sự sáng tạo trong việc giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới Nó đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, với quan điểm giai cấp và tinh thần dân tộc mạnh mẽ, nhằm đạt được độc lập tự do Cương lĩnh nhấn mạnh việc tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để hướng tới xã hội cộng sản Nhờ sự thống nhất trong tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng đã thu hút được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và toàn dân tộc Việt Nam, trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, sớm được nhân dân thừa nhận và đại diện cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc.

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã nêu ra nhiều vấn đề chiến lược quan trọng trong cách mạng, nhưng do nhận thức sai lầm về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, cũng như thiếu hiểu biết về tình hình xã hội Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương đã không xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp, từ đó không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà chỉ tập trung vào đấu tranh giai cấp Về cách mạng ruộng đất, luận cương không đề xuất một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp, đồng thời đánh giá sai vai trò của giai cấp tiểu tư sản và phủ nhận những mặt tích cực của tư sản dân tộc Những nhận thức hạn chế này đã dẫn đến việc Ban Chấp hành trung ương phê phán quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt tại Hội nghị hợp nhất Chỉ đến Hội nghị VIII vào tháng 5-1941, Đảng mới có những quyết định sửa đổi cần thiết để đưa cách mạng đến thành công.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với tổ chức chặt chẽ và các văn kiện quan trọng như Bản cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930) và Luận cương chính trị (10-1903) đã kết thúc thời kỳ khủng hoảng lãnh đạo kéo dài suốt những năm đầu thế kỷ XX Điều này đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia cách mạng, mở ra một trang sử mới đầy tươi sáng cho Việt Nam.

Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng đã khởi xướng cuộc cách mạng, đoàn kết toàn dân để đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp Màu cờ đỏ của Đảng tượng trưng cho ánh sáng của sự tự do, dẫn dắt nhân dân tiến lên trong cuộc cách mạng chống lại áp bức Sự ra đời của Đảng đánh dấu bước chuẩn bị quan trọng cho những bước phát triển vượt bậc trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khởi đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1 (2002), Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

2 (2002), Hồ Chí Minh toàn tập (tập 10), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

3 Nguyễn Anh Thái (cb) (2006), Lịch sử thế giới hiện đại 1917 - 1995, Nxb Giáo dục, Hà Nội

4 (1989), Lịch sử Việt Nam Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

5 Hồng Thế Công (1933), Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương.

6 Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập (tập 1), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

7 Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập (tập 2), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

8 Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng Toàn tập (tập 9), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

9 Đinh Xuân Lâm (cb) (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam Tập 2, 1858 - 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội

10 Phan Ngọc Liên (cb) (2018), Sách giáo khoa Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội

Ngày đăng: 10/09/2021, 13:39

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w