KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG XƯƠNG
Đặc điểm địa lý tự nhiên
Quảng Xương là huyện ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, tọa lạc ở tọa độ 19°40’59” vĩ độ Bắc và 105°48’10’’ kinh độ Đông Huyện này giáp huyện Hoằng Hóa và thành phố Thanh Hóa ở phía Bắc, huyện Tĩnh Gia và một phần huyện Nông Cống ở phía Nam, Biển Đông với đường bờ biển dài 22km ở phía Đông, thị xã Sầm Sơn ở phía Đông Bắc, và huyện Đông Sơn cùng huyện Nông Cống ở phía Tây.
Huyện Quảng Xương, với diện tích 200.430 km², bao gồm 35 xã và 1 thị trấn, nằm ở trung tâm đồng bằng Thanh Hóa, sở hữu vị trí địa lý thuận lợi Bờ biển dài gần 18 km mang lại tiềm năng lớn về thủy sản và hải sản Huyện còn nằm trên các trục quốc lộ 1A, 45, 57 và tỉnh lộ số 4, đóng vai trò quan trọng trong an ninh - quốc phòng của tỉnh Những lợi thế về vị trí địa lý này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng.
Quảng Xương là huyện ven biển với đặc trưng nổi bật là những dải cồn cao xen lẫn dải đất thấp, chạy song song với bờ biển Huyện này được hình thành từ quá trình biển tiến, biển thoái, cùng với tác động của thủy triều và sự bồi đắp phù sa từ các sông Mã, sông Chu, và sông Yên.
Huyện Quảng Xương, nằm ở vị trí "Đầu sóng ngọn gió", có địa hình tương đối bằng phẳng với ít núi non Phía Bắc giáp cửa Hới (sông Mã) là núi Sầm Sơn, trong khi bên cửa Ghép (sông Yên) là dãy núi Lau Chẹt, tạo thành hai cánh tay khổng lồ đón nhận phù sa từ hai dòng sông lớn và hải lưu biển Vị trí ba mặt của huyện tương đối ổn định do các dòng sông trong đất liền ít thay đổi Tuy nhiên, phía Đông chịu tác động mạnh từ gió và sóng biển, hình thành địa hình ghồ ghề Mỏm cực Bắc, đặc biệt ven cửa Hới, hàng năm bồi đắp thêm phù sa ra biển, làm cho núi cát nhô ra xa Giữa huyện là các xã ven biển với cồn cát cao, trong khi phía cực Nam vẫn chưa hoàn thiện bồi tụ liên quan đến dòng sông Yên, tạo ra không gian rộng lớn ở Cửa Ghép.
Quảng Xương, theo phân tích của các nhà khoa học, được hình thành sau đợt biển lùi vào cuối thế kỉ Đệ Tứ, từ một vùng đất lầy lội, đầm phá và rừng núi hoang vu Qua hàng vạn năm bồi tụ tự nhiên và sức lao động sáng tạo của con người, Quảng Xương đã có được địa hình hiện tại Huyện này không chỉ là đồng bằng ven biển mà còn có núi, thể hiện rõ nét đặc trưng của đồng bằng Quảng Xương với địa hình bồi tích cổ và đồi núi sét đá gốc.
1.1.2.2 Đất đai Đi đôi với sự phức tạp của địa hình là sự phức tạp của thổ nhƣỡng Quảng Xương có các loại đất cát, đất thịt, đất bùn, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất thịt nặng, đất bùn hẩu Ở vùng ven biển, có dải cát giáp biển không thể cấy lúa hoặc trồng màu, nhƣng ở khu vực phía trong thì đất tốt hơn Đó là đất và cát pha bùn do sông Mã, sông Yên và phù sa sông Rào bồi đắp tạo thành thứ đất xốp mịn, màu mỡ, có thể trồng lúa, khoai và các loại rau màu Vùng phía Tây huyện đƣợc coi là vùng trọng điểm lúa đƣợc bao bọc bởi con sông
Khu vực Yên, sông Lý và sông Hoàng có điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa, cây cói và rau màu, cũng như sản xuất gạch Tuy nhiên, các đồng ruộng ở các làng xã ven đê thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa, dẫn đến độ pH cao, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động trồng trọt và nguồn nước phục vụ sinh hoạt cũng như sản xuất.
Ngày nay, người dân Quảng Xương đã áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tạo đất đai và đồng ruộng, nâng cao chất lượng cuộc sống Khu vực phía Nam huyện, thuộc lưu vực Bắc sông Yên, rất thuận lợi cho việc trồng cói và nuôi trồng thủy sản Người dân ở đây kết hợp phương pháp quảng canh và kỹ thuật thâm canh trong nuôi trồng thủy sản, mang lại thu nhập ổn định và cao hơn mức trung bình toàn huyện Đất đai Quảng Xương được phân bố với tỷ lệ 15% vùng biển, 25% vùng màu và 60% vùng trọng điểm lúa, cói.
Quảng Xương thuộc tiểu vùng khí hậu ven biển, có đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao, mùa đông không quá lạnh, mùa hè tương đối mát mẻ, độ ẩm cao, lượng mưa vừa phải và gió mạnh.
Nhiệt độ bình quân hàng năm đạt 19,48°C, với mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, trong đó tháng 6 và tháng 7 là nóng nhất với nhiệt độ lên đến 38°C Từ tháng 8 đến tháng 9, thời tiết bắt đầu chớm mát, tiếp theo là mùa lạnh từ tháng 10 Tháng 11 và 12, gió mùa đông bắc thổi mạnh khiến nhiệt độ giảm dần từ 25,5°C xuống còn 17,9°C, có lúc xuống tới 10°C Độ ẩm cao nhất ghi nhận là 86% vào tháng 2 và tháng 3, trong khi lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.600 đến 1.900mm, chủ yếu tập trung từ tháng 6 đến tháng 10.
Huyện được bao quanh bởi nhiều dòng sông lớn, vừa và nhỏ, hình thành từ nhiều nhánh sông từ các miền đất khác nhau, chảy ra biển Đông Những con sông này chủ yếu có nguồn gốc tự nhiên, nhưng cũng chịu ảnh hưởng từ hoạt động của con người trong suốt hàng trăm, hàng nghìn năm qua.
Sông Mã chảy qua địa phận Quảng Xương với chiều dài khoảng 15km, theo tài liệu “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” Trong mùa mưa và lụt, cũng như mùa khô, mực nước sông chủ yếu bị ảnh hưởng bởi thủy triều, dẫn đến sự hình thành các cồn cát bồi cao ở cửa sông Hiện tượng này gây ảnh hưởng đến dòng chảy và giao thông đường thủy tại khu vực.
Sông Yên, được nhắc đến trong nhiều sách cổ với nhiều tên gọi khác nhau, bắt nguồn từ vùng Như Xuân ở độ cao 100-125m và chảy qua các khu rừng rậm rạp trước khi đổ ra biển tại cửa Hải Ninh (Lạch Ghép) Với chiều dài 89km, hơn một nửa của sông chảy qua vùng rừng núi, và có một số nhánh chính như sông Hoàng, sông Lý cùng các nhánh nhỏ khác như sông Đơ, sông Dừa, sông Mở, sông Thọ Hạc và kênh Vinh, tạo nên một hệ thống thủy văn phong phú ở địa bàn Quảng Xương.
Sông Lý nối bến Mỹ Cảnh (Quảng Yên) với bến Hòa Trường (Quảng Trường) và nổi bật với nhiều khúc quanh co Theo truyền thuyết, sông Lý được đào từ thời Lý nhằm tìm kiếm lối đi tắt xuống sông Yên, thay thế cho con đường vòng qua Ngã ba Riềng Do dựa vào khe ngòi và dòng sông cũ, sông Lý có hình dáng uốn khúc, mang lại vai trò quan trọng trong giao thông đường thủy dưới triều Trần, Hậu Lê và những thời kỳ sau.
Sông Lý trước đây thường gây ngập úng cho các cánh đồng ven sông Để khắc phục tình trạng này, tỉnh đã quyết định nắn dòng và đào sâu sông Lý, biến nó thành một con đường hơi lượn, chạy qua các xã Quảng Yên, Quảng Hòa, Quảng Hợp và Quảng Trường.
Dân cƣ
Huyện Quảng Xương là vùng đất do thiên nhiên bồi tụ và được con người khai phá muộn hơn so với nhiều khu vực khác Dựa vào các di chỉ khảo cổ và hiện vật phát hiện tại địa phương, có thể xác định rằng Quảng Xương hình thành vào các thế kỷ trước hoặc sau Công nguyên, tương ứng với giai đoạn Đông Sơn muộn.
Những di chỉ khảo cổ học ở cồn Ổi, cồn Bần, đồng Mầy bên bờ sông
Mã Bà, nhánh sông Hoàng, là nơi cư trú của người Quảng Thắng vào đầu Công nguyên, chứng minh sự tồn tại của những ngôi làng cổ cách đây 2000 năm tại Kẻ Riềng và Kẻ Sòng Tại xã Quảng Thắng, các di vật được phát hiện chủ yếu ở cồn Ổi, bao gồm nhiều hiện vật bằng đồng và sắt như rìu, dáo, dao găm, thạp, thố, đặc biệt là bốn chiếc trống đồng Trong số đó, có một chiếc trống lớn còn nguyên vẹn, một chiếc nhỏ bị vỡ, một trống minh khí và một chiếc chỉ còn mảnh vỡ Các nhà nghiên cứu xác định trống đồng cồn Ổi thuộc loại 1 của nền văn hóa Đông Sơn thời kỳ đầu.
Trước đây, huyện Quảng Xương đã phát hiện hai trống đồng nổi tiếng từ thời Pháp thuộc: trống làng Mậu Xương (xã Quảng Lưu) vào năm 1928 và trống làng Triều Công (xã Quảng Lộc) vào năm 1935 Những trống đồng này, thuộc loại I rất đẹp, được tìm thấy tại các cồn cát ven biển Quảng Xương, thu hút sự quan tâm của giới khảo cổ học và cung cấp thêm chứng cứ về sự hiện diện của cư dân tại khu vực này từ thời kỳ đó.
Quá trình ngụ cư của cư dân đã tạo ra những làng quê trù phú tại Quảng Xương Các làng cư trú thường được hình thành dọc theo những dòng sông cổ hoặc trên các dải đất và cồn cát giữa đồng trũng Khi cuộc sống ổn định, làng xã phát triển và xã hội luôn có sự thay đổi, góp phần vào sự phát triển bền vững của vùng đất này.
Văn bia Hƣng Phúc tự (chùa Kênh) được dựng năm 1324 cho thấy nhiều làng thuộc hương Yên Duyên đã được thành lập từ thời Tiền Lê và Lý trở về trước Hương này nằm ở miền biển huyện Quảng Xương, tương ứng với các xã phía Đông tỉnh lộ 4A hiện nay như Quảng Vinh, Quảng Thọ, Quảng Châu, Quảng Hùng, và Quảng Lợi Phía Tây huyện có 9 xã miền đồng như Quảng Yên, Quảng Long, Quảng Văn, Quảng Hòa, và Quảng Hợp Thời nhà Trần, hương Ngọc Sơn là trung tâm điền trang của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, và đến đầu thời Nguyễn, khu vực này thuộc huyện Tĩnh Gia, cho đến cuối thời Nguyễn mới được chuyển về huyện Quảng Xương Các làng ven sông Hoàng như Kẻ Riềng (xã Quảng Yên) và Kẻ Sòng (xã Quảng Long) xuất hiện sớm hơn, gắn liền với truyền thuyết về các viên tướng đánh giặc thời nhà Tùy, Đường, với những câu chuyện thần thoại về Tham Xung đại vương (Kẻ Sòng) và Nghiêu Sơn đại vương (Kẻ Riềng).
Dưới thời Lê sơ, Lê Thái Tổ đã thực hiện chính sách khai hoang, lập làng nhằm đưa người nghèo đói trở về quê cũ hoặc xây dựng quê mới Chính sách “Ngụ binh ư nông” phát triển mạnh mẽ đã hình thành nhiều làng xã mới, trong đó có làng Đồn Điền (xã Quảng Thái) được thành lập vào thế kỷ XV, là một trong số ít làng có niên đại xác định rõ ràng Chính sách này không chỉ đảm bảo việc xây dựng quân đội phục vụ phòng thủ đất nước mà còn góp phần phát triển các đồn điền trong tỉnh Qua thời gian, các binh đồn điền dần chuyển thành dân đồn điền, và các triều đại sau tiếp tục mở rộng và tái lập các làng xã.
Những làng được thành lập vào thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn có nguồn gốc xác định rõ ràng Một số làng tiêu biểu như làng Đồn (xã Quảng Thọ) được sáng lập bởi ông tổ họ Lê, Lê Văn Đức, vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, khi ông cho quân lính khai phá đất đai để lập ấp Đồn, từ đó phát triển thành làng.
Thời Nguyễn, các làng tiêu biểu như làng Mỹ Lâm (xã Quảng Đức) được thành lập bởi cụ tổ Phạm Đức Thiện vào thế kỷ XVIII, và làng Mỹ Thạch (xã Quảng Trung) do cụ tổ Phạm Bá Quyền sáng lập vào thế kỷ XIX.
Quá trình sưu tầm tư liệu về các làng xã tại Quảng Xương cho thấy rằng vẫn còn rất ít văn bản cổ giá trị được lưu giữ Nhiều làng chỉ có thể dựa vào gia phả hoặc truyền miệng để biết đến lịch sử của mình Qua thời gian, mảnh đất Quảng Xương đã trải qua nhiều sự chia tách, sáp nhập và thay đổi tên gọi.
Nhà nước Văn Lang ra đời, Thanh Hóa thuộc bộ Cửu Chân, một trong
15 đơn vị hành chính của nước ta lúc bấy giờ Quảng Xương cũng thuộc bộ Cửu Chân
Thời thuộc Hán (111 trước Công nguyên), Quảng Xương thuộc huyện Cư Phong và huyện Tư Phố Theo Đại Nam nhất thống chí, trong thời kỳ Đại Việt, Quảng Xương được gọi là huyện Vĩnh Xương cho đến triều Trần Trong thời Minh, phía Bắc Quảng Xương là huyện Duyên Giác, còn phía Nam là địa phận Kết Thuế Dưới triều đại Lê Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông, khu vực này vẫn mang tên huyện Vĩnh Xương Từ thời Lê Thánh Tông, tên gọi huyện Quảng Xương được chính thức sử dụng và vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Thời vua Gia Long, dưới triều Nguyễn, huyện Quảng Xương có 4 tổng,
Tổng cộng có 118 xã, thôn, sở, trong đó Tổng Thủ Hộ có 27 xã, thôn, sở; Tổng Lưu Vệ có 39 xã, thôn; Tổng Thái Lai có 29 xã, thôn; và Tổng Giặc Thượng có 23 xã, thôn.
Từ sau thời kỳ Đồng Khánh cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, huyện được tổ chức thành 7 tổng: Thủ Chính, Lưu Thanh, Vệ Yên, Cung Thượng, Thái Lai, Văn Trinh và Ngọc Đới.
Dân số của 7 tổng khoảng gần 10 vạn người Huyện lỵ vào đầu thời Nguyễn ở thôn Nang (xã Quảng Cát), sau đó dời đến xã Cung Thƣợng và làng Bùi
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, dẫn đến việc xóa bỏ các đơn vị hành chính cấp phủ và cấp tổng Sau cuộc bầu cử Quốc hội vào ngày 6 tháng 1 và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp trong nửa đầu năm 1946, huyện Quảng Xương được thành lập với 39 xã, được đặt tên theo các nhà yêu nước như Duy Tân, Đào Duy Từ và Chiêu Văn.
Từ cuối năm 1947 đến tháng 4 năm 1948, từ 39 xã sáp nhập thành 17 xã lớn, lấy từ Quảng làm tên đầu: Quảng Đức, Quảng Tân, Quảng Hải, Quảng Bình
Vào ngày 19 tháng 4 năm 1963, Hội đồng Chính phủ đã ban hành quyết định số 50-CP thành lập thị trấn Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa, bao gồm khu nghỉ mát Sầm Sơn và xã Quảng Sơn, khi đó huyện Quảng Xương còn 46 xã.
Ngày 22/8/1971, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định 226/TTg sáp nhập xã Quảng Thắng vào thị xã Thanh Hóa
Vào ngày 18 tháng 12 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định thành lập thị xã Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa, bao gồm thị trấn Sầm Sơn và các xã Quảng Trường, Quảng Cư, Quảng Tiến cùng xóm Vinh Sơn thuộc xã Quảng Vinh.
Ngày 13/4/1992, Chính phủ ra quyết định số 1851-CP thành lập thị trấn Quảng Xương
Truyền thống văn hóa và lịch sử
Quảng Xương là vùng đất giàu bản sắc văn hóa truyền thống, nơi người dân đã thể hiện sự cần cù và sáng tạo trong việc chinh phục thiên nhiên Nhờ đó, họ đã tạo dựng một kho tàng văn hóa vật chất và phi vật chất phong phú, mang đậm ý nghĩa nhân văn.
Trong quá trình khai khẩn đất đai và lập làng xóm, người dân Quảng Xương đã tiếp nhận và mang theo nhiều văn hóa và phong tục từ các miền quê, đặc biệt là từ vùng đồng bằng Bắc Bộ Giao thương với các vùng miền khác đã làm phong phú thêm mối giao lưu văn hóa vật chất và tinh thần của người dân nơi đây Qua thời gian, nhiều tập tục đã thay đổi, một số được bảo lưu, một số mai một, và một số được hòa trộn, tạo nên phong cách riêng của người Quảng Xương Nhìn chung, phong tục của người dân Quảng Xương vẫn giữ nhiều nét tương đồng với phong tục của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Múa hát dân gian Việt Nam rất đa dạng, trong đó hát Ghẹo là hình thức phổ biến nhất, mang lại giây phút thư giãn cho thanh niên sau một ngày làm việc vất vả Ngoài ra, các trò diễn dân gian như Ngũ trò cũng được yêu thích tại các làng quê, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa cộng đồng.
Riềng tại xã Quảng Yên và Voi buồm ngựa vía ở xã Quảng Tâm là những đặc sản nổi bật của vùng đất Văn Trinh, nơi diễn ra lễ hội kéo ngựa Bên cạnh đó, vùng biển Cự Nham tổ chức hội đua thuyền, trong khi Quảng Văn có lễ rước Thần hoàng, tạo nên không khí lễ hội sôi động và phong phú.
Quảng Xương nổi bật với nhiều lễ hội truyền thống phong phú, kết hợp các làn điệu dân ca, hò, vè, múa hát và các trò diễn dân gian đặc sắc Những hoạt động này không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo mà còn thu hút sự quan tâm của du khách.
- Lễ hội đền Văn Trinh: Địa danh Văn Trinh ghép chữ “Văn” trong
Chiêu Văn đại vương, tên thật là Trần Nhật Duật, là một nhân vật lịch sử quan trọng gắn liền với vùng đất Hương Ngọc Sơn, nơi ông từng sống và cai quản Thái ấp của ông nằm ngay chân núi Ngọc, và khi hương Ngọc Sơn được nâng cấp thành tổng Văn Trinh, núi Ngọ cũng được đổi tên thành núi Văn Trinh Sau khi Trần Nhật Duật qua đời, ông được an táng tại đây, và triều đình đã cho xây dựng đền thờ để tưởng nhớ ông, bao gồm đền Thượng và đền Trung.
Trần Nhật Duật là một người yêu thích Đạo giáo, ca vũ và âm nhạc, với đội ca vũ đông đảo lên đến trăm người trong nhà Ông không chỉ sáng tác nhiều bài ca và điệu múa mà còn duy trì hoạt động biểu diễn sau khi ông qua đời, trong các buổi lễ dâng cúng Những tác phẩm của ông vẫn được lưu giữ trong dân gian, và đến nay, một số lễ hội tiêu biểu như lễ hội cầu phúc tháng 3 và hát nhà trò Văn Trinh vẫn tiếp tục diễn ra.
Trước năm 1945, làng Riềng là địa điểm độc nhất trong huyện tổ chức lệ đầu năm, diễn "Ngũ trò" sau Tết Nguyên đán để tế thần Nghiêu Sơn đại vương.
Làng Riềng tên chữ là Thiên Linh, nay thuộc xã Quảng Yên Đền Nghiêu Sơn đại vương nằm ven sông Vạy được trùng tu năm Cảnh Hưng thứ
36 (1775), tục gọi đền Riềng thờ Kiều Sơn vương, tướng giỏi của vua Hùng thứ 18, đánh giặc Thục bị thua, phi ngựa chạy về đất này thì hóa
Ngũ trò là một loại hình nghệ thuật truyền thống được biểu diễn tại sân đền Riềng để tế thần Nghiêu Sơn đại vương, bao gồm các trò như Tú huần, Quân thuyền, Văn vương, Trống mõ và Tiên cuội Những trò diễn này không chỉ thể hiện cách hát, múa tinh tế và phong phú mà còn phản ánh quá trình lao động vất vả nhưng đầy sáng tạo của người dân địa phương.
Ngày nay, huyện có nhiều lễ hội và trò diễn dân gian truyền thống như lễ hội đền Riềng và lễ rước thuyền đền Sòng Những lễ hội này không chỉ mang tính tiêu biểu mà còn được chính quyền địa phương đầu tư và khôi phục, phù hợp với điều kiện hiện đại nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.
Các công trình kiến trúc cổ
Huyện Quảng Xương nổi bật với nhiều công trình kiến trúc cổ, bao gồm đền thờ Trần Nhật Duật ở xã Quảng Hợp, chùa Mậu Xương tại xã Quảng Lưu, chùa Kênh ở xã Quảng Hùng và đền Độc Cước thuộc thị xã Sầm Sơn Ngoài ra, huyện còn có nhiều ngôi đình lớn và chùa mái cong, cùng với cây đa cổ thụ và giếng nước trong lành, thể hiện phong tục tập quán của ngư dân nông nghiệp ở vùng biển Quảng Xương.
Các công trình kiến trúc tiêu biểu tại Quảng Xương có thể chia thành hai loại: kiến trúc nhà ở và kiến trúc nhà thờ Trong đó, nhà ở nông thôn bao gồm nhà gỗ, nhà tre gỗ (nhà ghép) và nhà tre nứa Về kiến trúc nhà thờ, có các loại như nhà thờ họ, đền, nghè, chùa và miếu Thời Trung đại, mặc dù các công trình kiến trúc bắt đầu được xây dựng nhưng chưa phổ biến Đến thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, kiến trúc nhà thờ trở nên phổ biến với nhiều đền, chùa, nghè, miếu xuất hiện trong các làng xã Những công trình kiến trúc cổ như đền thờ Trần Nhật Duật, đền thờ Thái tể Bùi Sỹ Lâm (xã Quảng Tân) và nghè đá Câu Đồng (xã Quảng) mang giá trị lịch sử và nghệ thuật lớn.
Trạch), chùa Bồng Hinh (xã Quảng Trung), nhà cổ
Tín ngưỡng thờ cúng trong nhân dân rất phong phú, được phân chia thành bốn thể loại chính: thiên thần, nhân thần, nhiên thần và tạp thần Trong đó, nhân thần chiếm ưu thế lớn nhất, bao gồm những cá nhân có công lao trong việc bảo vệ đất nước, hộ dân, như anh hùng dân tộc, danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa, cũng như các thần tổ làng và thần tổ nghề.
Thiên Chúa giáo được du nhập vào huyện Quảng Xương vào năm 1886, khi thực dân Pháp thiết lập quyền kiểm soát tại Thanh Hóa, cho phép việc truyền bá đạo diễn ra tự do Nhà thờ Phúc Lãng, xây dựng năm 1895 tại xã Quảng Trường, là công trình thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên xuất hiện tại huyện này Dưới chế độ mới, đa số giáo dân đều trung thành với tôn chỉ của đạo.
“Kính Chúa yêu nước” trong cộng đồng làng xã, tạo nên sự chung sống hòa bình giữa các tín ngƣỡng trong vùng
Quảng Xương không chỉ nổi tiếng với nhiều lễ hội và công trình kiến trúc cổ, mà còn là nơi lưu giữ kho tàng văn học dân gian phong phú Đây là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân, đóng góp giá trị quý báu cho văn học dân gian Việt Nam Hầu hết các tác phẩm văn học này được truyền miệng trong cộng đồng, trong khi một số ít được ghi chép trong các thần tích, thần phả.
DIỆN MẠO MỘT SỐ DI TÍCH ĐỀN, CHÙA TIÊU BIỂU TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG
Chùa Hƣng Phúc (Chùa Kênh)
Chùa Hưng Phúc, hay còn gọi là chùa Kênh, được xây dựng vào cuối mùa đông năm Giáp Tý, tương ứng với niên hiệu Khai Thái Nguyên niên (Phật lịch 1868 - dương lịch 1325) dưới triều đại vua Trần Minh Tông (1314-1329).
Chùa Hương Yên Duyên được xây dựng để thờ đức Phật và Thượng tướng Minh tự Lê An, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất vào năm 1258 Ông Lê An, được vua Trần Thái Tông phong tướng và gả công chúa làm vợ, đã đóng vai trò quan trọng bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, tổng chỉ huy cuộc kháng chiến Với những đóng góp to lớn, khi qua đời, ông được triều đình phong tặng tước hiệu “Đô Nguyên Súy Vĩ Thống Quản Đại thần Trụ quốc Đại Tướng Quân”, một danh hiệu cao quý thời bấy giờ.
Thượng tướng Lê An được triều đình giao nhiệm vụ xây dựng Phủ đệ tại Hương Yên Duyên, thuộc phủ Thanh Hoa Ông có hai con trai xuất sắc là Đại toát Lê Bằng và đại toát Lê Bào, đều là những tướng lĩnh tài ba trong thời kỳ Trần Ngoài ra, ba người cháu nội của ông cũng là các tướng lĩnh nổi bật thời Trần, bao gồm Đại toát Đại liêu ban Lê Mạnh, Đại toát Ký ban Lê Nam và Đại toát Ký ban Lê Quảng.
Văn bia tại chùa Kênh ghi nhận công lao to lớn của Thượng tướng Minh tự Lê An, người đã góp phần xây dựng phong cách vĩ đại cho quê hương, giữ gìn đất nước và nối tiếp sự nghiệp của cha ông Sự trung thành và những công tích rực rỡ của ông sẽ mãi được lưu truyền trong sử sách và trong lòng người đời sau.
Chùa Hưng Phúc được xây dựng bởi ông Lê Bằng với tấm lòng từ bi và hiếu thuận, nhằm cầu phúc cho mọi người Ông Lê Bằng là con thứ của Thượng tướng Minh tự.
Lê An, con trai của bà Quách, khởi công xây dựng chùa vào năm Giáp Tý (1264), nhưng công trình chưa hoàn thiện thì Lê Bằng qua đời Đến đầu xuân Giáp Tý (1324), con trai thứ của ông, Lê Mạnh, nhận thấy quy mô chùa cũ quá nhỏ và các hạng mục như tượng Phật, phòng tăng chưa hoàn chỉnh, đã quyết tâm xây dựng một ngôi chùa mới rộng rãi và đẹp đẽ hơn Cuối mùa đông năm Bính Dần (1326), chùa đã hoàn thành cùng với bia đá được tạc xong.
Từ giữa thế kỷ XIV, chùa Kênh đã trở thành nơi thờ phụng đức Phật và lục vị tướng công họ Lê Vào mùa xuân năm 1859, theo chỉ thị của triều Nguyễn, hội vũ làng Trường Tân đã tôn tạo chùa, khắc lại bia để ghi nhớ công tích của các võ tướng Tuy nhiên, đến những năm 50 của thế kỷ XX, chùa bị phá hại và chỉ còn lại tấm bia không nguyên vẹn Mặc dù vậy, nội dung bia vẫn giúp chúng ta hiểu rõ về lịch sử và kiến trúc của chùa, đồng thời tái hiện một thời kỳ chống giặc ngoại xâm oanh liệt của dân tộc, trong đó nhân dân Yên Duyên đã đóng góp một phần quan trọng Công lao này sẽ được bàn luận chi tiết hơn trong chương sau.
Ngôi chùa Hưng Phúc, do Lê Mạnh xây dựng, được miêu tả trong văn bia là một công trình kiến trúc quy mô và tinh xảo, với cảnh chùa được tu tạo đẹp như một danh lam cổ tự Tuy nhiên, các tài liệu thành văn về chùa Hưng Phúc hiện nay đã không còn, khiến chúng ta chỉ có thể hình dung về hình dáng và kiến trúc của ngôi chùa lâu đời này thông qua nội dung được chép trên văn bia.
“ Pháp điện chế kỳ tiền, Tăng phòng lưu hỳ hậu
Bảo tạo kình dĩ thạch long điêu khắc cực nhân gian chi xảo, Phật đường cái dĩ cầm ngoãi phi xí sùng vân ngoại chi quan
Xế lũy trinh thạch Đình liệt dị hoa
Phong độ thanh tùng phảng phất hồ thiên cung chi tấu hưởng, Nguyệt sái thúy trúc dao dương hồ Phật giới chi phóng quang
Cổ mộc phù sơ uyển nhược bồ đề chi thụ
Kỳ viên thâm thúy hạo nhiên bố địa chi kim ”
“ Điện Phật một tòa phía trước, Phòng tăng mấy dãy đàng sau
Bảo tọa cột đá rồng leo, đường nét tuyệt vời trong cõi thế, Phật đường uyên ương ngói lợp, bóng hình bay bổng sáng tầng mây
Thềm xây đá quý, Sân lát hoa kỳ
Gió thổi rừng tùng tưởng khúc nhạc cung tiên hòa tấu, Trăng soi khóm trúc như hào quang cõi Phật chiếu vê
Cổ thụ xum xuê ngỡ thấy bồ đề tỏa bóng, Cửa thiền bát ngát dường trông đất bụi phơi vàng ” [ 33, 494, 495]
Chùa Hưng Phúc được đại trùng tu vào năm Khai Thái thứ ba (1326), bao gồm 11 tòa nhà ngói và 2 nhà tranh Theo một bài thơ mô tả, chùa được xây dựng trên mảnh đất có hình dáng giống đầu con long xà, tạo nên một phong cảnh rất đẹp.
Cá ao vành nguyệt vẫy vùng chơi Vườn uyển nhược hoa cười trăm thức
Sớm tụng kinh chim kêu xao xác Chiều thỉnh chuông tâm động mười phương
Cửa từ bi mở cả tam quan, Thuyền bát nhã độ trì bốn bể [33, 496]
Ngôi chùa lịch sử này, mặc dù chỉ còn lại ít tài liệu, vẫn để lại ấn tượng sâu sắc về quy mô và kiến trúc độc đáo Pháp đường nằm ở phía trước, trong khi tăng phòng được bố trí xung quanh Cột đá tòa Tam Bảo nổi bật với những vân rộng và nét trạm trổ tinh xảo Mái điện thờ Chư Phật được lợp bằng ngói quý, tạo nên vẻ đẹp tuyệt vời như đang vươn lên giữa mây trời Thềm bên trái lát bằng đá cứng, trong khi sân bên phải rực rỡ với nhiều loại hoa lạ, gió thổi vi vút như một bản nhạc thiên cung Ánh trăng lung linh như hào quang của Phật giới, mang đến cảm giác huyền diệu cho không gian nơi đây.
Chùa Kênh, theo mô tả trong văn bia còn sót lại, được biết đến với vẻ đẹp cổ kính và uy nghi, hòa quyện cùng thiên nhiên Cảnh vật nơi đây được miêu tả với hình ảnh "Um tùm cây cổ, trông như hàng lớp bồ đề", tạo nên một không gian rộng lớn, lấp lánh như vàng dưới ánh mặt trời, với vẻ đẹp kỳ lạ và trạng thái luôn biến đổi, khó có thể diễn tả bằng lời.
Bia đá chùa Kênh, một tấm bia lớn thời Trần, hiện đang được đặt trên lưng rùa trong nhà bia xây dựng năm 1995, nằm giữa ruộng rau màu của nông dân thôn Trường Tân, xã Quảng Hùng Bia có kích thước cao 150cm, rộng 60cm và dày 25cm Trên trán bia, đôi rồng được khắc một cách giản dị nhưng khỏe mạnh, uốn lượn trong tư thế sẵn sàng lao lên phía trước Bốn chữ “Hưng Phúc tự bi” được khắc nổi bật theo lối triện mộc mạc Hai dải viền hoa cúc mềm mại bao quanh lòng bia, với hàng cánh hoa xếp cách điệu và hoa văn sóng nước đơn giản nhưng gợi tả.
Văn bia được khắc vào năm “Khai Thái tam niên” (1326) đã trải qua thời gian dài, nhưng đến năm “Tự Đức thập tam niên” (1859), hội vũ thôn Trường Tân đã khắc lại, nhầm lẫn thành “Khai Thái tam thập niên” (1353) Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, việc dân quân tập bắn đã làm vỡ một phần bia, dẫn đến mất mát một số chữ.
Toàn bộ văn bia mặt trước, kể cả 24 câu, 96 chữ của bài thơ tên
Bài viết về “Minh” có khoảng 770 chữ, trong đó 20 chữ đã bị mất, bao gồm tên tuổi và chức tước của người soạn văn bia, khiến chúng ta không còn thông tin nào khác về tác giả Dù vậy, qua phong cách viết, có thể nhận thấy tác giả là người có kiến thức sâu rộng về Nho giáo và Phật học Trong thời kỳ nhà Trần, Nho giáo phát triển nhưng Phật giáo lại rất hưng thịnh, với các vị vua như Trần Thái Tông từng có ý định từ bỏ ngai vàng để đi tu, hay Trần Thánh Tông nghiên cứu sâu về đạo Phật Đặc biệt, Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con và trở thành người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, thể hiện sự giao thoa văn hóa Phật giáo đặc sắc của Đại Việt.
Văn bia tại chùa Hưng Phúc không chỉ đơn thuần ghi lại các hoạt động tôn giáo như dựng chùa, tô tượng hay đúc chuông, mà còn phản ánh một vấn đề lịch sử quan trọng Hương Yên Duyên, nơi tọa lạc của chùa, gắn liền với cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân chống lại giặc Nguyên Mông trong thời kỳ nhà Trần.
Chùa Nổ
Chùa Nổ, tọa lạc tại xã Uy Nổ (nay là xã Quảng Ngọc), là một ngôi chùa mang tên gọi theo địa danh lịch sử Ngôi chùa này không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là biểu tượng văn hóa của khu vực.
Nổ, tên gọi được nhân dân sử dụng thay cho tên xã Uy, chỉ gọi là Nổ Chùa có tên tự là Chùa Đại Phúc (Đại Phúc tự), nhưng người dân vẫn quen gọi là Chùa Nổ.
Chùa nằm ở thôn Uy Nam, xã Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương, nơi gắn liền với núi Ngọc và sông Lý, tiếp giáp năm xã Quảng Ngọc, Quảng Hợp, Quảng Văn, Quảng Vọng và Quảng Hòa Vào năm 1285, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã chọn nơi đây làm phòng tuyến chống giặc Nguyên - Mông Sau đó, vua Trần đã ban cho khu vực này làm điền trang thái ấp, gọi là hương Ngọc Sơn, bao gồm dinh thự, tổng trấn, công quán, doanh trại quân lính và nhiều công trình khác trên diện tích hơn 1km², với núi Ngọc ở phía Bắc và sông Lý bên cạnh Gia cư của Chiêu Văn Vương nằm cách khu dinh thự khoảng 1km Từ năm 1281, sau khi dẹp yên giặc loạn sông Đà, Chiêu Văn Vương đã tuyên bố giải phóng nông nô, cho phép họ tự do xây dựng trang trại và thành lập làng, với người đứng đầu là Xã quan, làng nhỏ gọi là tƣ xã và làng lớn gọi là đại tƣ xã.
Vào năm 1400, triều đại Trần bị nhà Hồ lật đổ, nhưng không lâu sau, đất nước lại rơi vào tay giặc Minh, dẫn đến sự tan rã dần dần của các trang trại và cộng đồng.
Lê Lợi đánh tan giặc Minh, triều đình có chính sách chiêu dân lập ấp, thì thôn
Thôn Uy Nam được thành lập trong thời kỳ triều Lê sơ, thuộc làng Tam Uy Theo sách Địa chí huyện Quảng Xương, có ghi chép về lịch sử và đặc điểm của làng Tam Uy.
Ông Ất Ngọ sống tại đây từ cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV và có bốn người con trai tài giỏi Khi quân Minh đến, ông giao lại tài sản cho bà con và cùng năm con trốn vào núi Trường Tuy nhiên, quân Minh đã bắt được họ và dù bị ép buộc, ông và các con vẫn kiên quyết không theo giặc, dẫn đến cái chết của cả gia đình Sau đó, quân Minh thất bại, nhà vua lên ngôi và nhân dân được sống yên ổn Nhờ vào ruộng đất của ông Ất Ngọ, xóm Oai phát triển nhanh chóng, thu hút nhiều người đến sinh sống và trở thành làng Oai Làng Oai, với đồng lúa xanh tươi, đã trở thành một trung tâm đông vui, được gọi là Uy Hội, và sau này phát triển thành hai làng Uy Thượng và Uy Trung, tạo thành Tam Uy.
Uy Nam là thôn trung tâm xã Quảng Ngọc, gần chợ Hội, nơi giao lưu hàng hóa giữa các xã miền đồng bằng huyện Quảng Xương và các huyện lân cận như Nông Cống, Tĩnh Gia Điều này tạo điều kiện cho cư dân phát triển nông trang và tham gia vào các hoạt động thương mại buôn bán.
Chùa Nổ, một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, hiện không còn tài liệu nào ghi chép về sự ra đời của nó Qua việc nghiên cứu gia phả họ Lê tại làng Uy Nam, xã Quảng Ngọc, cũng không tìm thấy thông tin nào liên quan, chỉ có sơ đồ mô tả vị trí của chùa Nổ trong khu vực núi Văn Trinh.
Năm 1960, chính quyền xã Quảng Ngọc đã tháo dỡ chùa Nổ để lấy vật liệu xây dựng trạm xá Đến năm 2007, xã xây dựng trạm xá mới, trả lại vị trí cho chùa Nổ Trong quá trình phá dỡ trạm xá cũ, người dân đã phát hiện thượng lương của chùa Nổ, ghi lại thông tin về việc trùng tu vào tháng 11 năm Nhâm Tuất, năm Khải Định thứ 7 (1922).
Theo lời kể của cụ Bùi Bá Khắc, 93 tuổi, chùa Nổ là chùa chung của xã Uy Nổ và vùng đất Kỳ Vỹ, xã Quảng Ngọc Chùa không lớn nhưng có đầy đủ các công trình như cổng, chùa chính, nhà Mẫu và nhà Tổ, trong đó nhà Tổ được sử dụng cho người trông coi chùa.
Ngôi chùa đã được gia đình ông Lương Văn Tuyển trông coi qua nhiều thế hệ, và vào năm 1922, ông Tuyển đã đầu tư tiền bạc để trùng tu chùa, mua thêm một pho tượng mới và sơn lại toàn bộ hệ thống tượng trong chùa.
Mặc dù không đầy đủ tài liệu để khẳng định niên đại, sự ra đời chùa
Ngôi chùa Nổ, dựa trên các di vật đá, tộc phả họ Lê và thượng lương ghi năm trùng tu, cho thấy ít nhất xuất hiện từ cuối thời Trần đến đầu Lê Tên chùa đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân địa phương, trở thành nơi sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng, nơi cư dân thường lui tới để thắp hương cầu khấn.
Chùa Nổ, một ngôi chùa làng có lịch sử lâu đời, tọa lạc trên khu đất rộng và bằng phẳng, hướng về phía Nam Hiện nay, không có tài liệu nào ghi chép cụ thể về thời gian xây dựng chùa, nhưng theo các bậc cao niên trong làng, ngôi chùa này đã tồn tại từ rất lâu Quy mô và cấu trúc của chùa không lớn, phù hợp với đặc điểm của một ngôi chùa làng.
Chùa Nổ, nằm ở huyện Quảng Xương, được xây dựng với cấu trúc hình chữ Đinh gồm nhà Tiền đường năm gian và ba gian nhà Hậu cung, cùng với nhà thờ Mẫu và nhà thờ tổ Vào năm 1964, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa bị hư hại do bom Mỹ, và nguyên vật liệu trong chùa đã được sử dụng để xây dựng trạm xá và các công trình khác Đến năm 2005, chính quyền xã Quảng Ngọc đã di dời trạm xá, tạo điều kiện cho việc phục hồi chùa Trong quá trình san lấp nền, nhiều hiện vật nghệ thuật thế kỷ XIII đã được phát hiện Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, chính quyền và các đoàn thể địa phương đã cùng nhau đóng góp trùng tu chùa Nổ trên nền móng cũ.
Hiện nay, chùa được địa phương tôn tạo lại với không gian kiến trúc đƣợc bố trí nhƣ sau:
Cổng Tam quan của chùa được thiết kế với hai tầng mái, bao gồm một cổng chính và hai cổng phụ Cổng chính có chiều cao 13,5m và rộng 3,2m, với 4 cánh cửa gỗ dễ dàng mở đóng Hai cổng phụ mỗi cổng rộng 1,35m, tạo nên một kiến trúc hài hòa và tiện lợi.
Chùa Yên Đông
Chùa Yên Đông, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như Đền thờ Quỳnh Lâm Hầu Trần Tướng công, Đền thờ Tả Tướng Quốc Thái Úy, Đền thờ Phục vương Thượng đẳng phúc Trần, là một địa điểm linh thiêng nổi bật trong văn hóa tâm linh của người Việt.
Di tích Yên Đông mang hai tên gọi “đền” và “chùa” do sự kết hợp của hai dòng tín ngưỡng khác nhau, bắt nguồn từ việc Trần Tướng Công được đức Phật tổ giáng sinh tại đây Ông và con cháu đã thực hiện nhiều việc thiện tại chùa Tuyết Phong (nay là chùa Mậu Xương), dẫn đến việc cầu tự của ông được chấp thuận Điều này đã tạo nên sự kết nối giữa các tôn thần tại chùa với vua Na-la-tri Phật và Quan Thế Âm Bồ Tát Ngoài ra, đền Yên Đông còn là nơi phát tích của Nội đạo tràng Yên Đông, một dòng đạo kết hợp giữa Phật giáo, Nho giáo và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của cư dân ven biển trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
Chùa Yên Đông tọa lạc tại thôn 6 xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương, trên vùng đất cổ có cư dân lâu đời Trước đây, nơi này được gọi là thôn Đại Lộc, sau đó đổi thành thôn Văn Chỉ và thôn Bồi Nguyên Khu vực này gắn liền với nhiều huyền tích lịch sử, trong đó có sự xuất hiện của Nội Đạo An Đông, một tôn giáo của người bản địa Với địa hình đồng bằng ven biển và giao thông thuận lợi, nơi đây phát triển kinh tế nông nghiệp mạnh mẽ Qua các thời kỳ, người dân đã tạo dựng nhiều giá trị văn hóa vật chất như đền, chùa, miếu, phủ, cùng nhau xây dựng và bảo vệ xóm làng, góp phần tạo nên một cộng đồng đoàn kết, ấm no.
2.3.2 Đôi nét sơ lược về dòng đạo Nội
Đạo Nội ra đời trong bối cảnh lịch sử đầy biến động vào đầu thế kỷ XV, khi Hồ Quý Ly lật đổ triều Trần và thành lập triều Hồ, nhưng triều đại này chỉ tồn tại trong 6 năm Cuối năm 1406, đất nước rơi vào tay giặc Minh, dẫn đến cuộc sống khốn khó cho nhân dân do các chính sách hà khắc của chúng Năm 1418, Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa ở núi rừng Lam Sơn, nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân Sau 10 năm kiên trì đấu tranh, cuộc khởi nghĩa đã giành được thắng lợi, tạo tiền đề cho sự ra đời của một triều đại mới.
Triều đại Lê sơ được đánh giá là thời kỳ cực thịnh nhất trong lịch sử Việt Nam, nhưng sự hưng thịnh này chỉ kéo dài 99 năm Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi nhà Lê, dẫn đến tình trạng loạn lạc gia tăng do các cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiến như Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn Hệ quả là đất nước bị chia cắt từ năm 1672.
Trong bối cảnh rối ren, đất Thanh Hóa không chỉ là căn cứ của vua Lê chúa Trịnh, mà còn là nơi cung cấp nhân tài và vật lực cho chúa Trịnh, đặc biệt tại trung tâm Yên Trường (huyện Yên Định) Tuy nhiên, điều này đã khiến người dân sao nhãng công việc nông nghiệp, dẫn đến thiên tai, mất mùa và đói kém liên miên, khiến nhiều người phải phiêu tán Khu vực huyện Quảng Xương, đặc biệt là vùng ven biển, cũng không thoát khỏi những tàn khốc đó Lịch sử ghi nhận rằng vào năm 1581, đã diễn ra một trận chiến lớn tại Đường Nang giữa hai tập đoàn: nhà Mạc do Mạc Đôn Nhượng chỉ huy.
Trịnh do Hoàng Đình Ái chống cự, hai bên đánh nhau quyết liệt, nhà Mạc thua” [59, 171]
Sau chiến tranh Trịnh - Mạc và Trịnh - Nguyễn, cả hai thế lực đều lấy danh nghĩa “Phò Lê” để đối đầu, khiến đất Thanh không trở thành chiến trường khốc liệt nhưng lại rơi vào tình trạng phân chia quyền lực giữa ba thế lực Lê - Trịnh - Nguyễn Điều này đã tạo ra sự hoang mang, lo sợ và mất mát cho nhân dân xứ Thanh, đặc biệt là người dân ven biển Quảng Xương.
Bối cảnh lịch sử đã dẫn đến sự hình thành và phát triển của các tôn giáo tín ngưỡng, khi cả nhân dân lẫn quan lại đều trải qua nỗi đau và mất niềm tin vào cuộc sống thực tại Điều này đã thúc đẩy họ tìm về với thần linh, thể hiện nguyện vọng về một cuộc sống thanh bình Sự xuất hiện của Đạo Nội trong giai đoạn này không chỉ là một hiện tượng văn hóa đặc biệt mà còn phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân cả nước và đặc biệt là nhân dân vùng duyên hải.
Tên gọi Đạo Nội phản ánh ý muốn của người sáng lập về sự tôn vinh một tôn giáo độc lập, khác biệt với các tôn giáo lai căng Tuy nhiên, Đạo Nội lại chứa đựng sự pha trộn giữa Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo Đạo Nội được hình thành từ truyền thuyết Phật giáng hạ An Đông, với sự hiện diện của Thượng Không Phật trong các hoạt động tu luyện và truyền giáo Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo, vì vậy nhiều đền thờ của Đạo Nội cũng được gọi là chùa Mặc dù vậy, các Liệt thánh của Đạo Nội không thực hiện các nghi thức của Phật giáo như thiền, ăn chay hay niệm Phật, mà thay vào đó, họ thể hiện phép màu và khả năng thần thông, cho thấy ảnh hưởng của Đạo giáo Đạo Nội có kinh riêng, được ghi chép trong sách “Nội Đạo Tràng Liệt thánh bảo lục” do Nguyễn Thao soạn thảo.
Năm 1994, Nội đạo chỉ kiêng ăn thịt chó và canh rau mồng tơi Ngoài Phật giáo và Đạo giáo, Nho giáo cũng có ảnh hưởng rõ rệt, thể hiện qua các mối quan hệ “Tam cương, ngũ thường” mà Tôn sư Thượng không Phật đã dạy Trần Ngọc Lành ngay từ lần đầu gặp gỡ.
Đạo Nội tập trung vào việc hướng dẫn đệ tử đạt được mục tiêu cuộc sống bằng cách loại bỏ gian trá và hành động chính đáng, chữa bệnh, giúp đỡ đất nước và bảo vệ dân Sự ra đời của đạo Nội trong thời kỳ loạn lạc phản ánh tâm tư và tình cảm của quần chúng, giúp giải tỏa tâm lý bế tắc và mất niềm tin vào thực tại, đồng thời khuyến khích con người hướng tới những hành động thiện nguyện và cứu giúp đất nước.
Tài liệu sớm nhất liên quan đến Nội Đạo Tràng là cuốn "Đại Nam Lê triều Thanh Hóa Nội Đạo Tràng tam thánh bảo lục," được soạn vào năm 1660 và trung san năm 1807, với tác giả không rõ Hiện nay, có hai bản chép tay mang ký hiệu A1316 (284 trang) và A926 (404 trang) được lưu giữ tại thư viện Viện Hán Nôm ở Hà Nội Thư viện này cũng lưu giữ cuốn "Nội Đạo."
“Tràng liệt thánh bảo lục” là tác phẩm của Nguyễn Tảo, tự Pháp Ngôn, hiệu Văn Trai, được biên soạn và in năm 1902, mang ký hiệu A2975, với độ dài 70 trang Cuốn sách này chứa đựng nội dung gần gũi với truyền thuyết dân gian hiện đang được lưu truyền tại hai làng An Đông và Mậu Xương Theo tài liệu, Nội Đạo An Đông là nơi thờ phụng Quỳnh Lâm Hầu Trần tướng công, Thái sư Hiển Quốc công Trần Ngọc Lành cùng ba người con của ông: Nhật Quang, Nguyệt Quang và Ngọc Quang.
Hiện tượng Phật giáng hạ An Đông, có nguồn gốc từ họ Trần, được ghi chép trong văn bia tại đền và trong “Liệt Thánh bảo lục”, bắt nguồn từ sự tích Quỳnh Lâm.
Hầu Trần Tướng Công, người quê ở xã An Đông, huyện Quảng Xương, từng giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ trong triều đình Năm 1595, ông xin về quê để tĩnh dưỡng, và dù đã ngoài 50 tuổi, ông vẫn chưa có con nối dõi Ông thường lui tới chùa Tuyết Phong để cầu tự Một đêm, ông nằm mộng thấy hai lực sĩ dẫn đến bảo điện Lưu Ly, nơi một vị quan tu xuất hiện thông báo rằng nhờ phúc đức tổ tiên và những việc thiện ông đã làm, lời cầu tự của ông đã được chấp nhận Lệnh được ban cho tôn thần chùa là vua Na-La-Tri Phật và Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát Sau đó, vợ ông, Từ Ái, đã mang thai và sinh được một con trai tên Ngọc Lành, sau đổi tên thành Ngọc Trân.
Đền thờ An Dương Vương
2.4.1 Vài nét về nhân vật lịch sử An Dương Vương
Vào nửa sau thế kỷ III trước Công nguyên, triều đại Hùng Vương suy yếu đã dẫn đến sự xuất hiện của Thục Phán, một thủ lĩnh người Âu Việt ở miền núi Ông đã thay thế triều đại Hùng Vương và lập nên nước Âu Lạc, tự xưng là vua.
An Dương Vương đã chuyển kinh đô Văn Lang từ Lâm Thao - Bạch Hạc (tỉnh Vĩnh Phúc) xuống Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), đặt tên là kinh đô Phong Khê và lấy quốc hiệu là Âu Lạc Ông trị vì trong 50 năm, bắt đầu từ năm 257.
An Dương Vương, lên ngôi năm 22 tuổi và thọ 72 tuổi, đã chuyển kinh đô từ vùng trung du xuống miền đồng bằng, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam Sự hợp nhất giữa hai thành phần dân tộc Lạc Việt và Âu Việt đã tạo ra lãnh thổ Âu Lạc, thống nhất miền xuôi và miền núi, làm cho quốc gia này ngày càng hùng mạnh Sự ra đời của nước Âu Lạc chính là sự kế thừa và phát triển vượt bậc từ quốc gia Văn Lang, thể hiện ý thức dân tộc ngày càng cao.
Dưới triều An Dương Vương, thành Cổ Loa được xây dựng tại vị trí trung tâm của đất nước, thể hiện tài năng sáng tạo của nhân dân và là một công trình lao động quy mô lớn Thành Cổ Loa không chỉ là một công trình phòng ngự kiên cố mà còn là căn cứ bộ binh với nhiều công trình phòng thủ liên tiếp Sự độc đáo của thành Cổ Loa nằm ở việc nó vừa là căn cứ bộ binh vừa là căn cứ thủy quân quan trọng, phản ánh hai truyền thống quân sự của người Âu Lạc: thạo cung nỏ và thủy chiến, sử dụng thuyền thành thạo.
Vào năm 207 trước Công nguyên, Triệu Đà, một viên quan của nhà Tần, đã nhiều lần phát động quân xâm lược nhằm thôn tính nước Âu Lạc nhưng đều thất bại Nhận thấy không thể thắng Âu Lạc về quân sự, Triệu Đà đã xin hòa với An Dương Vương và gửi con trai Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương đã gả con gái Mỵ Châu cho Trọng Thủy, nhưng đây chỉ là mưu đồ của Triệu Đà để chiếm nước Âu Lạc Trong thời gian ở rể, Trọng Thủy đã thu thập thông tin và học hỏi kỹ thuật chế nổ của người Âu Lạc, sau đó báo cáo cho Triệu Đà Kết hợp lực lượng quân sự và mưu mẹo gián điệp, Triệu Đà cuối cùng đã thôn tính được Âu Lạc, khiến An Dương Vương phải tự vẫn ở bờ biển phía Nam tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An.
Vào khoảng năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà sau khi chiếm được Âu Lạc đã sáp nhập vùng đất này vào Nam Việt, nơi ông đã lập nước bên Trung Quốc sau khi chiếm ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Vạn Tượng Sau khi sáp nhập, ông chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ ở Bắc Bộ và Cửu Chân ở Bắc Trung Bộ, đồng thời cử quan lại và quân lính đến cai trị Kể từ đó, Âu Lạc thuộc về nhà Triệu từ năm 207 trước Công nguyên đến năm 111 trước Công nguyên, kéo dài suốt 97 năm.
2.4.2 Nguồn gốc lịch sử Để tưởng nhớ đến công lao dựng nước của An Dương Vương, nhân dân làng Bình Hòa (xã Quảng Châu) đã lập đền thờ vua An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu để tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc, tôn thờ người có công đối với đất nước
Làng Bình Hòa, thuộc xã Quảng Châu, hiện nay nằm trong vùng đồng bằng ven biển, tiếp giáp với thị xã Sầm Sơn ở phía Đông và phía Nam, phía Tây giáp xã Quảng Thọ, và phía Bắc giáp xã Quảng Tiến.
Bình Hòa có vị trí địa lý thuận lợi với giao thông thủy bộ, được kết nối bởi quốc lộ 47 giữa thành phố Thanh Hóa và thị xã Sầm Sơn Nơi đây còn có con sông Đơ, nhánh sông từ Lạch Trào, chảy qua làng về phía Nam, cùng với dãy núi Trường Lệ tạo nên khung cảnh thơ mộng như một bức bình phong tự nhiên.
Theo sử sách xƣa, thôn Bình Hòa thuộc xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
Làng Bình Hòa, ban đầu được thành lập với tên gọi là làng Trạp, sau đó đổi thành làng Điều Hòa Để tránh sự trả thù của giặc Pháp sau khi các cụ trong làng tham gia đội nghĩa quân đánh trận Ba Đình ở huyện Nga Sơn, tên làng đã được chuyển đổi thành Bình Hòa.
Bình Hòa hiện nay được chia thành bốn làng: Châu Bình, Châu An, Châu Thành và Châu Chính Tất cả bốn làng này đều thờ chung một ngôi đền, nơi tôn vinh Vua An Dương Vương và công chúa của đất nước Âu Lạc, những nhân vật quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ năm 257 đến 208 trước Công nguyên.
Theo truyền thuyết từ các cụ cao niên trong làng, khi vua An Dương Vương chém Mỵ Châu và nhảy xuống biển tự vẫn, ông đã đánh rơi một chiếc đai vàng vào cánh đồng trước Đền thờ hiện tại Cánh đồng này được đặt tên là Đài Vường, hay Đai Vàng, và từ đó, dân làng đã lập đền thờ, nhưng không rõ thời gian cụ thể Đến nay, các sách chính sử cũng không ghi chép về sự kiện này, và nếu tính từ thời Lê Chân Tông, đã hơn 360 năm trôi qua.
Các triều đại phong kiến sau này đã phong tặng An Dương Vương danh hiệu Nam Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần, thể hiện sự tôn vinh và ghi nhận công lao của ông trong lịch sử.
Đền An Dương Vương thôn Bình Hòa, nơi thờ phụng vị thần được ca ngợi trong các sắc phong thời Lê và Nguyễn, mang tên chữ là “Nam Hải Đại vương Linh từ” và thường được gọi tắt là Đền thờ Nam Hải Đại vương Các sắc phong nhấn mạnh phẩm chất của vị thần với những từ ngữ như “Huyền thông, tinh anh, quảng lợi, quang ý, hồng cáp dực bảo trung hưng nam hải thượng đẳng thần bộ quốc tỷ di ân.”
Ngôi đền thờ đã tồn tại từ rất lâu, theo các cụ già trong làng, từ thời ông bà và bố mẹ của họ Các cụ đã tham gia nhiều kỳ hội và tế lễ lớn hàng năm, có những người từng giữ vai trò Thủ từ, khiêng rước kiệu hoặc làm bồi tế Điều này cho thấy sự gắn bó và lịch sử lâu đời của ngôi đền trong đời sống văn hóa của cộng đồng.
Đền thờ Hoàng Bùi Hoàn
2.5.1 Vài nét khái quát về tướng quân Hoàng Bùi Hoàn
Hoàng Bùi Hoàn, sinh năm Giáp Thìn (1664), là một quan võ nổi bật và là nhà lãnh đạo có đức, có tài trong triều đại Lê - Trịnh Ông được tôn thờ tại di tích đền thờ - mộ Hoàng Bùi Hoàn, nơi không chỉ ghi nhớ tên tuổi mà còn thể hiện chức tước của Ngài.
Hoàng Tướng Công, đền thờ Quan Quân, đền thờ Vệ Quận Công, đền thờ Quan Phủ Nội Trấn
Hai nguồn tài liệu tin cậy ghi chép về công trạng của nhân vật lịch sử Hoàng Bùi Hoàn bao gồm sách "Đại Việt sử ký toàn thư" tập 1 và văn bia khắc năm 1724 tại di tích Những tài liệu này cung cấp thông tin cụ thể về dòng họ Hoàng, thân thế và sự nghiệp của Hoàng Bùi Hoàn, có giá trị nội dung tương tự như một cuốn gia phả.
Dòng họ Hoàng tại thôn Câu Đồng Nội, xã Quảng Trạch, có nguồn gốc từ thôn Câu Đồng Cầu, tỉnh Hải Dương Vào thế kỷ XVI, khi đất nước trải qua biến cố chính trị lớn với sự cướp ngôi của Mạc Đăng Dung, cụ Hoàng Tính cùng con cháu đã di cư từ Hải Dương đến thôn Câu Đồng Nội để lập nghiệp Hậu duệ của cụ Hoàng Tính, cụ Hoàng Bùi Hoàn, là thế hệ thứ năm trong dòng họ Dòng họ Hoàng đã trở thành một trong những dòng họ lớn và nổi tiếng về sự giàu có, phú quý dưới triều đại Lê - Trịnh, để lại tiếng thơm cho đời tại khu vực Lưu Vệ.
Hoàng Nhữ, một bề tôi trung thành của chúa Trịnh, đã đóng góp quan trọng trong sự khởi nghiệp của nhà Trịnh và được phong nhiều chức vụ như Tán trị thừa chính sứ, Tả tham nghị, Đô đốc phủ, cùng tước hầu Sau khi mất, ông được triều Lê - Trịnh truy phong là Đôn Mẫu phúc thần Thân mẫu của ông, Hoàng Quý Thị, hiệu Trinh Thục, đã sinh ra 5 người con trai và 3 con gái, trong đó trai trưởng là Hoàng Bùi Hoàn.
Thuở nhỏ ông được học kinh sử, lớn lên theo đường binh nghiệp qua 3 đời chúa: Trịnh Tạc (1657 - 1682), Trịnh Căn (1682 - 1709), Trịnh Cương
(1709 - 1729) và hai triều vua: Lê Hy Tông (1676 - 1705), Lê Dụ Tông (1706
Trong thời kỳ 1729, nhà nước Đại Việt không phải đối phó với các cuộc xâm lược từ bên ngoài, mà tập trung vào củng cố nội bộ Chính quyền Lê - Trịnh chú trọng vào công việc nội chính, nhằm tăng cường sức mạnh của chính quyền và ngăn chặn bè phái trong triều đình, đặc biệt là trong nội bộ phủ chúa Trịnh Quan võ Hoàng Bùi Hoàn nổi bật với cách ứng xử đúng mực, không tham gia vào các cuộc tranh giành quyền lực, góp phần duy trì sự ổn định trong suốt bốn mươi năm.
Hoàng Bùi Hoàn được đánh giá là người có năng lực sáng suốt và đức độ trong sạch, không thiên vị hay bè phái Chính quyền Lê - Trịnh đã giao cho ông nhiệm vụ quan trọng là phát triển sản xuất và đảm bảo đời sống của nhân dân.
Tướng công Hoàng Bùi Hoàn, nhờ vào tài năng và phẩm chất cá nhân xuất sắc, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được triều đình giao phó Ông bắt đầu sự nghiệp của mình với vai trò cai quản phủ An Tường, thuộc nội trấn Thanh Hoa (nay là tỉnh Thanh Hóa) Sau đó, ông được điều chuyển về triều và giữ các chức vụ quan trọng như Tư lễ giám, Tổng thái giám, Hữu Đô hiệu điểm, và được phong tước Quận Công trong niên hiệu Bảo Thái (1720-1729).
Vào năm 1729, dưới triều đại vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Tạc, ông đã được thăng chức Tả Đô đốc và gia phong Thái Bảo, đánh dấu đỉnh cao sự nghiệp sau mười năm phục vụ trong quân đội.
Quê hương xã Lưu Vệ, nơi khởi sinh dòng họ Hoàng, luôn được ông dành nhiều tình cảm Trong thời kỳ đói kém, ông đã xuất thóc gạo cứu trợ dân chúng và hướng dẫn họ cách sản xuất Ông cũng cho mở chợ Voi, góp phần thúc đẩy giao thương nông sản khu vực xung quanh tỉnh Thanh Hóa Nhiều ngôi đền, chùa tại các huyện Quảng Xương, Đông Sơn do ông khởi xướng xây dựng Đối với gia đình, ông đã tạo dựng hình tượng cao đẹp cho con cháu, có hiếu với tổ tiên và được phong tặng chữ “Hiếu” Ông mất vào ngày 12 tháng 12 (không rõ năm), được vua Lê Dụ Tông phong tặng danh hiệu “Thái phó, Vệ Quốc Công” Các triều vua sau cũng ban sắc phong ông làm Phúc Thần Thượng đẳng Để ghi nhớ công đức của ông, nhân dân các làng xã ở Quảng Xương và Đông Sơn đã hiến công sức, tiền của để xây dựng đền miếu, lăng mộ, thể hiện sự tôn kính và ảnh hưởng lớn của ông trong lòng dân chúng.
Miếu mạo nguy nga trường tồn tứ thời chi báo
Uy danh hách dịch vĩnh thùy vạn thế chi linh
Dịch nghĩa: Đền miếu nguy nga trường tồn báo đáp cả bốn mùa hàng năm
Uy danh hiển hách lưu truyền mãi đấng linh thiêng muôn thuở
2.5.2 Phong cách kiến trúc Để nhớ công đức, ơn nghĩa của Vệ Quốc Công Hoàng Bùi Hoàn, ngay sau khi ông mát, nhân dân 2 huyện Quảng Xương, Đông Sơn đã xây đền thờ và mộ tại làng Câu Đồng Nôi, xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa Nội dung hai văn bia tại đền thờ cho biết ngôi đền đƣợc xây dựng vào những năm 1724 - 1726 triều vua Lê Dụ Tông Đền bố cục hình chữ Đinh, gồm tiền đường 3 gian, chính tẩm 2 gian Phía trước tiền đường có sân rộng (bái đường), tiếp đến ra phía ngoài có hai tấm bia đá dựng đối xứng hai bên lối vào ghi khắc chữ Hán về lịch sử dòng họ Hoàng và thân thế sự nghiệp của người được thờ tự, có nhà che bia làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái Phía ngoài cùng là cổng đền Hai bên trục “thần đạo” (đường vào đền) có nhóm tƣợng chầu bằng đá nhƣ: voi, ngựa, chó đá đƣợc bài trí đối xứng
Đền thờ Hoàng Bùi Hoàn hiện đang tọa lạc trong một không gian tổng thể bao gồm các hạng mục như cổng, sân, nhà tiền đường và nhà hậu cung.
Cổng Nghinh Môn, hướng Nam, được trùng tu vào năm 1960, nằm tiếp giáp với đường làng và có hai chó đá ở hai bên Cổng rộng 2,53m và hai trụ cổng cao 3,38m, rộng 2m, được xây bằng gạch và trát vữa xi măng cát Trụ cổng chia thành ba phần: đế cao 0,4m, thân cao 2,48m, và đầu trụ cao 0,5m Hai trụ cổng được nối với nhau bằng thanh ngang đúc bằng vữa cát và xi măng, có chiều cao 0,3m và chiều dài bằng chiều rộng của cổng.
Cổng vào sân được thiết kế qua đường thần đạo, với nền lát đá xanh kích thước 0,15 x 0,15m Hai bên đường thần đạo là hai tấm bia và hai con voi đá đối xứng Sân có chiều dài 13m và chiều rộng 10m, cũng được lát đá xanh Gần nhà tiền đường, hai con ngựa chầu được đặt ở hai bên, cách nhau 8m.
Nhà tiền đường có chiều dài 8,6m và chiều rộng 6,9m, được cấu trúc gồm 3 gian và 4 vì kèo Mỗi gian có kích thước lần lượt là 2,9m, 2,8m và 2,9m, với 24 cột đá (hiện còn 22 cột) Các cột đá có kích thước mỗi cạnh 0,23m, cao 1,97m, và được khắc 22 vế câu đối Chân tảng đá được tạo tác công phu với hình vuông 0,37m x 0,37m và 0,39m x 0,39m Phần kèo được làm bằng gỗ theo kiểu chồng rường, liên kết với hệ thống cột đá Đầu cột có đấu kê bằng gỗ hình vuông 0,35m x 0,35m, tạo sự chắc chắn cho kết cấu Quá giang dài 4,05m, với thiết kế bề mặt cong, liên kết chặt chẽ với các trụ của vì kèo, tạo nên một công trình vững chắc và hài hòa.
Thượng lương là phần nối tiếp giữa mái trước và mái sau, đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc mái nhà Nó kết nối vào câu đầu thông qua đấu kê, hay còn gọi là guốc hoành Đặc biệt, đấu kê tại đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn có kiến trúc tương tự như đấu kê ở Thái miếu Bố Vệ, thành phố Thanh Hóa, có niên đại khoảng thế kỷ XVIII Cả hai mặt của đấu kê thượng lương đều được soi gờ chỉ, tạo nên sự tinh tế trong thiết kế.
Đền thờ Bùi Sỹ Lâm
2.6.1 Thân thế sự nghiệp Thái tể Bùi Sỹ Lâm
Thái tể Bùi Sỹ Lâm sinh năm Tân Tỵ (1551), mất năm Quý Thìn
(1643) khi đang còn tại chức, hưởng thọ 92 tuổi Ông sinh ra tại xã Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay)
Từ một người lính dưới triều đại Nguyễn Kim, ông đã trở thành một tướng lĩnh xuất sắc, phục vụ dưới 4 triều vua Lê Trang Tôn, Lê Anh Tôn, Lê Thế Tôn và Lê Thần Tôn, cùng với 3 đời chúa Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng.
Ông Bùi Sỹ Lâm, một nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII, được biết đến với tài năng văn võ song toàn và sự đóng góp to lớn cho công cuộc phục hồi nhà Lê Xuất thân từ một gia đình có truyền thống học hành, ông tinh thông cả văn chương lẫn quân sự, và được bạn bè mến mộ nhờ tính tình quảng bá, độ lượng Sau khi thi đỗ tam trường, ông quyết định theo nghiệp binh Trong bối cảnh đầu thế kỷ XV, triều Lê đang suy yếu, và vào năm Đinh Tỵ (1527), Mạc Đăng Dung đã lợi dụng sự hỗn loạn để cướp ngôi, lập nên nhà Mạc và làm tay sai cho ngoại bang Những hoạt động của ông Bùi Sỹ Lâm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và có ý nghĩa quốc gia, góp phần vào việc khôi phục lại triều đại Lê.
Cuộc kháng chiến chống lại nhà Mạc và việc khôi phục triều Lê không chỉ mang lại lợi ích cho triều đình Lê mà còn cho toàn thể đất nước Nhiều trung thần của nhà Lê, như Nguyễn Kim và các chúa Trịnh, đã liên kết với các hào tộc ở xứ Thanh, đặc biệt là Lê Trang Tôn, để xây dựng lại triều Lê, được gọi là Lê Trung Hưng.
Trong suốt thời kỳ đầu xây dựng triều đại Lê, từ Lê Trang Tôn đến Lê Thần Tôn, ông thể hiện lòng trung thành tuyệt đối và là một vị tướng xuất sắc của triều đình Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, đã ghi nhận những công lao của ông.
“Mùa hạ tháng tư, Vương (Trịnh Tùng) cùng với nội giám là Nhạc Quận
Vào ngày 12/5, Công Bùi Sỹ Lâm đã vào nội điện để tra hỏi và nắm rõ tình hình Sau đó, vua đã bị bắt và thắt cổ tự vẫn Sau khi vua băng hà, ông được truy tôn với hiệu vương Hoàng Đế, miếu hiệu là Kính Tông.
Có thể tóm tắt công lao, sự nghiệp của Thái tể Bùi Sỹ Lâm qua các mốc thời gian sau:
Năm Quý Tỵ (1593), ngài đã dẹp và đánh tan bọn loạn thần là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga Do chiến công ấy, năm Kỷ Hợi
(1594), ngài đƣợc phong tả Tƣ Mã
Năm Ất Hợi (1605) ngài kiên cường vượt sông suối đuổi giặc Mạc nên đƣợc phong chức “Tƣ lễ giám, tổng thái giám kiêm chức tri giám sự”
Năm Bính Thân có công diệt giặc nội phản, đƣợc phong Tƣ lễ giám, kiêm chức Trưởng giám sự
Năm Tân Dậu (1621), ông được thăng chức “Tổng thái giám kiêm các gián ty, trung quân đô đốc Phủ tả đô đốc” sau khi công lao quét sạch giặc Mạc ở Thượng Phấn, huyện Phủ Lộc.
Vào ngày 16/6 năm Quý Hợi (1623), Vạn Quận công Trịnh Xuân đã tổ chức cuộc tấn công vào kinh đô, nhằm uy hiếp vương phủ và chiếm đoạt ngai vàng của Bình An Vương Trong bối cảnh đó, Bùi Sỹ Lâm đã dũng cảm đứng lên dẹp loạn, hỗ trợ Trịnh Tùng vượt qua nguy hiểm Ông là người trung thành và tận tụy, được phong chức Tả đô đốc vì những cống hiến của mình cho đất nước.
Trong thời điểm khẩn cấp, ngài đã hết lòng đưa Thành tổ Triết Vương đến quán bạc huyện Hoàng Mai để tìm kiếm thức ăn, chăm sóc sức khỏe cho Trịnh Tùng Khi sức khỏe của Vương Chủ dần hồi phục, ngài đã đưa Vương Chủ trở lại nhà Trịnh Đỗ, vạch trần tội ác của Vạn Quận công và kết thúc cuộc đời của Trịnh Xuân bằng cách chặt đứt tay chân.
Khi Thành tổ Nghị Vương lên ngôi ở tuổi 15, cha con Trịnh Đỗ đã âm thầm lên kế hoạch ám hại ngài Để bảo vệ chúa, ngài đã thảo luận với các đại thần và trực tiếp tham gia vào việc đối phó với mối đe dọa này.
Nhờ vào những cống hiến to lớn và sự tận tâm của ngài, cùng với tinh thần kiên trinh bất khuất trong việc phò vua giúp nước, thời gian từ năm Ất Sửu đến năm Nhâm Thân (1625-1632) đã ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử.
Vào năm 1632, chiến công và tên tuổi của ngài được ghi vào sử sách Năm Kỷ Tỵ (1629), ngài được vinh danh vì sự tin tưởng, mưu trí và dũng cảm, nhờ có công lớn nên được phong Thái Bảo Ngài tiếp tục thăng chức lên thiếu úy, tổng thái giám, trung quân đô đốc phủ, và tả đô đốc Năm 1623, ngài được giao nhiệm vụ về xứ Thanh Hoa để khống chế bọn cướp bản xứ Ngày 8/8 năm Quý Mùi (1643), ngài tạ thế trong khi đang tại chức, thọ 92 tuổi.
Sau khi qua đời, ngài được tổ chức lễ tang trang trọng bởi nhà nước Năm Mậu Tý (1668), ngài được phong chức Thái Phó, và đến năm Nhâm Thìn (1676), ngài tiếp tục được phong chức Thái Tể cùng với chức khiêm cung thuy quản thành tướng công.
Sau khi được phong chức Thái phó và Thái tể, ngài nhận ruộng đất, định mức thuế và phong tước cho con cháu Tiếp theo, ngài được phong tặng danh hiệu đại vương với những từ ngữ tôn vinh như “anh minh sáng suốt, uy nghi lẫm liệt, trung thành lương thiện, mưu trí dũng cảm, ngay thẳng thật thà, uyên bác sâu sắc.” Ngoài ra, ngài còn được khen ngợi về đức độ và tính cách như kiên định, hiền hậu, rộng rãi, thanh thân, cẩn thận và trung thực, đồng thời được phép sửa sang nhà môn và tiên sự các.
Vua đã phong sắc công nhận những công trạng và lời thề của ngài đối với quê hương Lưu Vệ, thể hiện lòng trung thành với non sông xã tắc và cam kết xây dựng sự phồn vinh cho đất nước.
Các đời vua nhà Lê, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đã phong sắc và công nhận công trạng của ngài, khiến ngài trở thành vị thần được tôn thờ tại phủ Thái tể Dựa vào bia ký, sắc phong và gia phả họ Bùi ở thôn Đắc Thọ, xã Quảng Tân, ngài được ghi nhận với những đặc hiệu như: “Hiệp miêu tá lý, dực vận tán trị công thần, thuần tín, đặc tiến phụ quốc, kim tử vịnh, lộc đại phu.”
Giá trị lịch sử, văn hóa của các di tích
Luật Di sản văn hoá của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định rằng di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc và là một phần của di sản văn hoá nhân loại, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước Các di tích đền chùa tại tỉnh Thanh Hóa, đặc biệt là huyện Quảng Xương, là những minh chứng vật chất có giá trị về lịch sử đấu tranh của dân tộc Những di tích này không chỉ giúp con người nhận thức về cội nguồn dân tộc mà còn hiểu rõ hơn về truyền thống lịch sử và đặc trưng văn hoá của quê hương, từ đó ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành nhân cách của người Việt Nam hiện đại.
Hệ thống di tích đền chùa huyện Quảng Xương gắn liền với các sự kiện và nhân vật lịch sử quan trọng, góp phần vào sự tiến bộ của dân tộc Việc tìm hiểu sâu về những di tích này giúp chúng ta tiếp cận những cuốn sử ghi chép về con người và sự kiện tiêu biểu, từ đó cảm nhận chân thực về lịch sử, điều mà khó có được chỉ qua tài liệu từ đời sau.
Chùa Hưng Phúc từng là một trung tâm Phật giáo lừng lẫy với kiến trúc hoành tráng và không gian sinh hoạt cho tăng ni đông đúc Tuy nhiên, khi đạo Phật suy tàn, nhiều chùa chiền đã bị đổ nát hoặc bị phá bỏ Hiện nay, chỉ còn lại một tấm bia đá tại chùa Hưng Phúc, nhưng tấm bia này lại mang giá trị vô cùng lớn lao, là tài liệu quý giá giúp phục dựng lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Trong khoảng thời gian từ 1257 đến 1287, quân Nguyên đã ba lần xâm lược Đại Việt, nhưng mỗi lần đều gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ nhân dân nơi đây Cuộc xâm lược đầu tiên của quân Nguyên đã thất bại, khiến nhà Nguyên quyết định tiếp tục tấn công Đại Việt.
Việt Nam, lần thứ hai sau hơn 20 năm chuẩn bị lực lượng quân đội, đối mặt với quân Nguyên xâm lược vào năm 1285 dưới triều đại Thiệu Bảo Quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy, sau khi chiếm Nghệ An, đã tiến vào Thanh Hóa qua đường biển Tuy nhiên, đại tướng Lê Mạnh đã tổ chức phục kích thành công, khiến quân Nguyên thất bại và Toa Đô phải rút lui ra biển.
Văn bia ghi lại sự kiện lịch sử quan trọng diễn ra gần nửa thế kỷ trước, với tiếng hô “Sát thát” vẫn vang vọng trong ký ức, và dòng sông Cổ Khê vẫn còn ám ảnh bởi mùi máu giặc So sánh với quốc sử, tài liệu này cung cấp độ chính xác và độ tin cậy cao về thời gian và sự kiện.
Nếu nhƣ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên- Mông lần thứ nhất
Thanh Hóa không chỉ là hậu phương trong cuộc kháng chiến thứ hai mà còn là tiền tuyến và mặt trận quyết liệt Với địa hình rừng núi hiểm trở, Thanh Hóa cung cấp sức người và vật lực cho cuộc kháng chiến, đồng thời là nơi ẩn náu an toàn cho các vua Trần trong lúc quân giặc chiếm kinh đô Trong bối cảnh bị kẹp giữa giặc từ phía Bắc và giặc Chiêm Thành từ phía Nam, Thanh Hóa chứng kiến nhiều trận chiến ác liệt, đặc biệt tại Quảng Xương với ít nhất hai lần giao tranh quan trọng diễn ra vào tháng 3 năm 1285.
Vào cuối tháng năm 1285, quân Toa Đô từ Trường Yên (Ninh Bình) đã đuổi theo các vua Trần, khi phát hiện đại bản doanh triều đình rút vào Thanh Hóa Chúng chia quân tiến vào Quảng Xương qua cửa Đáy, theo các con sông Vân Sàng và Trinh Nữ, trước khi vào nội địa Bắc Thanh Hóa qua cửa Thần Phù Để tạo bất ngờ, quân giặc không tiến vào cửa sông Mã mà chọn đường Cổ Khê thuộc bờ biển hương Yên Duyên, từ đó có thể tiến vào sông Mã hoặc đổ bộ về trung tâm Thanh Hóa.
Khi quân giặc vừa từ biển đổ bộ vào, họ đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ dân binh và nhân dân Yên Duyên dưới sự lãnh đạo của viên võ tướng Lê Mạnh Ông đã tổ chức bố phòng cẩn mật, chuẩn bị cho một trận đánh phủ đầu kỹ lưỡng Đạo quân do phó tướng Toa Đô chỉ huy, mặc dù rất am hiểu địa hình và chọn đường tắt, nhưng vẫn rơi vào trận địa mai phục của quân dân Yên Duyên tại bến đò.
Cổ Bút đã trở thành một điểm kháng cự kiên cường, nơi mà quân giặc Toa Đô không thể tiến công và cũng không thể rút lui Nếu không có kẻ phản bội dẫn đường, Yên Duyên chắc chắn sẽ là nơi chôn vùi tướng giặc hung ác này, trở thành một địa danh lịch sử như Hàm Tử hay Chương Dương Dù kết cục cuộc chiến không thành công, nhân dân Yên Duyên vẫn tự hào vì đã đóng góp xương máu vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc vào ngày 6 tháng 6 năm Ất Dậu, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 7 (1285).
Tả lại cuộc kháng chiến vĩ đại này, văn bia chùa Hƣng Phúc có viết:
Vào khoảng niên hiệu Thiệu Bảo (1279 - 1285), quân giặc Hồ tiến xuống phía Nam, với Hữu tướng Toa Đô chỉ huy Ông Lê Công đã tổ chức phòng ngự tại bến Cổ Bút, chiến đấu với quân giặc, khiến chúng gần như không còn đường lui Tuy nhiên, do có kẻ phản bội trong Hương dẫn đường cho giặc, nhiều nhà cửa và tài sản bị thiêu rụi Khi quân giặc rút lui, nhà vua đã trở về kinh đô và yêu cầu xử lý kẻ phản bội, đồng thời buộc phải bồi thường tài sản cho nhân dân Hương để khuyến khích lòng trung thành Thành công trong việc đánh giặc phần lớn nhờ vào công lao của ông.
Dù bia cổ đã mờ và chùa cũ đã mất, nhưng di sản của tổ tiên vẫn sống mãi Hình ảnh hương Yên Duyên, nơi vị tướng đương triều xây dựng chùa Hương Phúc lộng lẫy, cùng với trận chiến chống giặc ngoại xâm cách đây hơn 7 thế kỷ, vẫn in đậm trong tâm trí các thế hệ, thể hiện niềm tự hào về truyền thống bảo vệ quê hương.
“Hưng Phúc bi tự” để lại những giá trị lịch sử vô giá, phản ánh rõ nét các vấn đề quan tước và tước hàm trong thời kỳ Trần, như Đại toát, Đại liêu ban, và Minh tự Bia cũng mở ra cơ hội nghiên cứu về sự khác biệt giữa các đơn vị hành chính “hương” và các khái niệm liên quan Những giá trị này không chỉ khẳng định tầm quan trọng của di sản văn hóa mà còn tạo điều kiện cho các nghiên cứu sâu hơn về lịch sử Việt Nam.
Huyện có vai trò quan trọng trong việc tổ chức lực lượng hương binh, dân binh thời Trần, đóng góp đáng kể vào cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên-Mông Đặc biệt, vấn đề "Cổ Khê đạo" cùng với vị trí chiến lược của các sông ngòi tại xứ Thanh đã ảnh hưởng lớn đến chiến thuật và kết quả của cuộc kháng chiến.
Tại hương Yên Duyên, gần Yên Kinh, trước cửa chùa Hưng Phúc uy nghi, có miếu thờ “Trần triều lục vị tướng công” tôn vinh sáu vị tướng họ Lê đã góp công xây dựng hương ấp Yên Duyên và bảo vệ đất nước, phò tá vương triều Trần Việc bảo tồn tấm bia đá và đặt trong cảnh quan chùa xưa, miếu cũ là cách lưu giữ kiến trúc văn hóa của một trung tâm Đại Việt phồn vinh và thịnh vượng cho muôn đời sau.
Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích
3.2.1 Thực trạng bảo tồn di tích
Các di tích lịch sử - văn hóa rất nhạy cảm trước tác động của yếu tố tự nhiên và xã hội, như xung đột vũ trang, thiên tai, và đói nghèo Tại huyện Quảng Xương, các di tích đền, chùa cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ những yếu tố này Trải qua hàng trăm năm, nhiều di tích đã bị tàn phá do thiên nhiên và các cuộc chiến tranh, đặc biệt là trong thế kỷ XX với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Hậu quả là nhiều di tích bị phá hủy nghiêm trọng, và nếu còn tồn tại, chỉ còn lại một phần, gây thiệt hại lớn cho lịch sử của cả nước và huyện Quảng Xương.
Di tích chùa Hưng Phúc đƣợc dựng từ thời nhà Trần, đến đầu thế kỷ
Trong thời kỳ XV, khi giặc Minh xâm lược, nhiều sách vở bị đốt cháy, và hàng loạt đền chùa bị phá hủy hoàn toàn.
“Tiếc chùa xưa đã nát May bia cũ vẫn còn”[31, 496]
Chùa mất đã được xây dựng lại và bia mờ được khắc lại thành bia tỏ Tuy nhiên, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dân quân địa phương đã vô tình làm vỡ một mảnh ở cạnh và góc bia gốc, dẫn đến việc một số chữ bị mất.
Năm 1995, với sự hỗ trợ của Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa, nhà bia mới được xây dựng nhằm bảo tồn tấm bia quý, lưu giữ giá trị lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Chùa Yên Đông, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử và thử thách từ thiên nhiên, hiện chỉ còn lại hai dãy nhà nhỏ Mặc dù đã mất nhiều di vật cổ và quy mô kiến trúc không còn bề thế như trước, nhưng chùa vẫn bảo tồn được một số hiện vật quý giá như bình phong, gác chuông, bát hương đá, sứ, voi đá và sắc phong.
Di tích chùa Nổ đã trải qua nhiều thăng trầm do tác động của thời gian và biến cố lịch sử, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1964 khi chùa bị sụp đổ do bom đạn và nguyên vật liệu bị lấy đi để xây dựng trạm xá Mặc dù chỉ còn lại phế tích, địa phương đã bảo tồn được một số di vật như đá chân tảng và bát hương đá Đến năm 2008, chính quyền xã Quảng Ngọc đã phục dựng chùa Nổ trên nền móng cũ, mang đến một diện mạo mới với kiến trúc hiện đại Tương tự, đền thờ An Dương Vương cũng bị hủy hoại nặng nề, nhưng may mắn còn một số hiện vật và nền móng cũ Nhân dân địa phương đã tự nguyện quyên góp để tu sửa, tôn tạo lại những công trình còn lại nhằm bảo tồn giá trị lịch sử của ngôi đền Đền thờ tướng công Hoàng Bùi Hoàn, có lịch sử hơn 300 năm, cũng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh và thời tiết, nhưng các di vật bằng đá vẫn được bảo tồn tốt Trong những năm gần đây, dòng họ và chính quyền địa phương đã tích cực trùng tu, hy vọng phục hồi lại vẻ đẹp của ngôi đền trong tương lai.
“Thiên cổ ngưỡng soi tâm đức sáng Nghìn đời truyền mãi tiếng danh thơm.”[28, 17]
Di tích đền thờ Bùi Sỹ Lâm, trải qua thăng trầm lịch sử, hiện còn bia mộ và các hiện vật văn tự như gia phả, sắc phong được bảo quản tốt Đền gồm hai gian dọc hậu cung, năm gian tiền đường, một nhà bia và tường rào bao bọc, do dòng họ Bùi Sỹ và chính quyền quản lý Mặc dù không còn nguyên vẹn do sự trùng tu, nhưng di tích vẫn là bằng chứng lịch sử quan trọng, thể hiện truyền thống văn hóa và trí thông minh của con người Lưu Vệ trong công cuộc dựng nước và giữ nước Những di sản văn hóa này cần được bảo tồn và phát huy theo quy định của Luật Di sản văn hóa.
Huyện Quảng Xương, mặc dù không có nhiều di tích, nhưng lại sở hữu những giá trị di sản văn hóa độc đáo, mang ý nghĩa lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc biệt Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa trở thành nhiệm vụ quan trọng đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Quảng Xương cũng như tỉnh Thanh Hóa.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở nên ngày càng quan trọng Một trong những cách thể hiện điều này là bảo vệ và gìn giữ các di tích lịch sử cũng như danh lam thắng cảnh Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) là bước đi cần thiết để tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.
Nghị quyết số 09/CP của Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đồng thời bảo tồn bản sắc dân tộc Các chính sách như Nghị định số 73/1999/NĐ-CP khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao đã được triển khai Tại Quảng Xương, các cấp ủy Đảng, chính quyền và tổ chức chính trị - xã hội đã xác định việc gìn giữ và bảo tồn di sản văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng.
Huyện đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về vai trò của các di tích đền, chùa trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ các công trình văn hóa Tuy nhiên, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích vẫn gặp nhiều hạn chế do nhận thức chưa sâu sắc, thiếu các biện pháp cụ thể và chính sách khuyến khích từ các cấp Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ làm công tác văn hóa cơ sở vẫn còn yếu, với trình độ chuyên môn chưa cao và khả năng vận động quần chúng chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến sự tham gia vào các hoạt động bảo tồn di tích.
Để bảo tồn và phát huy giá trị các di tích đền, chùa tại huyện Quảng Xương, cần có những giải pháp thiết thực nhằm biến yếu điểm thành lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội Dưới đây là một số giải pháp đề xuất.
- Trước tiên các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện Quảng Xương cần thực hiện hiệu quả Luật Di sản văn hóa, vận dụng linh hoạt các Nghị định của
Chính phủ tỉnh cần tăng cường hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích trong huyện, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên Việc triển khai nhiệm vụ này cần gắn liền với công tác thi đua, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ đảng viên và cộng đồng dân cư tại các địa phương có di tích văn hóa.
Mở lớp tuyên truyền và tập huấn cho cộng đồng để người dân nhận thức rõ vai trò của mình trong việc bảo vệ và hưởng lợi từ các di tích đền, chùa Qua đó, nâng cao ý thức và khuyến khích hành động thiết thực trong việc gìn giữ các di tích văn hóa.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích không chỉ nhằm tôn vinh lịch sử mà còn bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể Điều này gắn liền với việc duy trì và phát triển các loại hình văn hóa lành mạnh tại địa phương, như lễ hội, cưới hỏi và tang ma Chính quyền địa phương cần thiết lập các quy ước thực hiện nếp sống văn hóa mới để gìn giữ những nét văn hóa quý giá, đồng thời loại bỏ những yếu tố lạc hậu và phiền toái không cần thiết.