1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lịch sử văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013

145 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 145
Dung lượng 1,46 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (6)
    • 1. Lý do chọn đề tài (6)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
    • 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu (0)
    • 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu (12)
    • 5. Đóng góp của đề tài (14)
    • 6. Bố cục đề tài (14)
  • B. NỘI DUNG (15)
  • Chương 1. KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT THẠCH HÀ - HÀ TĨNH (15)
    • 1.1. Khái quát về vùng đất Hà Tĩnh (15)
      • 1.1.1. Điều kiện tự nhiên (15)
      • 1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội (19)
      • 1.1.3. Truyền thống lịch sử - văn hóa (20)
    • 1.2. Thạch Hà - đất và người (27)
      • 1.2.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên (27)
      • 1.2.2. Địa danh Thạch Hà qua các thời kì (30)
      • 1.2.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa (31)
  • Chương 2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ VÕ TÁ Ở HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN NĂM 2013 (38)
    • 2.1. Đôi nét về dòng họ Vũ - Võ ở Việt Nam (38)
      • 2.1.1. Sơ lược tiểu sử Vũ Hồn (38)
      • 2.1.2. Họ Vũ làng Mộ Trạch (42)
    • 2.2. Nguồn gốc dòng họ Võ Tá ở Thạch Hà - Hà Tĩnh (45)
      • 2.3.1. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII (51)
      • 2.3.2. Từ thế kỉ XIX đến năm 2013 (70)
  • Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ VÕ TÁ ĐỐI VỚI QUÊ HƯƠNG VÀ LỊCH SỬ DÂN TỘC (78)
    • 3.1. Đóng góp về lĩnh vực quân sự - chính trị (78)
    • 3.2. Đóng góp về lĩnh vực kinh tế - xã hội (100)
    • 3.3. Đóng góp về lĩnh vực văn hóa - giáo dục (103)
      • 3.3.1. Gia phong dòng họ (103)
      • 3.3.2. Nhà thờ, lăng mộ và miếu Quan Quận (107)
  • KẾT LUẬN (119)

Nội dung

NỘI DUNG

1.1 Khái quát về vùng đất Hà Tĩnh

Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, nằm trong vùng Bắc Trung Bộ, kéo dài từ 17°54’ đến 18°50’ vĩ Bắc và từ 103°48’ đến 108°00’ kinh Đông Tỉnh này giáp Nghệ An ở phía bắc, Quảng Bình ở phía nam với ranh giới là dãy Hoành Sơn, và phía tây tiếp giáp với hai tỉnh Borikhamxay và Khammuane của Lào Hà Tĩnh có địa hình thoai thoải từ tây sang đông, nơi biển Đông trải rộng Trong lịch sử, dưới triều đại Nguyễn, vị trí địa lý của Hà Tĩnh và các tỉnh khác đã được ghi chép rõ ràng, và tỉnh này từng được gọi là đạo Hà Tĩnh, thuộc khu vực sao Dực, sao Chẩn.

Thuần Vĩ “đông tây cách nhau 55 dặm, nam bắc cách nhau 165 dặm, phía đông đến biển 18 dặm, phía tây đến địa giới huyện Hương Sơn tỉnh Nghệ An

Bài viết mô tả khoảng cách từ điểm nằm 37 dặm phía nam đến sơn phận Hoành Sơn quan (đèo Ngang) thuộc huyện Bình Chính, tỉnh Quảng Bình, và 133 dặm phía bắc đến địa giới huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ An, cùng với quãng đường 32 dặm từ Thiên Lộc Ngoài ra, từ lỵ sở của đạo, khoảng cách đi về phía nam vào Kinh là 437 dặm.

Tính đến năm 2013, Hà Tĩnh được tổ chức hành chính thành 1 thành phố (thành phố Hà Tĩnh), 9 huyện (Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh) và 1 thị xã (thị xã Hồng Lĩnh).

KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT THẠCH HÀ - HÀ TĨNH

Khái quát về vùng đất Hà Tĩnh

Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở miền Trung Việt Nam, thuộc vùng Bắc Trung Bộ, kéo dài từ 17°54’ đến 18°50’ vĩ Bắc và từ 103°48’ đến 108°00’ kinh Đông Phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình với dãy Hoành Sơn làm ranh giới, và phía tây giáp hai tỉnh Borikhamxay và Khammuane của Lào Tỉnh có địa hình thoai thoải từ tây sang đông, hướng ra biển Đông rộng lớn Trong lịch sử, dưới triều đại Nguyễn, vị trí địa lý của Hà Tĩnh đã được ghi chép rõ ràng, và tỉnh còn được gọi là đạo Hà Tĩnh, thuộc khu vực sao Dực và sao Chẩn.

Thuần Vĩ “đông tây cách nhau 55 dặm, nam bắc cách nhau 165 dặm, phía đông đến biển 18 dặm, phía tây đến địa giới huyện Hương Sơn tỉnh Nghệ An

Đoạn đường dài 37 dặm từ phía nam đến sơn phận Hoành Sơn quan (đèo Ngang) thuộc huyện Bình Chính, tỉnh Quảng Bình, và 133 dặm từ phía bắc đến địa giới huyện Can Lộc (trước đây là Thiên Lộc), tỉnh Nghệ An Từ lỵ sở của đạo, khoảng cách về phía nam vào Kinh là 437 dặm.

Tính đến năm 2013, Hà Tĩnh được tổ chức hành chính thành 1 thành phố (thành phố Hà Tĩnh), 9 huyện (Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Can Lộc, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên) và 1 thị xã (Hồng Lĩnh).

Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 6.055 km², chiếm khoảng 1,7

Tỉnh có tổng diện tích 98,171 ha đất nông nghiệp, 240,529 ha đất lâm nghiệp và 6,799 ha đất ở, chiếm một phần đáng kể trong tổng diện tích toàn quốc Với dân số 1.242.700 người, mật độ dân số đạt 207 người/km² theo số liệu năm 2013.

Vị trí địa lý thuận lợi của Hà Tĩnh tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất hàng hóa và các ngành kinh tế chủ lực Điều này giúp mở rộng liên kết và giao lưu kinh tế với các tỉnh khác cũng như quốc tế, đồng thời thúc đẩy quá trình hội nhập vào xu thế phát triển chung của cả nước.

Hà Tĩnh là một tỉnh nhỏ ở miền Trung Việt Nam, với địa hình đa dạng và bị chia cắt bởi nhiều sông suối Tỉnh nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, có hình dạng gần giống như một hình thang lệch, với bề rộng phía bắc 85km, phía nam 90km, chiều dài bờ biển 137km và biên giới Việt - Lào dài 143km Địa hình hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông với độ dốc trung bình 1,2% Đồi núi chiếm phần lớn diện tích tỉnh, tập trung chủ yếu ở phía tây và phía nam (80% diện tích toàn tỉnh), nằm trong vùng núi Trường Sơn Bắc Các dãy núi ở Hà Tĩnh trải dài thành từng lớp đồi, từ Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà đến dãy Hoành Sơn ở huyện Kỳ Anh, trong khi dãy Giăng Màn như một bức thành vững chãi ở phía tây.

Vũ Quang và Đại Hàm là hai vùng đất lịch sử gắn liền với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm tại tỉnh Hương Khê và Hương Sơn Khu vực này được bao quanh bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ, tạo nên những thung lũng hẹp và các dãy núi nhỏ như Thiên Nhẫn, Long Mã và Trà Sơn, góp phần hình thành cảnh quan độc đáo của miền đồng bằng.

Lộc, Hồng Lĩnh, Nam Giới, Thiên Cầm và Cao Võng tạo nên những nét đẹp hùng vĩ cho phong cảnh Hà Tĩnh Đồng bằng Hà Tĩnh, chiếm khoảng 20% diện tích tỉnh, nằm rải rác theo các thung lũng và xen kẽ giữa các cụm đồi Biển đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của đồng bằng, tuy nhiên, đất ở đây thường nghèo và ít phù sa sông Dải đồng bằng quan trọng nhất của tỉnh nằm dọc theo lưu vực sông.

Hà Tĩnh, trải dài từ miền hạ Đức Thọ qua Can Lộc đến vùng biển Thạch Hà và Cẩm Xuyên, có diện tích khoảng 1000 km² Trong tỉnh cũng có một số vùng đất bằng phẳng dọc theo thung lũng sông Ngàn Sâu (Hương Khê), Ngàn Phố (Hương Sơn) và các đồng bằng nhỏ ven biển các huyện Nghi Xuân, Kỳ Anh Mặc dù đồng bằng Hà Tĩnh hẹp và dễ bị xói mòn do địa hình dốc, nhưng với truyền thống cần cù, chịu khó và trí thông minh của người dân, nơi đây vẫn là vựa thóc chính, đáp ứng nhu cầu sống của cộng đồng.

Hà Tĩnh sở hữu mạng lưới sông ngòi dày đặc với tổng chiều dài khoảng 400km, bao gồm các con sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố và nhánh của chúng Hai con sông này hợp dòng tại ngã ba Tam Soa, tạo thành sông La chảy qua Đức Thọ và sau đó nhập vào sông Lam, chảy dọc theo hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, trước khi đổ ra cửa Hội Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều sông khác như Minh Giang, Ngàn Mọ và Hộ Độ Các sông ở đây thường ngắn, dốc và có dòng chảy mạnh, dẫn đến lũ lên nhanh Tuy nhiên, từ xa xưa, mạng lưới sông ngòi đã đóng vai trò quan trọng trong giao thông và thương mại, đồng thời cung cấp phù sa cho các đồng bằng trong tỉnh.

Biển Hà Tĩnh có ảnh hưởng lớn đến thiên nhiên và đời sống người dân, với diện tích khoảng 20.000 km² và bờ biển dài 137 km chủ yếu bằng phẳng Khu vực này có nhiều bãi cát, cửa lạch, cửa sông, đầm phá và ngư trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt, khai thác và nuôi trồng thủy hải sản Từ Nghi Xuân đến Đèo Ngang, các cửa biển như cửa Hội, cửa Nhượng, cửa Khẩu và đặc biệt là cảng Vũng Áng mang lại nhiều tiềm năng cho Hà Tĩnh trong việc hội nhập và giao lưu quốc tế.

Hà Tĩnh sở hữu thiên nhiên hùng vỹ và thơ mộng, nhưng khí hậu lại rất khắc nghiệt do nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Mùa đông ở đây chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ gió mùa đông bắc, khiến nhiệt độ trung bình dưới 18°C và có mưa phùn kéo dài từ 2 - 3 tháng Tuy nhiên, mùa đông tại Hà Tĩnh thường ngắn hơn và bớt lạnh hơn so với các tỉnh miền Bắc Nhiệt độ trung bình hàng năm của khu vực này thường cao trên 20°C, với lượng mưa trung bình hàng năm ở nhiều vùng vượt quá 2000 mm, và một số nơi có thể lên tới trên 3000 mm.

Dãy núi Trường Sơn Bắc tạo thành biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào, với các đèo thấp khiến gió phơn Tây Nam thổi mạnh vào mùa hè, gây ra thời tiết khô nóng kéo dài Nhiệt độ mùa hè có thể đạt tới 40°C, đặc biệt ở một số nơi như Hương Sơn và Hương Khê Tuy nhiên, sau thời gian hạn hán kéo dài từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 10, bão thường xuất hiện, mang theo mưa lớn và lũ lụt, gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của người dân trong khu vực.

1.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

Địa hình đa dạng ở Hà Tĩnh tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp.

Hà Tĩnh, một tỉnh miền Trung Việt Nam, sở hữu diện tích rừng lớn với hơn 300.000 ha, là kho tàng quý giá với nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, sến và táu Rừng không chỉ cung cấp hàng trăm loại lâm sản quý mà còn là nơi sinh sống của nhiều loài chim thú có giá trị Khu vực xung quanh rừng, đặc biệt ở các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Can Lộc và Hương Sơn, có những đồng cỏ rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi và hình thành các lâm trường.

Thạch Hà - đất và người

1.2.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Thạch Hà là huyện ven biển thuộc tỉnh Hà Tĩnh, tọa lạc tại vị trí 18,10’03” đến 18,29’ độ vĩ bắc và 105,38’ đến 106,02’ độ kinh đông Huyện này giáp huyện Can Lộc ở phía bắc, huyện Cẩm Xuyên ở phía nam, huyện Hương Khê ở phía tây và biển Đông ở phía đông Theo sách Phong thổ kí, bờ cõi huyện Thạch Hà kéo dài khoảng 30 km từ đông sang tây và từ bắc vào nam.

18 km Phủ lỵ ở xã Đại Nài, phía nam thành đạo Hà Tĩnh cũ Về phía bắc cách khoảng 3 km là xã Trung Tiết” [41; 90]

Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 44.086 ha, bao gồm 16.943 ha đất nông nghiệp, hơn 8.000 ha đất có khả năng trồng rừng và 2.600 ha diện tích phù hợp cho nuôi trồng thủy sản.

Dân số của huyện là 139,111 người (năm 2007), mật độ dân số trung bình là 454 người/ km² (năm 1997)

Thạch Hà là một vành đai bao quanh tỉnh lỵ Hà Tĩnh, nằm giữa năm huyện ven biển và có quốc lộ 1A đi qua Vị trí địa lý đặc biệt này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và giao thông của khu vực.

Hà có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng Địa hình

Thạch Hà, vùng biển có nguồn gốc từ phù sa núi và cát, đã trải qua nhiều biến đổi lịch sử qua các kỷ địa chất Hiện nay, Thạch Hà được mô tả là một dải đất hẹp với độ dốc lớn, nhiều sông ngòi và kênh rạch, địa hình bị chia cắt, tầng đất khai thác kém, đất bạc màu và bị nhiễm mặn.

Phía tây huyện có dải đồi núi thấp, thuộc rìa ngoài Trường Sơn Bắc, kéo dài từ động Sơn Mao đến ngọn Báu Đài và Nhật Lệ Vùng bán sơn địa này rộng khoảng 11.000 đến 12.000 ha, chiếm 25% diện tích toàn huyện, với độ cao trung bình từ 200m đến 250m, trong đó ngọn Nhật Lệ cao 416m Dải đồi núi này là dấu tích của bờ biển thời xa xưa, vẫn còn in dấu trên vách đá ngày nay.

Huyện nằm ở phía đông bắc có hai ngọn núi nổi bật là Bờng (Bằng Sơn, cao 213m) và rú Bể (Nam Giới - Quỳnh Sơn, cao 373m) Những ngọn núi này, cùng với các đồi núi rải rác trong khu vực đồng bằng, từng là những hòn đảo trong biển cả của thời kỳ trước.

Núi Đòi, hay còn gọi là Đội Sơn, nằm tại xã Đan Chế, huyện Thạch Hà Dãy núi này bắt nguồn từ núi Bảo Đài ở biển, kéo dài về phía bắc và tạo thành ba ngọn núi nổi bật trên đồng bằng, vắt ngang qua sông Hoàng Hà Tên gọi Đội Sơn xuất phát từ hình ảnh những hòn đá lô nhô giữa dòng sông, giống như một đội quân, và huyện Thạch Hà cũng mang tên "sông đá" vì lý do này.

Núi Nam Giới, tọa lạc gần bờ biển tại xã Dương Luật (hiện nay là xã Thạch Bàn, Thạch Hải), có độ cao 373 m và được coi là "giới hạn phía nam thời cổ" của nước ta, giáp ranh với nước Chiêm Thành Vào năm 1025, triều Lý đã thiết lập phiên trại trên núi này, và đến nay vẫn còn dấu tích nền trại Phía tây núi Nam Giới là núi Long Ngâm, nơi tướng Lê Khôi yên nghỉ sau khi trở về từ cuộc chiến chống Chiêm Thành.

Núi Nghĩa Sơn, hay còn gọi là núi Sò, nằm bên bờ sông xã Đức Lâm Tại đây, vỏ hàu, hến và sò tích tụ thành cồn, được người dân khai thác để sản xuất vôi Khu vực này thể hiện sự chuyển mình từ nương dâu bãi bể đến những vùng núi rừng, nơi có nhiều loài sinh vật Đồng bằng huyện có diện tích khoảng 29.000 ha, trong đó 13.000 ha là đất thịt và 10.000 ha là đất pha cát, mặc dù đất không màu mỡ nhưng tương đối bằng phẳng Ven biển có khoảng 6.000 ha, bao gồm 1.000 ha núi đá và phần còn lại là cát biển.

Thạch Hà có mạng lưới sông ngòi dày đặc với tổng lưu vực gần 800km², bao gồm bốn con sông chính: sông Dà, sông Cày, sông Rào Cái và sông Hà Hoàng, đổ ra cửa Sót với lưu lượng 36 - 40 triệu m³ nước Sông Đại Nài ở phía tây nam bắt nguồn từ khe Thình Thình, trong khi sông Hà Vàng ở phía đông bắc xuất phát từ núi Bụt Sông Cày, chảy qua Vĩnh Lưu, Thạch Thượng, Hà Hoàng, có nguồn từ núi Báu Đài Sông Hà Hoàng chỉ là đoạn cuối của một hệ thống sông kéo dài qua các huyện Đức Thọ và Can Lộc, với nhiều tên gọi khác nhau Tại ngã ba Kênh, sông phình rộng, tiếp nhận nước từ 10 nhánh sông nhỏ, và mang tên Hà Hoàng, sau đó đổi tên thành sông Hộ Độ, sông Mai Thủy và cuối cùng là sông Sót trước khi đổ ra cửa Sót Tất cả các sông đều chảy về cửa Sót (cửa Nam Giới).

Bờ biển Thạch Hà có chiều dài 27 km và diện tích vùng đặc quyền kinh tế lên tới 3.310 km² Cửa Sót, một trong những cửa biển lớn của Hà Tĩnh, có lưu lượng nước dao động từ 6-7 m³/giây đến 3.800 m³/giây trong những thời điểm khác nhau Hai trăm năm trước, cửa biển này từng chảy ra vùng Dương Luật phía nam, nhưng sau đó đã bị bồi lấp, dẫn đến dòng chảy hiện tại vòng lên phía bắc qua xã Kim Đôi.

Thạch Hà có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu chuyển tiếp giữa Bắc - Nam, dẫn đến lượng mưa lớn trung bình 2.544 mm/năm và độ ẩm cao từ 77% đến 86% Bốn mùa trong năm không phân hóa rõ rệt, người dân thường chỉ nhận thấy hai mùa chính: mùa hạ và mùa đông Mùa hạ có thời tiết nóng oi bức với nhiệt độ trung bình 27,5°C, có thể lên tới 40°C, và kéo dài 6 tháng nắng Ngược lại, mùa đông từ tháng 12 đến đầu tháng 3 năm sau có tiết trời lạnh và mưa phùn, nhiệt độ trung bình khoảng 17°C, thấp nhất có thể xuống 8°C Từ tháng 6 đến tháng 10, khu vực thường xuyên phải đối mặt với bão và mưa lớn, gây ngập lụt Khí hậu này ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất và đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.

1.2.2 Địa danh Thạch Hà qua các thời kì

Từ thời kỳ các vua Hùng, Thạch Hà đã thuộc về đất nước Văn Lang và sau đó là Âu Lạc dưới triều đại An Dương Vương Trong thời Bắc thuộc, Thạch Hà nằm trong quận Cửu Chân đời Triệu, huyện Hàm Hoan đời Hán, quận Cửu Đức đời Ngô, quận Nhật Nam đời Tùy, và châu Phúc Lộc đời Đường Khi bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, địa danh Thạch Hà lần đầu tiên xuất hiện vào đời Tiền Lê (980 - 1009) với tên gọi châu Thạch Hà Đến đời Trần, châu này được đổi thành châu Nhật Nam, và huyện Thạch Hà hiện nay tương ứng với hai huyện Hà Hoàng và Bàn Thạch Trong thời thuộc Minh (1407 - 1427), Thạch Hà tiếp tục có những biến đổi trong quản lý hành chính.

Thạch Hà thuộc châu Nam Tĩnh phủ Nghệ An Sang thời Hậu Lê (1428 -

Năm 1527, Thạch Hà thuộc phủ Hà Hoa, đạo Nghệ An Đến năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), Thạch Hà được thành lập thành huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh, quản lý 7 tổng với 54 xã, thôn Năm Tự Đức thứ 6 (1853), tỉnh bị bãi bỏ, phủ Đức Thọ được nhập vào Nghệ An, còn phủ Hà Hoa được đổi thành Hà Thanh và thành lập đạo Hà Tĩnh Huyện Thạch Hà lúc này không có tri huyện, quản lý 7 tổng với 51 xã, thôn Đến năm Tự Đức thứ 28 (1875), tỉnh Hà Tĩnh được tái lập, Thạch Hà có tri huyện và thuộc phủ Hà Thanh.

Năm 1916, huyện Thạch Hà được nâng cấp thành phủ Thạch Hà với tri phủ đóng tại xã Đại Nài Đến năm Khải Định thứ 6 (1921), phủ Thạch Hà đã điều chỉnh địa giới hành chính khi cắt tổng Đoài cho huyện Can Lộc và nhận lại hai tổng Canh Hoạch, Vĩnh Luật từ huyện này Thời điểm đó, phủ Thạch Hà quản lý 8 tổng với tổng cộng 85 xã, thôn.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ VÕ TÁ Ở HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN NĂM 2013

Đôi nét về dòng họ Vũ - Võ ở Việt Nam

2.1.1 Sơ lược tiểu sử Vũ Hồn Đất nước Việt Nam từ ngàn đời xưa, Hùng Vương đã cùng bách tính muôn dân dựng quốc mở cõi “Bách tính” ấy theo tác giả Dã Lan Nguyễn Đức

Dòng họ Vũ, một trong 300 họ lớn ở Việt Nam, tự hào về bề dày lịch sử văn hóa và cội nguồn rõ ràng Thủy tổ của dòng họ này được xác định là Vũ Hồn, theo các tài liệu như Gia phả họ Võ Tá và tộc phả họ Vũ từ thế kỷ IX đến XIX, cùng với địa phương chí tỉnh Hải Dương Những tài liệu này khẳng định nguồn gốc lâu đời và quan trọng của dòng họ Vũ trong lịch sử Việt Nam.

Theo gia phả họ Võ Tá, tiểu sử Vũ Hồn được dịch nguyên văn từ “Vũ tộc ngọc phổ”, có nguồn gốc từ bản sao chụp trong “Lược sử họ Vũ Việt Nam” (Hà Nội, năm 1997) của Vũ Mạnh Hà và Vũ Thúy, với 11 trang chữ Hán Bản dịch tay kéo dài 6 trang, không bao gồm phần chú thích (xem phụ lục 1) Phần tiểu sử mở đầu bằng lịch sử dựng nước của dân tộc.

Kinh Dương Vương, con trai của Đế Nghi thuộc dòng dõi Thần Nông, được xem là có phẩm chất của một vị vua Mặc dù vua cha muốn truyền ngôi cho ngài để cai quản phương Bắc, Kinh Dương Vương đã từ chối và nhường lại cho anh trai Thay vào đó, ngài quyết định hướng về phương Nam để cai quản nước Xích Quỷ, với kinh đô đặt tại Hoan Châu.

Ngài Động Đình Quân kết duyên với con gái Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân Từ mối lương duyên giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ, con gái của Đế Lai, đã sinh ra một trăm người con trai, tổ tiên của Bách Việt Một ngày, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó.” Sau đó, họ chia tay; 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển, và con trưởng được phong làm vua, từ đó cha truyền con nối, được gọi là Hùng Vương.

Theo truyền thuyết, vua thứ 18 - Tuấn Vương không có con trai nên đã nhường ngôi cho Thục Dương Vương Sau 50 năm trị vì, triều đại Thục bị Triệu Đà xâm chiếm, dẫn đến sự sụp đổ của Nhà Thục Từ đó, nước ta trở thành một phần của các triều đại Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương trong suốt 349 năm Đến khi Nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần lần lượt lên nắm quyền, quốc thống mới đã được thiết lập và duy trì cho đến ngày nay.

Vào khoảng cuối thế kỉ VIII và đầu thế kỉ IX, tại thôn Mã Kì, xã Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, có một người tên là Vũ Công Huy, thuộc dòng dõi gia truyền y bát và từng làm quan triều Đường Dù đã ở tuổi 60 nhưng ông vẫn chưa có con trai, điều này khiến ông cảm thấy buồn bực và thường than thở rằng "con hiền cháu thảo quý hơn vàng ngọc." Cuối cùng, ông quyết định từ quan trở về quê, tận hưởng cuộc sống nông thôn cùng gia đình và tập trung vào nghiên cứu phong thủy và địa lý.

Trong chuyến đi xem phong thủy ở Nam Việt, ông đã phát hiện ra vùng đất Đống Rờm, Mạn Nhuế có “thế đất tốt” và quyết định chuyển mộ tổ đến đây Sau đó, ông kết hôn với Nguyễn Thị Đức và sống tại quê vợ Một đêm, bà Đức mơ thấy điềm lành và cả hai trở về Bắc Quốc Vào đêm mồng 8 tháng Giêng năm Giáp Thân, bà sinh ra Vũ Hồn, một cậu bé có ngoại hình xuất chúng Từ nhỏ, Vũ Hồn đã thể hiện khả năng học tập vượt trội, nhớ bài chỉ sau một lần đọc Năm 16 tuổi, cậu thi đỗ đại khoa và được phong làm Lễ bộ Tả thị lang.

Vào năm 840, người được thăng chức Đô đài ngự sử, đảm nhiệm việc quản lý quyền lực trong triều đình Đến năm Tân Dậu (841), người này tiếp tục được thăng làm An Nam đô hộ sứ, sự kiện này đã được ghi chép trong chính sử.

“Tân Dậu (841) (Đường Vũ Tôn Viêm, Hội Xương năm thứ nhất) vua Đường xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước” [65; 193] Theo An

Vũ Hồn làm An Nam Kinh lược từ năm 841 đến 843, trước đó là Mã Thực Trong thời gian này, ông đã nhận thấy địa thế quý giá của Khả Mộ và quyết định vẽ bản đồ trước khi trở về Bắc Quốc Sau khi từ quan vì tuổi tác và bệnh tật, ông chọn Khả Mộ làm nơi cư trú để chăm sóc mẹ Tại đây, Vũ Hồn không chỉ dạy học mà còn chữa bệnh cho dân, được tôn vinh là “hương thủy tổ” Sau khi mẹ ông qua đời, ông an táng bà tại Kiệt Đặc Năm 853, ông qua đời ở tuổi 49, và dân làng đã xây dựng một ngôi mộ lớn cho ông Sự kiện này được báo lên vua Đường, và ông được phong là phúc thần với danh hiệu “Đại vương” Miếu thờ ông được lập tại Khả Mộ, nơi dân làng thờ cúng ông như Thành hoàng của Mộ Trạch, và các triều đại sau này đều phong thêm mĩ tự cho ông.

Sau khi cụ Thủy Tổ qua đời, phu nhân của Vũ Hồn cũng được an táng gần bên, tạo thành mộ song táng Nơi hợp táng của Vũ Hồn và phu nhân nằm tại thôn Chằm Thượng, làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, được gọi là Thần Lăng Mộ có các biểu tượng như quan chầu phía trước, quỷ chầu phía sau, cùng với cờ bên phải, trống bên trái, vũ sĩ phù vệ, ngựa mẹ dắt con, mạch dẫn phía trái, bảy sao triều án, Hợi long, Nhâm sơn, Bính hướng Qua hàng ngàn năm, vị trí mộ của ông và bà vẫn chưa được xác định rõ ràng.

Nhân vật lịch sử Vũ Hồn là một nhân vật có thật, được công nhận là thủy tổ của dòng họ Vũ tại Việt Nam Ông sinh năm 804 và mất năm 853, quê quán ở xã Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc Vũ Hồn từng giữ chức Kinh lược sứ An Nam trong thời kỳ Bắc thuộc từ năm 841 đến 843 dưới triều Đường Vũ Tông Ông nổi bật với tài năng văn võ song toàn và kiến thức phong thủy Sau khi từ quan, Vũ Hồn đã chọn đất lập ấp Khả Mộ (nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) để định cư lâu dài và xây dựng cơ đồ cho con cháu.

2.1.2 Họ Vũ làng Mộ Trạch

Làng Mộ Trạch, thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, có nguồn gốc từ ấp Khả Mộ do Vũ Hồn thành lập trong thời Bắc thuộc Theo sách Đại Nam nhất thống chí, Mộ Trạch nằm cách huyện Gia Lộc 9 dặm về phía đông, huyện Đường Hào 9 dặm về phía tây, huyện Thanh Miện 9 dặm về phía nam và huyện Cẩm Giàng 12 dặm về phía bắc Thời Hán, nơi đây thuộc quận Giao Chỉ và vào thời Đường Hội Xương, Vũ Hồn đã chọn vùng đất này để đặt tên huyện là Đường Yên và xã là Khả Mộ, sau này đổi thành Mộ Trạch do sự sáp nhập với thôn Chằm Trạch Tài liệu Địa phương chí tỉnh Hải Dương xác nhận huyện Đường Yên chính là huyện Đường An.

Huyện Đường An được bao quanh bởi sông suối, phía tây giáp huyện Đường Hào, phía bắc giáp huyện Cẩm Giàng, phía nam thông với huyện Thanh Miện, và phía đông giáp trấn thành Trong các thời kỳ Lý và Trần, huyện Đường An thuộc châu Hồng Châu Thời Minh, huyện này thuộc phủ Lạng Giang trong Thượng Hồng châu; thời Lê, huyện Đường An được đặt vào Thừa tuyên Nam Sách, sau đó đổi thành trấn Hải Dương, thuộc phủ Thượng Hồng Đến thời Nguyễn, huyện Đường An được đổi tên thành Năng An, bao gồm 10 tổng, trong đó xã Mộ Trạch thuộc tổng Tuyển Cử, và phủ Thượng Hồng trở thành Bình Giang, thuộc tỉnh Hải Dương.

Làng gắn liền với nhân vật Vũ Hồn, người đã từ quan và cùng mẹ đến vùng đất này để sinh sống và xây dựng cơ nghiệp, đồng thời dạy dỗ lễ nghĩa cho người dân Hiện tại, chưa có tài liệu nào xác định số lượng con cái của ông bà Vũ Hồn.

Nguồn gốc dòng họ Võ Tá ở Thạch Hà - Hà Tĩnh

“Con người có Tổ có Tông Như cây có cội, như sông có nguồn”

Bài học từ cha ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ghi nhớ nguồn cội Mỗi quốc gia và gia tộc đều có lịch sử và gia phả riêng, giúp thế hệ sau hiểu rõ về tổ tiên và dòng họ của mình Do đó, gia phả của mỗi gia tộc được xem như một bảo vật quý giá, gìn giữ giá trị văn hóa và truyền thống.

Cuốn gia phả ghi lại nguồn gốc và thời gian hình thành dòng họ, cùng với thông tin về vị thủy tổ Nó cung cấp một cái nhìn chân thực về quá trình phát triển của dòng họ qua các thế hệ từ lúc bắt đầu cho đến hiện tại, giúp người đọc hiểu rõ chi tiết về lịch sử và truyền thống của dòng tộc.

Khi nghiên cứu về một dòng họ, việc xác định nguồn gốc của dòng họ đó là bước đầu tiên quan trọng Điều này cũng áp dụng cho việc tìm hiểu về dòng họ Võ Tá tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Làng Hà Hoàng, thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi ghi dấu sự nghiệp võ cử của họ Vũ khi di cư vào miền Trung, tiếp nối từ làng Mộ Trạch, nơi khởi nguồn sự nghiệp văn khoa của họ Tuy nhiên, thông tin về làng Hà Hoàng rất hạn chế, với tư liệu lưu giữ ít ỏi và gần như không còn ghi chép nào Theo Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam, địa danh này vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần được khám phá.

Huyện Hoàng, trong lịch sử, đã trải qua nhiều biến đổi tên gọi và địa lý Vào thời Minh và Lê, huyện Bàn Thạch được nhập vào huyện Thạch Hà, thuộc phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An, hiện nay là tỉnh Hà Tĩnh Xã Hà Hoàng, nằm phía Nam sông Cửa Sót trên quốc lộ 1A, được biết đến là quê hương của nhiều tiến sĩ nổi tiếng như Hoàng Nghĩa và Vũ Tá Kiên Theo sách Đại Nam nhất thống chí, Thạch Hà từng là châu Thạch Hà dưới đời Tiền Lê, sau đó được đổi thành huyện và trải qua nhiều giai đoạn lịch sử cho đến khi trở thành huyện Thạch Hà dưới triều đại Hậu Lê Tên “Hà Hoàng” cũng được đặt cho một con sông trong khu vực, có thể bắt nguồn từ tên huyện hoặc xã Đến đầu thế kỷ XIX, làng Hà Hoàng là một xã thuộc tổng Thượng Nhất, huyện Thạch Hà, và sau năm 1831, địa danh này chính thức thuộc tỉnh Hà Tĩnh.

Trước năm 1945, xã Hà Hoàng đã được chia thành ba xã Thạch Hạ, Thạch Trung và Thạch Thượng thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh Người dân xã Thạch Hạ vẫn nhớ câu nói “Hạ Hoàng thế tướng” để nhắc về quê hương Hà Hoàng xưa, nơi có dòng họ Võ Tá nổi tiếng Xã Thạch Hạ chính là nơi khởi nguồn của làng Hà Hoàng, quê hương của các nhân vật lịch sử như Võ Tá Lý và Võ Tá Sắt, không phải xã Thạch Hà như một số chú giải đã đề cập.

Dòng họ Võ Tá là một trong những dòng họ lâu đời ở huyện Thạch Hà, có nguồn gốc từ thủy tổ là cụ Kỵ, người đã di cư từ Bắc vào xã Bình Lãng vào cuối thế kỷ 16 Sau đó, ông cùng vợ định cư ở thôn Văn Nhậm, xã Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nơi họ sống bằng nghề đánh bắt cá Thông tin về quê quán, ngày mất và nơi chôn cất của ông không được ghi chép rõ ràng, nhưng hiện nay, ông được coi là thủy tổ của dòng họ Tại nhà thờ họ Võ Tá ở huyện Thạch Hà, có khắc câu đối thể hiện sự tôn kính đối với tổ tiên.

Phát tự Bắc phương, Hà Hoàng thủy thiên thu bất tận Hành ư Nam hướng, Mộ Trạch nguyên vạn kỉ trường lưu

Xuất từ phương Bắc, nước Hà Hoàng ngàn năm vô tận Đi về phương Nam, nguồn Mộ Trạch vạn cổ dòng dài

Dòng họ Võ Tá có nguồn gốc từ làng Mộ Trạch ở phương Bắc, sau đó di cư vào Hà Hoàng ở phương Nam Câu đối nhấn mạnh tầm quan trọng của việc con cháu luôn nhớ về nguồn cội của dòng họ.

Gia phả ghi nhận nguồn gốc tộc Nguyên bản tại Hải Dương, huyện Đường Hào, xã Ủng Hoa Đường, với tổ tiên là ông Kỵ và bà.

Kỵ du cư đã di chuyển từ huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc) đến xã Bình Lãng, rồi tiếp tục đến huyện Thạch Hà, xã Hà Hoàng, thôn An Nhiên, nơi gần sông nước để thuận lợi cho sinh sống Địa danh ủng Hoa Đường, bao gồm hai xã “Phù ủng” và “Hoa Đường”, thuộc hai huyện Đường Hào và Kim Thi, chỉ cách nhau bởi con sông Cửu Anh Tại đây, có nhiều họ Vũ khác nhau với các chữ lót như Đình, Huy, Văn, Tá, cùng những họ không có chữ lót Một giả thiết được đưa ra rằng họ Võ Tá có thể là con cháu của dòng họ Vũ Hồn, đang tìm kiếm nguồn cội.

Vũ Nạp đặt ra câu hỏi về nguồn gốc của những người rời bỏ quê hương do khó khăn kinh tế, chính trị, xã hội mà không để lại dấu vết, khiến cho hàng trăm năm sau không ai còn nhớ đến Gia đình họ Võ Tá ở huyện Thạch Hà đã từng tìm kiếm nguồn cội của mình, liệu có liên quan đến họ Vũ ở làng Mộ Trạch hay không Mặc dù vẫn có chi họ Võ Tá ở tỉnh Hải Dương, nhưng mối quan hệ giữa họ với Võ Tá ở Thạch Hà, Hà Tĩnh vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải Theo ông Ứng Hòa Nguyễn Văn Tố và GS.TS Đặng Phương Nghi, họ Vũ và Võ tại Việt Nam chỉ xuất hiện sau khi Vũ Hồn từ Trung Quốc sang nhận chức và định cư ở Hải Dương.

Dòng họ Võ Tá cho biết rằng con thứ ba của Vũ Hồn đã di cư vào Hoan Châu, mở ra các chi họ Võ ở miền Trung, trong đó có Vũ Đại Ngọc Linh Hiện nay, phần mộ của ông và vợ được con cháu an táng tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.

Vũ Đại Ngọc Linh tới Vũ Kị bị đứt phả khoảng 600 năm [24]

Từ giữa thế kỷ XVI, chi Vũ Tá đã lập nghiệp ở nhiều nơi như Can Lộc và Thạch Hà (Hà Tĩnh), với nguồn gốc từ chi Vũ Tá Xuân tại làng Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, Hải Dương, thuộc dòng Vũ Hồn ở làng Mộ Trạch Khoảng thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, Vũ Tá Kỷ đã thiên cư vào phía nam để lập nghiệp Họ Vũ làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang (làng Bông), nguyên tổ Vũ Thiệu có nguồn gốc từ chi III họ Vũ.

Hà Tĩnh có 6 chi họ Võ có nguồn gốc từ làng Mộ Trạch, trong đó họ Võ Tá ở huyện Thạch Hà là một trong những chi họ tiêu biểu.

Một số chi họ Vũ (Võ) ở Nghệ Tĩnh có nguồn gốc từ Mộ Trạch, điển hình là họ Võ tại làng Nghi Công, Nghi.

Lộc, Nghệ An “phát tích từ phái mậu - họ Vũ Mộ Trạch […] đến đời thứ 10

ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ VÕ TÁ ĐỐI VỚI QUÊ HƯƠNG VÀ LỊCH SỬ DÂN TỘC

Ngày đăng: 09/09/2021, 20:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Hoằng Ân (2006), Hà Tĩnh nhân vật chí, Sở Văn hóa thông tin Hà Tĩnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hà Tĩnh nhân vật chí
Tác giả: Nguyễn Hoằng Ân
Năm: 2006
2. Ngô Bạch (2010), Văn hóa dòng tộc dân gian, Nxb Thời đại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa dòng tộc dân gian
Tác giả: Ngô Bạch
Nhà XB: Nxb Thời đại
Năm: 2010
3. Đặng Huy Báu (chủ biên) (1993), Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh tập 1 (1930 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh tập 1 (1930 - 1954)
Tác giả: Đặng Huy Báu (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội
Năm: 1993
4. Đặng Huy Báu (chủ biên) (2001), Lịch sử Hà Tĩnh tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Hà Tĩnh tập 2
Tác giả: Đặng Huy Báu (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2001
5. Biên chú gia phả họ Võ Tá, hội đồng dòng họ Võ Tá cung cấp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biên chú gia phả họ Võ Tá
6. Phan Đình Bưởi (2000), Lịch sử Hà Tĩnh, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Hà Tĩnh
Tác giả: Phan Đình Bưởi
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2000
7. Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương (1995), Những ông nghè, ông cống triều Nguyễn, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những ông nghè, ông cống triều Nguyễn
Tác giả: Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 1995
8. Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh (2002), Trạng nguyên, tiến sĩ, hương cống Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trạng nguyên, tiến sĩ, hương cống Việt Nam
Tác giả: Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
9. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí tập 2, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch triều hiến chương loại chí tập 2
Tác giả: Phan Huy Chú
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
10. Việt Chương (2001), Thời Nam Bắc triều (Trịnh Nguyễn tranh hùng), Nxb Phụ nữ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thời Nam Bắc triều (Trịnh Nguyễn tranh hùng)
Tác giả: Việt Chương
Nhà XB: Nxb Phụ nữ
Năm: 2001
11. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (1999), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các triều đại Việt Nam
Tác giả: Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng
Nhà XB: Nxb Thanh niên
Năm: 1999
12. Dã Lan Nguyễn Đức Dụ (1992), Gia phả khảo luận và thực hành, Nxb Văn hóa Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả khảo luận và thực hành
Tác giả: Dã Lan Nguyễn Đức Dụ
Nhà XB: Nxb Văn hóa Hà Nội
Năm: 1992
13. Nguyễn Thị Thùy Dương (2010), Lịch sử - văn hóa dòng họ Trương Quốc ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh từ thế kỉ XVI đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử - văn hóa dòng họ Trương Quốc ở Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh từ thế kỉ XVI đến năm 2010
Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Dương
Năm: 2010
14. Nguyễn Xuân Đình (chủ biên) (1997), Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Hà tập 1 (1930 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Hà tập 1 (1930 - 1954)
Tác giả: Nguyễn Xuân Đình (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1997
15. Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Sở Văn hóa thông tin Hà Tĩnh ấn hành Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh
Tác giả: Thái Kim Đỉnh
Năm: 2004
16. Lê Quý Đôn (2007), Kiến Văn tiểu lục, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến Văn tiểu lục
Tác giả: Lê Quý Đôn
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2007
17. Gia phả dòng họ Vũ Tá - Hà Hoàng huyện Thạch Hà - tỉnh Hà Tĩnh, hội đồng dòng họ cung cấp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả dòng họ Vũ Tá - Hà Hoàng huyện Thạch Hà - tỉnh Hà Tĩnh
18. Gia phả họ Võ Tá, hội đồng dòng họ Võ Tá cung cấp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả họ Võ Tá
19. Ninh Viết Giao (1995), Thơ văn nhà Nho xứ Nghệ, Nxb Văn hóa thông in Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn nhà Nho xứ Nghệ
Tác giả: Ninh Viết Giao
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông in Hà Nội
Năm: 1995
20. Ninh Viết Giao (2003), Về văn hóa xứ Nghệ, Nxb Nghệ An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về văn hóa xứ Nghệ
Tác giả: Ninh Viết Giao
Nhà XB: Nxb Nghệ An
Năm: 2003

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

hương cống Việt Nam hay tài liệu Các nhà khoa bảng Việt Nam, Các nhà khoa bảng Nghệ An đều không có tên của những vị này và không có ghi chép  - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
h ương cống Việt Nam hay tài liệu Các nhà khoa bảng Việt Nam, Các nhà khoa bảng Nghệ An đều không có tên của những vị này và không có ghi chép (Trang 85)
Hình 1: Gia phả họ Võ Tá bằng chữ Hán - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 1 Gia phả họ Võ Tá bằng chữ Hán (Trang 140)
Hình 2: “Vũ tộc ngọc phổ” bản chữ Hán - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 2 “Vũ tộc ngọc phổ” bản chữ Hán (Trang 140)
Hình 4: Cổng nhà thờ họ Võ Tá - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 4 Cổng nhà thờ họ Võ Tá (Trang 141)
Hình 3: Nhà thờ họ Võ Tá đại tôn - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 3 Nhà thờ họ Võ Tá đại tôn (Trang 141)
Hình 5: Nội thất bên trong nhà thƣợng điện - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 5 Nội thất bên trong nhà thƣợng điện (Trang 142)
Hình 6: Nội thất trƣớc nhà thờ thƣợng điện - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 6 Nội thất trƣớc nhà thờ thƣợng điện (Trang 142)
Hình 7: Bản sao sắc vua Lê Ý Tông phong cho Vƣợng Cơ hầu - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 7 Bản sao sắc vua Lê Ý Tông phong cho Vƣợng Cơ hầu (Trang 143)
Hình 8: Sơ đồ phả hệ dòng họ Võ Tá - Hà Hoàng - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 8 Sơ đồ phả hệ dòng họ Võ Tá - Hà Hoàng (Trang 143)
Hình 9: Mộ Võ Tá Sắt trƣớc đây - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 9 Mộ Võ Tá Sắt trƣớc đây (Trang 144)
Hình 10: Khu mộ Võ Tá Sắt hiện tại - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 10 Khu mộ Võ Tá Sắt hiện tại (Trang 144)
Hình 11: Giếng Ngọc tại miếu Quan Quận - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 11 Giếng Ngọc tại miếu Quan Quận (Trang 145)
Hình 12: Mô hình toàn cảnh miếu Quan Quận (bản thiết kế) - Lịch sử   văn hóa dòng họ võ tá huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh, từ thế kỉ xvi đến năm 2013
Hình 12 Mô hình toàn cảnh miếu Quan Quận (bản thiết kế) (Trang 145)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w