1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945

113 39 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 1,46 MB

Cấu trúc

  • I. Lí do chọn đề tài (5)
  • II. Lịch sử nghiên cứu (6)
  • III. Mục đích nghiên cứu đề tài (6)
  • IV. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài (7)
  • V. Phương pháp nghiên cứu (7)
  • IV. Kết cấu đề tài (7)
  • B. NỘI DUNG (8)
  • CHƯƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG 1930 -1939 (8)
    • 1.1. Đảng lãnh đạo xâ dựng lực lượng chính trị 1930-1935 (0)
      • 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử (9)
      • 1.1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xâ dựng lực lượng chính trị trong cao trào cách mạng 1930-1931 (0)
      • 1.1.3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, vừa lãnh đạo xâ dựng lực lượng chính trị (1932-1935) (32)
    • 1.2. Đảng lãnh đạo xâ dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939 (0)
      • 1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử (35)
      • 1.2.2. Chủ trương của Đảng về xâ dựng lực lượng trong thời kỳ vận động dân chủ 1936-1939 (0)
  • CHƯƠNG 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TIẾN TỚI VŨ TRANG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1939 - 1945 (51)
    • 2.1. Hoàn cảnh lịch sử (51)
    • 2.2. Chủ trương của Đảng trước tình hình mới (54)
      • 2.2.1. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939 (54)
    • 2.3. Đảng xâ dựng lực lượng cách mạng (0)
      • 2.3.1. Xâ dựng căn cứ địa cách mạng (0)
      • 2.3.2. Xâ dựng lực lượng chính trị (0)
      • 2.3.3 Xâ dựng lực lượng vũ trang (0)
    • 2.4. Cách mạng tháng Tám với những kết quả đạt được (72)
  • CHƯƠNG 3 NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 (78)
    • 3.1. Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sát đúng đề tập hợp quần chúng, xâ dựng lực lượng cách mạng (78)
    • 3.2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của các tầng lớp, giai cấp (80)
    • 3.3. Kết hợp đúng đắn giữa xâ dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ (0)
    • 3.4. Xâ dựng và bố trí lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn và thành thị (0)
    • 3.5. Gắn xâ dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng cố, phát triển lực lượng (0)
    • 3.6. Xác định đúng vai trò nòng cốt của liên minh Công nông và lao động trí thức trong thành lập mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp lực lượng cách mạng (89)
    • C. KẾT LUẬN (111)
    • D. MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (113)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu

Để hiểu rõ về vai trò của sức mạnh quần chúng trong thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, cần nhận thức rằng ngoài lòng yêu nước, yếu tố này đóng vai trò quan trọng hơn Nghiên cứu về việc xây dựng lực lượng quần chúng trong cuộc cách mạng đã được thực hiện từ nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên, các nghiên cứu này có sự khác biệt về mức độ, phạm vi và cách nhìn nhận Sức mạnh của lực lượng quần chúng quyết định một cách rõ rệt đến thành công của cách mạng tháng 8 năm 1945.

1945, vì vậ em đã lựa chọn đề tài nà để nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1930-1945, đặc biệt là trong Cách mạng tháng Tám 1945 Nghiên cứu này nhằm cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện và sâu sắc, giúp đánh giá đúng hơn về vai trò của công tác xây dựng lực lượng cách mạng đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.

Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu và sinh viên Đậu Thị Bình đã rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng Những bài học này góp phần không nhỏ vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc trong công cuộc giành và giữ độc lập ở các giai đoạn sau.

Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu giải qu ết những vấn đề cơ bản sau:

- Đường lối, chủ trương của Đảng

- Xâ dựng lực lượng chính trị

- Xâ dựng lực lượng vũ trang

Nghiên cứu này tập trung vào ba vấn đề chính, đặc biệt là lịch sử đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc của Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào năm 1930 cho đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như:

- Phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với việc thu thập và sử lý những tài liệu

- Trong đó thì phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương pháp chủ ếu

Kết cấu đề tài

Kết cấu đề tài gồm 3 phần:

- Nội dung gồm 3 chương ( có ảnh minh họa )

- Mục tài liệu tham khảo

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 4 SVTH: Đậu Thị Bình

NỘI DUNG

Vận dụng học thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong bối cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vai trò quan trọng của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trong cách mạng Ông nhấn mạnh rằng bạo lực cách mạng ở Việt Nam phải do quần chúng lãnh đạo dưới sự chỉ đạo của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang, cùng với hai hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang Lực lượng chính trị, theo Người, là nền tảng của cách mạng, đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân Để có một quân đội vững mạnh, cần phải xây dựng một đội quân chính trị đông đảo và mạnh mẽ, với quần chúng được giác ngộ chính trị Tư tưởng này không chỉ là cốt lõi trong quan điểm của Hồ Chí Minh mà còn là đường lối xuyên suốt trong việc xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng.

Kể từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, đất nước đã chuyển từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một thuộc địa nửa phong kiến Hai mâu thuẫn cơ bản đã xuất hiện: một là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và bọn tay sai của chúng; hai là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, với địa chủ phong kiến.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG 1930 -1939

Đảng lãnh đạo xâ dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939

Đảng đã chủ trương thiết lập liên minh với các Đảng cải lương và những phần tử phản cách mạng nhỏ lẻ nhằm củng cố sức mạnh chống đế quốc Điều này thể hiện sự tiến bộ của Đảng trong việc xây dựng lực lượng cách mạng.

Từ Hội phản đế đồng minh (1930) đến tổ chức phản đế liên minh (1935), cả hai tổ chức này đã đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh trên toàn quốc, tạo nền tảng cho lực lượng cách mạng cần thiết cho Cách mạng tháng Tám sau này.

1.2 Đảng lãnh đạo xây dựng lực lƣợng trong cao trào cách mạng 1936-1939

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm trầm trọng thêm mâu thuẫn xã hội trong các nước tư bản, dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít tại Đức, Tây Ban Nha, Italia và Nhật Bản Chế độ phát xít, với bản chất độc tài và tàn bạo, đã khởi xướng các cuộc chiến tranh xâm lược nhằm bành trướng quyền lực và nô dịch các quốc gia khác Liên minh giữa phát xít Đức và Nhật Bản, được gọi là khối "Trục", đã chuẩn bị cho chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và tiêu diệt Liên Xô, nơi được xem là thành trì cách mạng Mối đe dọa từ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đã đặt ra nguy cơ nghiêm trọng cho hòa bình và an ninh quốc tế, khi các nước đế quốc như Đức, Italia và Nhật Bản tiến hành xâm lược từ năm 1935 Sự căng thẳng giữa các nước phát xít và các quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ ngày càng gia tăng, trong khi phong trào đấu tranh chống phát xít và chiến tranh nở rộ ở nhiều nơi.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 32 SVTH: Đậu Thị Bình

B i cảnh lịch sử thế giới 1929-1933

Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản diễn ra tại Mátxcơva từ 25-7 đến 25-8-1935, trong bối cảnh chủ nghĩa phát xít đang gia tăng cả ở từng quốc gia và trên toàn cầu Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân nhằm chống lại nguy cơ phát xít và chiến tranh diễn ra mạnh mẽ, thể hiện ý chí thống nhất hành động của nhân dân lao động để tăng cường sức mạnh trong cuộc chiến này Đại hội quy tụ 510 đại biểu từ 65 nước, đại diện cho 3.141.000 đảng viên cộng sản, trong đó có 785.000 người thuộc các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa Tại đây, các đại biểu đã tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới từ Đại hội VI và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, tập trung vào việc xây dựng cương lĩnh quốc gia và quốc tế nhằm ngăn chặn nguy cơ chủ nghĩa phát xít.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 33 SVTH: Đậu Thị Bình nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ Liên Xô như một thành trì của cách mạng và hòa bình thế giới trước âm mưu xâm lược của tư bản Đại hội VII năm 1935 của Quốc tế Cộng sản được ghi nhận là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô, đồng thời là cuộc đấu tranh cho mặt trận công nhân và nhân dân chống lại chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đã tham gia Đại hội và trình bày tham luận về các vấn đề thiết yếu G Đimitơr đã trình bày báo cáo chính của Đại hội, tập trung vào sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh chống lại nó.

Bản báo cáo khẳng định bản chất giai cấp của chủ nghĩa phát xít, phê phán quan điểm sai lầm của Đảng Xã hội - dân chủ cho rằng đây chỉ là sự vùng dậy của tiểu tư sản Đimitơrốp đã phân tích sâu sắc tính chất giai cấp của chủ nghĩa phát xít và nhấn mạnh định nghĩa nổi tiếng từ Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành mở rộng lần thứ XIII.

GVHD Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu, cùng với SVTH Đậu Thị Bình, đã đưa ra nhận định rằng chủ nghĩa phát xít là một hình thức chuyên chính công khai của những phần tử phản động, bao gồm cả sôvanh và đế quốc chủ nghĩa, đại diện cho lợi ích của tư bản tài chính.

Báo cáo chỉ ra nguyên nhân chủ nghĩa phát xít lên nắm quyền, chủ yếu do lãnh tụ xã hội - dân chủ thực hiện chính sách hợp tác giai cấp với giai cấp tư sản, khiến giai cấp công nhân bị chia rẽ và mất vũ khí chính trị Đảng Cộng sản chưa đủ mạnh để chống lại Đảng Xã hội - dân chủ và tổ chức quần chúng tham gia cuộc chiến chống phát xít Đimitơrốp nhấn mạnh chủ nghĩa phát xít Đức là lực lượng phản động, gây ra chiến tranh đế quốc và âm mưu chống Liên Xô Sự lên cầm quyền của phát xít không chỉ là sự thay đổi chính phủ tư sản mà là sự chuyển đổi sang chế độ thống trị khủng bố công khai, đánh dấu sự khác biệt giữa chủ nghĩa phát xít và dân chủ tư sản Chủ nghĩa phát xít là bước lùi lớn so với nền dân chủ và là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản thối nát Đại hội khẳng định cuộc tấn công của phát xít và đế quốc đã làm thay đổi tình hình lực lượng giai cấp toàn cầu, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là chống chủ nghĩa phát xít và bảo vệ dân chủ trong phong trào công nhân các nước tư bản chủ nghĩa.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 35 SVTH: Đậu Thị Bình

Chủ nghĩa phát xít không chỉ đối lập với Liên Xô và giai cấp công nhân cách mạng, mà còn chống lại những người lao động giác ngộ và tất cả những ai đấu tranh cho dân chủ, hòa bình, và chống bạo lực Điều này tạo nên cơ sở giai cấp và xã hội cho chiến lược mới của những người cộng sản Đại hội đã thông qua nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mặt trận thống nhất toàn cầu để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đồng thời thể hiện sự ủng hộ cho những nỗ lực của chính phủ Liên Xô.

Mặt trận hòa bình và dân chủ toàn cầu được thành lập nhằm chống lại liên minh chiến tranh của phát xít Đại hội nhấn mạnh rằng không được xem nhẹ nguy cơ từ chủ nghĩa phát xít và bác bỏ quan điểm cho rằng sự thắng lợi của nó là điều không thể tránh khỏi Để đấu tranh thắng lợi, cần thiết phải thống nhất lực lượng công nhân trong từng quốc gia và toàn thế giới Hàng triệu công nhân đang tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của phát xít và lật đổ chính quyền phát xít hiện tại Quốc tế cộng sản khẳng định rằng việc thiết lập mặt trận thống nhất và sự phối hợp hành động của công nhân là điều cần thiết Sự thống nhất này chính là vũ khí mạnh mẽ giúp giai cấp công nhân tự bảo vệ và phản công hiệu quả chống lại phát xít Đimitrốp đã chỉ trích chính sách thỏa hiệp với giai cấp tư sản của những người lãnh đạo.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 36 SVTH: Đậu Thị Bình Đảng Xã hội - dân chủ đã chỉ ra rằng sự chia rẽ trong lực lượng công nhân là một trở ngại lớn cho việc khắc phục tình trạng này Đại hội kêu gọi tất cả các Đảng Cộng sản cần hợp tác để xây dựng mặt trận thống nhất cho giai cấp công nhân, bất kể thuộc đảng hay tổ chức nào, nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công lật đổ chủ nghĩa tư bản và giành thắng lợi cho cách mạng vô sản Chính sách của Đại hội nhấn mạnh việc liên hợp các tổ chức công nhân như công đoàn, Đảng, tổ chức thanh niên và các giai cấp khác Khẩu hiệu của nghị quyết là: “Một công đoàn cho mỗi ngành sản xuất, một liên hiệp công đoàn cho mỗi nước, một quốc tế công đoàn trên cơ sở đấu tranh giai cấp” Nhiệm vụ của những người cộng sản là thống nhất các công đoàn để chống lại sự tấn công của tư bản và bảo đảm nền dân chủ công đoàn.

Một thành công lớn của Quốc tế Cộng sản sau Đại hội VII là việc tập hợp đông đảo quần chúng lao động vào các tổ chức công đoàn nhằm chống lại chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, đồng thời bảo vệ quyền lợi kinh tế, chính trị của giai cấp công nhân Ở Pháp, Tây Ban Nha và nhiều quốc gia khác, các công đoàn mạnh mẽ thuộc liên minh quốc tế các Công đoàn đỏ đã hợp nhất với các công đoàn khác trên cơ sở bình đẳng.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 37 SVTH: Đậu Thị Bình Đại hội đã đề ra 5 điều kiện chung để thống nhất tổ chức Đảng.

Có sự độc lập hoàn toàn giữa giai cấp tư sản và khối xã hội - dân chủ, đồng thời thể hiện sự tách biệt rõ rệt giữa hai bên.

Thứ hai, là phải thực hiên thống nhất hành động

Thứ ba, cần thừa nhận rằng cách mạng là cần thiết để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập chính quyền Xô viết.

Thứ tư, từ chối không ủng hộ giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TIẾN TỚI VŨ TRANG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 1939 - 1945

Hoàn cảnh lịch sử

Vào ngày 1/9/1939, tình hình chính trị toàn cầu trở nên căng thẳng khi Phát xít Đức tấn công Ba Lan, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai Đến đầu năm 1941, quân Đức đã chiếm hầu hết các quốc gia tại Tây Âu và Đông Âu, trong khi Nhật Bản mở rộng sự chiếm đóng tại Trung Quốc và tiến xuống Đông Nam Á.

Năm 1939, khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, Đế quốc Pháp cũng bị cuốn vào cuộc chiến Chính phủ Pháp đã thực hiện các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa, dẫn đến sự tan vỡ của Mặt trận nhân dân Pháp và việc Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật Vào tháng 6 năm 1940, Đức tấn công Pháp và chính phủ Pháp đã phải đầu hàng Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức bất ngờ tiến công Liên Xô.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 48 SVTH: Đậu Thị Bình

Vào ngày 8 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng ở quần đảo Hawaii, Mỹ, đánh dấu sự bùng nổ của chiến tranh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương Kể từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, bản chất của cuộc chiến đã chuyển từ chiến tranh đế quốc sang cuộc xung đột giữa các lực lượng dân chủ, do Liên Xô dẫn đầu, và các lực lượng phát xít do Đức đứng đầu.

Bầu tr i Liên Xô trước sự tràn qu ét c a phát xít Đức-1941

Chiến tranh thế giới thứ hai đã có tác động sâu sắc đến Đông Dương và Việt Nam, đặc biệt là qua nghị định ngày 28-9-1939 của Toàn quyền Đông Dương, cấm tuyên truyền cộng sản và đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật Chính quyền thực dân Pháp đã thực hiện các biện pháp khắc nghiệt như giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn, tịch thu tài sản, và đóng cửa báo chí, nhằm đàn áp phong trào cách mạng và kiểm soát chặt chẽ đời sống chính trị của người dân Những hành động này thể hiện rõ ràng chính sách thời chiến của thực dân Pháp tại Việt Nam.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 49 SVTH: Đậu Thị Bình

Trong bối cảnh chiến tranh, hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ diễn ra, dẫn đến việc thủ tiêu nhiều quyền tự do và dân chủ đã giành được trong giai đoạn 1936-1939 Chính quyền thực dân Pháp ban hành lệnh tổng động viên và thực hiện chính sách "kinh tế chhu" nhằm vơ vét sức người và của cải để phục vụ cho chiến tranh Hơn 50.000 thanh niên bị bắt sang Pháp làm bia đỡ đạn, trong khi Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng bị tấn công mạnh mẽ Đến cuối tháng 9/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt, cùng với nhiều cán bộ, đảng viên khác bị giam giữ Thực dân Pháp cũng tăng thuế, trưng thu tài sản và kiểm soát chặt chẽ sản xuất, phân phối hàng hóa, ảnh hưởng nặng nề đến tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam, ngoại trừ những kẻ tay sai, địa chủ lớn và tư sản mại bản.

Sự tiến qu n c a Pháp ở Đông Dương (1939-1945)

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 50 SVTH: Đậu Thị Bình

Vào ngày 22-9-1940, lợi dụng sự thất bại của Pháp trước Đức, phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng Ngày 23-9-1940, Pháp đã ký hiệp định đầu hàng Nhật tại Hà Nội, từ đó nhân dân Việt Nam phải chịu đựng cảnh áp bức và bóc lột từ cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và các thế lực đế quốc, phát xít Pháp - Nhật trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

Chủ trương của Đảng trước tình hình mới

2.2.1.Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939

Vào tháng 11/1939, trong bối cảnh biến động toàn cầu và trong nước, Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị tại Bà Điểm (Gia Định) với sự tham gia của các đồng chí như Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, và Nguyễn Thị Minh Khai Hội nghị khẳng định rằng "giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương" và nhấn mạnh rằng "cách mạng phản đế và điền địa là hai mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền." Mặc dù các nguyên tắc này không bao giờ thay đổi, nhưng cần phải được áp dụng một cách khôn khéo để thực hiện nhiệm vụ chính cốt của cách mạng, đó là đánh đổ đế quốc.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 51 SVTH: Đậu Thị Bình

Hội nghị đã quyết định tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ và đề ra chính sách chống địa tô cao, cho vay nặng lãi, đồng thời tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội Thay vì thành lập chính quyền Xô Viết, hội nghị đã chuyển sang khẩu hiệu thành lập chính phủ cộng hòa dân chủ và quyết định thành lập mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương Lực lượng chính của cách mạng bao gồm công nhân, nông dân và trí thức, cùng với tiểu tư sản ở thành phố và nông thôn, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Trước những biến động toàn cầu và trong nước, Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến lược cách mạng để tập hợp quần chúng vào mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thực hiện các mục tiêu cách mạng.

2.2.2.Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1940

Vào tháng 11 năm 1940, Hội nghị trung ương Đảng diễn ra tại Đình Bảng, Bắc Ninh, khẳng định tính đúng đắn của chiến lược được đề ra tại hội nghị tháng 11 năm 1939 Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng thời điểm này là phát xít Pháp và Nhật.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 52 SVTH: Đậu Thị Bình

Hội nghị diễn ra trong bối cảnh phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương, khi thực dân Pháp nhượng bộ và đầu hàng Nhật, khiến nhân dân Việt Nam phải chịu sự thống trị của cả Pháp và Nhật Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ vào ngày 27-9-1940, và sau nhiều cuộc thảo luận, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa Sau hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ cùng một số đồng chí bị bắt, trong khi các đồng chí còn lại, bao gồm Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, và Hoàng Quốc Việt, tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư Hội nghị đã thảo luận sâu về nhiều chủ trương từ hội nghị tháng 11-1939, phân tích Chiến tranh thế giới thứ hai, đánh giá các đế quốc và nhận định rằng cả hai phe đều có ý định tấn công Liên Xô nhằm tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị phân tích tình hình cách mạng thế giới và cuộc chiến tranh đế quốc, nhấn mạnh rằng chính sách tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh chiến tranh đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giai cấp, đẩy các tầng lớp nhân dân về phía giai cấp vô sản Tại các nước thuộc địa, phong trào chống chiến tranh và đòi độc lập ngày càng mạnh mẽ Đối với Đông Dương, Hội nghị chỉ ra tình trạng sưu cao thuế nặng và chính sách vơ vét của Pháp-Nhật đã khiến nhân dân phải đấu tranh quyết liệt Dựa trên phân tích tình hình thế giới và tác động của Chiến tranh thế giới thứ hai, Hội nghị dự đoán một cao trào cách mạng sẽ nổi dậy, yêu cầu Đảng chuẩn bị lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương trong cuộc đấu tranh giành chính quyền tự do độc lập Hội nghị cũng nhấn mạnh việc mở rộng Mặt trận phản đế, lựa chọn những người hăng hái, tổ chức đội tự vệ và quân đội cách mạng để tiến hành vũ trang bạo động, xác định kẻ thù chính là phát xít Pháp-Nhật, với Mặt trận dân tộc phản đế thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống lại chúng.

Hội nghị đã phân tích và đánh giá khởi nghĩa Bắc Sơn, quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn như cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng để vừa chiến đấu chống địch, vừa bảo vệ nhân dân và phát triển lực lượng cách mạng, hướng tới việc thành lập khu căn cứ tại vùng Bắc Sơn - Võ Nhai Đối với đề nghị khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, hội nghị nhận định rằng điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, do đó không cho phép phát động khởi nghĩa Đồng chí Phan Đăng Lưu được giao nhiệm vụ truyền đạt quyết định của Trung ương Đảng cho Xứ ủy Nam Kỳ, thể hiện chủ trương sáng suốt của Hội nghị Trung ương tháng 11-1940 trong việc nắm vững lý luận và thực tiễn.

GVHD Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu và SVTH Đậu Thị Bình đã thảo luận về khởi nghĩa vũ trang cách mạng, nhấn mạnh vai trò quan trọng của các Nghị quyết Trung ương Đảng trong việc dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Những quyết định chiến lược này đã tạo ra nền tảng vững chắc cho cuộc khởi nghĩa, khẳng định sức mạnh của tinh thần đoàn kết và ý chí quyết tâm của nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ Tình hình quốc tế và ở Đông Dương có nhiều biến đổi sâu sắc Chuẩn bị cho cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng ta liên tiếp tổ chức ba cuộc Hội nghị Trung ương (lần thứ 6, tháng 11/1939; lần thứ 7, tháng 11/1940 và lần thứ 8, tháng 5/ 1941) bàn việc chu ển hướng chiến lược, khẳng định nhiệm vụ chủ ếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, giành qu ền về ta nhân dân Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ( tháng 5/1941) do đồng chí Ngu ễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản, triệu tập và đề ra Nghị qu ết: “ Trong lúc nà , nếu không giải qu ết được vấn đề dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà qu ền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được Tất cả mọi vấn đề của cách mạng, cả vấn đề điền địa phải nhằm vào mục đích ấ mà giải qu ết”

Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) nhằm thay thế Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương không còn phù hợp với tình hình mới Về phương pháp cách mạng, Hội nghị khẳng định rằng cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết thúc bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang Khi thời cơ đến, lực lượng sẵn có sẽ lãnh đạo khởi nghĩa từng phần tại các địa phương, mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa lớn Tháng 2 năm 1943, Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại Võ La chỉ rõ kẻ thù số một của dân tộc Đông Dương là phátxít Nhật-Pháp Do đó, toàn bộ công tác của Đảng lúc này phải tập trung vào việc chuẩn bị khởi nghĩa và giành chính quyền.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 55 SVTH: Đậu Thị Bình

Vào ngày 09/03/1945, Nhật Bản đã tiến hành đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương Ngày 12/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh) đã khẳng định rằng cuộc đảo chính đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho các điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang nhanh chóng chín muồi Hội nghị xác định đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và quyết định thay đổi khẩu hiệu từ "Đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp" sang "Đánh đuổi phát xít Nhật" Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện khởi nghĩa từng phần và xây dựng căn cứ địa, nhấn mạnh rằng sức mạnh của quần chúng là yếu tố then chốt trong cuộc kháng chiến Đến tháng Tám 1945, tình thế cách mạng đã chín muồi, và vào ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã khai mạc tại Tân Trào, quyết định phát động tổng khởi nghĩa nhằm giành quyền độc lập trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam Hội nghị kết thúc vào ngày 15/8/1945 trong không khí sôi sục của toàn quốc.

Vào ngày 16 tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội đã diễn ra tại Tân Trào, nơi hội nghị đã nhất trí thông qua chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, đồng thời bầu ra ban Dân tộc giải phóng với Bác Hồ giữ chức chủ tịch.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 56 SVTH: Đậu Thị Bình

Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là sự kiện quan trọng, đánh dấu sự hình thành đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo Mặc dù Hội nghị đã quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do chưa đủ điều kiện, nhưng do khó khăn trong liên lạc, quyết định của trung ương không được truyền đạt kịp thời, dẫn đến việc khởi nghĩa vẫn diễn ra Những chủ trương của Hội nghị trung ương Đảng đã góp phần quan trọng trong việc hình thành lực lượng vũ trang, tạo nền tảng cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

2.2.3 Hội nghị trung ƣơng Đảng tháng 5/1941

Sau khi trở về nước vào ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng bắt tay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng và tổ chức quần chúng tại Cao Bằng, chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Sau một thời gian chuẩn bị, Hội nghị được triệu tập tại Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với sự tham gia của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của Xứ ủy Trung.

Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động

Hội nghị nhận định rằng tình hình thế giới đang căng thẳng với chiến tranh thế giới lan rộng, đặc biệt là sự chuẩn bị của phát xít Đức để tấn công Liên Xô và cuộc chiến tranh Thái Bình Dương sắp xảy ra do phát xít Nhật Cuộc chiến này sẽ làm suy yếu các nước đế quốc, đồng thời thúc đẩy phong trào cách mạng toàn cầu phát triển mạnh mẽ Liên Xô được dự đoán sẽ chiến thắng, dẫn đến thành công của nhiều cuộc cách mạng ở các quốc gia khác "Nếu cuộc đế quốc chiến tranh trước đã tạo ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến này sẽ sinh ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa và mang lại thắng lợi cho các cuộc cách mạng khác."

Phân tích tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định: từ khi Nhật nhả vào xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, mọi hoạt động kinh tế ở Đông Dương

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 57 SVTH: Đậu Thị Bình chỉ ra rằng, chiến tranh đã khiến tất cả các bộ máy cai trị trở nên phát xít hóa, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương và chủ nghĩa đế quốc xâm lược Hiện nay, các dân tộc Đông Dương đang phải chịu hai tầng áp bức nặng nề từ Pháp và Nhật, khiến họ không thể chịu đựng nổi Đế quốc Pháp - Nhật không chỉ áp bức các giai cấp lao động mà còn bóc lột tất cả các dân tộc, không chừa một hạng nào Từ tư bản đến địa chủ, từ thợ thuyền đến dân cày, tất cả đều cảm nhận được ách nặng nề của đế quốc Quyền lợi của mọi giai cấp đều bị cướp đoạt, vận mệnh dân tộc rơi vào tình trạng nguy khốn Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương vào cuối năm 1940 và đầu năm 1941 là minh chứng cho sự phản kháng trước tình hình này.

1941 là hệ quả của ách thống trị tàn bạo đó

Trên cơ sở nhận định đúng đắn tình hình, Hội nghị đã phát triển những chủ trương của Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 và Hội nghị Trung ương

Cách mạng tháng Tám với những kết quả đạt được

Cuộc chiến tranh thế giới đã bước vào giai đoạn cuối, với sự đầu hàng không điều kiện của phát xít Đức vào tháng 5 năm 1945 và quân Nhật vào tháng 8 năm 1945 Tại Đông Dương, quân Nhật đã bị tê liệt, khiến chính phủ bù nhìn của Trần Trọng Kim rơi vào tình trạng hoang mang Đây là thời cơ vàng để nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng lên lật đổ bọn phát xít Nhật và giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Khí thế hào hùng khi th i cơ cách m ng đã tới năm 1945

Trước tình hình thế giới thuận lợi cho cách mạng Việt Nam, từ ngày 13 đến 15 tháng 8, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã diễn ra tại Tân Trào, Tuyên Quang Hội nghị nhận định rằng điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, vì vậy Đảng quyết định lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa để giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương Đồng thời, hội nghị đã cử ra uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách, nhằm đề ra đường lối đối nội và đối ngoại.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 69 SVTH: Đậu Thị Bình, trong bối cảnh mới, đã kiện toàn Ban chấp hành trung ương Vào đêm 13/8, ủy ban toàn quốc đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa.

Vào ngày 16 tháng 8 năm 1945, tại Tân Trào, Đại hội quốc dân đã họp và nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh Tại đây, quyết định thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, tức chính phủ lâm thời, đã được đưa ra với Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ tịch.

Ngay sau đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.”

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân đã đồng lòng giành chính quyền Từ ngày 14/8, các đơn vị giải phóng đã liên tiếp tiêu diệt nhiều đồn địch Nhật tại các tỉnh như Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, và Yên Bái Đến ngày 18/8, quân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa đã thành công trong việc giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

Vào ngày 17/8, hàng triệu người dân Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Mặt Trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh của chính phủ bù nhìn tại Nhà Hát Lớn thành một sự kiện diễu hành của nhân dân, thể hiện quyết tâm chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Theo chỉ đạo của trung ương về việc chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, căn cứ vào tình hình thực tế ngày 17/8, đêm 17/8, lãnh đạo Bắc Kỳ và thành ủy Hà Nội đã quyết định tổ chức tổng khởi nghĩa tại Hà Nội vào ngày 19/8/1945 Sáng 19/8, hàng chục nghìn quần chúng từ nội và ngoại thành Hà Nội đã đổ về quảng trường Nhà hát thành phố tham gia mít tinh do Việt Minh tổ chức.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 70 SVTH: Đậu Thị Bình

Quảng trư ng Cách m ng Tháng Tám năm 1945

Sau cuộc mít tinh, quần chúng đã tổ chức biểu tình vũ trang, tiến về các cơ quan chính quyền bù nhìn như phủ khâm sai, toà thị chính, trại lính bảo an và sở cảnh sát Sự bùng nổ của bạo lực cách mạng và tinh thần sục sôi của quần chúng đã khiến ngụy quyền phải đầu hàng, buộc Nhật Bản phải công nhận quyền làm chủ của nhân dân toàn bộ thành phố.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 71 SVTH: Đậu Thị Bình

Khí thế sôi sục trong ngà T ng khởi nghĩa năm 1945

Thắng lợi của tổng khởi nghĩa 19/8 tại Hà Nội đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng cho cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật Bản bị tê liệt Sự kiện này đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác, đặc biệt là Huế và Sài Gòn, nổi dậy giành chính quyền.

Vào ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của xứ uỷ trung kỳ và tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000 nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy, chiếm các công sở của triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải thoái vị Vào chiều 30/8, trước cửa Ngọ Môn, trong cuộc mít tinh với hàng vạn người tham gia, vua Bảo Đại đã đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng Đại diện chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố bãi bỏ chế độ quân chủ tại Việt Nam.

Khi nhận được tin tổng khởi nghĩa tại Hà Nội và Huế thành công dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, nhân dân Sài Gòn đã nổi dậy giành chính quyền vào ngày 25/8.

Côn đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậ giành chính qu ền làm chủ trên đảo

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 72 SVTH: Đậu Thị Bình

Trong khoảng thời gian 15 ngày, từ 14 đến 28/8, cuộc tổng khởi nghĩa đã đạt được thành công hoàn toàn Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, quyền lực của chính phủ thực sự thuộc về nhân dân.

Chiếm Ph toàn qu n ngà 19/8/1945

Vào ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước gần 1 triệu người, công bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ông khẳng định quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ nền tự do và độc lập Ngày 2/9 đã trở thành ngày Quốc khánh của Việt Nam.

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 73 SVTH: Đậu Thị Bình

Ch tịch Hồ Chí Minh đọc Tu ên Ngôn Độc Lập 1945

GVHD: Thiếu tá Nguyễn Đình Lưu 74 SVTH: Đậu Thị Bình

NHỮNG KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG LỰC LƢỢNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945

Ngày đăng: 09/09/2021, 21:11

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Văn kiện Đảng toàn tập : tập2, Nxb.CTQG, HN,2002 Khác
2. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam : Hội đồng trung ương ch đạo biên soạn, NxbCTQG,HN,2008 Khác
3. Xâ dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh - thượng tướng PGS Ngu ễn Hữu An Khác
4. Đảng cộng sản việt Nam chặng đường qua hai thế kỷ - NxbCTQG 5. Lịch sử Đảng cộng sản việt Nam - viện lịch sử Đảng, NxbCTQG 6. Hồ Chí Minh toàn tập : tập3,Nxb.CTQG,HN,2000 Khác
7. Văn kiện Đảng toàn tập : tập 6 và tập 7, Nxb.CTQG,HN,2000 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Cao trào cách mạng 1930-1931 đã góp phần hình thành trên thực tế khối liên minh công nông, phong trào của các tầng lớp nhân dân - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
ao trào cách mạng 1930-1931 đã góp phần hình thành trên thực tế khối liên minh công nông, phong trào của các tầng lớp nhân dân (Trang 32)
Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đã họp ở Mátxcơva, từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935, trong hoàn cảnh cuộc tấn công  của  chủ  nghĩa  phát  xít  trong  phạm  vi  từng  nước  và  trên  thế  giới  đang  mở  rộng, phong trào đấu tranh của  - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
r ước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đã họp ở Mátxcơva, từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935, trong hoàn cảnh cuộc tấn công của chủ nghĩa phát xít trong phạm vi từng nước và trên thế giới đang mở rộng, phong trào đấu tranh của (Trang 36)
Lúc nà tình hình chính trị của Thế Giới rất phức tạp và ga cấn, ngày 1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
c nà tình hình chính trị của Thế Giới rất phức tạp và ga cấn, ngày 1/9/1939, Phát xít Đức tấn công Ba Lan (Trang 51)
2.2. Chủ trƣơng của Đảng trƣớc tình hình mới - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
2.2. Chủ trƣơng của Đảng trƣớc tình hình mới (Trang 54)
Trước tình hình thế giới biến chu ển có lợi cho cách mạng Việt Nam, từ ngà   13/8  đến  15/8,  Hội  nghị  toàn  quốc  của  đảng  họp  ở  Tân  Trào  (Tu ên  Quang) - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
r ước tình hình thế giới biến chu ển có lợi cho cách mạng Việt Nam, từ ngà 13/8 đến 15/8, Hội nghị toàn quốc của đảng họp ở Tân Trào (Tu ên Quang) (Trang 72)
Tìm tòi, chọn lựa các hình thức tổ chức vừa tầm, thích hợp với quần chúng,  đồng  thời  còn  phải  phù  hợp  với  hoàn  cảnh  khách  quan,  mới  có  khả  nǎng  thu  hút  đông  đảo  quần  chúng  đấu  tranh  cho  mục  tiêu  đã  định - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
m tòi, chọn lựa các hình thức tổ chức vừa tầm, thích hợp với quần chúng, đồng thời còn phải phù hợp với hoàn cảnh khách quan, mới có khả nǎng thu hút đông đảo quần chúng đấu tranh cho mục tiêu đã định (Trang 82)
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước êu cầu mới của tình hình và được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, ngà  28/1/1941, Ngu ễn Ái Quốc về  nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.Từ ngà  10 đến ngà  19/5/1941,  Ngu ễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ  - Kinh nghiệm xây dựng lực lượng trong cách mạng tháng tám năm 1945
au 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước êu cầu mới của tình hình và được Quốc tế Cộng sản chấp nhận, ngà 28/1/1941, Ngu ễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.Từ ngà 10 đến ngà 19/5/1941, Ngu ễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ (Trang 98)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w